Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện [Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới, Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới, 1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về những
bài
viết liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở trên
Tin
Văn,
ngoại
trừ những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
En
attendant SN
Nhân thể, nhắc anh trong bản
dịch Naipaul, khúc cuối, có vài ý dịch sai khi K so bản tiếng Anh .
Sáng sớm hôm sau tôi đi, buổi
tối hôm trước má tôi làm bữa tiệc nhỏ mà chẳng khác chi đám tang. Người
nào tới mặt cũng buồn xo, và nói, rồi tôi sẽ nhớ họ biết
là chừng nào; rồi thì họ quên luôn tôi, bắt qua chuyện quan trọng: ăn
nhậu.
Laura ôm hôn tôi, và tặng
cái mề đay thánh Christophe. Nàng nói tôi đeo ở cổ. Tôi hứa sẽ làm, và
bỏ vào túi. Tôi không biết rồi nàng sẽ ra sao.
Bà vợ Bhakcu cho tôi đồng sáu "pence" đã được làm phép, và tôi nghĩ, khó
mà không tiêu đồng tiền làm phép đó.
Đúng ra là "họ sẽ nhớ tôi" , và " tôi không biết về sau cái mề
đay ấy lạc vào cái chỗ nào" . Và " cái đồng pence làm phép ấy trông chẳng
khác gì các đồng pence khác nên tôi nghĩ tôi sẽ tiêu nó".
Không có chi quan trọng .
Chỉ tiện thể thì ghi xuống vậy thôi , nhưng dịch đúng thì nét khôi hài
rõ hơn .
K
Tks
Khi tôi dịch, chưa có mua
bản tiếng Anh. Đọc bản tiếng Pháp, rồi dịch xong, không coi lại. Rồi cũng
quên luôn. Làm sao mà K. kiếm thấy nó, cũng tài thật. Đọc lại thì quả là
bồi hồi, nhớ những năm trời cực kỳ thê lương, nhưng khi qua được rồi,
thì lại thật là tuyệt vời.
Bà Thảo Trần cằn nhằn hoài,
sao không viết tiểu thuyết, nhưng khi đọc cái đoạn xém nhảy xuống sông Cai
Lậy, tự vận, khi vừa mới cưới, từ Sài Gòn trở về lại Cai Lậy, một mình,
thằng chồng bỏ đi Đà Lạt, buồn quá, giận quá, bèn ra lệnh, thôi, đừng
viết nữa, đau lòng thêm 1 lần nữa.
Hà, hà!
Tks again
NQT
TTT 10 years Tribute
http://www.tanvien.net/tribute/5_nam_2.html
Note: Số
báo này O gửi. Tks. NQT
Bài
trả lời phỏng vấn Le Huu Khoa, “Thơ giữa chiến tranh..”, nằm trong loạt
bài của Le Huu Khoa, có tên chung là Mảng Lưu Vong, 1995.
Le Magazine Littéraire, Văn chương và Trại Tù, Tháng Giêng,
2005.
TTT ra đi tháng 3, 2006.
Gấu tin rằng, nhà thơ chưa đọc số báo Le Magazine Littéraire trên, vậy
mà bài viết của ông nằm vào đúng dòng đó.
Một bên, là Lò Cải Tạo: Thơ giữa chiến tranh và Trại Tù
Một bên là Lò Thiêu: Văn chương và Trại Tù
Trong
những kỳ tới, TV sẽ giới thiệu một số bài quan trọng trong số báo
trên.
Họ gọi tên cái không thể gọi tên, Ils ont nommé l’innomable, par Pierre Mertens.
Văn hóa thì đi đời nhà ma ở trong trại tù
ư?, La culture est-elle morte à Auschwitz? par Theodor W. Adorno.
Cuộc du ngoạn lớn của hồi ức. Le grand voyage de la mémoire, par Jorge Semprun…
Và, áp dụng câu phán của Adorno
vô hoàn cảnh và thực tế Mít, đề xuất vấn nạn: Giả như cố đấm ăn xôi,
hăm hở viết, sau Lò Cải Tạo, thì cái sản phẩm đó, có thể coi là văn
chương Mít?
Nó rõ hơn, giả như cứ vờ câu
hỏi “Tại sao Lò Cải Tạo”, viết “như chẳng có gì xẩy ra”, “không chịu
chọn đừng”, thì được cái gì?
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu
Tôi nhớ bấy giờ là cuối năm
1970. Phạm Công Thiện, trong tư cách khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh,
lên đường đi Âu châu dự một hội nghị đại học quốc tế rồi đi luôn không bao
giờ còn trở về Việt Nam nữa. Hết thảy chúng tôi đều sững sờ, khó hiểu.
Riêng Thanh Tâm Tuyền không. Bảo tôi: “Anh phải nhìn thấy sớm muộn rồi Phạm
Công Thiện cũng phải một lần bỏ đi như thế, đi hẳn thật xa, mất tích. Có như
vậy mới đúng là Phạm Công Thiện. Chúng ta ít nhiều là những định tinh. Hắn
hơn là một hành tinh. Hắn là một ngôi sao băng”. (Mai Thảo, Chân Dung: Mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam,
Văn Khoa xuất bản, California, 1985, pp. 146–147).
Source
Cái chuyện PCT bỏ đi xa, đi hẳn
thật xa, mất tích, theo Gấu, không thực sự bảnh như TTT phán.
Bảnh là phải như Kiệt, trong MCNK cơ. Bỏ đi rồi lại bò về để chết.
Vả chăng, MT phán, cũng đáng
nghi lắm. Trí nhớ của ông có vấn đề, theo Gấu.
Gấu có tí kỷ niệm về PCT.
Khi đám “tiểu thuyết mới” nổi
đình nổi đám, có lẽ ông bực, và đi 1 đường chửi mấy tên, bò vô nhà sách Xuân
Thu, mua tờ báo Tây, ra đường, cặp nách, nhún nhảy, rồi tạt vô Quán Chùa.
Hình ảnh này, là từ Người Đi Trên Mây, theo Gấu. Anh có dáng điệu
nhún nhảy đúng như PCT mô tả.
Hình như PCT cũng thấy mình hơi lố, bèn thòng 1 câu, tôi chửi chúng
cũng là chửi tôi.
Ông biết, cái viết của ông, thực sự là cũng của thiên hạ.
Kỷ niệm kia, là về Simone Weil.
Gấu hồi đó, tiếng Tây ăn đong, làm sao đọc nổi Weil. Đọc PCT, thấy chê Weil
quá cỡ thợ mộc. Bèn bỏ qua tác giả này.
Rõ ràng là PCT không đọc, chưa từng đọc, hay có đọc mà chẳng thể
nào hiểu nổi, Weil.
Thầy của ông là Henry Miller, nhưng sau này, Gấu đọc Miller, thấy
PCT cũng chưa đọc thấu tay này, mà chỉ gãi ghẻ. Miller dám sống, và sống
tới, viết tới, hơn PCT
PCT bảnh nhất, theo Gấu, như 1 thi sĩ. Đúng ra ông chỉ nên làm thơ,
và dịch sách. NQT
Trường hợp PCT làm GCC nhớ
tới Alain, và lời phán thật tuyệt của ông, trong lúc hơi có tí tự hào về…
con người:
Man is not merely
one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm
hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
PCT lúc còn trẻ,
cực kỳ kiêu ngạo [như ông viết, và được trích dẫn, trong bài viết “nguồn”
nêu trên], nhưng do ông sợ cuộc chiến quá, bỏ chạy, thế là trúng thương,
và đếch làm sao viết được nữa: ông “sống sót”, ngược hẳn ý của Alain, mà
đúng như của Brodsky, khi phán:
"Virtue, after all, is far from
being synonymous with survival; duplicity is."
J. Brodsky: "Collector's Item"
Đạo hạnh mắc mớ gì tới sống
sót? Nhập nhằng, điếm thúi đồng nghĩa với nó
Cesare Pavese,
viết, “Buồn ơi là buồn, khi làm hỏng những giấc mộng của đời mình, bằng
cách thực hiện chúng”. (1)
GCC đã từng chép
tặng PD, câu phán tuyệt vời này, khi ông mất.
Câu của CP, một
cách nào đó, cũng có thể áp dụng vào trường hợp PCT.
(1)
“Il est une chose plus triste que
d’avoir raté ses idéaux: les avoir réalisés”
Cesare Pavese, Le Métier de vivre,
Nghề sống
Cả 1 lũ, cả 1 thế hệ, tinh anh
Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, không tên nào ra hồn, 1 cách
nào đó, đều “sống sót”, theo nghĩa câu của Brodsky: Một lũ điếm thúi.
Đâu phải tự nhiên VC cấm cửa
chúng, không cho trở về lại xứ Mít?
MT có thể coi là người độc
nhất, trong nhóm ST - nếu không tính tới Ngọc Dũng, đi trước 30 Tháng Tư,
1975 - sống sót cuộc chiến Mít, sau 1975, ông không đi tù VC, và vượt biển,
qua xứ Người sớm sủa, làm bạn với PCT, nghe nói, có hồi, cùng mê 1 em,
và đã từng đánh lộn với nhau, vì bướm này.
Ông nhớ lại TTT nói về PCT
theo Gấu, là cũng để xoa đầu bạn quí PCT.
Với MT, TTT kể như chết rồi, nên ông nhớ “bậy” về bạn, như TV đã từng
khui ra: Ông lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ, cũng trong cuốn sách được đám
Hậu Vệ nhắc tới, “Chân Dung nhà văn” cái con mẹ gì đó.
Cả cái vụ viết về DNM, rằng
ông [MT] nhặt truyện ngắn đầu tay của DNM trong sọt rác 1 tòa soạn báo văn
học Xề gòn, cũng rất đáng ngờ! DNM, còn sống, có lẽ nên đi 1 đường về cú
nhớ này, nên chăng? NQT
[Note: MT nhớ bậy. Chẳng hề có chuyện nhặt truyện ngắn DNM
từ sọt rác, như 1 tay,
trên blog NL cho biết]
Thơ Mỗi Ngày
Chế Lan Viên qua
Lê Phú Khải
http://vanviet.info/van/hoi-k-l-ph-khai-loi-ai-dieu-ky-8/
Note: Đọc, thì bèn nhớ ra bài này,
trên Người Kinh Tế: Nghệ Thuật Ai Điếu
Thua hết, so với
câu phán của Brodsky. Ai điếu là thuốc thử đạo hạnh của 1 tên viết lách.
Bèn nhận ra, ông anh nhà thơ và thằng em cà chớn có điểm giống nhau,
ông anh đi tù VC và bèn được đám bạn quí coi như chết rồi, và bèn bịa ra
giai thoại để xeo phi.
Gấu, dính Cô Ba 1 phát, là mỗi tên bạn có sẵn ngay 1 bài ai điếu, chờ
đọc!
Không gì cứu được loài bán nước
Không cứt nào cứu được bọ hung!
Chế Lan Viên
Tuyệt!
Đúng là đòn "gậy ông đập lưng ông"!
Georgy Ivanov (1894-1958)
Along with his fellow emigre, Marina Tsvetaeva, Georgy Vladimirovich
Ivanov is one of the very greatest Russian poets of the last century.
As a young man he had been close to the Acmeists. For several
years after settling in Paris with his wife (the poet and memoirist Irina
Odoevtseva) Ivanov wrote little, but in the late 1920s he began the poems
for which he is remembered - poems of brilliant despair that at once anticipate
Existentialism and look back to the French Symbolists, and to their Russian
translator, Innokenty Annensky. Ivanov went on writing more and more subtly,
his perfect mastery of traditional form offsetting an ever more startling
emotional directness. He composed much of his finest work during his last
few months, when he knew he was dying.
Ivanov was a controversial figure. He enraged Akhmatova,
Nadezhda Mandelstam and others by publishing a memoir, Petersburg Winters,
that mixes fact, rumor and personal fantasy and was taken more literally
than Ivanov intended. He was accused of Nazi sympathies, although he had
been writing thoughtfully, from as early as I933, of the dangers of Nazism
and the temptation it held for Russian emigres. He was even accused of complicity
in a murder in St Petersburg - a false rumor that pursued him nearly
all his life as an emigré.
This hostility towards Ivanov can best be understood as
symptomatic of a general malaise. The Russian emigrés were as cut off from
French culture as from the Soviet Union. Most French writers - both before
and after the Second World War- were pro-Soviet and they and the emigres
looked on one another with suspicion. In their isolation the Russians were
all too prone to feuding, and Ivanov fought his corner fiercely, although
a recent biographer calls him a 'lamb in wolf's clothing'.
Until the last years of the Second World War the Ivanovs
were wealthy; Odoevtseva's father, a rich lawyer in Riga, supported them
during their first decade in Paris and left Odoevtseva a large inheritance
when he died in 1933. Much of the hostility directed at the Ivanovs was
probably inspired by envy. But by the end of the war they were penniless.
Their gold had been stolen; their fine villa in Biarritz had been destroyed
during an Allied bombing raid and - with Latvia now a part of the Soviet
Union - there was no more income from their property in Riga. In 1955
the Ivanovs had to leave Paris. From then until Ivanov's death they lived
not far from Nice - in a home for old people with no citizenship.
Poems I943-58 - the last book Ivanov himself prepared
- came out soon after his death. Odoevtseva then compiled the cycle 'Posthumous
Diary', writing down some poems from memory. G. S. Smith writes of Ivanov's
last poems: 'An ageing, careworn man, almost always alone and speaking to
himself (except in a few love poems, among the most delicate ever written
in Russian), quietly probes the balmy-rosy atmospheric permutations of an
alien Mediterranean coastline into which remembered snowstorms threaten
to intrude. Among provocatively offhand gestures about the pointlessness
of it all, potentially redemptive values drift in with the snow, evoked and
guided by the formal mastery of their verbal articulation.’
In summer 1918 Maxim Gorky initiated an ambitious publishing venture:
'World Literature'. Its aim was to make the great works of world literature
accessible to the masses and also to provide a source of income for Petrograd's
starving writers and scholars. Many important writers - Blok, Mandelstam,
Gumilyov, Khodasevich, Zamyatin, Chukovsky - were involved. Among the
poets Ivanov translated were Gautier and Baudelaire and (with the help of
a crib) Wordsworth, Coleridge and Byron. His rhythmically inventive translation
of Coleridge's 'Christa bel' , edited by Gumilyov, always remained important
to him; Ivanov revised it over the decades and was trying to republish
it as late as 1953.
In 1956 Ivanov referred to Kuzmin as 'the teacher of my
youth' earlier, in Petersburg Winters, he wrote that Kuzmin had taught
his generation to celebrate the everyday - calmly, intimately, without the
hysteria of the Symbolists. In several late poems he remembers Gumilyov
and Mandelstam; he seems never to have broken off his inner dialogue with
both. Ivanov's post-war work, always in traditional forms, is startlingly
fresh in its colloquial diction; some poems are as simple and music- ally
perfect as the best of Verlaine; others as bold in their thoughts and
imagery as the later work of Paul Celan. In Poems I943-58 Ivanov alludes
several times to 'I go outside to find the way', Lermontov's eloquent expression
of a sense of isolation from other human beings and of unity with the cosmos;
having to learn this poem by heart, at the age of fifteen, was the beginning
of Ivanov's love of poetry.In his very last poems Ivanov, like so many Russian
poets before him, turns to Pushkin: 'Posthumous Diary' opens with one of
the most moving poems ever addressed to him.
It's good that Russia has no Tsar,
It's good that Russia has no Tsar,
it's good that Russia's just a dream,
it's good that God has disappeared,
that nothing's real, except the stars
in icy skies, the yellow gleam
of dawn, the unrelenting years.
It's good that people don't exist,
that nothingness is all there is,
that life's as dark and cold as this;
until we couldn't be more dead,
nor ever were so dark before,
and no one now can bring us aid,
nor even needs to any more.
(1930)
Stephen Capus
Giá mà xứ Mít đừng có Vua Hồ
Giá mà xứ Mít chỉ là giấc mộng
Phê bình gia Mít
Lịch sử tan
rã ra bằng hình ảnh, không phải bằng tự sự."
"History decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin
Hình
ảnh mấy nấm mồ che tầm nhìn, đằng sau nó, là biển cả trấn ngự,
và cùng với nó, là tất
cả tai ương Mùa Biển Động, của dân Mít, mà không nói hết ra
được thảm họa
Bắc Kít chiếm nước Mít bây giờ ư?
Hình ảnh mấy nấm mồ, quá cả lịch sử, theo nghĩa
quá khứ, còn cưu mang trong nó, tương lai, hy vọng.
INTERVIEWER: Do you make
a distinction-as E. M. Forster does-between "flat" and "round" characters?
HEMINGWAY: If you describe someone, it is flat,
as a photograph as, and from my standpoint a failure. If you make
him up from what you know, there should be all the dimensions.
Nếu bạn miêu tả một ai đó, bèn bẹt, như là 1
tấm hình, theo quan điểm của tôi, thì đó là 1 thất bại. Nếu bạn
viết về người đó, quá người đó, quá cái mà bạn hiểu về người đó, thì
đó mới là thần sầu
The Paris Review, May 1954.
Đây là cái mà GCC gọi là viễn ảnh, của 1 bài
viết
Một khi bạn không có cái viễn ảnh, cho bài viết
của bạn, thì kể như bài viết vứt đi.
Walter Benjamin phán, bảnh nhất:
Lịch sử rã ra bằng hình ảnh, không phải bằng tự sự
(1)
Viễn ảnh, có khi nằm ngay trong
bài viết, của 1 tác giả, và, nếu bạn là phê bình gia, bạn phải lôi
được nó ra.
Hình ảnh anh chàng lỡ độ đường, ôm cái bọc quần
aó, đứng lom khom bên lu nước, in lên bầu trời, mỗi lần hoả châu rực sáng, trong Dọc Đường, của TTT,
không ai dám chứa anh ta, chẳng phải là hình ảnh 1 tên Mít, vượt
biển, không nơi nào
dám chứa, nhận... ư?
Đâu chỉ xứ Mít?
Hình ảnh mấy nấm mồ che tầm
nhìn, đằng sau nó, là biển cả trấn ngự, và cùng với nó, là tất cả tai ương Mùa Biển
Động, của dân Mít, mà không nói hết ra được thảm họa Bắc Kít chiếm
nước Mít bây giờ ư?
Hình mấy nấm mồ, quá cả lịch sử, theo nghĩa quá khứ,
còn cưu mang trong nó, tương lai, hy vọng.
(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/NMG_1.html
"Lịch sử tan rã ra bằng hình
ảnh, không phải bằng tự sự." ["History decomposes into images, not
into narratives." Walter Benjamin, trích dẫn bởi Coetzee].
Hình ảnh cái đầu khổng lồ rã ra từ một bức tượng khổng
lồ của Lênin. Hình ảnh một con người chặn cả đoàn xe tăng ở quảng
trường Thiên An Môn. Cái bóng (có thực, hoặc tưởng tượng) của một người
đàn ông lỡ độ đường, lom khom với bọc quần áo, in lên nền trời, mỗi
lần hoả châu rực sáng, trong truyện ngắn "Dọc Đường" của Thanh Tâm Tuyền.
Pleiku - Chút Gì Để Nhớ
Bài này mới thần sầu. GCC
khám phá ra tác giả HH, qua bài này.
Trong bài viết, Pleiku
là thành phố tưởng tượng, vì đã tới đó bao giờ đâu. Nhưng mấy nơi chốn
kia thì có thực, vì đã từng thăm viếng.
Dùng cái thực để dựng lên cái ảo, thế mới tuyệt.
Trước khi thấy
biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị
nạn.
"Khói củi ướt nhóm trong
lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương"
Thực.
Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều
quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên mắt em ướt. . .
Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong
bài thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Ảo
Được Ông Gấu khen thì đúng
là lên thiên đàng!
Tks again
Take care
NQT
Note: Cái tên Lang Băm đâu có biết
là GCC đọc Bà Tám, ngay khi vừa xuất hiện?
Đọc Lê Minh Hà, khi cả xứ Bắc Kít chê, hoặc chưa
hề nghe nói tới...
Ngay cả Nhà Có Cửa Khóa, thì cũng GCC khám phá
ra, khác hẳn cái em ông tiên chỉ VP nức nở khen cái xì...
Chẳng cần
tới Lạc Đạn, Trần Thị NgH đã nổi tiếng. Trong bài viết "Nhìn lại
văn chương hải ngoại năm 1999" (đã đăng trên tuần báo VHNT trên internet,
do Phạm Chi Lan chủ trương), người viết có đưa ra nhận xét, đây là một
năm được mùa. Mùa gặt mới trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt
của một tác giả như Trần Thị NgH. Một tác giả trước 1975 tại Miền Nam,
vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách ở Sài Gòn, với truyện ngắn
Nhà Có Cửa Khoá Trái. Theo tôi, truyện đầu tay của bà là về một người
đàn ông có vợ, nhân bữa chủ nhật được nghỉ, đi thăm một người đàn bà không
chồng nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho
đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn còn nhớ cái cảnh cô đơn của
người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc tây, trước
cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Truyện được viết bằng một giọng
văn rất trung tính (neutre), rất không độ ("Không độ của cách viết", Roland
Barthes), không lạm dụng những thủ pháp tu từ, không thảm kịch hóa hoàn
cảnh, không có chất ngổ ngáo, rất NgH như nguời ta thường nhận định về bà.
Sách
Báo
Viết
mỗi ngày
Quỉ tại
gia: Khi Borges dùng bữa tại nhà Bioy Casares
ML
Sept 2007
« On ne fait pas de la bonne littérature
avec de bons sentiments», - disait Gide. Dont acte. La littérature a
partie liée avec le mal, avec toutes les catégories du mal, des turpitudes
les plus béniqnes à l'avilissement absolu. Haines familiales, trahisons,
perversions, tortures et crimes: la part maudite de la condition humaine
qui hante l'écrivain n'a pas de limites. Jusqu'au mal absolu que répresente
l'épisode nazi, et dont ce dossier inventorie les avatars romanesques.
Comment écrire et penser après Auschwitz ? C'était la question
que nous posions dans un précédent dossier du Magazine littéraire
(n" 438, janvier 2005), consacré à la littérature sur les camps nazis.
Il s'agissait de montrer comment les rescapés des camps, d'abord paralysés
par le souci d'oublier, d'effacer, de taire, choisissaient de se faire entendre
et de raconter l'indicible. Travail de mémoire, relevant le plus souvent
du témoignage, qui a donné lieu à des chefs-d'oeuvre littéraires, de Primo
Levi a Robert Antelme.
La période nazie dans son ensemble a aussi fourni la matière
à de grands romans. Nous avons voulu dans ce nouveau dossier en dresser
le panorama et suivre l'évolution des questionnements qui les sous-tendent
depuis 1945. Ces romans, loin de trahir la cause de la mémoire, parviennent
à rendre encore plus présentes et poignantes les tragédies qu'ils décrivent.
Albert Camus, dans La Peste, fut l'un des premiers, dès l’après-guèrre,
à traiter du Mal nazi, sous le couvert d'une sorte de fable philosophique.
Soixante ans de romans, dans les registres les plus divers, suivirent.
De la littérature des ruines, marquée par la culpabilité allemande,
jusqu'aux Bienveillantes de Jonathan Littell où l'auteur,
pour dire l'horreur, donne la parole au bourreau et non plus à ses victimes,
l'histoire de l'Allemagne nazie a ainsi éte inlassablement explorée et réinterprétée
à travers ses décors, ses
thèmes, ses personnages. Cette rentrée littéraire, qui court après l'écrasant
succès des Bienveillantes, apporte encore son lot de romans sur
le sujet, et pas des moindres: Norman Mailer, William T. Vollmann, Philippe
Claudel et d'autres auteurs moins confirmés ont plongé dans ce passé barbare
pour en ramener de noires pépites. Le Mal nazi n'a pas fini de hanter
nos esprits. •
THE SURVIVOR
to B. V.
Dopo di allora, ad ora
incerta,
Since then, at an uncertain
hour,
That agony returns:
And till my ghastly tale
is told,
This heart within me burns.
Once again he sees his companions'
faces
Livid in the first faint light,
Gray with cement dust,
Nebulous in the mist,
Tinged with death in their
uneasy sleep.
At night, under the heavy burden
Of their dreams, their jaws
move,
Chewing a nonexistent turnip.
"Stand back, leave me alone,
submerged people,
Go away. I haven't dispossessed
anyone,
Haven't usurped anyone's bread.
No one died in my place. No
one.
Go back into your mist.
It's not my fault if I live
and breathe,
Eat, drink, sleep and put on
clothes."
Kẻ sống sót
to B.
V.
Dopo
di allora, ad ora incerta,
Kể từ đó, đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối đó trở lại,
Và cho tới khi câu chuyện thê lương của tôi được kể
Trái tim này trong tôi bỏng rát.
Một lần
nữa, anh ta nhìn thấy những khuôn mặt của bạn đường
Tái nghét trong tia sáng đầu tiên nhợt nhạt
Xám xịt với bụi xi măng
Âm u trong sương mù
Tẩm mùi chết trong giấc khó ngủ của họ
Đêm, dưới sức nặng của những giấc mơ
Hàm của họ chuyển động
Nhai một mẩu củ cải đếch có, đếch hiện hữu
“Lùi lại, hãy để cho ta yên thân, lũ người ngập ngụa.
Đi chỗ khác chơi
Ta đếch có tước đoạt, chiếm hữu của bất cứ một ai
Không cướp bánh mì
Không ai chết ở chỗ của ta. Không ai
Hãy trở lại khối sương mù của lũ mi
Đâu có phải lỗi của ta, nếu còn sống, và thở,
Ăn ngủ đụ ị, và mặc quần áo”
Preface
Writing and publishing If
This Is a Man (1960) and The Truce (1965) marked a decisive
turn in my life, and not only my life as a writer. For several years
afterward, I had the feeling that I had performed a task, indeed the only
task clearly defined for me. At Auschwitz, and on the long road returning
home, I had seen and experienced things that appeared important not only
for me, things that imperiously demanded to be told. And I had told them,
I had testified. I was a chemist, I had a profession which gave me a living
and wholly absorbed me, I did not feel the need to write anything else.
But things have not gone
that way. With the passing of the years, writing has made a space
for itself alongside my professional activity and I have ended up by
switching to it entirely. At the same time I realized that my experience
of Auschwitz was far from exhausted. I had described its fundamental
features, which today have a historical pertinence, in my first two books,
but a host of details continued to surface in my memory and the idea
of letting them fade away distressed me. A great number of human
figures especially stood out against that tragic background: friends,
people I'd traveled with, even adversaries-begging me one after another
to help them survive and enjoy the ambiguous perennial existence of literary
characters. This was no longer the anonymous, faceless, voiceless mass
of the shipwrecked, but the few, the different, the ones in whom (if
only for a moment) I had recognized the will and capacity to react, and
hence a rudiment of virtue.
In these stories, written
at different times and on different occasions, and certainly not
planned, a common trait seems to appear: each of them is centered on
one character only, who never is the persecuted, predestined victim,
the prostrate man, the person to whom I had devoted my first book,
and about whom I had obsessively asked myself if this was still a man.
The protagonists of these stories are "men" beyond all doubt, even if the
virtue that allows them to survive and makes them unique is not always
one approved of by common morality. Bandi, my "disciple," draws strength
from the blessed gaiety of believers, Wolf from music, Grigo from love and
superstition, Tischler from the patrimony of legends; but Cesare draws his
from unbridled cunning, Rumkowski from the thirst for power, Rappoport
from a feral vitality.
Rereading the stories
I notice another peculiarity: the scenarios that I selected spontaneously
are hardly ever tragic. They are bizarre, marginal moments of reprieve,
in which the compressed identity can reacquire for a moment its lineaments.
The reader may be surprised
at this rediscovered narrative vein, thirty or forty years after
the events. Well, it has been observed by psychologists that the survivors
of traumatic events are divided into two well-defined groups: those
who repress their past en bloc, and those whose memory of the offense
persists, as though carved in stone, prevailing over all previous
or subsequent experiences. Now, not by choice but by nature, I belong
to the second group. Of my two years of life outside the law I have
not forgotten a single thing. Without any deliberate effort, memory
continues to restore to me events, faces, words, sensations, as if at
that time my mind had gone through a period of exalted receptivity,
during which not a detail was lost. I remember, for example, as they would
be remembered by a tape recorder or a parrot, whole sentences in languages
I did not know then; and don't know now. A few years ago I met, after thirty-five
years, a fellow prisoner with whom I had not had any special friendship,
and I recognized him immediately in the midst of a great number of unknown
faces, although his physiognomy was greatly changed. Smells from "down
there" startle me even now. It seems to me obvious today that this attention
of mine at that time, turned to the world and to the human beings around
me, was not only a symptom but also an important factor of spiritual and
physical salvation.
It is possible that the
distance in time has accentuated the tendency to round out the facts
or heighten the colors: this tendency, or temptation, is an integral
part of writing, without it one does not write stories but rather
accounts. Nevertheless, the episodes on which I have built each of
these stories actually did take place, and the characters did exist,
even if, for obvious reasons, I have often changed their names.
Primo Levi
Lũ Mít, ai không biết, riêng
với GCC, đọc/viết không
phải là duyên mà là... họa!
Cái đọc trước 1975, là để rước cái họa Lò
Thiêu sau này!
Là, để vào lúc, tới được
Xứ Lạnh, vô thư viện Toronto
và cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner!
Primo Levi phán y chang:
Viết và cho xb Đây có phải là 1 người,
và Hưu Chiến, đánh 1 cái dấu quyết định lên đời tôi,
không chỉ như là 1 nhà văn...
Kafka mà không thế ư. Ông Trời năn nỉ thiếu
điều lạy lục tôi, đừng viết.
NO!
14 What Makes Kafka Cry
Crying is especially alarming
for me. I cannot cry. When other people cry, it seems
to me like a strange, incomprehensible natural phenomenon.
Only once in many years have I cried, two or three months ago,
but it made me shake in my armchair, twice in a row, and I was
afraid that I would wake my parents in the next room with my uncontrollable
sobbing; it happened at night, and the cause was a passage
in my novel.
It was
one of Kafka's true idiosyncrasies that he was much
more easily moved by the fates of other people than by
his own suffering-and it didn't matter whether those people
were real or fictional. This only strengthened Kafka's sense
that he had no true connection to real life at all. “I am able
to enjoy human relationships, but not to experience them,”
he wrote to his fiancée Felice Bauer in 1913, after a movie
had brought him to tears. Since the same thing happened to him
at another cinema just two weeks later-when he was in the midst of
a serious crisis-one can easily assume that the sad scenes in these
movies gave Kafka emotional access to his own grief.
In two cases,
texts that brought Kafka to tears can be identified
precisely. "Sobbed over the report of the trial of 23-y.o.
Marie Abraham," he noted in his diary, "who strangled her
almost 3/4-year-old child Barbara due to poverty and hunger, using
a man's tie that she'd been wearing as a garter. Very formulaic
story."
The word
"formulaic" is striking here, since it would generally
be used to describe the quality of a plot. But repeated
thousands of times, this social formula made the "story"
just as bleak for Kafka as a cheap novel. The jurors seem to have
seen it the same way. As the exhaustive account in the
Prager Tageblatt (published the evening before Kafka's
thirtieth birthday) attests, they not only acquitted the servant
girl of the crime, they also spontaneously collected money for
her.
Several
years later, in autumn1916, Kafka wrote to Felice
Bauer: "At one point I had to stop reading and sit on the couch
and cry out loud. I hadn't cried in years." His reference
is to Arnold Zweig's drama Ritualmord in Utigarn
(Ritual Murder in Hungary), which
in fact he generally viewed quite critically. However, toward
the end of the play, there is a powerfully moving scene in which
the mother of the murder victim, now blind and resigned to her
fate, unwittingly meets her daughter's killer and takes him for
a benefactor.
There seems
to have been only one occasion when Kafka entirely
lost his composure in the presence of others: after bidding
his final farewell to Felice Bauer. On that day, in late 1917,
he turned up unannounced at the office of Max Brod, who later
described the scene in his biography of Kafka: "Just to rest for
a moment, he said. He had just taken F. to the train. His face was pale,
firm, and severe. But suddenly he started crying. It was the only
time I ever saw him cry. I will never forget that scene-it was one
of the most horrible things I have ever experienced."
The next day, Kafka
wrote to his sister Ottla that he had cried more
that morning than in all the years since his childhood.
My Old Saigon
http://tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html
Quán Chùa (La Pagode) là một
địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài Gòn trước đây. Theo các miêu
tả thời đó thì đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc một "thế hệ mới"
trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca
(bản Nam Cường, 68), Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:
Cái sự kiện Gấu hay ngồi ở
Quán Chùa, và đám bạn cũng kéo nhau ra đó, hoàn toàn là do "ngẫu nhiên,
tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!
Gấu làm cho UPI, trụ sở số 19
Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một đầu đâm ra Chợ Cũ, một
ra bùng binh bờ sông, có bức tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra
biển. Sáng sớm, Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ 8 giờ
sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước
rồi.
Khi không có hình, Gấu bèn ghé Quán Chùa.
Tuy nhiên, cái sự kiện hay ngồi
Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám
nằm vùng, trong có đấng Lữ Phương. Ông này dùng từ “viễn mơ” để chửi
đám Gấu. Không chỉ hay ngồi Quán Chùa, đếch biết đến nỗi quê hương bị Mẽo
dầy xéo, vân vân và vân vân, mà còn thờ phụng thứ văn chương hiện sinh,
ăn phải cứt mũi lõ, bày đặt tiểu thuyết mới này nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng, thực sự tham chiến!
Rồi tới PCT!
Ngồi Quán Chùa, gọi 1 ly cà
phê, 1 cái bánh croissant, rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở
những quán khác. Và do Gấu cày hai jobs, thường là Gấu trả tiền, thời
đó chưa có cái trò “kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo. Chẳng thế mà
có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em, cũng lính tráng, sĩ quan, bây giờ, khi
gặp lại ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra Quán Chùa, thấy anh ngồi đó, là "yên chí
lớn" rồi!
Khi nào thèm bún ốc, thèm
phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì, thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại
về Quán Chùa uống cà phê.
Sau này, ra hải ngoại, Gấu
vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm ngó dung nhan Cô T, là vậy. Giả như
quen biết từ hồi đó, biết đâu số phận lại khác đi, Cô T, có ông chồng tử
trận, Gấu có thằng em, chẳng thua, nhưng, biết đâu nhờ vậy, Cô không quen
cái băng Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ - ma cà rồng, quỉ, kên kên... đúng
hơn - sống bằng xác chết của ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng
ra tiền”, biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ "Việt Nam" như bà Ba Lan, Nobel
văn chương!
Hà, hà!
Thê thảm nhất, là lần ghé
Quận Cam, cùng lúc Cô T cũng từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp, vừa
uống cà phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói, anh tới chỗ… bữa nay ra mắt sách
của băng Cờ Lăng. Ui chao, Gấu có bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!
[Khúc này viết để gửi tri
kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]
Note: Có 1 quán, một cái xe
đẩy, đúng hơn, bán bún ốc, tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa soạn AP, bên
trong Passage Eden. Bà chủ xe
bún ốc, có lần cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày, gia đình quây cót,
nuôi trong nhà, không cần phải đi chợ.
Ngồi ăn, nhìn ra, là thấy
Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở lại Quán Chùa, tiếp bạn quí!
Note: Hai bài viết, đang Top
Ten, theo server, là cũng về Xề Gòn, bạn bè ngày nào:
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|