|
Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy
A free man,
when he fails, blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)
(J. Brodsky, Phận lưu vong, The Condition We Call Exile)
Of course,
it's one hell of a way to get from Petersburg
to Stockholm; but then for
a man of my occupation the notion of a straight line being the shortest
distance between two points has lost its attraction a long time ago.
(Lẽ dĩ nhiên, đường từ Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng
với một người nghề ngỗng như tôi, ý niệm đường thẳng - là đường ngắn
nhất giữa hai điểm - đã mất sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.)
(Diễn văn nhận Nobel văn chương)
Ngay từ năm
1972, khi Joseph Brodsky chiều* theo lời yêu cầu của nhà nước, rời khỏi
nước Nga, vì tội danh thành phần ký sinh, nhà thơ ăn bám, ông vẫn luôn
luôn bị hỏi về nước Nga và nhất là khi nào thì trở về quê hương. Ông
thường trả lời đại để: "Tôi thấy thật khó mà tưởng tượng tôi như là một
du khách, một diễn viên đi trình diễn ở một nơi mà tôi đã sinh ra, đã
trưởng thành... Kẻ sát nhân còn có thể luyến tiếc phạm trường, nhưng
thật là vô duyên khi mầy mò diễn lại một màn yêu đương. Tôi có thể về
đó như là một cá thể rất riêng tư và gặp gỡ một vài bạn bè, nhưng về để
cười cười nói nói, nhận những lời chúc tụng, tôi thấy thật là khó chịu".
Nước Nga hết
còn hiện hữu. Nó trở thành ngôn từ đối với ông. "Tôi hết còn tin tưởng
ở xứ sở đó. Tôi không quan tâm (đến chuyện này). Tôi đang viết bằng
tiếng nước tôi, và tôi thích tiếng nước tôi. Tôi thực sự không biết
giải thích thế nào cho ông thấy. Xứ sở là... những người của nó. Tôi là
một trong những người đó, và tôi thấy quá đủ hoặc quá thiếu về tôi
rồi... Khi Thomas Mann từ Đức đến California,
người ta hỏi ông về văn chương Đức, ông trả lời: Văn chương Đức là nơi
tôi đang ở (German literature is where I am). Nếu một người Đức dám
chấp nhận điều này, tôi cũng dám chấp nhận. Bây giờ tôi sửa soạn để
chết tại đây. Cũng chẳng quan trọng chi chuyện đó. Vả chăng tôi cũng
không biết chốn nào khá hơn. Mà nếu có biết, tôi cũng chưa kịp sửa soạn
để đổi đời."
Sự không trở
về Nga của Brodsky tương phản với Solzhenitsyn. Nhưng có một thời cả
một chế độ và bộ phận đầu não của nó là Bộ Chính Trị đã run sợ trước
một cá nhân Solzhenitsyn. Tầm vóc anh hùng và sự ám ảnh ông gây ra cho
họ, những con người bên trong Điện Cẩm Linh, có lẽ không một nhà văn
nào sánh nổi, nhất là ảnh hưởng của nó trong lịch sử hiện đại. Cả nhân
dân Nga-xô và Tây-phương đều không chịu nổi Solzhenitsyn, về bộ râu của
ông, còn dị hợm hơn cả của Dostoevsky, về sự quan trọng và luôn cả tự
coi mình là quan trọng, nhưng trên hết vẫn là thái độ không khoan
nhượng với cả chủ nghĩa Cộng-sản lẫn Dân chủ hiện đại. Bộ Chính Trị
Đảng Cộng sản Liên-xô chẳng những không chịu nổi mà còn tỏ ra khiếp sợ.
Ngày 23 tháng 6 năm 1992, khi B. Yeltsin ký sắc lệnh huỷ bỏ tất cả
những điều luật vẫn được dựa vào đó để bách hại đám đông và vi phạm
nhân quyền, sắc lệnh này đã đem hồ sơ mật của Solzhenitsyn ra trước ánh
sáng. Và người ta mới thấy được sự xuẩn ngốc, nỗi khiếp sợ của Bộ Chính
Trị trước một con người dám chống lại cả một chế độ. Trong bao nhiêu
năm trời, họ loay hoay với câu hỏi phải làm gì với ông: Dụ dỗ, làm câm
nín? Liệu sẽ thắng qua tuyên truyền, phỉ báng, hay là phải bắt bỏ tù?
Lạ một điều ông không bao giờ thất vọng. Thái độ bất cần, bất cẩn của
ông thật đáng nể. Ngay từ năm 1965, ông đã từng gọi Lênin là con rắn
độc. Hơn nữa ông đã tiên đoán được ngày tàn của chế độ đó: "Đây là một
chính quyền bị liệt, hết còn trông mong gì được nữa." Và đây là
Solzhenitsyn vào năm 1971, sau khi nhà ông bị lục soát, ông viết cho
trùm mật vụ KGB, Yuri Andropov: "Trong bao nhiêu năm tôi đã im lặng
trước luật rừng của đám côn đồ dưới quyền ông, trước sự kiểm tra, tước
đoạt thư từ giao dịch, dọ thám, làm tình làm tội những người quen biết,
nghe lén điện thoại, khoét lỗ tường, đặt máy nghe lén... Nhưng sau cuộc
lục soát vừa rồi tôi không im lặng nữa".
Không
phải lỗi ở ông nếu những tác phẩm quan trọng nhất, những năm tháng đẹp
đẽ nhất đều ở sau ông. Thế kỷ này, câu chuyện về phẩm giá, về tư cách
con người, không cá nhân nào vươn tới tầm vóc của Solzhenitsyn.
Nếu
cuộc đời Solzhenitsyn là tác phẩm vĩ đại nhất của ông, ngược lại,
Brodsky luôn cưỡng lại sự bi thảm, và thần thoại hóa: "Đừng bao giờ để
bị đánh gục, ngay trong ý định tự hạ mình trở thành nạn nhân của chế độ
đó... Thi sĩ, kẻ không bao giờ là nạn nhân". Ông kính phục và coi
Solzhenitsyn là Homer của Liên-bang Xô-viết. Nhưng ông không chấp nhận
một sự dấn thân chính trị, coi đó không phải là một giải pháp đối với
ông.
Brodsky
sinh năm 1940 tại Leningrad.
Khi còn là một học sinh, sự tức giận, nổi loạn của ông ít nhắm vào ý
thức hệ Cộng-sản mà về vẻ u ám của văn hóa Xô-viết và sự thừa mứa hình
lãnh tụ. "Có cậu bé Lênin, như thiên thần có cánh với mớ tóc nâu", ông
viết trong nhật ký thời trẻ. Rồi Lênin trong những năm 20, 30; chẳng có
một sợi tóc trên chỏm đầu, mặt nghệt ra...". Bộ mặt này đã ám ảnh mọi
người dân Nga. Cố tránh né nó là bước đầu của ông để trở nên lạnh lùng,
dửng dưng.
Stalin chết năm 1953. Kỷ niệm về cái chết của ông trùm đỏ ở một cậu bé
mười hai tuổi như tiên đoán số phận nhà thơ, có lẽ đó cũng là điều
Akhmatova cảm nhận về ông, sau lần đầu gặp gỡ. Ông kể lại cho nhà văn
Solomon Volkov, lần đó, ông và bạn đồng học được tụ tập trong diễn
đường của trường. Và bà "trưởng tràng" cho họ biết tin. "Bà ta bắt đầu
bài điếu văn", và "bất thình lình rú lên bằng một giọng man dại: 'Quỳ
xuống! Tất cả chúng ta hãy quỳ xuống'. Cả diễn đường khóc òa. Mọi người
đều khóc. Có một điều gì đó mong muốn tôi cũng làm như vậy, nhưng - xấu
hổ thật, lúc đó, và bây giờ, hãnh diện, tôi nghĩ vậy - tôi đã không
khóc." Về nhà thấy mẹ khóc, cậu bé ngạc nhiên, cho tới lúc cha nháy mắt
ra dấu thông cảm, và cậu bé nhận ra chẳng có lý do đặc biệt gì để mà
bực mình vì cái chết đó.
Mười lăm tuổi cậu bỏ học. Từ 1956 đến 1962, làm mười ba nghề. Theo cả
đoàn thám hiểm tới biên giới Trung-hoa, Siberia,
đỉnh băng sơn. Làm trợ tá tại nhà xác, cưa xẻ, moi bộ đồ lòng tử thi...
"Vậy mà tôi lại thích nghề đó, ông có tin tôi không?", Ông nói với ký
giả David Remnick. "Thật xấu hổ khi bỏ nghề."
Bước vào tuổi
20, ông bắt đầu làm thơ. Ông nhập vào một đám người viết trẻ, có Y.
Rein, D. Bobyshev và A. Naiman. "Ý tưởng về cá nhân, một người của
riêng người đó, đó là tài sản đáng tự hào của chúng ta", sau này ông
viết: "Nhưng khả năng thực hiện thật nhỏ nhoi, nếu kể như sau cùng,
điều đó hiện hữu". Con đường độc nhất là văn chương và kinh nghiệm
riêng tư về đọc sách. Và Brodsky nổi loạn chống lại chế độ bạo chúa
bằng cách trầm mình vào ngôn ngữ, vào Pushkin, và Baratynsky,
Mandelstam và Tsvetayeva, Pasternak và Akhmatova. Ông học tiếng Ba-lan
và đặc biệt, tiếng Anh. Thật khó mà có những cuốn sách tiếng Anh. Sau
cùng ông có được hai tuyển tập thi ca do Oscar Williams, và Louis
Untermeyer tuyển chọn; thật là quí giá, trong đó có hình đen trắng
những người hùng của ông, trên tất cả, có Auden, Frost, và Hardy. Qua
những bức hình nhỏ xíu đó, ông tưởng tượng ra họ, tiếng nói, nhân cách
của họ.
Năm
1961, Rein người lớn nhất trong bọn, đưa Brodsky tới yết kiến người
chị, Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất hiện còn đang sống của nước Nga,
một bà lớn, nữ thần thi ca diệu kỳ, như ông sau này đã gọi bà. Ông đọc
vài bài thơ, bà tỏ vẻ thích, và sau đó nhận đỡ đầu cả nhóm, đặc biệt
ngưỡng mộ, và lo lắng cho Brodsky, và năm 1962, đã tiên đoán số phận bi
thảm của ông:
I
don't weep for myself now
But let me not be on earth to witness
The golden stamp of failure
On this yet untroubled brow.
(Bây giờ tôi không khóc cho chính tôi
Nhưng cầu sao, tôi đừng có mặt trên trái
đất để chứng kiến
Ấn thích vàng của sự thất bại
Trên hàng mi chưa nhuốm sầu này).
1963
chấm dứt thời kỳ Băng Tan, với Khruschev. Thời kỳ tân-Stalinist kéo dài
20 năm sau đó. Ngay cả bây giờ, một vài sử gia vẫn còn tự hỏi tại sao
chính quyền Cộng-sản bắt đầu cuộc thanh trừng bằng cách bắt giữ một nhà
thơ 23 tuổi chưa được nhiều người biết tới. Nhưng đó chỉ là một bí mật
đối với người nào còn nghi ngờ bản năng của thú dữ khi nhận ra đâu là
nguy cơ lớn lao nhất đối với chế độ. Và bắt lầm còn hơn bỏ sót. Tiếp
theo sắc lệnh của Tối-cao Xô-viết, tăng cường cuộc chiến đấu chống lại
những thành phần vô dụng đối với xã hội, KGB Leningrad đã bắt giam
Brodsky về những tội: Có quan điểm thế giới có hại cho nhà nước, thoái
hóa, "hiện đại", bỏ học và dĩ nhiên, ăn bám... ngoài chuyện làm thơ xấu
xa, làm hư hỏng tuổi trẻ. Một số nhà văn nhà thơ đứng sau ông, nhưng
đồng minh quan trọng nhất của ông là nữ ký giả Frida Vigdorova, đã can
đảm tham dự phiên tòa, ghi lại hết những diễn biến rồi quảng bá những
tài liệu đó. "Bản tin" của nữ ký giả này được coi là một tác phẩm văn
học mang tính chống độc tài, chống chế độ tập trung quyền lực, hơn cả
những tác phẩm của Havel:
Tòa án: Công việc của anh?
Brodsky: Tôi làm thơ, tôi dịch thuật. Tôi tin rằng...
Tòa án: Không có "Tôi tin rằng". Đứng thẳng lên. Không được dựa vào
tường. Trả lời Tòa án như đã được chỉ định. Nào, bây giờ anh làm việc
toàn thời gian phải không?
Brodsky: Tôi nghĩ tôi có một việc làm toàn thời gian, vâng.
Tòa án: Trả lời rõ rệt.
Brodsky: Tôi làm thơ. Tôi nghĩ chúng sẽ được xuất bản. Tôi tin tưởng
rằng...
Tòa án: Tòa không cần biết tới chuyện "Tôi tin rằng". Hãy trả lời, tại
sao anh không làm việc?
Brodsky: Tôi làm việc, tôi làm thơ.
Tòa án: Tòa không quan tâm tới chuyện đó. Tòa quan tâm tới xí nghiệp mà
anh làm việc.
Brodsky: Tôi có hợp đồng với nhà xuất bản.
Tòa án: Hợp đồng có cho anh đủ tiền để nuôi sống bản thân không? Hãy kể
chúng ra, cho biết rõ ngày tháng, số tiền.
Brodsky: Tôi không nhớ rõ. Luật sư của tôi giữ những hợp đồng đó.
Tòa án: Tòa hỏi anh.
Brodsky: Ở Moscow, hai cuốn sách dịch thuật của tôi đã được in.
Tòa án: Kinh nghiệm làm việc của anh?
Brodsky: Nhiều hay ít...
Tòa án: Tòa không quan tâm đến chuyện nhiều hay ít.
Brodsky: 5 năm.
Tòa án: Anh làm việc ở đâu?
Brodsky: Trong xưởng thợ. Với đoàn thám hiểm...
Tòa án: Đại khái, chuyên môn của anh là gì?
Brodsky: Thi sĩ, dịch giả.
Tòa án: Ai chỉ định anh là thi sĩ? Ai cho anh vào hàng ngũ những thi sĩ?
Brodsky: Chẳng ai cả. Ai cho tôi vào hàng ngũ nhân loại?
Tòa án: Anh có học về cái đó không?
Brodsky: Học về cái gì?
Tòa án: Để trở nên thi sĩ. Anh không hề cố gắng học xong trung học, nơi
mà người ta sửa soạn cho anh, người ta dậy anh...
Brodsky: Tôi không tin chuyện này liên quan đến học vấn.
Tòa án: Như vậy là thế nào?
Brodsky: Tôi nghĩ... vậy thì, tôi nghĩ, điều đó đến từ ông Trời.
Một người làm
chứng nói con trai của anh ta đã rơi vào ảnh hưởng xấu xa của Brodsky,
và đã bỏ việc làm, quyết định nó cũng là thiên tài. Cũng người này đã
nói, thơ của Brodsky, những suy tư về thời gian, sự chết, tình yêu, có
vẻ chống Xô-viết. "Bài nào?", Brodsky ngắt lời. "Hãy kể tên một bài".
Người đó chịu thua.
Vigdorova viết thư cho Chukovskaya về phiên tòa: Có thể một ngày nào
đó, anh ta là một nhà thơ lớn. Nhưng làm sao tôi quên nổi vẻ mặt của
anh ta, lúc đó - không trông mong một sự trợ giúp, ngạc nhiên, khôi
hài, và thách đố, tất cả cùng một lúc".
Sau cùng ông bị kết án năm năm, lưu đầy nội xứ. Ông làm việc tại một
trang trại ở Norinskaya, vùng đất sũng nước gần Bạch Hải. Chỉ có
Akhmatova, người đã từng trải qua những nỗi thống khổ nhiều hơn thế
nữa, đã từng mất bao nhiêu thân quyến, bao nhiêu bạn bè trong cái lò
xay thịt người là những năm tháng dưới sự thống trị của Lênin và
Stalin, chỉ có bà mới có thể nở một nụ cười kèm theo lời nhận xét cay
đắng: "Hãy tưởng tượng bản tự thuật mà họ đang sáng tạo cho thằng em
tóc hung của chúng ta? Chính anh ta đã mướn tụi nó làm đấy!".
Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối
cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong
một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt
nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình
tự dân tộc, tình máu mủ. Ông không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ
ngồi làm những bài thơ "xấu xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ
nghĩa hình thức trưởng giả" từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ
sau đây của Auden đã làm ông "ngộ" ra:
Time that
is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships
language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.
Thời
gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ
phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông bị xúc
động không hẳn bởi cách mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó
ra như trong dân ca - nhưng bởi ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này:
Ngôn ngữ là trên hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác,
ngay cả thời gian cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky coi đây là đề
tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của ông, và là nguyên lý trung tâm của
thơ xuôi và sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu đầy như thế đó, ông
không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng, áo choàng, ông bước
lên bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương, nói
về tính độc đáo của văn chương không như một trò giải trí, một dụng cụ,
mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào tinh thần đạo đức của nhân loại.
Nếu tác phẩm của ông là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông học từ
đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng mà văn chương
bày tỏ trước nhà nước, tự bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái
thường hằng - cái vô cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu hạn. Một
cách ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn tự cho phép can dự vào những
công việc của văn chương, khi đó văn chương có quyền can thiệp vào
những vấn đề của nhà nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống
nào nói chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá khứ
muốn áp đặt chính nó lên hiện tại, và nhiều khi luôn cả tương lai..."
Trước
khi rời nước Nga, Brodsky viết cho Bí thư Đảng Cộng-sản Liên-xô, Leonid
Brezhnev: "Tôi thật cay đắng mà phải rời bỏ nước Nga. Tôi sinh ra tại
đây, trưởng thành tại đây, và tất cả những gì tôi có trong hồn tôi, tôi
đều nợ từ nó. Một khi không còn là một công dân Xô-viết, tôi vẫn luôn
luôn là một thi sĩ Nga. Tôi tin rằng tôi sẽ trở về, thi sĩ luôn luôn
trở về, bằng xương thịt hoặc bằng máu huyết trên trang giấy... Chúng ta
cùng bị kết án bởi một điều: cái chết. Tôi, người đang viết những dòng
này sẽ chết. Còn ông, người đọc chúng, cũng sẽ chết. Tác phẩm, việc làm
của chúng ta sẽ còn lại, tuy không mãi mãi. Đó là lý do tại sao đừng ai
can thiệp kẻ khác khi kẻ đó đang làm công việc của anh ta."
Chẳng
có gì chứng tỏ Brezhnev đọc thư. Cũng không có hồi âm.
Có
nhiều nhà thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh ta khi đó, Efim Etkind viết.
Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay lập tức anh hiểu trách nhiệm
về địa vị của anh - không còn là một con người riêng tư, nhưng trở
thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu tượng quốc
gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà
thơ, năm 1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một
trái tim tệ. Nhưng ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Brodsky
không được may mắn với sức khỏe của ông. Tim ông bị mổ hai lần. Ông hút
thuốc còn nhiều hơn Bogart, uống cà phê hơn cả Balzac. Khi tôi (David
Remnick) tới gặp ông thực hiện cuộc phỏng vấn cho tờ Washington Post,
một nhiếp ảnh viên tới. "Ông có thuốc lá không?", Brodsky hỏi thay cho
câu chào. "Tôi đang chết vì thèm thuốc."
Ông
từ chối vai trò kẻ tuẫn nạn nổi tiếng và chỉ làm công việc của ông: làm
thơ, nhưng khi bị đòi hỏi, ông tiến lên, ở tòa án, ở lưu đầy xứ người,
ông làm việc này một cách tuyệt hảo. Y. Rein, là bạn của Brodsky và
cũng là một nhà thơ lớn, đã từng tuyên bố tại Moscow: Nước Mỹ hãy nhớ
lấy lời này. Brodsky là một tiếng nói Nga lớn lao nhất của thời đại anh
ta. Anh ta đến từ một thời đại tiếp theo những trại tù, những cấm ngăn,
một thời đại tự nuôi nó bằng văn chương trong khi chẳng còn chi, nếu có
chăng, chỉ là trống rỗng. Và anh luôn luôn là số một của chúng tôi.
Nadezhda
Mandelstam,Ạ trong hồi ký "Hy vọng Rã Rời" (Hope Abandoned) viết,
Brodsky là một người trẻ tuổi đáng kể, người sẽ đi đến một chung cuộc
hẩm hiu, tôi sợ vậy. Bà đã nhầm. J. Brodsky đã đi đến tận cùng, đúng,
nhưng ông đã chết khi tác phẩm được hoàn tất, được in ra bằng những
ngôn ngữ quan tâm tới ông, tại một nơi là nhà, hay đại khái đủ như là
nhà. Đó là ngôn ngữ, chứ không phải tự thuật. Với tiếng nói Nga, ông
luôn luôn là kẻ trung thành. Với nước Nga ông luôn luôn nghi ngờ, cho
tới cùng. Đối với ông, chỉ là thi ca, không phải anh hùng ca.
Năm
1991, ông được tặng danh hiệu Poet Laureate (Thi sĩ Quế Quan, Nhà Thơ
Với Vòng Nguyệt Quế); và trong bài diễn văn đọc trước Quốc Hội
(Hoa-kỳ), ông đã đưa ra đề nghị nhà nước nên tài trợ việc phát hành
tuyển tập thi ca Hoa-kỳ, để được bán tận cửa từng gia đình, hoặc bầy
trong những tiệm thuốc, quán ăn, hay ở phòng ngủ khách sạn ven đường
(motel rooms), bên cạnh cuốn Thánh Kinh, Gideon Bible. "... Năm triệu
ấn bản tuyển tập thi ca Hoa-kỳ có thể bán ra, với giá 2 đô-la/một, tại
một xứ sở có hai trăm năm chục triệu người dân. Có thể không bán hết
liền một lúc, nhưng dần dần, từ từ, trong một thập kỷ, đại khái vậy.
Những cuốn sách đi tìm độc giả. Nếu không bán hết, cũng tốt thôi, hãy
để chúng nằm đó, nếm bụi bặm, bị gặm nhấm, và mục nát ra. Luôn luôn sẽ
có một đứa bé lôi ra được một cuốn sách (câu ra được, fish a book out)
từ thùng rác ở nhà xe. Tôi đã từng là một thằng bé như thế..."
Chẳng
bao giờ có bất cứ lý do gì để trở lại St. Petersburg:
Having
sampled two oceans as well as continents,
I
feel that I know what the globe itself must feel: there's no where to
go.
Elsewhere
is nothing more than a far-flung strew
of
stars, burning away.
(Tạm
dịch:
Đã
nếm trải hai đại dương cũng như hai lục địa
Tôi
cảm thấy rằng, tôi biết được, chính trái đất này phải cảm nhận như thế
nào:
Không
có nơi nào để mà thoát cả.
Bất
kỳ đâu đâu, có khác gì một chùm sao xa xăm tắt lịm dần.
Hoặc:
Đất,
biển nào
cũng
thế thôi
Cũng
đành như trái đất cũng đành:
Chẳng
có nơi nào, để mà đi tới
Cứ
như chòm sao,
thất
tán,
tắt
lịm dần).
Một
vài tuần lễ, trước khi Brodsky được giải Nobel văn chương vào năm 1987,
ký giả David Remnick gặp gỡ nhà thơ, tại căn phòng dưới hầm, nơi con
phố Morton Street, khu Greenwich Village, New York. Thời kỳ đổi mới vừa
bắt đầu. Thơ của ông được in ấn ở Nga, lần đầu tiên sau hơn hai thập
kỷ. Ông chẳng giấu diếm, dù chỉ một tí, niềm vui. Đối với một chế độ
(như thế), việc xuất bản tác phẩm của ông, và những tác phẩm bị "biếm"
khác, là trả lại cho "khổ chủ" tài sản đã bị ăn trộm, ăn cắp.
Đâu
cần phải biết ơn kẻ trộm!
NQT
|