Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội] Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư
năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương] Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998] Nơi
Người
Chết
Mỉm
Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999] Nơi
dòng
sông
chảy
về
phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần Chân
Dung
Văn
Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
* Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index: Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở
đầu trang
Tin
Văn. Email Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ 1
2
3
4
5
Bản
quyền Tin Văn
*
Tất
cả
bài
vở trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử
dụng
cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
tám mươi. con chữ lăn. tròn
tám mươi. bỗng lại. bòn hòn trai. tơ
tám mươi. chữ nghĩa lẳng. lơ
tám mươi. vào mạng mở. mơ. “nữ kiều”
tám mươi. ngồ ngộ. bắc kỳ
tám mươi. cái độc. bắt quàng cái. tâm
tám mươi. đi kiếm cái. âm
80. đi ngược. thất thần. 40
80. còn ẩn số. 0
80. xếp lại. ba 0 chẵn. tròn
80. thối thể một. vòng
80. ông chủ. núi vùng. tản cư
80. một phát cù. cưa
ngây ngây. ngất ngất. ngà ngà. sướng ên
những dòng. những câu. đươc viết tròm trèm
một năm. cho một người. người một mình giữ một trang web. một mình
một dàn trải. một mình đọc. và một mình viết.
tâm thế đơn lẻ. thật lôi cuốn. thật quyến rũ. những đoản văn
kéo lại một vàng son chữ nghĩa. nghe vẳng lại dư âm
mê dại một thời. đọc để chợt thấy những yêu thương vẫn còn
đó. và để thấy cuộc sống còn đáng yêu
đến vậy.
nqt. ông viết gì? nqt. ông đọc gì? nqt.
ông muốn nói gì?
ông. người cột những bẽ bàng của một ngày nọ vào
cái trong lành tự do của ngày hôm nay. qua cái
nhìn lại. cái đọc lại. những cái thật classic. những
thứ được gọi là kinh điển. có cần phải chứng minh khi một
với một luôn là hai.
có bao giờ? ông phải lặng người trong một buổi chiều
thật đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn. và mọi người
đã về. chỉ mình ông. còn ngồi lại. trong khu
vườn sau nhà ông ở toronto. cái đìu hiu. cái
đơn vắng.
no childhood. không tuổi thơ. hay muốn từ chối quá khứ.
hay muốn nhìn nó bằng đôi mắt của một kẻ khác
ông. một kẻ vấn nạn trong trang viết của mình. loài
phượng hoàng. phải lao vào lửa để được tái sinh.
vậy mà cũng đến tám mươi năm ông nhỉ
một 80. một thượng thọ. một 16-8 tròn và ngộ
mừng thượng thọ ông
mừng thượng thọ chú. một thượng thọ thật vui cùng gia
đình.
kính.
DS
Tks. Many Tks
NQT
V/v
có bao giờ? ông phải lặng người trong một buổi chiều thật
đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn. và mọi người đã
về. chỉ mình ông. còn ngồi lại. trong khu vườn sau
nhà ông ở toronto. cái đìu hiu. cái đơn
vắng.
Có "mấy" câu trả lời, của 1 số tác giả, mới đọc
được, và cũng đã post trên Tin Văn.
Trong bài của Banville, khi đọc Những năm đầu đời của Kafka:
In his diary in 1920 he wrote
of a moment when he had a clear glimpse of what would be for him
the true creative flame. He was sitting one day, "many years ago,…
on the slope of the Laurenziberg," the hill in the center of Prague
that figures in "Description of a Struggle," brooding on "the wishes
I had for my life":
The most important or the most
appealing wish was to attain a view of life (and-this was inescapably
bound up with it-to convince others of it in writing) in which life retained
its natural full complement of rising and falling, but at the same time
would be recognized no less clearly as a nothing, as a dream, as a hovering.
This artistic epiphany-remarkably reminiscent of that interrupted
moment in Beckett's Krapp's Last Tape when Krapp recognizes
that his aim must be to allow into his work the darkness he had always
struggled to keep out-is summed up beautifully by Stach when he writes:
"The presence of being and nothingness in one and the same moment, in
the same object or the same sentence, struck Kafka as a sign of perfection
that made life worth living." And art worth making
Sự hiện diện của hữu thể và hư
vô, trong một và cùng khoảnh khắc, trong cùng
1 sự vật, hay cùng 1 câu câu văn, thọi Kafka, như
là 1 ký hiệu của sự hoàn hảo, nó làm
cho cuộc đời đáng sống, và nghệ thuật đáng làm
ra.
Câu thơ của ED cũng nói lên "cú" hiện hữu
vs hư vô, và hợp hơn, với riêng GCC:
After great pain, a formal feeling
comes- The Nerves sit ceremonious,
like Tombs- Emily Dickinson
(Tạm dịch:
Sau cú đau lớn, một cảm giác chiếu lệ
bèn tới
Những sợi não ngồi trang nghiêm, như
những nấm mồ)
Lần tính đi luôn, khi Seagull bỏ đi, cũng ở trong
trạng thái đó.
Nhiều lắm, và tóm gọn là:
I Miss U So Much!
U ở đây, không chỉ là Seagull!
Hoặc chỉ là Seagull
Tks All There.
NQT
IN ONE OF his earliest childhood recollections, young Bruno
Schulz sits on the floor ringed by admiring family members while he
scrawls one 'drawing' after another over the pages of old newspapers.
In his creative rapture, the child still inhabits an 'age of genius',
still has unselfconscious access to the realm of myth. Or so it seemed
to the man whom the child became; all of his mature strivings would be
to regain touch with his early powers, to 'mature into childhood'. (1)
These strivings would issue in two bodies
of work: etchings and drawings that would probably be of no great interest
today had their deviser not become famous by other means; and two short
books, collections of stories and sketches about the inner life of a
boy in provincial Galicia, which propelled him to the forefront of Polish
letters of the interwar years. Rich in fantasy, sensuous in their apprehension
of the living world, elegant in style, witty, underpinned by a mystical
but coherent idealistic aesthetic, Cinnamon Shops
(1934) and Sanatorium Under the Sign of the Hourglass (1937) were
unique and startling productions that seemed to come out of nowhere.
Bruno Schulz was born in 1892, the third
child of Jewish parents from the merchant class, and named for the
Christian saint on whose name-day his birthday fell. His home town,
Drohobycz, was a minor industrial centre in a provmce of the Austro-Hungarian
Empire that after World War I returned to being part of Poland.
Though there was a Jewish school in Drohobycz,
Schulz was sent to the Polish Gymnasium. (Joseph Roth, in nearby Brody,
had gone to a German Gymnasium.) His languages were Polish and German;
he did not speak the Yiddish of the streets. At school he excelled
at art, but was dissuaded by his family from following art as a profession.
He registered to study architecture at the polytechnic in Lwow, but in
1914, when war was declared, had to break off his studies. Because of
a heart defect he was not called up into the army. Returning to Drohobycz,
he set about a programme of intensive self-education, reading and perfecting
his draughtsman ship. He put together a portfolio of graphics on erotic
themes entitled The Book ofIdolatry and
tried to sell copies, with some diffidence and not much success.
Unable to make a living as an artist, saddled,
after his father's death, with a houseful of ailing relatives to support,
he took a job as an art teacher at a local school, a position he held
until 1941. Though respected by his students, he found school life stultifying
and wrote letter after letter imploring the authorities for time off
to pursue his creative work, pleas to which, to their credit, they did
not always turn a deaf ear.
Despite his isolation in the provinces,
Schulz was able to exhibit his artworks in urban centres and to enter
into correspondence with kindred spirits. Into his thousands of letters,
some 156 of
which have survived, he poured much of his creative energy.
Jerzy Ficowski, Schulz's biographer, calls him the last outstanding
exponent of epistolary art in Poland.' All evidence indicates that
the pieces that make up Cinnamon Shops began their life in letters to
the poet Debora Vogel. Cinnamon Shops was received with
enthusiasm by the Polish intelligentsia. On visits to Warsaw Schulz
was welcomed into artistic salons and invited to write for literary reviews;
at his school he was awarded the title 'Professor'. He became engaged
to Jozefina Szelinska, a Jewish convert to Catholicism, and, while not
himself converting, withdrew formally from the Jewish religious community
of Drohobycz. Of his fiancée he wrote: '[She] constitutes my participation
in life. Through her I am a person, and not just a lemur and kobold ...
She is the closest person to me on earth.' (Ficowski, p. 112) Nevertheless,
after two years the engagement fell through.
The first translation into Polish of Franz
Kafka's The Trial appeared in 1936 under Schulz's name, but the actual
work of translation had been done by Szelinska.
[suite]
Coetzee: Inner Workings essays 2000-2005
Note: Cinnamon Shops, sau đổi thành The Street
of Crocodiles. "Tháng Tám", K dịch, quà SN/GCC/Tám
Bó, là từ cuốn này.
Truyện của Bruno Schulz, như Coetzee phán, "rich in
fantasy, sensuous in their apprehension of the living world, elegant
in style, witty, underpinned by a mystical but coherent idealistic aesthetic",
còn K thì, "không quen với thứ văn nóng
này".
Văn của
Schulz khó dịch quá, không những vì chữ
dùng, ý tưởng mà luôn cả cách sắp
xếp câu văn thật là khác với văn Việt . Câu
nào cũng là câu so sánh cái này
với cái khác, có khi so sánh hai ba tầng
. Hèn gì bà Zofia Nalkowska cả buổi chiều mà
chỉ đọc xong 30 trang còn chưa hiểu hết !!! Có những
đoạn K phải dịch xong rồi để đó, chừng hôm sau mới quay
lại đọc cả phần nguyên tác lẫn phần dịch soát lại
. Có lúc phải ngừng giữa câu, đứng lên đi
một vòng ra sân rồi mới ngồi xuống làm việc tiếp.
Vấn đề không phải không hiểu ý trong câu, mà
không biết làm sao dịch cho gọn và chính
xác .
Chọn bài
này vì cái tựa đề của nó là August
cho đúng Tháng Tám, chứ thực tình, truyện
này rừng rực nóng bỏng quá, không hợp với
lối viết của K . Sau bài này phải kiếm một bài khác
dễ nuốt hơn .
Họ trao cho nhau những lời thứ lỗi thông thường:
Đừng quên, em /anh iêu, chúng ta thấy nó
tới.
Rằng cái sự hợp tình hợp lý mới mẻ được
gợi hứng từ môn hình học
Sau cùng đã tác động lên chúng
ta
Bất tử là chuyện chẳng đáng
So với cái giá mà chúng ta phải
trả bằng sự ngớ ngẩn, cù lần của mình
Gấu cảm thấy mình đang đeo cái lục lạc của 1 con
bò
Quanh cổ
Chừng… hai nghìn năm
Một nàng ngồi bàn kế bên
Với mớ tóc giả màu vàng hoe dài
tới vai
Đưa ly sâm banh lên môi
Ra dấu nàng nhận ra Gấu Cà Chớn là thằng
chó nào rồi!
Trong lúc ở khuỷu tay nàng, kế cái khăn
lau tay
Đỏ như máu – môi son của nàng
Gấu nhìn thấy 1 chú ruồi
Bò ra khỏi cái gạt thuốc đầy ứ tàn
Như 1 tên lính Ngụy
Hay 1 tên Bộ Đội Cụ Hồ
Cả hai thì đều đáng thương như nhau
Trong cuộc chiến Thành Troy từ đời thuở nào
Như thể cả hai thì đều quá đủ, với những cuộc
chiến
Cũng như với những nhà thơ của họ.
Note: Quá đủ với những nhà thơ của họ!
Thần sầu!
Dù là đã có đòn "phục bút",
khăn lau tay đầy máu, trước đó.
Làm GCC nhớ đến hỉnh ảnh trong Chinh Phụ Ngâm, người
vợ khoe cả núi khăn lệ, khi người chinh phu may mắn trở về.
Ui chao, lại nhớ đến đòn "thơ lưu vong" của lũ Mít
hải ngoại, trình trước Vẹm!
Thơ Simic, quá khủng khiếp, đúng như thế!
Ancient Divinities
They dish out the usual excuses to one another:
Don't forget, darling, we saw it coming.
The new rationality inspired by geometry
Was going to do us in eventually. Being immortal
Was not worth the price we paid in ridicule.
I feel like I've been wearing a cowbell
Around my neck for two thousand years,
Says one with a shoulder-length blond wig
Raising a champagne glass to her lips
And acknowledging me at the next table,
While at her elbow, next to a napkin
Bloodied by her lipstick, I saw a fly crawling
Out of her overflowing ashtray
Like some poor Trojan or Greek soldier
Who's had enough of wars and their poets.
Charles Simic: New and Selected Poems 1962-2012
Obscurely Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic: New and Selected Poems 1962-2012
U tối bận rộn
Người là Chúa Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây
thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực
của Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao hơn cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới vòm trời phóng lớn tối thui.
Note: Bài thơ này cực kỳ… u tối. Chỉ bằng
mấy dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy,
vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
To TL: Bản dịch, tiếng Mít,
phân đoạn, không đúng như nguyên tác.
Đã sửa.
Tks
Nhân tiện, đi thêm mấy
bài của Simic.
HEAD OF A
DOLL
Whose demon
are you,
Whose god? I asked
Of the painted mouth
Half buried in the sand.
A brooding gull
Made a brief assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself
At dusk a firefly or two
Dowsed its eye pits.
And later, toward midnight,
I even heard mice.
Charles
Simic
Ðầu búp bế
Mi thuộc về quỷ nào ?
Mi thuộc về chúa nào ?
Tôi hỏi cái miệng tô sơn
Đang vùi một nửa trên cát
Một con hải âu đang tìm
chỗ ấp trứng
Đến nhìn thẩm định chút xíu
Rồi bỏ đi, vừa đi vừa gật gù cái đầu
Buổi chiều
tối, một hai con đom đóm
Lập lòe hai hố mắt
Và đêm khuya, tôi còn nghe thấy
Tiếng chuột kêu
[Note: Bài này, hình như là K dịch?]
Kể từ khi Charles Simic tới
Mẽo từ Belgrade vào năm 1954, ở cái tuổi 16, ông đã
ồ ạt chuyển những hình ảnh của mảnh đất không người
thương đau của tuổi thơ của ông vào trong những cuốn sách
thơ và tản văn
Ever since Charles Simic came
to America from Belgrade in 1954, at the age of sixteen, he has been transmitting,
in a rush of books of poetry and prose, images deriving from the traumatic
no man’s land of his youth:
The Germans bombed Belgrade in April of 1941, when I was three years
old. The building across the street was hit and destroyed. I don’t remember
anything about that bomb, although I was told later that I was thrown out
of my bed and across the room when it hit. The next day we left the city
on foot….
How many of us were there? I remember my mother but not my father. There
were people I didn’t know, too. I see their hunched backs, see them running
with their bundles, but no faces…. My film keeps breaking.
Though by the usual systems of counting, Simic is now sixty-one, in
his poems he is without chronological age. He has written that in its essence,
“a lyric poem is about time stopped. Language moves in time, but the lyric
impulse is vertical.” The poems are like self-developing Polaroids, in
which a scene, gradually assembling itself out of unexplained images, suddenly
clicks into a recognizable whole. Here, for instance, is a poem from Simic’s
newest book, Jackstraws:
Head of a Doll
Whose demon are you,
Whose god? I asked
Of the painted mouth
Half buried in the sand.
A brooding gull
Made a brief assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself.
At dusk a firefly or two
Dowsed its eye pits.
And later, toward midnight,
I even heard mice.
One could call this a miniaturist’s
rewriting of Shelley’s “Ozymandias,” with its colossal head half-buried
in the sand:
I met a traveler from an antique
land,
Who said—”Two vast and trunk-less legs of stone
Stand in the desert…. Near them, on the sand,
Half sunk a shattered visage lies….
Nothing beside remains. Round the decay
Of that colossal Wreck, boundless and bare
The lone and level sands stretch far away.
Ozymandias’ severed head remains
unmolested, and is merely observed by the traveler; but Simic’s severed
doll’s head, “assessed” by the daytime gull flying over the sand, has its
vacant eye sockets investigated by the firefly at dusk; and surely, at midnight,
the mice approach to use their teeth. A painted simulacrum—a “doll”—is
what any statue, human or divine, appears to be to an observer who is not
a member of the cult that has erected it. The toppled Ozymandias and Simic’s
half-buried doll have lost their personal and cultural significance; the
blinded doll, half-buried already, is about to be consumed by the nibbling
creatures. While Shelley’s speaker invests himself in the ruins of the sublime,
Simic questions a broken “demon” or “god” of the most ordinary sort—a child’s
doll—bringing his poem into the surreal of the everyday, Simic’s defining
atmosphere.
It pains me to see an old woman
fret over
A few small coins outside a grocery store-
How swiftly I forget her as my own grief
Finds me again-a friend at deaths door
And the memory of the night we spent together.
I had so much love in my heart
afterward,
I could have run into the street naked,
Confident anyone I met would understand
My madness and my need to tell them
About life being both cruel and beautiful,
But I did not-despite the overwhelming
evidence:
A crow bent over a dead squirrel in the road,
The lilac bushes flowering in some yard,
And the sight of a dog free from his chain Searching through a neighbor's
trash can.
Một buổi sáng sớm tinh sương
Tôi cảm thấy đau khi nhìn
một bà cụ già
Loay hoay với mấy đồng bạc ở bên ngoài tiệm chạp
phô - Mau lẹ làm sao tôi quên
nàng như nỗi đau buồn riêng của tôi
lại tìm thấy tôi - một người bạn ở cửa cái
chết
Và hồi ức đêm chúng tôi qua bên
nhau.
Trong tim tôi tràn
đầy tình yêu sau đó.
Tôi có thể trần truồng chạy ngoài phố
Yên trí mọi người sẽ hiểu
Sự khùng điên của tôi, và sự cần
thiết, cũng của tôi
Để nói cho họ về đời sống
Vừa độc ác vừa đẹp ơi là đẹp.
Nhưng tôi đã không
- mặc dù chứng cớ thì hiển nhiên, quá hiển
nhiên: Một con quạ cúi
xuống một con sóc chết trên mặt đường, Hoa lilac nở rộ trong một
khu vuờn gần đó Và cái nhìn,
một con chó thoát khỏi sợi dây xích Xục xạo một cái
lon trong sọt rác nhà hàng xóm
ABOUT MYSELF
I'm the uncrowned king of the
insomniacs
Who still fights his ghosts with a sword,
A student of ceilings and closed doors
Making bets two plus two is not always four
A merry old soul playing the
accordion
On the graveyard shift in the morgue.
A fly escaped from a head of a madman,
Taking a rest on the wall next to his head.
Descendent of village priests
and blacksmiths:
A grudging stage assistant of two
Renowned and invisible master illusionists,
One called God, the other Devil, assuming, of course,
I'm the person I represent myself to be.
Về chính tôi
Tôi là ông
vua không vương miện của những tên mất ngủ
Vẫn chiến đấu với những bóng ma của mình bằng
1 cây gươm,
Một sinh viên của cái trần nhà và
những cái cửa đóng
Đánh cược hai với hai không luôn luôn
là bốn
Một linh hồn già vui vui chơi
phong cầm
Trong một ca gác nghĩa địa ở nhà xác.
Một con ruồi trốn khỏi đầu một tên khùng
Hậu duệ của tu sĩ và thợ rèn làng:
Phụ tá sàn diễn bất đắc dĩ của hai sư phụ
nổi tiếng, vô hình, của môn
ảo thuật.
Một được gọi là Thượng Đế, một Quỉ,
làm ra vẻ, lẽ dĩ nhiên,
tôi là người tự coi mình là như
vậy
Bad luck, my very own, sit down
and listen to me:
You make yourself scarce for months at the time
Making preparations for some new calamity,
Then come to shake me awake some dark night,
Wiping the sweat off your face,
asking
For a glass of water, while mumbling something
About how a mixed bag of misery and laughter
Is all that I can expect from a life like mine,
While I listen, none the wiser like a blind man
Holding a fortune cookie in a
Chinese restaurant
And waiting for a waiter to come along
And read it to him, but there isn't one coming,
'Cause it's late and the Bamboo Garden is closed.
Vườn Tre
Vận rủi "rất" rất riêng
của ta, hãy ngồi xuống, và lắng nghe ta nói:
Mi làm mặt lạnh, làm mặt khó mấy tháng
nay,
Như thể mi đang sửa soạn 1 cú tai ương mới nào
đó
Rồi thì một đêm âm u, mi tới đánh
thức ta dậy
Lau mồ hôi trên
mặt
Hỏi xin ta ly nước lạnh
Trong lúc lẩm bẩm cái con mẹ gì đó,
Hình như là về
Làm thế nào trộn cái khốn cùng
của dân Mít
và tiếng cười sảng khoái của đám đại gia
Đỏ
Và có phải đó là tất cả những gì
mà một tên
Gấu Cà Chớn mong ước, trong cõi đời của mi?
Trong lúc Gấu ngồi lắng
nghe, chẳng khôn ngoan gì hơn 1 anh mù
Tay cầm cái kẹo trong có câu thần chú
may rủi ở 1 tiệm ăn Tầu
Đợi người bồi đi ngang để đọc cho nghe.
Nhưng chẳng có ma nào
Bởi là vì đã quá khuya, và
Vườn Tre đã đóng cửa.
THUS
The long day has ended in which
so much
And so little had happened.
Great hopes were dashed,
Then halfheartedly restored once again.
Mirrors became animated and emptied,
Obeying the whims of chance.
The hands of the church clock moved,
At times gently, at times violently.
Night fell. The brain and its
mysteries
Deepened. The red neon sign
FIREWORKS FOR SALE came on on a roof
Of a grim old building across the street.
A nearly leafless potted plant,
No one ever waters or pays attention to,
Cast its shadow on the bedroom wall
With what looked to me like joy.
Thế Đó
Ngày dài chấm
dứt
Quá nhiều, quá ít xẩy ra
Những hi vọng lớn tiêu tan,
Rồi lại được uể oải phục hồi.
Những tấm gương trỏ nên
linh hoạt và trống rỗng,
Chiều theo luật đỏng đảnh, nay thế này, mai thế khác.
Kim đồng hồ nhà Chúa chuyển động
Lúc dịu dàng, lúc dữ dằn, như bị ma đuổi
Đêm xuống. Cái
đầu và những bí ẩn của nó
Chìm sâu mãi xuống
Những ngọn đèn nê ông đỏ, chiếu những dòng
chữ
Pháo Bông Khuyến Mãi, Đại Hạ Giá
Trên nóc tòa bulding cổ, dữ dằn
Bên kia con phố
Một
cái cây trồng trong 1 cái chậu, chắng có
1 cái lá
Chằc là chẳng ai lo tưới, hoặc để mắt tới
Chiếu cái bóng của nó lên tường
phòng ngủ
On the Meadow
With the wind gusting so wildly,
So unpredictably,
I'm willing to bet one or two ants
May have tumbled on their backs
As we sit here on the porch.
Their feet are pedaling
Imaginary bicycles.
It's a battle of wits against
Various physical laws,
Plus Fate, plus-
So- what -else- is-new?
Wondering if anyone's coming to their aid
Bringing cake crumbs,
Miniature editions of the Bible,
A lost thread or two
Cleverly tied end to end.
Empty Rocking Chair
Talking to yourself on the front porch
As the night blew in
Cold and starless.
Everybody's in harm's way,
I heard you say,
While a caterpillar squirmed
And oozed a pool of black liquid
At your feet.
You turned that notion
Over and over
Until your false teeth
Clamped shut.
Ambiguity's Wedding
for E. D.
Bride of Awe, all that's left for us
Are vestiges of a feast table,
Levitating champagne glasses
In the hands of the erased millions.
Mr. So-and-So, the bridegroom
Of absent looks, lost looks,
The pale reporter from the awful doors
Before our identity was leased.
At night's delicious close,
A few avatars of mystery still about,
The spider at his trade,
The print of his vermilion foot on my hand.
A faded woman in sallow dress
Gravely smudged, her shadow on the wall
Becoming visible, a wintry shadow
Quieter than sleep.
Soul, take thy risk.
There where your words and thoughts
Come to a stop,
Encipher me thus, in marriage.
Note: Mấy bài này, trong Charles Simic: New & Selected
Poems, 1962-2012, post lần đầu, sẽ dịch liền, nhân SN/GCC/Tám
Bó
Lại nói chuyện dịch, dịch thơ.
Thời gian ở Trại Tị Nạn, GCC hăm hở học tiếng Anh, quyết tâm, nếu
ra được hải ngoại, thì, không thèm viết tiếng Mít
nữa. Nhưng đúng vào lúc vô 1 thư viện ở Toronto,
cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm Lặng, của Steiner,
đọc 1 phát, thì ngộ ra liền, phải làm 1 tên biệt
kích văn hóa - chữ của Vẹm, chỉ đám Ngụy sau 1975, vẫn
lăm le viết, như trong mấy vụ bỏ tù những đấng như Hiếu Chân,
Hoàng Hải Thuỷ... - Phải cướp cho bằng được thứ văn hóa
như là “thuốc chủng độc”, trước là cái độc Nazi, sau
tới cái ác, cái độc Bắc Kít...
Đại khái thế.
Rồi ngộ độc thơ, dịch thơ, quái thế, sướng thế!
Và do dịch, GCC khám phá ra… vài chân
lý:
Một bài thơ, được viết ra, là để chờ được dịch.
Dịch, là sáng tạo bài thơ, trong 1 ngôn ngữ
khác, là ban cho nó 1 đời mới.
Dịch thơ không phải chỉ để rành rẽ thêm, 1 ngôn
ngữ khác, mà là để rành rẽ thêm, tiếng
mẹ đẻ của người dịch.
Cú phát giác này mới đúng là
thần sầu. Phát giác này, là do đọc 1 số nhà
văn di dân, viết bằng tiếng Anh, nhưng bảnh hơn thứ chính hiệu,
của lũ mũi lõ.
Nói rõ hơn, thứ văn học viết bằng tiếng Anh, do đám
di dân viết, khác thứ văn học bằng tiếng Anh trước đó,
trước thời có hiện tượng di dân như trong thế kỷ vừa qua.
Chính là do không rành tiếng Mít của
đám Mít hải ngọai, đời thứ nhì thứ ba cái con
khỉ gì đó, trong khi tiếng Anh, thì cũng chỉ đủ để đọc,
viết, nói, thứ ngôn ngữ thông dụng thường ngày,
nên chúng chẳng viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào,
và dịch thì như hạch!
Đó là sự thực về văn học hải ngoại Mít.
Một thất bại khổng lồ!
Ngoài ra, đúng hơn, phải nói, trên hết,
còn vấn đề đạo hạnh.
Đạo hạnh, theo nghĩa của Brodsky: Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh
Và, vẫn ông, sống sót thường là do điếm thúi,
nhập nhằng, ít khi, do đạo hạnh.
Dịch
là chết ở trong hồn một tí
Trong bài "Nhân Văn" ("Humane Literacy", trong
"Ngôn ngữ và Câm lặng"), George Steiner viết:
"Đọc tới nơi tới chốn, là chấp nhận hiểm nguy. Điều
gọi là căn cước, sự tự chủ của chúng ta có thể bị thương
tổn. Trong những biểu hiện khởi đầu của chứng động kinh, có một giấc
mơ thật đặc trưng; Dostoevsky nói về nó. Con người như bị
nhấc bổng ra khỏi thân thể của mình; người đó nhìn
ngoái lại và cảm thấy một nỗi sợ bất thần, khùng điên;
một hiện hữu khác đang đi vô chính cái thân
thể của mình đó, và chẳng còn đường nào
để mà trở lại. Nỗi sợ khủng khiếp làm cho cái đầu cố
bật dậy, tỉnh giấc. Cũng vậy, khi chúng ta cầm trong tay một tác
phẩm lớn lao, văn chương hay triết học, tưởng tượng hay đề thuyết. Nó
có thể hoàn toàn chiếm hữu chúng ta, khiến chúng
ta [phải] bỏ đi lang thang, sợ hãi ngay chính mình,
không còn nhận ra mình. Người nào đọc "Metamorphosis"("Hóa
Thân") của Kafka, và nhìn vào gương không
rùng mình, người đó có thể đọc bản in, theo
nghĩa kỹ thuật của từ "đọc", nhưng thực sự là mù chữ, theo
đúng nghĩa của việc đọc."
Đọc đã vậy, nhưng chưa nguy hiểm bằng dịch. Không
chỉ chết ở trong hồn một tí, mà có khi còn mất
tiêu luôn linh hồn. Theo nghĩa đó, ở một chỗ khác,
George Steiner khẳng định, "Không thể có dịch thuật, ngoại
trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận." Một hiện hữu khác,
một linh hồn khác đang dọn vô "căn nhà hữu thể" (ngôn
ngữ), của mình.
Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta có
thể hiểu được tại sao người đọc thường mong ước có một bản dịch dễ
đọc (không nguy hiểm). Họ có thể chịu đựng được sự xâm
nhập của những từ, trước đây, như bóc ba ga, phanh, gác
đờ bu, hay bây giờ, Vifon, Fahaxa... vậy mà vẫn "không
chịu" những từ, thí dụ như Talawas.
Bởi vì, một cách nào đó, Talawas,
là đụng tới khủng hoảng tri thức luận. Người đọc vẫn mong ước, sự
ô nhiễm ngôn ngữ, nếu có, chỉ ở trên bình
diện "thực dụng", do chuyện hàng ngày, do nhu cầu ăn ở sinh
hoạt phải cần tới chúng.
Mô phỏng một câu của Hemingway, "Con người có
thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị khuất phục" (A man can be destroyed
but not defeated): ngôn ngữ có thể bị hủy diệt nhưng không
thể bị ô nhiễm. Và nếu nó bị ô nhiễm, thì
cũng chỉ ở bên ngoài, chưa đụng tới phần cốt tủy của nó.
Một diễn đàn như Talawas, là đụng tới cốt
tủy của ngôn ngữ Việt.
Trong
bài viết ngắn của ông về bạn mình, Cioran viết về từ
Lessness, của Beckett, dịch từ “Sans”,
tên 1 tác phẩm tiếng Tẩy của Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”,
bởi từ này, và một bữa, un soir, ông biểu bạn, tôi
không làm sao tìm ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương
đương với nó [tất nhiên, không phải từ “sans” mà
nó được dịch từ đó ra].
“Tôi không thể nào ngủ được nếu không kiếm ra
1 từ ra hồn, honorable. Thế là cả hai bù đầu kiếm, bằng cách
kết hợp những từ chung quanh hai từ sans,
và moindre. Và khi
từ giã, cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà, Cioran vẫn khổ với nó, cho đến lúc ông
bật ra ý nghĩ, hay là mò từ nguồn la tinh, và
ngày hôm sau, ông viết cho Beckett, cái từ sinéité, và tuyệt vời làm sao, cũng đúng
lúc đó, Beckett kiếm ra từ này.
Đúng là 1 giai thoại thần sầu. TV post sau đây, để
chứng minh, là không phịa ra.
Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable
forgé par Beckett, comme il a forgé l'équivalent allemand
Losigkeit. Ce mot de Lessness
(aussi insondable que l'Ungrund de Boehme) m'ayant
envouté , je dis un soir à Beckett que je ne me coucherais
pas avant d'en avoir trouvé en francais un équivalent honorable
... Nous avions envisagé ensemble toutes les formes possibles suggerées
par sans et moindre. Aucune ne nous avait
paru approcher de l'inépuisable Lessness, mélange
de privation et d'infini, vacuité synonyme d'apothéose. Nous
nous séparames plutôt décus. Rentré à la
maison, je continuai à tourner et retourner dans mon esprit ce pauvre
sans. Au moment ou j'allais capituler, l'idée
me vint qu'il fallait chercher du côté du latin
sine. J'écrivis le lendemain à Beckett
que sineité me semblait le mot rêvé. II
me repondit qu'il y avait pensé lui aussi, peut-être au même
instant. Notre trouvaille cependant, il faut bien le reconnaitre, n'en était
pas une . Nous tombâmes d'accord qu'on devait abandonner l'enquête,
qu'il n'y avait pas de substantif francais capable d'exprimer l'absence en
soi, l'absence à l'état pur, et qu'il fallait se résigner
à la misère métaphysique d'une préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.
Cái từ Everness, mà Borges chôm, để thay
thế cho từ Eternity, đã bị sử dụng đến nát bấy, chẳng phải,
dịch là sáng tạo ư?
Khủng nhất, là có thằng cha Gấu Cà chớn nào
đó, lại sáng tạo thêm 1 lần nữa, bằng cách chôm
Nguyễn Du, và nó biến thành “Mai sau dù có
bao giờ”.
Cái kiểu lộng dịch của Gấu, 1 cách nào đó,
cũng là sáng tạo bản văn, cho nó hợp với thời Cái
Ác Bắc Kít đưa nước Mít tới bờ huỷ diệt!
TÔI CHƯA CƯỚI VỢ MÀ!
Anh chàng Martinez mới gặp linh mục Đặng Hữu Nam, ngạc nhiên
nói: "Oh You look so young, I thought.." (ôi trông
cha còn trẻ quá, thế mà tôi cứ tưởng...).
Cha Đặng Hữu Nam tỉnh bơ nói: "of course, I'm not getting
married" (dĩ nhiên rồi, tôi chưa cưới vợ mà" ��
Tôi và Martinez cười sảng khoái vì câu
đáp độc đáo của ngài.
Tính hóm hỉnh hài hước của cha
Nam đã khiến không khí cuộc nói chuyện với
chàng phóng viên ngoại quốc về chủ đề Formosa trở
nên nhẹ nhàng hơn nó vốn có. Chính
sự hài hước tự nhiên trong những câu chuyện khô
khan đã làm nhiều người bất ngờ đến thú vị. Trong
công việc thì nguyên tắc nhưng tương quan nhân
vị thì lại tình cảm và những câu chuyện tiếu
lâm luôn làm cho các vị khách cười nghiêng
ngả. Thật ra đâu phải chỉ khách mới cười, anh em chúng
tôi ở với cha suốt cả năm trời mà khi nào cha kể
chuyện cũng cười không kịp nhặt răng.
Anh chàng Martinez trước khi về nước đã
nhắn tôi: cám ơn cha và anh rất nhiều. Đây
là lần đầu tiên đi làm phóng sự mà
được cảm thấy như ở nhà mình.
Tôi rất vui vì nghe được tâm tình
đó từ Martinez nhưng vui hơn vì học được điều đó
từ cha: đón tiếp tất cả mọi người với sự nồng nhiệt và nụ
cười của mình.
Of course, Kafka is not the
first writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his
art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness
with which he conceived of his role. Who else could have invented
the torture machine at the center of his frightful story “In the Penal
Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with a metal stylus into their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên, Kafka
đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không
phải nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc
mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ
nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce
[Xém 1 tí là thêm tên GCC vô!].
Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là,
loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có mỗi cú
đó, với “cái mình, cái đầu, cái
tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy vô có
mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai
trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài
Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung
tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới"
[xém thêm cái tên của nó, là
Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly
khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng cây
kim châm khắc mẹ bản án [le
mot just], vô da vô thịt họ.
GCC biết đến Banville, lần ông
đọc Nhà Hội của Amis, trên tờ NYRB. Tay này
cũng cực lạ. Viết tiểu thuyết, điểm sách, và có
vẻ như rất mê đám thiên văn học.
Note: Bài viết trên, GCC mua tờ báo,
tính giới thiệu & dịch, may sao thấy trên net,
qua địa chỉ của 1 vị bằng hữu. Tks. NQT
For a person as sensitive as Kafka
was, or at least as he presented himself as being—it is entirely
possible to view his life in a light other than the one he himself
shone upon it—inner escape was the only available strategy. “If we
are to believe his own personal mythology,” biographer Reiner Stac...
nybooks.com
Cuốn thứ ba, Những Năm Đầu Đời, lại xb sau hai cuốn trước,
và đây là do vấn đề pháp lý liên
quan tới thư khố Kafka.
Gấu mua hai cuốn trước, chưa có tiền mua cuốn mới
ra lò, và, ngại đọc quá.
Đọc bài điểm của Banville, vớ được 1 câu thần
sầu, post liền sau đây.
Stach tells us that Kafka "grouped his first literary endeavors
under a surprising watchword: coldness," and lamented: "What a chill
pursued me for days on end from what I had written!" It is not clear
why the biographer considers this surprising; the first and hardest lesson
an artist must learn is to curb the excesses of youthful ardor. A mark
of Kafka's greatness was the distance from himself that he achieved in
his writings from the outset. The remarkable story "The Judgment," composed
in a single sitting one night in 1912, which he considered his first
fully achieved work, is written at "degree zero," to use Roland Barthes's
formulation, and maintains a dreamlike steadiness and purity of tone,
despite its strongly autobiographical theme-the son humiliated and overborne
by the father-and the fact that it was done, the author himself wrote,
by way of "a complete opening of body and soul." Kafka always wrote out
of himself, and of himself, without ever imagining
that thereby he was directly expressing himself. The artist,
he once remarked, is the one who has nothing to say. "He would always
speak only of the act of writing as the truly precious element,"
Stach observes, "but not of the resulting works, which always conveyed
no more than a hazy image of the flash of creation."
In his diary in 1920 he wrote of a moment
when he had a clear glimpse of what would be for him the true creative
flame. He was sitting one day, "many years ago,… on the slope of
the Laurenziberg," the hill in the center of Prague that figures
in "Description of a Struggle," brooding on "the wishes I had for
my life":
The most important or the most
appealing wish was to attain a view of life (and-this was inescapably
bound up with it-to convince others of it in writing) in which life retained
its natural full complement of rising and falling, but at the same time
would be recognized no less clearly as a nothing, as a dream, as a hovering.
This artistic epiphany-remarkably reminiscent of that interrupted
moment in Beckett's Krapp's Last Tape when Krapp recognizes
that his aim must be to allow into his work the darkness he had always
struggled to keep out-is summed up beautifully by Stach when he writes:
"The presence of being and nothingness in one and the same moment, in
the same object or the same sentence, struck Kafka as a sign of perfection
that made life worth living." And art worth making
Sự hiện diện của hữu thể và
hư vô, trong một và cùng khoảnh khắc, trong cùng
1 sự vật, hay cùng 1 câu câu văn, thọi Kafka, như
là 1 ký hiệu của sự hoàn hảo, nó làm
cho cuộc đời đáng sống, và nghệ thuật đáng làm
ra.
Such anecdotes pierce the austere
image left by Kafka’s work. Mr Stach also effectively undermines
conventional views of Kafka as a prophet of the atrocities to come
(his three sisters died in Nazi concentration camps, as did two
of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks, Kafka
depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted individuals,
but not one
without hope.
Tờ Người Kinh Tế đọc
"Những năm đốn ngộ", [Kafka: The Years of Insight. By Reiner Stach], coi đây là tiểu sử chung quyết của Kafka, và qua tác giả cuốn sách,
Kafka không đến nỗi thê luơng như hậu thế thường nghĩ/đọc
ông.
Thế giới cũng không đến nỗi vô hy vọng, dù
chỉ một, not one without hope. (1)
Benjamin
nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka,
bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự
suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái
đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm
tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic, về cuộc đời: Thượng Đế
chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người.
'Ô, không phải đâu,' Kafka nói,
'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad
mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.'
'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài
cái thế giới mà chúng ta biết'.
Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà
sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ
một'.
Of course, Kafka is not the
first writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his
art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness
with which he conceived of his role. Who else could have invented
the torture machine at the center of his frightful story “In the Penal
Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with a metal stylus into their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu
phải nhà văn đầu tiên, càng không phải
nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc
mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ
nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce
[Xém 1 tí là thêm tên GCC vô!].
Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là,
loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có mỗi cú
đó, với “cái mình, cái đầu, cái
tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy vô có
mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai
trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài
Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung
tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới"
[xém thêm cái tên của nó, là
Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên
“ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng
cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô
thịt họ.
“Kim chích vô thịt
thì đau” là theo nghĩa này đấy!
Note: Trong bài viết,
khi điểm mấy cuốn mới ra lò về Kafka - Một Kafka Khác - Banville đánh
giá cao cuốn của Pietro Citati.
GCC khi mua, đọc cái bìa sau là đã
thú rồi!
Cũng trong bài điểm, Banville xoa đầu bạn quí
của Kafka, là Brod, người mà Kundera coi như đếch hiểu
1 tí gì về Kafka!
Banville phán, mặc dù mắc nhiều lỗi, nhưng
cũng được lắm. Khi biết bạn mình bị bịnh lao, Brod an ủi: “Bạn
sung sướng trong cái không sung sướng”.
Tuyệt!
Tính gửi tặng bạn quí
“NDTM” nhưng lại ngại!
Hà, hà!
Brod, though mistaken in some
things—his representation of Kafka as a religious writer, for instance—was
ever commonsensical. He largely had the measure of his friend, and
even after Kafka had been diagnosed with tuberculosis did not hesitate
to write to him with a flat rebuke: “You are happy in your unhappiness.”
In the matter of originality
of approach one should mention Pietro Citati’s Kafka (English translation
1990) and Robert Calasso’s K. (English translation 2005). These
are not biographies but deeply perceptive and poetic meditations on
the unique phenomenon that Kafka represented.
Người ta thấy “chàng” ngồi Quán Chùa
- ấy chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy chết
xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn -
ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng
bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có giờ học
ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ
tay, tự nhủ thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!