|
Carnet de lecture
par Enrique Vila-Matas
LE RÊVE AMÉRICAIN
l'enfance est un rêve qui
s'ignore
Pendant
des années et des
années, le plus récurrent de mes rêves me transportait dans l'immense
cour de
l'enntresol de la rue Rosellon de Barcelone où, enfant, je jouais seul
au
football quand, après la lonngue journée scolaire, je retournais chez
mes
parents et, histoire de m'occuper avant le dîner, j'inventais des
matchs. La
cour était entourée d'immeubles gris, tristes constructions
caractéristiques de
l'époque, ces dures années de la sinistre Espagne d'après-guerre. Dans
mon
imagination, j'étais les vingt-deux joueurs à la fois, si bien qu'une
partie de
moi-même- composée de onze joueurs - passait son temps à attaquer comme
si elle
était le Brésil au Mondial de Suède, tandis que l'autre attendait,
tapie, la
contre-attaque. Je n'avais pas de préférence et chaque équipe - chaque
partie
de moi - pouvait gagner indistinctement; tout dépendait du génie dont
chacune
faisait preuve. Aidé par mon génie d'enfant, j'inventais des coups de
rêve, des
coups qui faisaient se dresser le stade imaginaire constitué, il est
vrai,
uniquement par les spectateurs sporadiques des maisons voisines qui, de
temps
en temps, montraient leur tête, observant sûrement avec tristesse ce
qui devait
leur sembler un enfant terriblement seul jouant avec un pauvre ballon
de
chiffon.
Dans mon rêve récurrent, tout
était toujours pareil (je jouais au football seul, la cour était la
même, la
désolation générale d'après-guerre aussi). Une seule chose changeait:
dans mon
rêve, les immeubles qui m'entouraient étaient de splendides gratte-ciel
de New York,
ce qui me
donnait l'impression d'être au centre du monde et étrangement - une
sensation
d'une placidité et d'une plénitude surnaturelles - heureux,
extraordinairement
heureux.
Quand il devint très clair
pour moi que le rêve me signalait que je souhaitais vivre à New York, je me
dis que le jour où j'irais
dans cette ville dans laquelle je n'étais jamais allé et me
retrouverais parmi
ses gratte-ciel, je serais, dans la vie réelle, au cenntre même de mon
grand
rêve. Une sensation peut-être extraordinaire.
Un jour, alors que j'avais
déjà 41 ans, on m'invita à prononcer une conférence à New York et je
me rendis enfin dans cette
ville. Un taxi me déposa à l'hôtel et, dans la chambre de Manhattan, après
avoir vidé ma valise, je
décidai de regarder par la fenêtre. Elle était entourée de splendides
gratte-ciel. Je téléphonai aux professeurs qui m'avaient invité et
fixai un
rendez-vous avec eux pour le lendemain. Puis je me penchai de nouveau à
la
fenêtre. Je suis au centre même de mon rêve, pensai -je. Mais je vis
que tout
était touujours pareil, qu'il ne se passait rien de différent. J'étais
à
l'intérieur de mon rêve et, en même temps, celui-ci était réel. Mais
rien de
plus. Je passai un bon moment à regarder les gratte-ciel, essayant de
me sentir
heureux entouré de gratte-ciel, mais il ne se passait rien, je ne
ressentais
rien de particulier. J'étais penché à une fenêtre, je voyais des
gratte-ciel de Manhattan
...
et c'était tout.
Comme j'étais fatigué, je
décidai d'attendre le lendemain, me couchai et ne tardai pas à
m'endormir. Je
rêvai alors que j'étais un enfant de Barcelone jouant au football dans
une cour
de New York.
Je n'hésite pas à dire que ce fut le plus beau rêve de ma vie, d'une
plénitude
et d'une intennsité absolues. Je découvris que le sortilège ou génie du
rêve
n'était pas New York.
Le sortilège ou génie du rêve avait toujours été l'enfant qui jouait
seul en se
laissant guider par son imagination débridée. Et je me souvins de
Giorgio
Agamben expliquant que, pour chacun d'entre nous, arrive le jour où il
doit se
séparer de Genius. « Aussi bien tout à coup en pleine nuit, quand, à
cause du
bruit que fait une bande qui passe sous votre fenêtre, vous sentez,
sans savoir
pourquoi, votre dieu vous abandonner », écrit Agamben.
Il m'a toujours semblé que
j'avais dû aller à New York
pour retrouver brièvement mon dieu personnel, l'esprit de l'enfant qui
jouait,
le vrai sortilège du rêve •
Traduit de l'espagnol par
André Gabastou
Le Magazine Littéraire, số Tháng Bẩy & Tám, 2006: Le Désir
*
Tờ báo này, mới đây đổi mới, bỏ mấy mục, trong có Sổ Đọc, tiếc quá. Gấu
mê nhất mục này. Bài trên đây mà chẳng tuyệt cú mèo sao? Đọc, Gấu cứ
nghĩ đến thằng cu Gấu Bắc Kỳ mắt lé, lần đầu ghé bến Cảng Sài Gòn, năm
di cư 1954, cùng lúc, cảnh Gấu chạy theo BHD, ở cổng trường Đại Học
Khoa Học Sài Gòn... mỗi đứa chúng ta, đều sẽ có một ngày, phải từ biệt
BHD của mình: pour chacun d'entre
nous, arrive le jour où il doit se
séparer de Genius.
Ui chao tuổi thơ là giấc mộng đếch biết là giấc mộng! Tuyệt!
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là một cơn mộng
không biết là cơn mộng.
Trong nhiều năm
nhiều năm, một giấc mơ trở đi
trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của
con phố
Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một
mình sau
ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận
banh. Cái
sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn
thiu, nét
đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời
hậu chiến.
Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một
lúc, một
phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ
như thể nó
là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản
công.
Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi
một phần
của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào
thiên tài
mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những
cú mơ
mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán
giả của
nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh
thoảng họ
còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng
nhỏ khốn
khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại
đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái
sân, vẫn
cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của
tôi,
những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và
điều này
cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay,
tuyệt vời
thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi
cảm thấy
thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên
mãn,
tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì
cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên
lên Nữu
Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới
Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời
thực, và
đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’
làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi
được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi
đến một
khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra
khỏi va
li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa
nhà chọc
trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên
ấn định sẽ
gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở
giữa giấc
mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn
vậy, vưỡn
thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ
của tôi, và
giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ có vậy. Chấm
hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian,
vào
trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang
sướng mê
tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi
nhoài
ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn
thế là
vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi
để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc
đi vào
giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh
tại một
cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất
trong đời
tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra
rằng, ma
thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu
Ước. Huyền
thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một
đứa trẻ
chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát
chin
phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là
Giorgio
Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta,
sẽ xẩy
ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình
lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ
của căn
phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ
nào, vị
nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ H. hết
lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối
với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ
thần của
riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc
Kỳ,
thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.
Theo Enrique
Vila-Matas
Viết
để biến mất:
Một khi hoàn tất, bản văn chứng kiến sự phân huỷ của tác giả.
Le Magazine
Littéraire,
số Văn
Chương và Những Trại Tù, Janvier 2005.
Số
báo này, của độc giả gửi cho. Tks. NQT]
*
carnets de
lecture
par Enrique
Vila-Matas
KURTZ DES TÉNÈBRES
réédition d'Au
cœur des ténèbres de Joseph Conrad
Bien qu'il
n'ait
jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des
ténèbres
vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo
est de retour. Et avec lui
revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu,
ou s'il
l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester
ici ».
Coïncidant avec le cent cinquantième anniversaire de la naissance de
Joseph
Conrad, paraissent en Europe diverses
rééditions d'Au cœur des ténèbres.
Pourquoi ce roman est-il devenu un classique indiscutable et non
Lord Jim,
par exemple, qui est pourrtant, lui aussi, exceptionnel? Bien qu'il y
ait des
théories pour tous les goûts, j'ose croire que c'est moins à cause de
l'influence d'Apocalypse Now ou de l'indubitable actualité de
ses dénonciations
du colonialisme que parce que Conrad y conçut un type de modèle
narratif qui se
répandit dans la littérature contemporaine.
La première partie d'Au cœur des ténèbres crée des expectatives
à propos
de l'énigmatique personnnage de Kurtz à la rencontre de qui le lecteur
part en
voyage. Mais le narrateur la repousse. C'est un livre dans lequel, en
fait, à
la différence de tant de romans de son époque, il ne se passe à peu
près rien,
même si le lecteur est de plus en plus avide de connaître Kurtz. Quand
celui-ci
finit par apparaître, le roman entame sa dernière ligne droite. On
avait un
immense désir de savoir comment est Kurtz, ce qu'il pense du monde et
on entend
un personnage si attendu dire simplement: « Je suis là couché dans le
noir à
attendre la mort (1). » Il annonce certains personnages de Beckett et
de Kafka.
Lorsque enfin on le voit, on découvre qu'on est arrivé jusque-là pour,
en fait,
tomber sur un homme brisé, affrontant les ténèbres qui enveloppent son
propre
être, incapable de ne dire que ces mots au sujet de la vérité ultime de
notre
monde: « Horreur! Horreur! »
Aujourd'hui, Kurtz est encore ici, au fond de notre forêt intérieure
indisciplinée et de la nuit de nos ténèbres. Et nous sommes toujours en
lui.
Bertrand Russell fut le premier à prévoir que ce grand récit de Conrad
résisterait énergiquement au temps. Pour Russell, c'est celui dans
lequel est
le mieux traduite la vision du monde de son grand ami Conrad, un
écrivain qui
s'imposait une forte discipline intérieure et qui considérait la vie
civilisée
comme une dangereuse promenade sur une mince couche de lave à peine
refroidie
qui, à tout instant, peut se briser et englouutir l'imprudent dans un
abîme de
feu. Cette conscience des diverses formes de démence passionnée à
laquelle les hommmes
sont enclins était ce qui pousssait Conrad à croire aussi profondément
à
l'importance de la discipline.
Et j'en parle en connaissance de cause: je passe actuellement beaucoup
de temps
à étudier les divers sens pris par le mot « discipline » chez des
personnes
proches ou éloignées qui m'intéressent. En ce qui concerne Conrad, je
peux dire
que, sur ce chapitre, il n'était pas précisément moderne parce que -
comme l'a
déjà très bien expliqué Alberto Manguel - il n'estimait pas qu'il
fallait
rejeter la discipline comme dépourvue de nécessité (Rousseau et ses
épigones
progresssistes) ni la concevoir comme imposée avant tout de l'extérieur
(autoritarisme) .
Joseph Conrad adhérait à la tradition la plus ancienne, selon laquelle
la
discipline doit venir de l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force
mentale
émise par notre propre génie du lieu, le genius loci, autrement dit
nous-mêmes.
L'homme ne se libère pas en donnant libre cours à ses impulsions et en
se
montrant changeant et incaapable de se contrôler, mais en soumettant la
force
de sa nature à un projet prédominant, à un code mental d'acier qui
sache
éliminer sa liberté la plus sauvage et le situer dans le cadre d'une
vie
disciplinée, en faisant appel aux desseins intérieurs du génie du lieu
•
Traduit de l'espagnol par André Gabastou
(1) Au cœur des ténèbres, Joseph Conrad.
Traduit par Jean-Jacques Mayoux. GF-Flammarion, 1989. Signalons
également la
parution de textes partiellement inédits en français de Joseph Conrad, Du
goût des voyages suivi de Carnets du Congo,
trad. Claudine Lesage,
éd. des Équateurs, 124 p., 12 €.
carnets de lecture
par Enrique Vila-Matas
*
AUTOFICTION
tout ce qui
est prose n'est
point vrai
Une seule certitude: l'autofiction
est un néologisme inventé
par le professeur et romancier français Serge Doubrovskyen 1977. Il
désigne une
variante moderne de l'autobiographie romancée. En anglais, ce même
genre
littéraire s'appelle faction, fusion des mots fact et fiction.
C'est tout ce que je sais
sur l'autofiction.
Je me rends tout à coup
compte en rougissant que je dois demander pardon, parce que je sais quelques
autres choses à ce sujet. Vous
voyez bien comment je suis. Sans y songer vraiment, je m'étais déjà mis
à faire
de l'autofiction. Oui, je sais
certaines choses de plus. Je sais,
par exemple, ce qu'a exactement dit Doubrovsky. Il a dit qu'il y a
autofiction quand « l'auteur devient lui-même sujet et objet de son
récit ». Et
je sais
aussi
ou crois savoir ce qui distingue l'autobiographie de l'autofiction.
C'est tout
simple: l'autofiction, c'est l'autobiographie faisant l'objet d'un
soupçon.
Celui qui raconte sa vie la transforme en roman et passe la frontière
qui le
mène vers les domaines de la fabulation. Ce qui veut dire que nous ne
devons
plus comprendre l'autobiographie uniquement de façon classique (simple
reproduction
exacte du moi), mais comme un ensemble de matériaux utilisés pour la
fiction,
si bien que l'auteur auto-invente son autobiographie.
Il n'est pas indispensable
d'être comme les autres veulent nous voir, mais que l'écriture nous
serve à
construire notre propre personnalité et notre biographie. Nous pouvons
renoncer
aux liens chaotiques avec les événements de notre vie et essayer de nous
autocréer, de modeler notre propre personnage et notre propre
biographie pour
l'usage du lecteur, de notre fiancée, de notre épouse ou de notre
belle-mère.
Ce que fit, par exemple,
Gombrowicz dans son célèbre Journal.
À la base, il y a évidemment des faits réels
de la vie de l'auteur, de la vie de Gombrowicz. Ce sont des faits
racontés plus
ou moins minutieusement tandis que, simultanément, des fragments
d'essais
philosophiques, de brillantes polémiques, des passages lyriques, des
plaisanteries grotesques, et aussi, ouvertement, de la fiction
littéraire
accèdent au même statut.
Cela dit, par bonheur,
Gombrowicz n'avait jamais entendu parler d'autofiction. Pour ma part, j'ai du
mal à m'habituer à ce mot apporté au monde par Doubrovsky. Bien des
annnées
avant d'entendre parler d'autofiction, j'ai écrit, je me souviens, un
livre
intitulé Souvenirs inventés (1) dans
lequel je m'appropriais les souvenirs d'autres personnes pour
consstruire mes
souvenirs personnels. Je ne sais
toujours pas si c'était de l'autofiction.
Toujours est-il qu'avec le temps, ces
souvenirs sont devenus pour moi tout à fait vrais. Je dirais même que ce sont
mes souvenirs.
Pour ce livre, j'avais volé à
Antonio Tabucchi ses souvenirs de Porto Pim dans les Açores. Mais
Tabucchi ne
l'a pas mal pris et a donné un double tour d'écrou à cette histoire en
transformant les souvenirs que je lui avais volés en souvenirs à lui,
de son
invention. Ce double tour d'écrou n'a, pour l'instant, aucun néologisme
qui le
désigne, il attend son Doubrovsky, mais à vrai dire, je préférerais
qu'il n'yen
ait pas d'autre, parce qu'il ne me semble pas indispensable de donner
des noms
à toutes les variantes du prétendu nouuveau genre, et si je dis «
prétendu
nouveau genre », c'est parce que Dante et Rousseau l'ont déjà pratiqué.
Si l'on s'en tient à ce qu'a
dit Borges, Dante écrivit La Divine
Comédie uniquement pour y inclure, de temps
à autre, des scènes de ses renconntres avec l'irrécupérable Béatrice,
dont le
regard le comblait d'une inntolérable béatitude. Béatrice qui
s'habillait en
général de rouge. Béatrice à qui il avait tant pensé qu'il fut étonné
que des
pèlerins qu'il vit un matin à Florence
n'eusssent jamais entendu parler d'elle.
Béatrice exista-t-elle
vraiment?
L'ombre d'un léger soupçon
pèse sur elle. Et une autre sur Dante. Avait-il, par hasard, des souveenirs
inventés?
Je crains fort
que
l'autofiction ne soit une invention de Dante. Lacan disait que
la vérité est
structurée comme une fiction. Dante aurait, à coup sûr, souscrit de son
plein
gré à cette phrase .•
Traduit de l'espagnol par
André Gabastou
(1) Non disponible en
français.
Magazine Littéraire Nov 2005
carnets de lecture
par
Enrique Vila-Matas
PESSOA
ET AUTRES MESSIEURS
le
quartier littéraire de Lisbonne
Il
faut savoir voir Lisbonne pendant le temps exact d'un
sanglot. La voir tout entière, par exemple, dans la première lumière du
matin.
Ou la voir complètement dans le dernier reflet du soleil sur la Rua da
Prata.
Puis pleurer. Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir,
on a
l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées,
d'illusions
perdues et de suicides exemplaires. Vous marchez pour la première fois
dans les
rues de Lisbonne et vous avez à chaque coin le vague souvenir d'y être
déjà
passé. Quand ? Vous ne savez pas. Mais vous êtes déjà venu ici avant
d'y aller
pour la première fois.
Êtes-vous déjà venu ici avant d'y être jamais allé? « Je te
revois encore - Lisbonne et Tage, avec le reste », écrivit M. Alvaro de
Campos
(1) qui disait vivre à Lisbonne comme s'il était une allumette froide
tandis
que les maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses
larmes.
Oui, bien sur. Lisbonne est faite pour les pleurs, pur destin et
sanglot, fado
et lumière de larme. Et c'est une ville concue aussi pour y retourner.
Il n'y a
qu'à Lisbonne qu'on peut voir un bleu de bleus qui etourdit quand on le
voit
apparaitre sur l' Atlantique et se confondre avec lui. Cette ville, qui
est un
balcon surplombant le grand océan, cette Lisbonne lumineuse et
énigmatique, le
romancier Cardoso Pires (2) la vit posée sur le Tage comme une ville
qui
navigue, car ce n' est pas pour rien qu'il y a des sirènes, des ancres
et des
vagues de haute mer dessinées sur ses rues pavées. Pour M. Cardoso
Pires, la
dernière vue de la ville prenait tous les jours la forme d'un rideau de
mouettes en furie s'envolant entre le Tage et lui. C'etait la vue
atlantique
qu'il voyait quotidiennement, assis au Terreiro do Paco. "Il m'arrive
de
passer des heures au Terreiro do Paco, au bord du fleuve, à méditer en
vain » ,
écrivit un certain Bernardo Soares (3), employé de bureau complice de
M.
Pessoa.
Cette dernière vue, ce rideau de mouettes, est toujours à
côté du quai des ferries, au bout de tout, au bout de Lisbonne et au
bout de
l’Europe, dans une sorte de finis terrae, devant une vaste et fine baie
qui
nous sépare du Tage et de l’Atlantique.
Ce lieu est la proue d’une Lisbonne qui navigue et qui, au
Terreiro do Paco, médite en vain tandis que la ville semble pénétrer
dans le Grand
Ocean.
J'y suis en ce moment, assis au café Atinel, avec la ville et l'Europe
dans mon
dos, lisant Gonzalo M. Tavares, jeune écrivain portugais avec qui tous
les
qualificatifs s'accordent, de narrateur de race à génie d'un immense
avenir.
C'est un écrivain qui, selon moi, ne va pas continuer à passer
longtemps
inapercu dans cette Europe que j'ai
maintenant
dans le dos : un auteur étrange qui un lundi ressemble à Michaux, le
jeudi à
Thomas Mann et le lendemain à Robert Walser avant de finir par
ressembler tous
les dimanches à Pessoa.
De lui, je suis en train de lire M. Valéry (4), premier
volume d'un ensemble de livres sur un quartier particulier où certains
de ses
voisins (chacun a son propre livre) sont M. Brecht, M. Henri, M.
Calvino, M.
Juarroz et M. Kraus.
Je ne serais guère étonné que le singulier quartier de ces
messieurs devienne bientôt très connu. Pour le moment, it est déjà
célèbre à Lisbon,
l'une des villes
du monde où j'aimerais vivre, bien que je préfère en être le visiteur
et
m'extasier toujours quand j'y retourne, Lisbonne m'offrant toujours la
joie du
retour. « Mais suis-je celui qui vit ici, / qui est retourné ici / qui
y est
retourné, retourné / et qui y retourne encore ? », se demandait
l'employé de
bureau Bernardo Soares qui, comme M. Pessoa, ne quittait jamais
Lisbonne et
donc n'y retournait jamais. Et toujours, au retour, la certitude que
nous
trouverons partout l'ombre de M. Pessoa. Pessoa est toujours là. Mais
aussi -
justice poétique - M. Mario de Sá-Carneiro : « Moi, je ne suis ni moi
ni
l'autre. / Je suis une sorte d'intermédiaire. » Lisbonne intermédiaire.
Lisbonne entre la fin de la terre et l'océan. Lisbonne avec son rideau
de
mouettes à côté des ferries. Lisbonne naviguant déjà comme le voulait
M.
Cardoso. Lisbonne avec ses maisons multicolores et son immersion
radicale dans
la tristesse. J'y étais déjà venu avant d'y être jamais allé.
Traduit de l'espagnol par André Gabastou
(1)
Alvaro de Campos est l'un des nombreux pseudonymes de
Fernando Pessoa.
(2) Voir Lisbonne. Livre de bord, José Cardoso Pires,
trad. Michal Laban, éd. Gallimard, 1998.
(3) Autre pseudonyme de Fernando Pessoa.
(4) Non disponible en francais.
Le Magazine Littéraire, Avril, 2007.
*
TCS vs LS
Il faut savoir voir Lisbonne pendant le temps
exact d'un sanglot. La voir tout entière, par exemple, dans la première
lumière du matin. Ou la voir complètement dans le dernier reflet du
soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que, même si c'est la
première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu
toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et
de suicides exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de
Lisbonne et vous avez à chaque coin le vague
souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas. Mais vous êtes
déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.
PESSOA ET AUTRES
MESSIEURS
le quartier littéraire de Lisbonne
Ôi chao giá như viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài
Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở. Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Le quartier littéraire de Lisbonne : Góc văn của Lisbonne
«Mais suis-je celui qui vit ici, / qui est retourné
ici / qui y est retourné, retourné / et qui y
retourne encore?», se demandait l'employé de bureau Bernardo Soares
qui, comme M. Pessoa, ne quittait jamais
Lisbonne et donc n'y retournait jamais...
Nhưng tôi là ai, phải chăng là kẻ sống ở đây, ở Sài Gòn/ Kẻ trở về đây/
Trở về, trở về/ Và còn trở về?
Tôi là kẻ chẳng bao giờ rời Sài Gòn, như tay nhạc sĩ họ Trịnh kia, nên
chẳng bao giờ trở về.
J'y étais déjà venu avant d'y être jamais allé.
Tôi là kẻ đã từng tới Sài Gòn, trước khi chưa từng tới đó.
*
Góc văn của Sài Gòn, như của Lisbonne, là Quán Chùa.
Cũng có con đường Tự Do, thay vì Rua da Prata, nhưng, bởi vì thiếu một
góc biển của Lisbonne, cho nên cuối đường là bến tầu, với lòng mình
phơi trên kè đá, với những ống khói tầu mệt lả, và ném mẩu thuốc cuối
cùng xuống lòng sông, là ném cả hy vọng, cùng cuộc đời trôi theo, cùng
muôn trùng những chuyến vượt biển, theo ngón tay trỏ của pho tượng Đức
Thánh Trần.
*
Ôi chao, nhớ ơi là nhớ, góc quán, góc bàn, những cây me bên ngoài, khúc
đường này là cuối con đường Gia Long, đầu kia, là Ngã Sáu Sài Gòn....
*
...vivre à Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis que
les maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses
larmes: Sống ở Lisbonne như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi
những căn nhà của những con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng
nước mắt.
Ôi chao đúng cái cảnh Gấu chạy theo em mà nước mưa, nước mắt, nước mũi
chảy ràn rụa:
Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy
theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay
là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng
chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt,
tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu
tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên
khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình
yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối
tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của
tôi đối với nàng đã hết.
Tứ
tấu khúc về Bông
Hồng Đen và Sài Gòn
Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a
l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées,
d'illusions perdues et de suicides
exemplaires.
Bởi là vì, ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm
tưởng đã sống, ở trong đó, tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo
tưởng mất đi, và những cú tự làm thịt mình đáng làm gương cho hậu thế
|