|
1 YEAR AGO TODAY Thu, Oct 16, 2014
Kenzaburo Oe, Nobel văn chương 1994: Cha và Con.
Tháng Chạp 1994, nhà văn Nhật Kenzaburo Oe tới Stockholm lãnh giải
Nobel văn chương. Trước những thính giả lịch sự, và những phóng viên,
ông cứ nói đi nói lại, ‘Tôi sẽ ngưng viết tiểu thuyết.", khi được hỏi.
Một xác quyết kỳ kỳ, được nói bằng một giọng nhẹ nhõm, vui vui, thành
thử chẳng mấy ai tin. Ông vừa tới tuổi sáu mươi, tráng kiện, và được coi
là nhà văn đầu đàn trong cõi văn xuôi của Nhật. Giải thưởng Nobel càng
làm cho... Continue Reading
1 Like
Bài phỏng vấn, trong số báo Triết, Tháng Chín, 2015
Oe: Cha và Con
Tôi
sinh
ra ở
phiá mấy kẻ tật nguyền
Tôi
là
người bị phỉ nhổ nhiều nhất
tại
Nhật
Bản
Một
người Nhật ở Paris.
Le Magazine
Littéraire
Le Nobel Kenzaburô Ôé milite contre
le nucléaire au Japon
Nhà văn Noel
Nhật, Oé, xuống đường chiến đấu với nguyên tử lực ở Nhựt Bổn
Notes
de Fukushima aurait pu écrire Kenzaburô Ôé.
Ghi chú về Fukushima
đã viết ra Oé, không phải Oé viết nó.
Presque
cinquante ans après ses Notes
d’Hiroshima (1965) dans lesquelles il se penchait sur les souffrances
des
irradiés, le prix Nobel de littérature 1994 vient de signer une
pétition contre
la reprise de l’activité nucléaire au Japon, pétition qu’il a remise en
main
propre au premier Ministre Yoshihiko Noda.
Après l’accident
de Fukushima, en Mars 2011, l’ensemble des réacteurs nucléaires de
l’archipel
avaient été arrêtés pour des questions de sécurité. Mais la semaine
dernière,
deux mois après l’extinction du dernier réacteur, le gouvernement
décidait de
reprendre l’activité, suscitant l’ire des anti-nucléaires.
Déjà au
Salon du Livre de Paris, en mars dernier, Ôé avait insisté sur la
nécessité
d’une rupture, situant Fukushima dans la droite ligne d’Hiroshima : «
Les
Japonais ne devraient pas penser l'énergie nucléaire en termes de
productivité
industrielle » rapportait alors le journal ActuaLitté, citant ses
propos, « ils
ne devraient pas tirer de la tragédie d'Hiroshima une « recette » de
croissance. Comme les séismes, les tsunamis, et les autres catastrophes
naturelles,
l'expérience d'Hiroshima devrait être gravée dans la mémoire humaine.
C'était
une catastrophe bien plus dramatique que les désastres naturels,
justement
parce qu'elle est née de la main de l'homme ». Selon un sondage publié
par
l’organisme indépendant Pew Research Center, 70% des Japonais
interrogés sont
partisans d’une réduction ou d’un arrêt total de la production
d’énergie
nucléaire.
Thảm họa Nhựt
GCC xuống phố,
vớ cuốn trên cùng với 1 số báo Thế Giới Ngoại Giao trong có bài viết
“Một nhà
văn, một xứ sở”, về thảm họa động đất và sóng thần, 11 Tháng Ba 2011, ở
Nhựt.
Tác giả bài viết
Ikezawa Natsuki là tiểu thuyết gia Nhựt, đã từng đoạt giải thưởng
Akutagawa.
Câu văn Oé lấy
làm đề từ cho chuyến đi thăm Hiroshima:
Qui donc,
dans les temps à venir, pourra comprendre
[. .. ] qu'après avoir connu la lumière,
nous avons été amenés ainsi, de nouveau, à
basculer dans les ténèbres ?
SEBASTIEN
CASTILIAN
De arte
dubitandi (1562)
Kẻ nào,
trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con
người biết ánh sáng, nó lại quay lại với bóng tối?
*
« Si un
accident entrainant la fonte du coeur
nucléaire se produisait à Tokaimura
ou à Fukushima, les dommages que devrait
supporter la société japonaise seraient
trop lourds » écrivait en 1993 le
romancier Ikezawa Natsuki dans « Une
fin joyeuse ».
Dans un
texte inédit, il tire les lecons de la
catastrophe. Une facon de saluer la littérature
japonaise, invitée du Salon du livre de
Paris, du 16 au 19 mars.
IKEZAWA
NATSUKI
Động đất và sóng
thần làm chúng ta tái khám phá ra mấy điều sau đây:
Thứ nhất, thiên nhiên đếch ưa con người. Nó có đó không phải để hớn hở
chào đón
con người. Thiên nhiên bất nhân coi con người như rơm rác!
Thứ nhì, con
người có khả năng làm lại. Ngay cả những đấng khóc lóc thảm thiết,
tưởng không
thể sống được, sau thảm họa, thì cũng có bữa thò tay ra dọn dẹp, nếu
đồng loại
cũng làm như vậy, tuy vẫn trông cậy ở sức mình.
Thứ ba, đừng
tin bất cứ nhà nước, nhất là nhà nước VC!
Thứ tư, tai ương
có khi là dịp để đổi thay.
Tôi là người bị phỉ nhổ nhiều nhất
tại Nhật Bản
Nhân dịp cho ra lò tập
truyện viết từ hồi còn trẻ, một trong
những nhà văn lớn lao nhất của Nhật, Nobel văn chương 1994, Kenzaburô
Oé, tâm sự.
Một bài
học về minh triết.
Người Quan Sát Mới:
Trong những hoàn
cảnh như thế nào, khi ông
thai nghén chúng, cách đây năm chục năm, những truyện ngắn “Faste des
morts”?
(1)
Kenzaburô Oé: Tôi viết chúng từ những năm mình 23, 25 tuổi. Lúc đó tôi
là sinh viên môn văn chương Tây tại đại học. Tôi đọc bản dịch sang
tiếng Nhật
những tiểu thuyết Tây rất mới mẻ vào thời kỳ đó. Và tôi so sánh từng
chữ với
nguyên tác. Đúng là một văn phong, khác, thật khác, đến ngỡ ngàng.
Nhưng cuốn gây
chấn động ở nơi tôi, là “Thời gian của những người chết, Le Temps des
morts”, của
Pierre Gascar, được giải thưởng văn học Tây Goncourt, hai năm trước đó.
-Những truyện ngắn
trong "Faste..." tối
tăm, tàn bạo. Chẳng lẽ trẻ như thế, ông đã bị Thần Chết ám
ảnh?
Hồi nhỏ, tôi quấn quýt bên bà tôi. Bà truyền lại cho
tôi
chuyện xưa tích cũ trong làng. Bà mất liền ngay sau bố tôi, vào năm
chót của cuộc
chiến. Gia đình tôi như thế là được cái chết viếng thăm, nhưng đâu phải
chỉ
riêng gia đình tôi mà cả nước tôi. Đúng như thế đấy, tôi bị cái chết ám
ảnh.
Bây giờ, 70 tuổi, cũng chẳng khác. Ông anh em bà con, bạn rất thân
hồi trẻ, tự tử. Tại sao mình không noi gương anh ta, tôi đã từng tự hỏi
chính mình nhiều lần. Tôi đã viết một bộ ba, cuốn chót vừa mới ra lò
tại Nhật,
trong đó, tôi để cho tất cả những bạn cũ của mình chết, còn tôi, nửa
chết, và trong tình trạng như thế đó, tôi có thể trò chuyện
với họ. Bây giờ, thần chết không làm tôi quá ớn như là những ngày nào.
-Tri thiên mệnh?
Mặc dù những nhọc nhằn của cuộc sống, phải nói là,
thế giới
này có chút ‘khoan dung’ [clément] đối với tôi. Bạn chắc biết câu của
Flaubert,
nhân nói về cuốn Bà Bovary của mình, đã
phán, ta muốn đi tới 'tâm hồn của sự vật', ‘l’âme des choses’. Trong
những cuốn sách
của tôi, tôi có cảm tưởng, mình muốn đi tới tâm hồn của cái chết. Chính
vì
thế mà tôi chấp nhận ý nghĩ về nó, với một sự bình thản. Trong “Quatre
Quators”,
T.S. Eliot viết, khi cái chết tới gần, phải “ngọ nguậy nhè nhẹ, và thật
là nhè
nhẹ.”. Chính là trong sự bình thản, chậm rãi đó tôi đưa đẩy mình về
phía cái chết,
trong khi giữ cho trạng thái tinh thần của mình luôn luôn tỉnh táo.
-Mấy truyện trong
“Faste..” chắc là đụng độ dữ dằn, tôi muốn
nói, gây sốc, ngay khi vừa xuất hiện tại Nhật?
Đúng như thế. Chúng gây sốc. Quá mới, quá khác .
Chúng như đập
vào mặt độc giả, họ cảm thấy tởm.
(1) Faste: Huy hoàng, tráng lệ. Faste des morts: Bảnh như người chết,
tạm dịch
theo nghĩa đen. HL.
Trích Le Nouvel Observateur, 22 décembre 2005 .
« Le Faste des morts », par Kenzaburô Oé, traduit du
japonais par Ryôji Nakamura et René de Ceccatty, Gallimard, 176 p., 15
euros.
Né en 1935 sur l'île de Shikoku, au Japon, Kenzaburô Oé a
écrit une thèse sur Sartre et a été très marqué par la tragédie de Hiroshima. Il
reçoit le
prix Nobel de littérature en 1994. Il vient de publier « Adieu mon
livre »,
dernier tome d'une trilogie encore inédite en France.
Didier Jacod
|