|
"Magnificent."
-Publishers Weekly
Brilliant and illuminating,
this astonishing debut novel by the award-winning writer Yiyun Li is
set in
China in the late 1970s, when Beijing was rocked by the Democratic Wall
Movement, an anti Communist groundswell designed to move China beyond
the dark
shadow of the Cultural Revolution toward a more enlightened and open
society.
In this powerful and beautiful story, we follow a group of people in a
small
town during this dramatic and harrowing time, the era that was a
forebear of
the Tiananmen Square uprising.
Morning dawns on the
provincial city of Muddy
River.
A young woman, Gu
Shan, a bold spirit and a follower of Chairman Mao, has renounced her
faith in
Communism. Now a political prisoner, she is to be executed for her
dissent. Her
distraught mother, determined to follow the custom of burning her only
child's
clothing to ease her journey into the next world, is about to make
another bold
decision. Shan's father, Teacher Gu, who has already, in his heart and
mind,
buried his rebellious daughter, begins to retreat into memories.
Neither of
them imagines that their daughter's death will have profound and
far-reaching
effects, in Muddy
River
and beyond.
In luminous prose, Yiyun Li
weaves together the lives of these and other unforgettable characters,
including a serious seven-year-old boy, Tong; a crippled girl named
Nini; the
sinister idler Bashi; and Kai, a beautiful radio news announcer who is
married
to a man from a powerful family. Life in a world of oppression and pain
is
portrayed through stories of resilience, sacrifice, perversion,
courage, and
belief. We read of delicate moments and acts of violence by mothers,
sons,
husbands, neighbors, wives, lovers, and more, as Gu Shan's execution
spurs a
brutal government reaction.
Writing with profound
emotion, and in the superb tradition of fiction by such writers as
Orhan Pamuk
and J. M. Coetzee, Yiyun Li gives us a stunning novel that is at once a
picture
of life in a special part of the world during a historic period, a
universal
portrait of human frailty and courage, and a mesmerizing work of art.
Yiyun Li is a recipient of
the Frank O'Connor International Short Story Award, the Hemingway
Foundation/PEN Award, the Guardian First Book Award, and a Whiting
Writers'
Award. She was also selected by Granta as one of the best young
American
novelists under thirty-five. She lives in Oakland, California,
with her husband and
their two sons.
www.yiyunli.com
To receive monthly updates on
our new book releases, join the At Random e-newsletter at
www.atrandom.com
Random House New York,
NY
© 2009 by Random House, Inc.
Advance
praise for The Vagrants
"Yiyun Li has written a
book that is as important politically as it is
artistically. The Vagrants is
an enormous achievement."
-ANN PATCHETT, author of Run and Bel Canto
"Ezra Pound said that
literature is news that stays news.
Nothing could be a more apt
description of Yiyun Li's extraordinary new novel, The
Vagrants. It is a book about a street, but a street that turns
the corner into another street, then turns into a town, and soon
becomes a
whole country.
Li finds the music in the
smaller lives and makes them symphonic. This is history and memory at
their
most raw and brilliant, reminiscent of Saramago, Aciman, and Coetzee. The Vagrants is a novel to be savored
and discussed."
-COLUM MCCANN, author of Zoli
"Every once in a while a
voice and a subject are so perfectly matched that it seems as if this
writer
must have been born to write this book. The China Yiyun Li shows us is
one most
Americans haven't seen, but her tender and devastating vision of the
ways human
beings love and betray one another would be recognizable to a citizen
of any
nation on earth."
-NELL FREUDENBERGER, author
of The Dissident
"This is a book of loss
and pain and fear that manages to include such unexpected
tenderness and grace notes that, just as one can bear it no longer, one
cannot
put it down. This is not an easy read, only a necessary and deeply
moving
one."
-AMY BLOOM, author of Away
''A starkly moving portrayal
of China in the wake of the Cultural Revolution, this book weaves
together the
stories of a vivid group of
characters all struggling to find a home in their
own country. Yiyun Li writes with a quiet, steady force, at once stoic
and
heartbreaking."
-PETER HO DAVIES, author of The Welsh Girl
*
The Vagrants là
một cuốn sách về một con phố, và con phố dẫn tới một góc phố, dẫn tới
một con phố khác, dẫn tới một thành phố và chẳng mấy chốc, dẫn tới cả
một xứ sở.
'I'm not
going to satisfy people's curiosity about exotic China'.
[Tôi đâu có
ý định thỏa mãn sự tò mò của mọi người về một cái mùi lạ của một cô Xẩm]
Found
in translation
Yiyun Li, tác giả cuốn A Thousand Years of Good Prayers, trả lời phỏng
vấn khi cuốn sách của bà được giải [the] Guardian First Book Award.
Như thế đấy, là cái việc học tiếng Anh, và sau đó, viết văn bằng
tiếng Anh.
Chẳng lẽ phải nhắc lại câu nói đó cho mấy ông mấy bà "da mầu",
khi, cứ ị ra được một cục nào là dịch liền tù tì ra tiếng Anh tiếng U.
"Chúng tôi quả có ý định, thỏa mãn tính tò mò, của mọi người,
về mùi lạ, của một cục kít Việt!"
Chúng tôi hô khẩu hiệu khi đạn vô sọ anh ta.
Yiyun Li: A thousand years of good prayers
Đọc Ngàn
năm kinh kệ
Ôi chao, tôi cứ tưởng tượng ra một cô gái, ở trong nước; cô nói với
ông bô bà bô VC của cô như thế này:
"Cái thứ tiếng Việt mà bố mẹ, thầy bu... đang nói đó,
không phải là tiếng Việt!"
Nhật
Ký Tin Văn
Her parents, who still live in China, took some
persuading, too.
"My mother said, 'Can you make money being a writer?' I said, 'No, you
cannot make money.' Then I published my book, and they were very proud
of
me." They provide observations of contemporary China,
have started suggesting what
she should write about. "My father will say, 'I know you're busy - I
can
go out and talk to people and get interesting stories for you'."
- Con làm nhà văn có ra tiền không?
- Còn
khuya má ơi.
Thế rồi họ in sách của tôi, và ba má tôi rất là hơi bị tự hào.
[Mất
đi ở quê nhà, và] Tìm
thấy lại, trong dịch thuật.
Ngàn
năm kinh kệ [trích đoạn]
*
Có vẻ như những nhà văn Mít ở trong nước của chúng ta, ngoài khỏi nói,
không tìm ra thứ tiếng nói của họ, bởi vì không phải cứ viết trong
luồng, hay ngoài luồng, mà trở thành nhà văn. Sự khủng khoảng văn
chương sau 1975, ở cả hai miền, theo Gấu, là do không kiếm ra đúng thứ
ngôn ngữ của nó.
Cái thứ tiếng Việt bố mẹ đang nói không phải tiếng Việt.
... all struggling to
find a home in their
own country.... tất cả chiến đấu để kiếm ra một cái nhà trong xứ sở của
chính họ: Đây cũng là vấn nạn của văn chương Mít?
*
"An outbreak of a
counterrevolutionary epidemic has caught Muddy River
unprepared," he said. "I want you all to understand that the
situation is urgent, and if we don't watch out for ourselves, we may be
the
next ones infected by this virulent disease."
Some children shifted in
their seats, a few coughing and others rubbing their noses.
"It is time
that we cleanse our hearts and our souls with the harshest
disinfectant,"
the principal said, banging on the podium to emphasize each of his
words, the
children's hearts pounding along with his fist.
You've all been born under the
red flag of revolution and grown up in the honey-pot the party has
provided," the principal continued. "Sometimes this privilege may be
the exact reason that one forgets to appreciate one's happiness in this
country. Now answer me, children, who has given you this happy life?"
It
took a moment of hesitation before some upper-grade students answered,
"The Communist Party." "I can't hear you," the principal
said. "Say your answer louder if you have confidence in it." A few
teachers stood up and signaled to the auditorium, and more voices
joined the
chorus. It took several rounds for the principal to be satisfied with
the
roaring answer. «Long live the
greatest, the most glorious and the ever-correct
Chinese Communist Parry”, he said again with a thump-thump of
his fist.
"Do you all understand these words?
The Vagrants
“Một
trận dịch phản cách mạng đã bất ngờ bộc phát tại vùng Sông Hồng.
Tôi muốn tất cả các em hiểu rằng tình hình rất nghiêm trọng và nếu
chúng ta không cảnh giác, chúng ta sẽ là đợt tới những người bị nhiễm
dịch.”
Một số học sinh nhúc nhích, có
vài tiếng ho, có những đứa đưa tay chùi mũi.
“Đây là lúc chúng ta tẩy sạch trái tim và linh hồn của chúng ta bằng
một thứ thuốc tẩy mạnh mẽ nhất”, ông hiệu trưởng nói, tay đập bàn rầm
rầm nhấn mạnh, và trái tim của các em cũng nhộn nhạo theo.
“Các em tất cả đều sinh ra dưới ngọn cờ đỏ cách mạng, và trưởng thành
trong bịch sữa mật mà Đảng ban cho”, vị hiệu trưởng tiếp tục. “Đôi khi
vì được ưu đãi như vậy mà có em quên nhận ra hạnh phúc của mình được ở
trong đất nước. Bây giờ, các em hãy trả lời tôi, ai cho các em cuộc
sống hạnh phúc?”
Phải một lúc ngần ngại, trong đám học sinh các lớp lớn mới có đứa trả
lời:
“Đảng Cộng Sản”.
Thầy không nghe các em trả lời. Hãy nói lớn hơn nữa, nếu các em tin
tưởng ở Đảng.
Một vài giáo viên giơ tay ra hiệu với bàn chủ tọa, và nhiều giọng nói
họa theo. Phải qua mấy đợt trình diễn như vậy vị hiệu trưởng mới tỏ ra
hài lờng, với tiếng tiếng hô vang dội:
“Đảng Cộng Sản Việt Nam
vĩ đại nhất, vinh quang nhất nhất, và thiên thu đúng, chẳng bao giờ
sai, muốn nắm!, muốn nắm!”
Chỉ còn thiếu có mỗi màn Sến Cô Nương lên bàn chủ tọa cắm cờ lên thành
phố Bờ Lê Cu vừa được giải phóng!
*
Có vẻ như những nhà văn Mít ở trong nước của chúng ta, ngoài khỏi nói,
không tìm ra thứ tiếng nói của họ, bởi vì không phải cứ viết trong
luồng, hay ngoài luồng, mà trở thành nhà văn. Sự khủng khoảng văn
chương sau 1975, ở cả hai miền, theo Gấu, là do không kiếm ra ngôn ngữ
của nó.
“Cái thứ tiếng Việt bố mẹ đang nói không phải tiếng Việt.”
“... all struggling to find a home in their own country....”, tất cả
chiến đấu để kiếm ra một cái nhà trong xứ sở của chính họ: Đây cũng là
vấn nạn của văn chương Mít?
*
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ
lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính
nó, vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, hết còn bị dồn nén,
cho nên những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và những trò kỳ
quái mang tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi mất nội
dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và
thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Đây cũng là cõi văn Mít, sau 1975, sau cú đụng độ giữa hai nền văn
minh, một của Ngụy, và một của Yankee mũi tẹt!
*
Tờ Granta, số 64, Mùa Đông, 1998, đặc biệt về Miền Đông Hoang
dã của Nga xô, Russia, The Wild East, Tin Văn đã từng chôm một
vài đoạn ở trong đó. Trong bài Intro, được scan dưới đây, và nếu có thể
sẽ được dịch, có đoạn:
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ
lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính
nó, vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, thì cũng hết còn bị
dồn nén, cho nên những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và
những trò kỳ quái mang tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi
mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó
khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ
khác.
Nhận xét trên thật quá đúng đối với văn chương Mít ở trong nước. Nào là
rung chuông tận thế, nào là ẩn dụ "cởi truồng", chời hoài chờ huỷ không
thấy kinh, và chỉ thấy kinh, [có tháng] vào ngày lễ ra trường ngợp cờ
đỏ, hay bị bóng đè, bị hồn ma tiền nhân, hay ma net hiếp...
[Note: Những dữ kiện nêu ra ở đây, chỉ có tính minh họa, không nhằm
khen chê bất cứ tác giả nào].
Theo Gấu có một sự băng hoại khủng khiếp ở trong văn chương trong nước.
Nhà văn hàng ngày phải chứng kiến những tội ác chưa từng có trong lịch
sử nước Mít, thí dụ, đại
gia xả xui bằng cách lấy trinh hàng loạt trẻ em, ông hàng
xóm hiếp đứa con nít 5 tuổi nhà kế bên bằng mồi nhử là ba cục
kẹo... Khủng khiếp hơn nữa, những con quái vật này không bị trừng
phạt, hoặc trừng phạt thật nhẹ. Khủng khiếp hơn nữa nữa, chính nạn nhân
năn nỉ khoan hồng cho chúng, bởi vì đành phải chấp nhận một tí tiền bồi
thường bên ngoài tòa án, nếu không, chẳng được gì. Và do sợ hãi, do
bổng lộc, do hèn hạ... nhà văn đành câm miệng trước tội ác, và để
quên nhục nhã, viết biếm văn, viết ẩn dụ cởi truồng.
Cứ giả dụ, nhà văn ý thức được những cái ác nhan nhản trước mắt, nhưng
do không kiếm ra nổi một thứ ngôn ngữ trung tính, một cách viết trắng,
như cách viết của Camus, thí dụ, và sử dụng thứ ngôn ngữ ô nhiễm, [nào
đại gia, nào máu, nào đạn...], hoặc ngôn ngữ dối trá nâng bi quá khứ,
tác phẩm cũng không thể nào đọc được.
Cái sự băng hoại của ngôn ngữ, cái sự dối trá mới đáng sợ làm sao!
Làm
thế nào để làm điêu tàn một xứ sở?
Granta, 64, Winter 1998
RUSSIA, The Wild East
INTRODUCTION
Russia is
the largest
country in the world-a sixth of its land mass-with a record of
upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the
revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917,
bloodily won; then Stalinism, with millions killed in its forced
migrations, exterminations and prison camps; and (concurrent with the
last) invasion by Germany and a war in which
upwards of twenty million Soviet citizens died. Finally, after decades
of sacrifice which turn the Soviet Union into a military rival of the
United States, acknowledgement that it has all been for nothing, that
capitalism and liberal democracy have won; and with their victory comes
the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking-and
pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough
to have lived through most of this is to know extremes of hardship and
disillusion that other people, at least in other industrialized nations
(even Germany), can barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new
book on the recent Chechen war, Chechnya: Tombstone of
Russian Power: 'To most of its inhabitants the Soviet
Union
was more than just a civilization, or a warped version of modernity. It
was indeed a world, the only one they knew, and-according to its
founders and mentors-the greatest of all worlds, the summit of human
history, knowledge and achievement.'
'Reform'
is the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new
condition, in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product
and life-expectancy decline, the rouble crashes and inflation (in 1998)
runs at 200 per cent; where fear of the state and its laws has been
replaced by corruption, crime and ruthless self-interest-'bandit
capitalism'. These are, as Lieven writes, not so much unfortunate
by-products of 'reform' as the phenomena at the very heart of it. If
the Russian people were not so soured, confused and exhausted by their
experience of ideology, one might be tempted to say that, once again,
they looked ripe for revolution.
In
literature, Russia has a great,
perhaps the greatest, tradition of realism, which seems to have come to
a temporary halt. Perhaps because reality itself is j now so
quicksilver and the truth about it no longer repressed, new Russian
writers often favor satire and allegorical fantasy, forms which, when
they lose their social context, can face a difficult crossing to other
societies and languages. This issue of Granta contains an example that
has made the crossing successfully: the piece by Victor Pelevin. It
also includes, by contrast, a newly translated story by Andrei
Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned until the
last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be
recognized-but not widely enough-as one of the finest Russian writers
of prose this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in
its quiet strength and sincerity; written of a time when it looked as
though the future had been won.
IJ
[Ian Jack, Editor]
Winner
of the Frank O'Connor
International Short Story Award
Shortlisted for the Orange Award for
New Writers
'Li's writing is beautifully
spare and controlled' The Times
In this prize-winning
collection of short stories, Yiyun Li brings us a modern China
facing up
to a complex history of repression and guilt. In 'Extra', a Chinese
woman,
alone in middle age, befriends a young boy and we see how love begins
to
overcome the strictures that dominate their lives. In 'Immortality' a
young man
bears a striking resemblance to the Dictator, and so finds a strange
kind of
calling.
From
the bustling heart of Beijing and
the barren expanse of Inner Mongolia to a
fast-food restaurant in Chicago,
Li illuminates how mythology, politics, history and culture intersect
with
personality to create fate. Revealing worlds both foreign and familiar,
with heartbreaking
honesty and in beautiful prose, this is a rich and astonishing
collection from
an original and important new writer.
'A
brilliantly written
collection ... Li has a remarkable talent for telling the story of the
whole of China
through apparently insignificant lives. She has already become one of
the most
important Chinese voices of our time' New
Statesman
'These are stories of immense
brilliance and subtlety ... [Lil] captures perfectly nuances of thought
and
action in her stories' Scotsman
Theo
GNV, trong nước, những người
thân cận, và luôn cả không thân cận với chính quyền, cần một tiếng nói
đích thực,
kể câu chuyện đích thực [hiện thực thì cũng thế], về cuộc sống hiện
tại. Cần
một nhà văn, như là một nhà kể chuyện, một Yiyun Li của nước Đại Hán!
Một ‘the
real deal’, đúng như Michel Faber trên tờ Guardian vinh danh bà.
Trong
khi chờ đợi, đọc NNT mà chẳng đã sao!
Thì cũng vẫn thứ văn chương hiện thực [không xã hội] chủ nghĩa!
*
Nếu tôi
trở về lại
If I Go Back
Lần đầu
tiên Yiyun Li nhìn
thấy một nhóm tù nhân trên đường đi tới bãi hành hình là khi cô 5 tuổi.
Có ba
người đàn ông và một người đàn bà, tay bị trói, líu ríu leo lên pháp
truờng dã
chiến ở một cánh đồng bên ngoài thành phố Bắc Kinh. Viên sĩ quan giơ
tay, hô
to: “Xử tử những tên trộm cướp phản cách mạng!” Cô bé 5 tuổi mừng rỡ,
bởi vì
thế giới, một khi bớt đi những tên trộm cướp, những tên dám làm điều
nguy hại
cho thiên đàng xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, thì chắc chắn là sẽ tốt đẹp
hơn.
Trong Ngàn năm kinh kệ, Yiyun
Li không chỉ kể những câu chuyện về những tên trộm cướp, mà còn nhiều
chuyện
khác. Những câu chuyện thật thông minh, thật tinh tế, là những đan dệt
những
thực tại chua cay của cuộc sống mỗi ngày không chỉ dưới thời Mao, mà
còn dưới
thời kỳ những người kế vị ông, trong bước nhẩy vọt tới chủ nghĩa tư bản
thô
tục, trần trụi.
Trong tương lai những sử gia
sẽ nhìn lại những bước đầu tiên của TQ dẫn tới địa vị siêu cường, như
là một sự
thay đổi kinh tế quan trọng nhất kể từ cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ. Về những
thay
đổi như thế có ý nghĩa gì tới người dân TQ bình thường bây giờ, họ sẽ
đọc những
câu chuyên của Li về những người già cả gặp nhau uống trà trong những
tiệm cà
phê bên ngoài một siêu thực mới mọc ra; những người trẻ mơ một cuộc đời
mới ở
Mỹ, có thể có tiền gửi về cho gia đình bà con; những bà già mất hết
tiền dành
dụm do sự sụp đổ của những nhà máy quốc doanh, cố kiếm việc làm như là
một thứ
đầy tớ tại những trường tư đầu tiên của xứ sở. Những nhà sử học xã hội
còn nhận
ra sự thay đổi về thái độ, cách ứng xử, khi đám trẻ dám hôn nhau công
khai giữa
công chúng qua lại mà không còn e dè sợ hãi, khi người đàn bà dám công
khai bầy
tỏ sự bất bình, khi những sinh viên được xem những cuốn phim Mỹ đầu
tiên trong đời.
Nhưng đó không phải lý do độc
nhất Li đáng đọc. Như nhà văn mà bà mến mộ, William Trevor, bà thật tài
tình nắm
bắt cái tinh tế chi ly, cái thoáng chốc xuất hiện ở nơi tư tưởng và
hành động, ở
trong những truyện ngắn của mình, bất thình lình thả người đọc bà vào
trong những
thế giới tin tưởng được, đúng rồi, nó như vậy đó. Đúng cái thực, cái
thực đúng
như thế, đúng rồi, nó như vậy đó, ‘the real thing’, đó là từ ngữ mà
Salman
Rushdie ngợi khen bà. Truyện của bà đã được in trên The Paris
Review, the New Yorker,
đã từng được giải thưởng này nọ, mặc dù vậy, tình trạng cư trú tại Mỹ
của bà
cho tới lúc này thật bấp bênh, và có thể bị trả về TQ bất cứ lúc nào.
Khi được
giải thưởng Cork vào tháng 10 năm ngoái, 2005, bà không dám đi dự lễ
trao giải,
vì sợ trường hợp di trú của bà bị từ chối, phải thu vén đồ đạc trở lại
TQ.
Theo lý thuyết, Mẽo cho phép
những nghệ sĩ thứ thiệt, có khả năng lạ thường, extraordinary ability,
ở lại,
nhưng trên thực tế, điều này được cắt nghĩa một cách thật chật hẹp. Là
một Chekhov
đương thời của thế giớ,i OK, nhưng làm sao chứng minh đây?
Tiếu lâm là, nếu bà thực sự là
một nhà ly khai, thì lại dễ ợt! Nếu bà viết những câu chuyện có tính
tuyên truyền,
thật dữ dằn, thật gây sốc, nhằm tố cáo “Cái Ác Đại Háng”, thay vì những
truyện
ngắn rất người rất nhân bản, Li ngay lập tức được công nhận [qualify]
tư cách tị
nạn.
Vấn đề thực sự ở đây là, Li
không thực sự là một nhà ly khai. Thế mới thú vị! Bà đã sống ở Mẽo 10
năm, không
trở lại TQ, và vẫn muốn, một ngày đẹp trời về lại để gặp lại bố mẹ vẫn
ở đó.
Liệu chuyện đó có ngày sẽ xẩy
ra, trở về TQ thăm bố mẹ? Tôi cũng chẳng biết nữa. Tuy vậy, ngay cả như
vậy, tôi
từ chối sách của tôi được dịch qua tiếng TQ. Tôi không biết, nó sẽ được
chấp nhận
như thế nào, ở đó. Nhưng tôi là công dân TQ, và tôi trở về, họ sẽ làm
gì với tôi,
tôi cũng không thể biết được. Ngay cả những người TQ có quốc tịch Mẽo,
trở về,
mà còn bĩ hành hạ đủ thứ kiểu, và bị bắt giữ bởi đủ thứ lý do quái quỉ,
đây là
nỗi băn khoăn của Kim Dung, xin lỗi, của những người TQ trí thức hải
ngoại: chẳng
bao giờ an toàn, nếu trở về!
*
Sự
kiện Thiên An Môn, với bà
và nhiều người khác, là điểm ngoặt. “Tôi trở thành người lớn, một kẻ
trưởng thành,
sau sự kiện đó”, bà viết. Bà 17 tuổi, khi đó. Đó là Thứ Bẩy, bà và bạn
đi tới
lớp học toán , và khi trở về, lúc đó là 6.30 chiều, và mọi người đã kéo
những
chiếc xe buýt ra đường nhằm cản bước tiến của quân đội. Rất nhiều người
tràn ra
đường, vì tất cả đều nghĩ, quá nhiều người như thế, thì quân đội không
dám nổ súng.
Li và bà chị lớn bị nhốt ở trong nhà, với ông bố đứng canh chừng; bà mẹ
ra đường
thăm thú tình hình. Bà không đi tới được quảng trường, nhưng chứng kiến
cảnh tượng
một bà mẹ ôm đứa con gái bẩy tuổi bị bắn chết trên tay, rũ rượi đi trên
đường
phố. Bà mẹ trở về nhà, khóc nức nở. Không
ai quên nổi tuần lễ đó.
'I'm not going to
satisfy people's curiosity about exotic China'.
[Tôi đâu có ý định thỏa mãn sự tò mò của mọi người về một cái mùi lạ
của một cô
Xẩm]
Found
in translation
Interview
Ha Jin
Ha
Jin khởi sự nghề văn [viết
một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt
đầu cuộc đời
của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of
all
the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ,
“The
Dead
Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ,
poetry
workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho
Jonathan
Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ
ngay lấy,
in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương
trình
MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston.
Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết
truyện ngắn,
tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery
O’Connor
Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The
National Book
Award.
Vào cái
thời ông sống dưới chế
độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở
thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt
đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết
những người
TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của
cách mạng
và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi
bắt đầu đọc
một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường
hướng
giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và,
viết bằng
một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Tại sao những cuốn sách
của ông
lại bị biếm [banned]?
Tôi viết về những đề tài cấm
kỵ: Tibet,
Cuộc Chiến Korean, Cách Mạng Văn Hóa, cú Thiên An Môn. Sau cú TAM, tôi
trở thành
một gã lớn họng, a outspoken…. Tôi chẳng hề muốn dính đến chính trị,
nhưng những
nhân vật của tôi chạy trời không khỏi nắng [my characters exist in the
fabric
of politics]. Nói vậy để thấy rằng, thật vô phương tránh né chính trị,
nhất là ở
TQ.
|
|