
|
Gọi
Người Đã Chết
Gọi
Người Đã Chết
Sách mới về
điệp viên bậc thầy
Hai cuốn về
PXA, The Spy Who Loved Us, và cuốn The Perfect Spy, mỗi cuốn có một ‘ẩn
dụ’ của
riêng nó, chỉ ở nội cái tên, chưa nói đến nội dung tác phẩm.
The Spy Who Loved Us phỏng theo một cái tít của một trong những phim
James
Bond, và đây là câu chuyện về anh chàng 007 làm thịt một điệp viên KGB,
và em
KGB, người tình của tay bị giết, thề sẽ giết 007 để trả thù, sau cùng
lại mê
007.
Us ở đây, vừa là Mẽo, vừa là đô la Mẽo, bởi vì PXA đã từng viết thư xin
tiền
cựu đồng nghiệp, tức đám ký giả Mẽo ngày xưa, để lo cho con trai đi du
học Mẽo.
Còn cuốn kia, The Perfect
Spy, sử dụng đúng cái tít của một
cuốn tiểu thuyết của Le Carré, và cuốn này cũng có vấn đề, anh chàng
điệp viên
tuyệt hảo, bậc thầy này rất thù ông bố, người đã đẩy anh vào cái nghề
khốn nạn,
ông bố ở đây cũng là một bố kép, chỉ nước Anh, và chỉ ông bố ruột của
Le Carré,
một tay lường đảo bậc thầy.
Riêng cuốn The Spy Who Loved Us, khi còn là một bài báo, đăng trên The
New
Yorker, vì Gấu thường xuyên đọc tờ này, nên thấy nó trước tiên, và lôi
về đăng
trên Tin Văn, tính vừa dịch, vừa kèm vài chi tiết, kỷ niệm về PXA mà
Gấu biết
qua cái tên Cao Bồi, nhưng vì là tin sốt rẻo, báo chí đua nhau dịch,
thế là Gấu
chán, bỏ ngang.
Tuy nhiên, khi bài đăng trên The New Yorker, số báo liền sau đó, có
phản ứng từ
bạn cũ của PXA, và độc giả tờ báo. Gấu có scan sau đây.
Bạn cũ và độc giả trách đám ký giả Mẽo đã góp tiền gửi cho PXA, nhưng
Gấu nghĩ
khác!
Đó là cách tạ tội bảnh nhất, một điệp viên bậc thầy mới nghĩ ra được!
Đừng nghĩ đến chuyện tiền bạc ở đây, dù mấy chục ngàn đô.
PXA lừa bè bạn, tháng tháng lãnh tiền Time, tối tối lén coi tài liệu
mật chuyển
cho VC, báo trước những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt
họ.
Vậy mà khi công thành danh toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn
cũ, bởi
vì ông nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu ra, nên mới gom tiền cho PXA.
Gấu nghĩ
ra điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai,
và khi
trai bỏ, viết thư năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu chịu thua.
PXA chính là cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương
Mẽo, lừa
Mẽo, đưa tin cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là
Smiley, gật
đầu tha thứ cho PXA.
Nhưng Smiley không thể nào chấp nhận được bà vợ, vì lý do sau đây:
Anh George yêu
quí của Em,
Em muốn cầu xin Anh một điều mà không một người đàn ông phong nhã nào
có thể
chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách sạn Baur-au-Lac ở Zurich tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann
Smiley cầm cái phong bì lên và nhìn phía sau phong bì: "Bà Juan
Alvida".
Không, không, chẳng có một người đàn ông phong nhã nào chấp nhận nổi
lời mời
mọc này.
Call For The
Dead
John
Le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh. Sinh năm 1931. Học
Đại học
Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông
không được
phép dùng tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là
hình vuông,
do ông tình cờ nhìn thấy trên kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông: Người viết truyện gián điệp số một
của thời
đại ông ta hiện đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết,
tác phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng của tác
giả, muốn sử dụng thể loại gián điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng,
dể giải
quyết những vấn đề lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông
còn muốn
tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The
Last Act) trong Gọi Người Đã
Chết, độc giả, và có thể, chính tác giả cũng không
tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì
đó. Chắc
chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ hội...
Đối những
độc giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le Carré qua
những
tác phẩm The Spy who came in from the
Cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự
sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.

Hắn nhấp
nháy con mắt [lé] nhiều hơn, và mang thêm biệt danh Chuột nhũi.
Nhưng cô thư
ký mới vào nghề khâm phục hắn, và luôn gọi
hắn là "Gấu cưng" của tôi
Call For
The Dead
Le
Magazine Littéraire
Bắt chước
NTV dâng tặng trên 30 chục ngàn cuốn sách cho nhà nước VC, John Le
Carré, ông
Trùm tiểu thuyết gián điệp biếu 85 thùng hồ sơ, bản thảo riêng của ông
cho thư
viện.
Trong khi chờ
những soi sáng mới nhất về anh chàng cù lần “Gấu cưng của em” [đây là
nick mấy
em thư ký tặng cho G. Smiley], chúng ta hãy làm quen với chàng, khi vừa
xuất hiện,
trong cuốn đầu tay của Le Carré, liền sau khi bị vợ bỏ đi theo một anh
chàng đua
xe!
Khi Phu nhân
theo ngôi sao của mình đi Cuba, bà có chút suy nghĩ về Smiley. Miễn
cưỡng thán
phục, bà thừa nhận với chính mình, nếu có người đàn ông độc nhất trong
đời bà,
Smiley chính là người đó. Hồi tưởng lại, bà hài lòng vì đã phô rõ điều
này qua
thánh lễ hôn nhân.
Hậu quả việc
ra đi của Phu nhân Ann đối với người chồng cũ không làm xã hội quan
tâm. Thực
tình, xã hội chẳng màng tới những gì xảy ra sau cơn xúc dộng. Tuy nhiên
cũng lý
thú nếu biết được Sawley và đồng bọn đã nghĩ gì về phản ứng của Smiley,
về bộ mặt
đẫy đà với cặp kính, hằn lên vì quá tập trung mỗi lần hắn say sưa đọc
những nhà
thơ Đức chẳng phải hàng đầu, đôi tay mũm mĩm, ướt nhẹp nắm chặt lại
dưới đôi
tay áo lòng thòng. Nhưng thừa dịp, Sawley nhún nhẹ vai buông một câu,
"Đi là chạy
ở trên dường một ít". Ông ta như không hay rằng, cho dù Phu nhân chỉ
chạy
đi, một chút con người Smiley thực sự đã chết.
Phần sống
sót trong Smiley cũng trật trìa so với bề ngoài, như tình yêu, hoặc thú
thưởng
ngọan những nhà thơ không được đời biết tới . Đó là nghiệp vụ của hắn,
nghề làm
viên chức tình báo. Hắn thích nghề đó, một nghề đã ân sủng ban cho hắn
những đồng
nghiệp tính khí và gốc gác mù mờ y như hắn. Nó cũng cung cấp điều mà
hắn có lần
yêu nhất trong dời: Dạo chơi như một học giả trong cõi bí ẩn của hành
vi con
người được uốn nắn qua áp dụng thực tế những diễn dịch của chính mình.
Gọi người đã chết
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà
Nội )
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội
)
Được bạn: Ct. Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 9 năm 2006
Note: "Cái này", của Gấu mà!
Đâu phải của Mõ Hà Nội?
Mới có hai chương, Gấu tính dịch tiếp nhưng bận quá!
Mấy đấng hảo hán
giang hồ bên Việt Nam Thư Quán ẩu quá!
NQT
Gọi Người
Đã Chết
Trên VN
thư quán còn thấy cuốn The
spy who came in from the cold,
cũng của Le Carré.
Gấu
mê cuốn này lắm, mỗi lần đọc
nó, là nhớ đến cảnh, lần đầu gặp nó, bản tiếng Tây, ở nhà sách Xuân
Thu, cầm lên
một cái là thấy cái lạnh của Đất Bắc ùa tới.
Khủng
khiếp thật.
Tác
giả Z. 28, biết đầu đấy, cũng
cảm thấy lạnh như Gấu, bèn phóng tác, và cho Tống Văn Bình, thay vì
vượt Bức Tường
Bá Linh qua Đông Đức, thì vượt Bến Hải, về Hà Nội....
Giữa
Hai Thế Giới
Trong cuộc
chiến Việt Nam, vì quá sợ
nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp
"khá" an toàn, là sách vở. Và trong đó, truyện trinh thám. Những cuốn
tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như nhà văn người Mỹ
James
Hadley Chase (ông này hiện rất đang ăn khách ở Việt Nam), nhà văn người
Bỉ viết
tiếng Pháp Georges Simenon, và John Le Carré, được coi là "ông vua"
của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh cuộc Chiến Tranh Lạnh.
Tôi tình cờ khám
phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm
sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh,
(L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "Từ Miền Lạnh" đập ngay vào
mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc
chiến!
Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo
dài thời
gian "hoãn dịch" (sursis). Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc
sâu quá khứ. Lạnh, Đói, Cô Đơn, Tủi Thân…
Chả là, tôi người
Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ,
một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ đến ăn nhờ ở đậu nơi
bà con
chú bác, bên nội bên ngoại… Những chi tiết này chẳng liên quan gì tới
Gián Điệp
Từ Miền Lạnh , nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.
John le Carré là
bút hiệu của David Cornwell,
người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do
vậy, không
được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who
Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên
đài danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử Richard Burton. Đã
được dịch
ra tiếng Việt, nhưng thú vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện
trinh thám
nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc"
Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu
Lâm vào
hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam
phái ra
Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao
cấp CS.
Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu: nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt
cách mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận
tiền…
Trong nguyên tác
của Le Carré, câu chuyện xẩy
ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc
ăn, ông
đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau
khi
thất bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô
gái
thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với
"cách mạng" (Đông Đức).
Mọi việc diễn
tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu
của anh
chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí mật bật mí:
tất cả những tài liệu tố cáo
đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ
địch
này là một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa
Cộng Sản
sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà anh điệp viên
"tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
Phản gián Anh,
qua nhân viên nhị trùng, tổ
chức cho anh điệp viên vượt bức tường Bá Linh, cùng với cô bồ, nhưng
lính gác
đã được lệnh: bắn chết cô bồ. Phải có một kẻ "hi sinh" chứ!
Cuối cùng anh
điệp viên nhất định không bỏ
người yêu, vả lại cũng quá chán sự tàn nhẫn của nghề điệp viên, quá
chán
"đế quốc Anh", anh cùng chịu chết với bồ.
Anh nghe một
giọng nói tiếng
Anh, từ phía Tây
bức tường:
-Nhẩy đi, Alec!
Nhảy!
Anh nghe tiếng
Smiley, thật gần:
-Cô gái, cô gái
đâu?
Đưa mắt nhìn
xuống chân tường, sau cùng anh
nhìn thấy cô gái, nằm bất động. Trong một thoáng, anh lưỡng lự, rồi
chầm chậm
bò xuống… cho tới khi đứng bên cô gái. Cô đã chết; khuôn mặt quay đi,
mớ tóc
đen phủ trên má, như để che những giọt mưa cho cô.
Họ hình như ngần
ngừ, trước khi nổ súng tiếp;
một người nào đó ra lệnh, nhưng vẫn chưa có ai nổ súng. Sau cùng, họ
bắn anh,
hai hoặc ba phát. Anh đứng trơ, ngơ ngác, như một con bò mù giữa đấu
trường.
Rồi anh ngã xuống, trong khi ngã, anh nhìn thấy một chiếc xe nhỏ… và
những đứa
trẻ trong xe giơ tay vẫy vẫy anh, qua cửa xe.
Như trên đã nói, Gián Điệp Từ
Miền Lạnh
là cuốn đưa Le Carré lên đài
danh vọng, nhưng theo tôi, cuốn đầu tay của ông, Điện Thoại dành cho Người Đã Chết, Call For The Dead
mới là cuốn hay nhất của
ông. Và đây là một tác phẩm văn chương, thứ thiệt. Nó còn mang chất bi
hùng của
Kịch Hy Lạp.
Đây là câu chuyện
một nhân viên ngoại giao tự
tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân Cộng". Để lại
thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều
tra.
"Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã,
mất
danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay
sáng sớm hôm sau, Smiley phải
tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện
thoại. Tưởng
của Sếp, anh nhắc nghe. Hoá ra là của nữ điện thoại viên bưu điện, do
người đã
chết tối hôm qua đã dặn, " Tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi:
làm sao một người sửa soạn từ
giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ
mới là gián điệp nằm vùng. Bồ
của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là
nhân
viên của Smiley. Cũng là một tay Cộng Sản thứ thiệt.
Smiley vẫn còn
nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân
viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.
Ông cho hai người
gặp nhau tại một rạp hát.
Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng
cớ, bắt
cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động.
(Let them
bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo
anh,
Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ
nghĩ rằng
phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta
sẽ hành động như thế nào?
The
Last Act, màn chót của vở hát và cũng là
màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và
rời rạp
hát cùng với khán thính giả.
Smiley và Dieter
đụng độ trên cầu. Nhớ lại
những năm tháng cùng chống Quốc Xã, anh tha chết cho tên bạn đế quốc,
và chịu
chết thay vì đầu hàng.
Những đoạn đối
đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa
Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất
trong
truyện:
(Mendel hỏi
Smiley):
-Bà ta có phải là
cộng sản không?
-Tôi không tin bà
ta thích những nhãn hiệu.
Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có
tranh chấp…
Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn
hoà bình.
(I don’t think
she liked labels. I think she
wanted to help build one society which could live without conflict.
Peace is a
dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter
muốn gì. Thanh danh, tôi
nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ
tưởng
hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián
điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng
một lát:
-Tôi không hy
vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy
tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong
những người
xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy
diệt.
Le Carré luôn tỏ
ra "ưu ái", với
những người Cộng Sản chân chính. Có vẻ như ông tin rằng, chính những
người đó
có lý hơn ông, như trong đoạn cuối ở trên, Smiley nước mắt ràn rụa, hét
lớn,
nhìn thân xác Dieter chìm xuống lòng sông, giữa sương mù Luân Đôn:
-Dieter!
Tại sao bạn không bắn tôi? Tại sao?…
*
Gọi Người
Đã Chết
Call
For The Dead
Trong
cuốn này, có hai cú thần
sầu.
Smiley
trước khi
về nhà, ghé tiệm giặt ủi lấy quần áo. Về tới nhà, tính lấy
chìa khoá mở cửa, nhưng "linh tính mách bảo", thay vì vậy, lại giơ tay
gõ. Cửa mở, một ông thò ra, anh lễ phép nói, đại khái, tôi là nhân viên
tiệm giặt
ủi, tới giao quần áo…
Tay
sát thủ, do cũng không rành mặt S. nên bị lừa, nhưng liền sau đó, hắn
làm thịt,
hụt, S.
Cú thứ nhì, là cú
xẩy ra trong The Last Act.
Màn này mới đúng là mise en abime, kịch
trong kịch.
Một
tuyệt cú. Chính cú này mới thực sự cho chúng ta thấy tài nghệ của Le
Carré.
Salman Rushdie đọc
không nổi Le Carré, chê dài dài, trong một viết in trong Quê hương
tưởng tượng.
Có vẻ như tay này không mê truyện trinh thám, điệp viên.
Nhưng Ông Trời quả là thương Gấu, sợ Gấu bỏ qua, và sợ Gấu buồn, trong
những nằm tù tại nhà tù quốc tế Bangkok, bèn nhờ anh bạn tù người
Malaysia nằm kế bên đưa cho Gấu cuốn này.
Nhờ đọc nó, mà hồn ma của Gấu, ở trong những hang cùng ngõ hẻm, những ổ
điếm, tiệm hút, những trại tù, sống dậy, và trở thành hồn thiêng của...
Sài Gòn!
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn
thiêng của thành
phố thức giấc ở
trong tôi,
tôi lại
tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang
thang trên
những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài
Gòn,
bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố
mà tôi
đã chết ở trong, nay
sống lại, chỉ
để kể về nó…
*
Vòng
hoa trao tặng Pamuk (1) vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó,
là kết hợp của
hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok, câu
trên, và ở trại
tị nạn
Thái Lan:
Nhìn bước đi của thời
gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua
với chiến
tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ
thuộc địa,
thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.
Lần Cuối Sài Gòn
(1)
"who in the
quest
for the melancholic soul of his native city has discovered new symbols
for the
clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương
của
mình, đã khám phá ra, những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn
quít lấy
nhau, của những nền văn hoá."
Tuyệt!
THE PEN IS
CRUELER THAN THE SWORD
Salman Rushdie vs Le Carré
Ngòi
viết thì độc hơn thịt vịt, sắc hơn gươm giáo: Cuộc tỉ đấu giữa Salman
Rushdie,
Le Carré, với me-xừ Christopher Hitchens đứng ngoài đổ thêm dầu, v/v
Quỉ Thi.
Rushdie không ưa Le Carré. Trong tập tiểu luận Quê
hương tưởng tượng, ông chê hết lời truyện điệp viên của ông này.
Nhân một bài
viết của LC trên tờ Guardian,
phàn nàn, ông bị tờ NYRB gán cho tội bài Do Thái,
thế là R. bèn tố cáo LC, khi xẩy ra vụ Quỉ Thi, đã đứng về phe những kẻ
tấn
công R:
Bi giờ đến lượt mi ăn đạn nhé, sướng chưa?
LC trả lời:
Ta đâu có đứng về phía những kẻ tấn công
mi, nhưng ta phán: Làm đếch gì có tiêu chuẩn tuyệt đối v/v tự do ăn
nói, muốn
phạng ai thì phạng, trong bất cứ một xã hội. Quan điểm của ta là, chẳng
thể có
chuyện không bị trừng phạt, một khi mi nhè tôn giáo mà sỉ nhục [My
position was
that there is no law in life or nature that says that great religions
may be
insulted with impunity]
*
Happy
birthday, Len Deighton:
we need you now more than ever
Chúc mừng sinh nhật, Len. Tụi
này quá cần
bạn vào lúc này.
"It was the morning of my
hundredth birthday." So begins Len
Deighton's Billion Dollar Brain,
published in 1966. Yesterday Deighton himself turned 80. Last year, the
centenary of Ian
Fleming saw a
resurgence of interest in James
Bond's
creator – could it be Deighton's turn?
HarperCollins has announced that it will reprint eight of his novels
this year,
including The Ipcress File, Funeral in Berlin
and Billion Dollar Brain, all with new introductions by the author.
Quentin
Tarantino has also said he is contemplating filming the Game, Set and
Match
trilogy, featuring Deighton's embattled British agent Bernard Samson.
Now is the perfect moment for a Deighton revival. In the current
political
climate, his novels – particularly his cold war spy stories – act as a
refresher course in what happened last time round. Unlike John le
Carré's work,
they don't make for bleak or melancholic reading, and are often rather
jaunty
in tone. But running through them is a deep mistrust and cynicism of
the powers
that be. His protagonists are anti-authoritarian, laconic, past their
best,
bitter and seething at the absurdity of their business.
Gấu có vài kỷ niệm về tay này, cùng với Mai Thảo, và Quán Chùa, và Sài
Gòn.
Đã
kể ra trong Tản
mạn về phim & Những
ngày ở Sài Gòn
Và có một kỷ niệm về ông, những ngày mới tới xứ lạnh, đi học ESL, và bà
giáo
già, khi thấy Gấu cặp theo một cuốn của ông, đã nói, tôi mê tay này
lắm, không
ngờ lù khù, lớ ngớ, ngớ ngẩn, không rành tiếng Anh, như anh, mà cũng mê
ông ta!
Quả là thế thật! Ấy là vì bà gọi Gấu lên lau cái bảng, mà Gấu ngớ ra,
chẳng
hiểu bà nói gì!
Len được coi là thi sĩ của những câu chuyện điệp viên.
Gấu này quá mê truyện điệp
viên, trinh thám và mang họa vì nó. Đại họa.
Nhờ tai họa này, về già, Gấu nhận ra lòng dạ quí báu của mấy đấng bạn
quí.
Cú này, chắc phải kể ra, vì liên quan tới nghi vấn của nhà đại phê bình:
Có mấy [thằng khốn nạn] NQT ?
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ
CHẾT
CALL
FOR THE DEAD
Lời
giới thiệu:
John Le Carré là bút hiệu
của David
Cornwell, người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học
tại Eton.
Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được phép dùng tên thật khi
viết. Bút
hiệu Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là hình vuông, do ông tình cờ nhìn
thấy trên
kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết
truyện gián điệp số một của thời đại ông ta hiện đang sống. Và có lẽ
của mọi
thời.
Gọi Người Đã Chết, tác phẩm đầu
tay trong
đó gói ghém tất cả ước vọng của tác giả, muốn sử dụng thể loại gián
điệp, một
hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết những vấn đề lớn lao, như
văn
chương, chính trị, thời đại... Ông còn muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn
bắt
nguồn từ bi hùng kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người
Đã
Chết, độc giả, và có thể, chính tác giả cũng không tiên đoán được kẻ
thù sẽ
phản ứng như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như vậy.
Chúng ta
còn có cơ hội...
Đối những độc giả quá quen
thuộc với
Smiley, nhân vật chính của Le Carré qua những tác phẩm The Spy who came
in from
the Cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa
Cộng sản,
chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
Chương Một
Lược sử George Smiley
Khi Phu nhân Ann Sercomb kết
hôn cùng
George Smiley vào cuối cuộc chiến, bà mô tả trước vẻ sững sờ của những
người
bạn khu Mayfair là hắn cù lần không
sao chịu
nổi. Hai năm sau, khi bỏ hắn theo một anh chàng đua xe hơi người Cuba,
bà úp úp
mở mở tuyên bố, nếu lúc này không dứt hắn ra, thì không bao giờ có thể
làm nổi
chuyện đó, và Nam tước Sawley đã làm một chuyến đi đặc biệt tới câu lạc
bộ của
ông ta, để đưa ra nhận xét là con mèo đã ra khỏi cái bị. (1)
(1) the cat was out of the bag: Bí mật đã tiết lộ. Let the cat out of
the bag: To
disclose a secret. Bản tiếng Pháp dịch là "le grand mot était
lâché":
Đại ngôn đã được thốt ra.
Nguồn
Nhận xét này, thoáng một dạo,
được coi là
một câu dí dỏm, chỉ những người biết Smiley mới hiểu. Thấp, mập, bản
tánh thầm
lặng , hắn có vẻ như tốn quá nhiều tiền cho mớ quần áo quá ư tệ lậu,
máng lên
cái khung lùn như da một con cóc kịch cợm. Đúng ra, Sawley dã tuyên bố
trong
buổi lễ cưới là "Sercomb lấy nhầm một con cóc đực phải gió". Và
Smiley chẳng biết gì về mô tả này, lịch bịch bước xuống hành lang nhà
thờ, đi
tìm nụ hôn biến anh ta thành vị Hoàng tử.
Hắn giàu hay nghèo, một gã nhà
quê hay một
tay giáo sĩ ?. Bà ta moi hắn ở đâu ra vậy ?. Sự bất xứng đôi càng nổi
bật vì vẻ
đẹp lồ lộ của Phu nhân Ann, bí mật hôn nhân còn tăng thêm vì chú rể và
cô dâu
không môn dăng hộ dối. Nhưng những lời ngồi lê dôi mách vốn chỉ nhìn
những
người trong cuộc đen trắng rõ ràng, gán cho họ những tội lỗi, những
động cơ dễ
loan truyền theo lối đàm thoại tốc ký. Thế là Smiley, không trường ốc,
không
cha mẹ, không nghề ngỗng, không tài sản hoặc khố rách áo ôm, du hành
không nhãn
hiệu trong toa lính hầu trên chuyến tốc hành xã hội, chẳng mấy chốc trở
thành
món đồ bị thất lạc, và khi vụ ly dị xảy ra rồi qua di, trở thành vô
thừa nhận
trên cái giá bụi của bản tin ngày hôm qua.
Khi Phu nhân theo ngôi sao của
mình đi Cuba,
bà có
chút suy nghĩ về Smiley. Miễn cưỡng thán phục, bà thừa nhận với chính
mình, nếu
có người đàn ông độc nhất trong đời bà, Smiley chính là người đó. Hồi
tưởng
lại, bà hài lòng vì đã phô rõ điều này qua thánh lễ hôn nhân.
Hậu quả việc ra đi của Phu nhân
Ann đối
với người chồng cũ không làm xã hội quan tâm. Thực tình, xã hội chẳng
màng tới
những gì xảy ra sau cơn xúc dộng. Tuy nhiên cũng lý thú nếu biết được
Sawley và
đồng bọn đã nghĩ gì về phản ứng của Smiley, về bộ mặt đẫy đà với cặp
kính, hằn
lên vì quá tập trung mỗi lần hắn say sưa đọc những nhà thơ Đức chẳng
phải hàng
đầu, đôi tay mũm mĩm, ướt nhẹp nắm chặt lại dưới đôi tay áo lòng thòng.
Nhưng
thừa dịp, Sawley nhún nhẹ vai buông một câu. Đi là chạy ở trên dường
một
ít". Ông ta như không hay rằng, cho dù Phu nhân chỉ chạy đi, một chút
con
người Smiley thực sự đã chết..
Phần sống sót trong Smiley cũng
chật chìa
so với bề ngoài, như tình yêu, hoặc thú thưởng ngọan những nhà thơ
không được
đời biết tới . Đó là nghiệp vụ của hắn, nghề làm viên chức tình báo.
Hắn thích
nghề đó, một nghề đã ân sủng ban cho hắn những đồng nghiệp tính khí và
gốc gác
mù mờ y như hắn. Nó cũng cung cấp điều mà hắn có lần yêu nhất trong
dời: Dạo
chơi như một học giả trong cõi bí ẩn của hành vi con người được uốn nắn
qua áp
dụng thực tế những diễn dịch của chính mình.
Một lúc nào đó trong thập niên
l920 khi
Smiley rời ngôi trường không tăm tiếng của mình, mắt nhắm mắt mở lần
theo những
hành lang âm u của học viện Oxford không tiếng tăm, hắn ước mơ làm một
Nghiên
cưú sinh và dâng trọn cuộc đời cho những nhà văn mờ nhạt của nước Đức
thế kỷ
l7. Nhưng người phụ đạo biết Smiley rõ hơn, đã khéo léo kéo hắn ra khỏi
những
thành đạt đúng ra sẽ là của hắn. Thế là một sáng đẹp trời, tháng 7 năm
l928 một
anh chàng Smiley khá hồng hào ngơ ngác ngồi trước ban phỏng vấn của Hội
đồng
hải ngoại về Nghiên cứu học thuật, một tổ chức thật vô lý hắn chưa hề
nghe nói
tới. Jebedee, người phụ đạo, mơ hồ một cách lạ lùng trong lời giới
thiệu :
"Smiley hãy cho họ thử, có thể họ sẽ nhận, và trả anh khá hậu đủ bảo
đảm
cho anh một chốn giao du thanh lịch". Nhưng Smiley thấy chán và nói
luôn.
Hắn băn khoăn, Jebedee vốn rất chính xác, sao lơ mơ như vậy. Trong
thoáng bực
bội, hắn đồng ý hoãn trả lời Học viên chư linh tới khi đã được gặp
"những con
người bí ẩn" của Jebedee.
Hắn không được giới thiệu
với Ủy
ban, nhưng đã biết phân nửa những thành viên. Có Fielding, chuyên về
thời trung
cổ ở Pháp thuộc Đại học Cambridge, Sparke, Trường Ngôn ngữ Dông phương,
và
Steed-Asprey, đã có mặt tại bàn danh dự bữa dạ tiệc của Jebedee mà
Smiley là
khách được mời. Hắn phải thú nhận là mình xúc động, Để Fielding phải
chịu rời
những căn phòng của ông ta, khoan nói tới Cambridge, riêng việc đó đã
là một
phép lạ. Sau này, Smiley vẫn nghĩ cuộc phỏng vấn giống như một điệu múa
quạt,
từng cá nhân bộc lộ những phần khác nhau của một toàn thể bí mật. Sau
cùng
Steed-Asprey, hình như vị Chủ tịch, vén màn cuối, và sự thực sừng sững
trước
Smiley với tất cả sự trần trụi chói lòa của nó. Hắn được đề nghị một
chức việc
trong cái mà, vì Steed-Asprey không chọn được một cái tên tốt đẹp hơn,
đã đỏ
mặt diễn tả, là Cơ quan mật vụ.
Smiley xin có thời gian
để suy nghĩ.
Họ cho hắn một tuần, chẳng ai đề cập đến chuyện lương bổng.
Đêm đó hắn trọ ở Luân
đôn, tại một
nơi khá sang và đóng bộ tới kịch viện. Hắn cảm thấy lâng lâng lạ
thường, và
điều này làm hắn lo lo. Hắn biết rõ mình sẽ nhận, rằng mình có thể làm
vậy ngay
tại cuộc phỏng vấn. Chỉ là cẩn thận theo bản năng và có lẽ, một ham
muốn khả dĩ
tha thứ được - chơi trò đỏng đảnh với Fielding - đã ngăn cản hắn nhận
lời ngay.
Sau nhận tới huấn luyện:
những căn
nhà vô danh ở vùng quê, những huấn luyện viên vô danh, những chuyến đi,
vô kể
số, và một triển vọng diệu kỳ ngày càng lộ rõ về một việc làm hoàn toàn
đơn độc.
Nơi công tác đầu tiên khá
dễ chịu:
Hai năm giảng viên Anh ngữ tại một Đại học Đức ở tỉnh lẻ. Thuyết giảng
về thi
sĩ Keats và những kỳ nghỉ trong những quán trọ dành cho dân săn bắn tại
vùng Bavaria
cùng những toán sinh
viên Đức đạo mạo và lang chạ một cách trang trọng. Cuối mỗi kỳ nghỉ
dài, hắn
đem vài sinh viên trong đám họ về Anh, và sau khi đã nhắm sẵn những kẻ
xài được,
hắn chuyển đề nghị bằng những phương tiện lén lút, tới một địa chỉ ở
Bonn; trong
suốt hai năm trời, hắn hoàn toàn mù tịt về những đề nghị của mình được
chấp
nhận hay bị bác bỏ. Thực tình hắn chẳng có cách nào biết được những
thông điệp
của mình có tới nơi nhận hay không, và khi ở Anh, hắn không hề liên lạc
với Bộ.
Tình tự hắn khi thi hành
công tác
thật lộn xộn, không sao hòa nhập. Công việc gây tò mò nơi hắn, khi đánh
giá từ
một vị trí biệt lập, điều hắn học, một cái gì như là "tiềm năng điệp
viên" ở mỗi con người; khi nghĩ ra những trắc nghiệm chi li về tính
tình
và hành vi có thể thông báo cho hắn về phẩm chất một ứng viên. Cái phần
này ở
trong hắn thật vô tình và tàn nhẫn - Smiley trong vai trò này là một
tên lính
đánh thuê quốc tế chuyên nghiệp, vô đạo đức và không hề có một động cơ
nào
ngoài chuyện thỏa mãn cá nhân.
Ngược lại, hắn buồn rầu
chứng kiến
khoái lạc tự nhiên cứ chết dần trong hắn. Bản chất luôn khép kín, hắn
thấy mình
lúc này co rúm lại trước những cám dỗ của tình bạn và lòng chung thủy
của con
người; hắn cảnh giác hết mức, chính hắn, trước những phản ứng bộc phát.
Bằng
sức mạnh lý trí, hắn ép mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm
sàng, và,
bởi vì hắn không bất tử, và chắc không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và
ghê sợ sự giả
trá của đời mình.
Nhưng Smiley là con người
tình cảm,
và nỗi xa xứ ngày càng làm mạnh thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước
Anh.
Hắn ngấu nghiến những hồi ký về Oxford,
vẻ đẹp, sự phóng khoáng trí tuệ, tính chậm chạp chín mùi trong những
phán đoán của
nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng gió mùa thu ở bến Hartland, những
chuyến tản
bộ dài trên những vách đá ở Cornall, mặt trơn láng, nóng bỏng trước gió
biển.
Đây là một cuộc sống thầm kín khác của hắn, và hắn càng ngày càng thù
ghét sự
xâm nhập tục tằn của nước Đức mới, những bước dậm chân và la hét của
đám sinh
viên đồng phục, những khuôn mặt sẹo, kiêu căng và những câu trả lời hạ
cấp của
họ. Hắn cũng căm tức cái lối Phân khoa xía vô môn dạy của hắn - nền văn
học Đức
yêu dấu của hắn. Và rồi một đêm, cái đêm khủng khiếp của mùa đông l937
khi
Smiley đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn nơi sân
trường Đại
học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới
ánh lửa
bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào ngọn lửa ngoại đạo.
Hắn biết
tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann, Heine, Lessing, và hàng loạt
những
người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum khum quanh đầu điếu thuốc,
ngắm nhìn
và thù hận, hả hê trong nỗi chiến thắng vì đã nhận diện ra kẻ thù của
mình.
l939, hắn có mặt ở Thuỵ
Điển, nhân
viên được bảo chứng của một hãng chế tạo vũ khí nhẹ nổi tiếng của Thụy
Sĩ; mối
làm ăn được ghi lùi lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận tiện,
tướng mạo
của hắn đã phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá ra hắn có tài nhập
vai hơn
hẳn cái trò thô thiển về thay đổi mái tóc hoặc thêm hàng ria mép nho
nhỏ. Trong
bốn năm hắn đóng vai đi đi lại lại giữa Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn
không
ngờ mình bị hoảng sợ lâu đến như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt
trái, mười
lăm năm sau vẫn còn, sự căng thẳng vạch những đường hằn trên đôi má
phính, trên
trán. Hắn học được, làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao giờ
xả hơi,
làm sao cảm thấy nhịp đập hoài hoài của trái tim của chính mình bất kể
ngày và
đêm, làm sao với tới những cực điểm của nỗi cô đơn và sự thương thân,
làm sao
nhận ra niềm dục vọng bất thần không đắn đo về một người đàn bà, một ly
rượu,
một vận động, và thuốc, bất kể thứ thuốc gì bứng đi sự căng thẳng của
đời mình.
Trên cái nền đó hắn làm
doanh thương
đích thực và làm gián điệp. Theo thời gian, mạng lưới mở rộng, và những
nước
khác chỉnh đốn sự thiếu hụt về tầm nhìn xa và việc chuẩn bị.
Năm l943, hắn được gọi
về. Trong sáu
tuần hắn mong quay lại, nhưng chảng bao giờ họ cho hắn đi, "Anh hết
thời
rồi", Steed-Asprey bảo hắn. "Huấn luyện người mới. Nghỉ ngơi thôi.
Lấy vợ chẳng hạn. Hưởng nhàn".
Smiley ngỏ lời với cô bí
thư của
Steed-Asprey, Phu nhân Ann Sercomb.
Chiến tranh chấm dứt. Họ
trả lương
thôi việc, hắn đưa cô vợ đẹp về Oxford
để đắm mình vào trong những áng văn tối tăm của nước Đức thế kỷ l7.
Nhưng hai
năm sau, Phu nhân Ann ở Cuba
và một tiết lộ của một thư ký mật mã trẻ tuổi người Nga ở Ottawa phát sinh
yêu cầu mới đối với những người
có kinh nghiệm như Smiley.
Công việc mới mẻ, mối đe
dọa mơ hồ,
thoạt đầu hắn thích. Nhưng đám trẻ nhảy vô, đầu óc tươi tắn hơn, có lẽ
vậy.
Smiley không phải thứ tài nguyên để thăng tiến, điều này thấm dần ,và
Smiley
bước vào khoảng trung niên của cuộc đời mà chưa từng hay mình dã có
thời trẻ
tuổi, và hắn - qua cung cách lịch sự nhất khả dĩ có được - bị xếp xó.
Mọi chuyện đổi thay.
Steed-Asprey đi
rồi. Ông chạy trốn thế giới mới qua Ấn Độ truy tìm một nền văn minh
khác.
Jebedee chết. Ông đáp xe lửa tại thành phố Lille, năm l94l, cùng một hiệu thính
viên trẻ
người Bỉ, và người ta không còn được tin tức gì về họ. Fielding ăn nằm
với một luận
án mới về Romain Rolland - chỉ Maston là còn; Maston, kẻ chuyên nghề
hoạn lộ,
được tuyển mộ trong thời chiến, Cố vấn tình báo của Hội đồng Bộ Trưởng.
"Người",
Jebedee nói, "chơi quần vợt quyền lực ở sân Wimbledon". Liên minh Bắc
Đại Tây Dương, những biện pháp tuyệt vọng được người Mỹ để mắt tới, đã
làm toàn
bộ bản chất Điệp vụ của Smiley trở nên lỗi thời. Những ngày tháng với
Steed-Asprey
đã xa khuất mù, cái thuở bạn không chừng đã nhận lệnh qua ly rượu mạnh
trong
những căn phòng của ông ta ở Magdalen; chất tài tử ngẫu hứng của một
dúm người
đầy tài năng, lương bổng chẳng màng đã nhường chỗ cho tính hữu hiệu,
chất thư
lại và tật bè phái của một nha sở cỡ nhà nước - Thực tình đều trong
vòng thao
túng của Maston, với những bộ đồ đắt tiền, tước phong quí tộc, mớ tóc
xám uy
nghi, mớ cà vạt màu ngân nhũ, Maston, người nhớ cả sinh nhật cô thư ký
của ông
ta, một người mà phong thái được truyền tụng giữa mấy bà mấy cô tại văn
phòng
tiếp tân; Maston xin lỗi về việc mở rộng giang sơn của mình, ân hận
phải rời
tới những căn pnòng rộng hơn nữa; Maston chủ tọa những buổi tiệc thanh
lịch, tại
nhà nghỉ ở Hentley, và ngấu nghiến những thành công của thuộc hạ.
Họ đã đem ông ta vào,
trong thời
chiến, người công chức chuyên môn từ một nha sở chính thống, một người
lo giấy
tờ và hòa nhập sự xuất sắc của nhân viên với guồng máy quan liêu nặng
nề. Thật
là một an tâm cho mấy ông lớn khi xử sự với một người họ rành rẽ, một
người có
thể giản lược mọi mầu thành mầu xám, kẻ biết những ông chủ của mình, và
có thể
thông thuộc đường đi nước bước giữa họ. Và ông ta làm điều đó thật khéo
léo. Họ
thích lối hạ mình của ông ta khi bảo vệ những hoang đàng của thuộc hạ,
sự uốn
éo khi hoạch định những cam kết mới. Ông ta cũng không chê lợi lộc của
một tay
áo chùng.dao găm bất đắc dĩ, áo chùng cho quan thầy còn dao găm cho đệ
tử. Chức
vụ ông ta ngụy trang thật kỳ cục. Không phải Giám đốc sở trên danh
nghĩa, mà là
Cố vấn Tình báo cho Hội đồng Bộ Trửơng, và Steed Asprey đã mô tả ông
ta, một
lần cho tất cả mọi lần, là quan Tổng quản Thái giám.
Đây là một thế giới mới
đối với
Smiley: những hành lang sáng choang, những người trẻ thông minh. Hắn
thấy mình
quê mùa, cổ hủ, thấy nuối tiếc căn nhà trệt ọp ẹp khu Knightsbridge,
nơi mọi
chuyện bắt đầu. Bộ dạng hắn như cũng phản chiếu sự thiếu thoải mái này
dưới
dạng suy nhược thể chất, khiến cho hắn hơn bất cứ lúc nào, ngày một
thêm lọng
cọng, giống y chang một con cóc. Hắn nhấp nháy con mắt nhiều hơn, và
mang thêm
biệt danh Chuột nhũi. Nhưng cô thư ký mới vào nghề khâm phục hắn, và
luôn gọi
hắn là "Gấu cưng" của tôi.
Smiley lúc này đã quá
tuổi đi công
tác nước ngoài. Maston đã rõ ràng trong việc này: " Bạn ơI, dù sao
không
nhiều thì ít bạn cũng bị cuốn hút vào tất cả mọi chuyện sục sạo trong
cuộc
chiến rồi .Tốt hơn nên nằm nhà ông bạn già ạ, và giữ cho bếp lửa cháy
đều".
Điều này phần nào giải
thích cảnh
Smiley ngồi ghế sau một chiếc taxi ở Luân đôn vào lúc hai giờ sáng bữa
thứ tư,
ngày mồng 4 tháng giêng, trên đường tới Gánh Xiếc Cambrigde (1)
(1) Sở mật vụ (CTND)
CHƯƠNG II
Không hề tạ khách
Trong taxi hắn cảm thấy
an toàn. An
toàn và ấm áp. Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích
trữ
nhằm chống đỡ đêm tháng giêng ẩm ướt. An toàn vì không thực: Đây là hồn
ma của
mình lang thang trên đường phố Luânđôn , ghi nhận mấy tay đi tìm khoái
lạc kém
may mắn, lui cui dưới những chiếc dù của đám giữ cửa; mấy cô gái ăn
sương: Món
quà bọc dưới lớp áo mủ mờ mờ . Hồn ma của mình, hắn đoan chắc,đã vươn
lên từ
đáy giếng là giấc ngủ sâu, tắt điện thoại đang ré trên chiếc bàn ngủ...
Phố
Oxford... Tại sao chỉ Luânđôn là thủ đô duy nhất trên thế giới đánh mất
đi cá
tính về đêm của nó?. Khép chặt áo choàng cho sát người, Smiley có thể
nghĩ,
không nơi nào,từ Los Angeles ở Mỹ, tới Bern ở Thụy sĩ, lại có một thành
phố sẵn
sàng từ bỏ cuộc phấn đấu ban ngày để có một bản sắc riêng như thế.
Xe quẹo vô Gánh Xiếc
Cambrige, và
Smiley ngồi bật dậy. Hắn nhớ ra lý do Sĩ quan trực réo điện thoại, và
hồi ức
tàn nhẫn kéo hắn ra khỏi cơn mộng. Cuộc đàm thoại trở lại từng chữ, một
kỳ công
hồi tưởng hắn đạt được từ thưở nào.
"Đây là Sĩ
quan trực, Smiley.
Cố vấn muốn nói chuyện...."
"Smiley,
Maston đây. Anh phỏng vấn Samuel Arthur Fennan bên Bộ Ngoại
giao bữa thứ hai phải không?."
"Vâng,
đúng là tôi.
"Vụ
đó ra sao ?.
"Thư
nặc danh tố là đảng viên khi học Oxford. Phỏng vấn theo
thường lệ, được Giám
đốc an ninh cho phép."
(Fennan
không thể phàn nàn, Smiley nghĩ, hắn biết mình sẽ minh oan cho
hắn. Không có gì bất thường. Không có gì hết).
"Anh
có bênh vực hắn chút nào không? Có...căng không, Smiley hãy cho
tôi biết".
(Trời,
lão hoảng rồi. Fennan phải đưa cả nội các ra chơi tụi mình).
"Không.
Chỉ là phỏng vấn rất là thân thiện. Bọn tôi khoái nhau, tôi
nghĩ vậy,thực tình tôi hơi lố trong việc biện hộ".
"Sao,
Smiley, sao ?".
"À,
tôi gần như bảo thẳng hắn đừng lo".
"Anh
bảo sao ? ."
"Tôi
bảo hắn đừng lo. Rõ ràng là hắn hơi hoảng, nên tôi bảo
vậy".
"Anh
bảo hắn như thế nào?"
"Tôi
nói tôi không có quyền và cả Tổng nha cũng vậy, nhưng tôi thấy
không có lý do gì để chúng ta làm phiền hắn nữa".
"Chỉ
có thế thôi sao ?.
Smiley
ngưng một giâỵ. Hắn chưa từng thấy Maston như thế này bao giờ,
chưa từng thấy lão lệ thuộc đến như vậỵ.
"Vâng
. Chỉ có vậy. Tuyệt đối chỉ có vậy". (Lão sẽ chẳng bao
giờ tha thứ cho mình về chuyện này .Bao nhiêu vẻ bình tĩnh được tính
toán, bao
nhiêu áo màu kem, cà vạt màu ngân nhũ, những bữa ăn thanh lịch với hàng
Bộ
Trưởng, hóa ra chỉ có vậy! )
"Hắn
nói anh gieo sự hoài nghi về lòng trung thành của hắn, rằng sự
nghiệp của hắn ở bộ Ngoại giao thế là tiêu, rằng hắn là nạn nhân của
bọn chỉ
điểm ăn lương".
"Hắn
nói sao ? Thằng chả khùng nặng rồi. Hắn biết rõ hắn đã được
minh oan. Hắn còn muốn gì nữa ?.
"Chẳng
muốn gì. Hắn chết rồi. Tự sát lúc 10.30 tối naỵ. Để lại thư
cho Bộ Trưởng Ngoại giao. Cảnh sát gọi thư ký của ông Bộ Trưởng và được
phép mở
thư . Rồi họ cho chúng ta biết. Sẽ có điều tra. Smiley, anh chắc chắn
không?"
"Chắc
chắn về cái gì?."
"...Thôi
không sao. Ghé lại đây càng sớm càng tốt ".
Phải
hàng giờ hắn mới kiếm được taxi. Hắn gọi ba đường dây, chẳng nơi nào
trả lời . Sau cùng được đường dây Công trường Sloan, và Smiley đứng chờ
ở cửa
sổ, mình quấn áo choàng, cho tới khi nhìn thấy taxi trờ tới cửa nhà.
Cảnh tượng
gợi nhớ những trận oanh kích hồi còn ở Đức. Cũng một nỗi bồn chồn vẩn
vơ trong
đêm im vắng.
Tới
Gánh Xiếc Cambrige, hắn ngừng xe cách Sở chừng trăm thuước, phần vì
thói quen,phần vì muốn đầu óc tỉnh táo phòng hờ cuộc điều tra nóng bỏng
của
Maston.
Hắn
trình thẻ ra vào cho Cảnh sát trực và lầm lũi tới thang máỵ. Viên Sĩ
quan trực thở phào khi thấy hắn xuất hiện. Cả hai cùng đi dọc theo hành
lang
mầu kem.
"Maston
đi gặp Chim sẻ ở Scottland Yard. Đang tranh dành xem khối
Cảnh sát nào xử lý vụ nầy . Chim sẻ nói để Cảnh sát đặc biệt, Evelyn
nói để
khối Điều tra hình sự, còn Cảnh sát Quận Surrey không hiểu tại sao họ
bị đì như
vậy. Thật rối như đám ma. Nào mình đi uống cà phê quán Cóc trong khu.
Không có
nhậu, nhưng cũng tạm được".
Smiley
thấy biết ơn vì Peter Guillam trực đêm nay . Một người lịch lãm,
thông minh từng chuyên về Tình báo vệ tinh, loại bạn có tình luôn có
sẵn một
thời khóa biểu và một con dao bỏ túi.
"Bên
Đặc biệt gọi lúc 12.05. Vợ. Fennan đi coi hát, đến khi một mình
về nhà lúc 11. giờ thiếu 15 mới phát giác ra hắn .Sau cùng bà ta gọi
Cảnh
sát".
"Hắn
ở đâu đó trong quận Surrey".
"Vùng
Walliston, khỏi thông lộ Kingston
.Ngay bìa Đô thành. Khi Cảnh sát tới, họ thấy thư gửi bộ Ngoại giao
trên sàn
nhà, bên cạnh xác chết. Tay trưởng toán gọi Cảnh sát trưởng, ông này
gọi sĩ
quan trực bộ Nội vụ, ông này gọi thư ký thường trực bộ Ngoại giao, sau
cùng họ
được phép mở thư. Và cuộc vui bắt đầu".
"Nữa
đi".
"Giám
đốc nhân viên bộ Ngoại giao gọi tụi mình. Ông ta đòi số điện
thoại riêng của Cố vấn. Rằng, đây là lần cuối cùng An ninh đụng tới
người của
ông ta,rằng Fennan là một viên chức trung thành, tài năng, vv...và
vv..."
"Hắn
thế thật. Hắn thế thật"
"Ông
ta nói toàn bộ vụ này cho thấy là An ninh qúa lố. Rằng phương
pháp mật vụ Đức Gestapo, ngay cả khi không có mối đe dọa thực sự nào để
châm
chước..."
"Tớ
cho số của cố vấn ,và quay số này bằng một đường dây khác, trong
lúc ông ta vẫn lảm nhảm. Bằng một cú thần sầu tớ ngắt bộ Ngoại giao ở
một điện
thoại, và gọi báo tin cho Maston qua một điện thoại khác. Lúc đó là12
giờ 20.
Maston tới đây lúc 1 giờ, như bà bầu sắp ở cữ. Sáng mai lão phải trình
Bộ
Trưởng ".
Trong
giây lát cả hai lặng im, trong khi Guillam cho cà phê nguyên vào ly
và thêm nước sôi từ chiếc ấm điện .
Guillam
hỏi :
"Hắn
ta ra sao ?
"Ai?
Fennan hả? Được lắm, cho tới tối nay, tôi có thể nói như vậy.
Bây giờ hắn làm mình điên đầu . Xem ra thì đúng là Do thái . Gia đình
theo Chính
thống, nhưng hắn bỏ hết khi học Oxford
và quay qua Mácxit . Lanh lợi, có văn hóa ... Một người biết điều,ăn
nói nhỏ
nhẹ, biết lắng nghe. Vẫn chịu học, anh thấy đấy, sự kiện đâu có ít. Bất
cứ ai
tố hắn đều đúng. Hắn đã ở trong Đảng".
"Bao
nhêu tuổi".
"44
Ngó thực sự già hơn".
Smiley
tiếp tục trong lúc đảo mắt quanh phòng .
"Gương
mặt nhạy cảm, tóc đen chải theo lối sinh viên, nhìn nghiêng
như thanh niên 20 tuổi, da khô mịn, hơi trắng. Vết nhăn cũng rất nhiều,
chạy
chằng chịt, căt da thành ô vuông. Ngón tay rất thon ... Loại người chắc
nịch,
trọn một khối. Tìm vui một thân. Đau khổ một mình. Tôi đoán vậy".
Cả
hai đứng dậy khi Maston bước vô.
"Ah!
Smiley, vô đi."
Lão
mở cửa, dơ cánh tay trái ra để hướng dẫn Smiley vô trước . Phòng
Maston không có tài sản nào thuộc nhà nước . Lão có lần mua nguyên bộ
sưu tập
tranh mầu nước thế kỷ 19, vài bức được treo trên tường . Ngoài ra toàn
là đồ
dởm, Smiley chắc chắn như vậy, Maston thì cũng rứa, đồ dởm, cho tiện
việc. Bộ
đồ mầu quá lạt so với sự trang nghiêm, sợi dây đeo kính một mắt vắt
ngang áo sơ
mi luôn luôn là màu kem. Cà vạt len màu xám nhạt. Một người Đức sẽ gọi
là flott
( hoa hoè hoa sói) , Smiley nghĩ thầm; bảnh bao - đúng giấc mơ của một
cô bán
quán về một nhà quí tộc chính hiệu.
"Tôi
đã gặp Chim sẻ. Rõ là một vụ tự tử. Xác đã được đem đi, ngoài
một số thủ tục thông thường, Cảnh sát sẽ không làm gì khác .Sẽ có điều
tra
trong vòng một hoặc hai ngày. Đã cùng đồng ý với nhau như vậy -
Smiley,tôi
không thể nhấn mạnh, là sẽ không có một lời nào được đưa ra báo chí về
mối quan
tâm trước đó của chúng ta đối với Fennan".
"Tôi
hiểu ." (Ông thật nguy hiểm, Maston ạ. Ông yếu đuối và
hoảng sợ. Tôi biết, treo cổ ai cũng được, trước khi tới phiên ông. Cách
ông
nhìn tôi là đủ hiểu - Ông đang nhắm chừng sợi dây treo cổ dành
cho tôi).
"Đừng
nghĩ tôi đang chỉ trích, Smiley; nói cho cùng nếu ông Giám đốc
an ninh đã phê chuẩn cuộc phỏng vấn thì anh không có gì phải lo".
"Ngoại
trừ Fennan".
"Đúng
thế . Đáng tiếc là ông Giám đốc An ninh quên không ký biên bản
đề nghị phỏng vấn . Chắc ông ta nói miệng, phải không?.
"Vâng.
Tôi chắc chắn ông ta sẽ xác nhận chuyện đó."
Maston
lại ngắm Smiley, tia mắt nhọn hoắt, tính toán; có cái gì vương
vướng nơi cổ họng Smiley . Hắn biết mình đang khăng khăng không chịu
thỏa hiệp,
còn Maston muốn hắn thân cận, muốn hắn toa rập với lão.
"Anh
biết Sở của Fennan đã liên hệ với tôi ?."
"Vâng
".
"Sẽ
phải có điều tra . Rất có thể khó gạt đám báo chí ra ngoài. Chắc
chắn việc đầu tiên tôi phải làm ngày mai là gặp ông Bộ Trưởng Nội vụ (
Hù dọa
ta đây...Thử lần nữa...Mình luống tuổi rồi ....Phải nghĩ đến hưu trí
...Thất
nghiệp cũng nên ... Nhưng ta không chia sẻ sự dối trá của ngươi đâu,
Maston ạ.)
"Tôi phải nắm toàn bộ sự kiện, Simley. Tôi phải làm bổn phận của tôi.
Nếu
có bất cứ chuyện gì anh cảm thấy nên cho tôi biết về cuộc phỏng vấn,
bất cứ
chuyện gì anh chưa ghi lại trong hồ sơ chẳng hạn, bây giờ cho tôi biết
để tôi
thẩm định ý nghĩa của nó."
"Thật
sự, chẳng còn điều gì để thêm vô hồ sơ, và những gì tôi vừa
nói với ông hồi hôm . Có lẽ ông cũng nên biết, ( Tiếng "Ông " có vẻ
hơi gằn một chút), có lẽ ông cũng nên biết tôi tiến hành cuộc phỏng vấn
trong
bầu không khí hết sức thoải mái. Lời cáo buộc Fennan khá mỏng manh -
Sinh viên
vào Đảng thập niên 1930, tiếng đồn mơ hồ hiện nay vẫn là cảm tình viên.
Phân
nửa Nội các những năm 30 đều vào Đảng".
Maston
nhíu mày.
"Khi
tôi tới văn phòng anh ta tại bộ Ngoại giao, lúc đó hóa ra khá
đông người ra vào, nên tôi đề nghị cả hai ra công viên đi dạo " .
"Tiếp
tục đi".
"Vậy
là chúng tôi đi dạo. Bữa đó trời nắng, lạnh, và khá dễ chịu.
Chúng tôi ngắm bầy vịt ".
Maston
tỏ dấu nóng nảy.
"Chúng
tôi ở công viên chừng nủa giờ. Toàn là anh ta nói. Thông
minh, lưu loát, lôi cuốn. Nhưng bồn chồn, cũng đúng thôi. Những người
như vậy
ưa nói về họ, và tôi nghĩ anh ta mừng vì có dịp được nói một lần cho
xong. Anh
ta kể toàn bộ câu chuyện - có vẻ khoái nêu tên từng nhân vật trong cuộc
- và
rồi chúng tôi tới một quán cà phê espresso mà anh ta quen ở gần
Millbank "
.
"Tới
đâu ?" .
"Quán
cà phê hơi espresso. — đó họ bán loại cà phê đặc biệt một hào
một ly. Chúng tôi làm vài ly . ".
"Tôi
hiểu . Vậy là trong hoàn cảnh... chén anh chén tôi đó anh đã
bảo hắn Tổng nha sẽ không đề nghị biện pháp nào khác " .
"Vâng
. Chúng ta thường làm vậy, nhưng theo thông lệ chúng ta sẽ
không ghi vô hồ sơ ". Maston gật đầu. Mấy chuyện đó thì lão hiểu,
Smiley
nghĩ thầm. Trời đất ơi! Lão này thực tởm quá. Nhìn ra bộ mặt khó thương
của lão
như hắn đã trông đợi thực là khoái.
"Vậy
tôi có thể coi việc hắn tự tử- và luôn cả lá thư - là hoàn toàn
bất ngờ đối với anh? Anh không tìm được lời giải thích?
"Nếu
tôi tìm ra được thì đáng kể thật ".
"Anh
không nghĩ ra ai tố cáo hắn ?."
"Không
".
"Hắn
có vợ , chắc anh biết ?."
"Vâng
".
"Tôi
tự hỏi ... không chừng vợ hắn ta có thể cho chút manh mối . Tôi
ngần ngại không muốn đưa ra đề nghị nhưng một người thuộc Tổng nha nên
đến gặp
bà ta và nếu câu chuyện diễn tiến tốt đẹp, hỏi bà ta về mọi chuyện đó."
"Ngay
lúc này ?"
Maston
đứng bên chiếc bàn giấy đồ sộ, tẻ ngắt, loay hoay với mớ đồ nghề
của đám doanh thương - dao dọc giấy, hộp thuốc lá, bật lửa - toàn bộ mớ
cao đơn
hoàn tán dành cho việc chiêu đãi. Hắn phô cổ tay áo màu kem ra đến cả
khúc,
Smiley nghĩ thầm, ngắm nghía hai bàn tay trắng trẻo của lão .
Maston
ngó lên, bộ mặt thiện cảm .
"Smiley,
tôi biết anh bị xúc động, nhưng hãy để thảm kịch qua một
bên, anh phải cố hiểu rõ tình hình. Ông Bộ Trưởng Ngoại giao và Bộ
Trưởng Nội
vụ sẽ đòi hỏi toàn bộ nội vụ và nhiệm vụ đặc biệt của tôi là phải cung
cấp điều
đó. Nhất là về bất cứ thông tin nào cho thấy tâm trạng của Fennan ngay
sau cuộc
gặp gỡ với ...chúng ta. Biết đâu chừng hắn có nói với vợ về việc đó.
Theo lẽ
hắn không được làm vậy, nhưng chúng ta phải thực tế".
"Ông
muốn tôi xuống dưới đó ?"
"Phải
có một người. Có vấn đề thẩm tra. Ông Bộ Trưởng Nội vụ lẽ dĩ
nhiên sẽ phải quyết định về việc đó, nhưng hiện thời chúng ta ngay cả
dữ kiện
cũng không có nữa. Thời gian thì ngắn mà anh hiểu nội vụ và đã điều tra
sơ
khởi. Không ai khác có đủ thời gian dù chỉ để hiểu qua loa về vụ này.
Không ai
ngoài anh ra , Smiley".
"Ông
muốn khi nào tôi đi ? ".
"Dường
như bà Fennan có gì đó hơi khác thường. Người nước ngoài. Lại
là Do thái nữa, tôi nghe ngóng được, đã từng đau khổ nhiều trong cuộc
chiến, điều
này càng làm phiền toái. Một người đàn bà cứng cỏi và tương đối không
xúc động
trước cái chết của chồng. Chỉ bề ngoài thôi, hẳn vậy. Nhưng nhạy cảm và
dễ nói
chuyện. Tôi được biết qua Chim sẻ là bà ta chịu hợp tác, chắc sẽ tiếp
anh ngay
khi anh tới được. Cảnh sát quận Surrey có thể
báo bà ta anh sẽ tới gặp ngay sáng mai. Tôi sẽ điện thoại khi anh còn ở
đó, nội
trong ngày".
Smiley
quay người định đi .
"À
, này Smiley ... " Hắn cảm thấy bàn tay Maston đặt trên cánh
tay mình, và quay lại ngó lão. Maston trong nụ cười thường chỉ dành cho
mấy bà
trọng tuổi ở trong Sở.
"Smiley
này, anh có thể tin cậy ở nơi tôi, anh biết đấy. Anh có thể
tin cậy sự hỗ trợ của tôi".
Smiley
nghĩ thầm, ông đúng là làm việc chạy theo kim đồng hồ. Quán mở cửa
24/24 , ông đúng là "Không hề tạ khách ".
Hắn
bước ra phố.
(còn
tiếp)
NQT
dịch thuật
|
|