*


Nguyễn Quốc Trụ

 

 

Naipaul

 

Bằng cách nào tôi bỏ Phố Miguel

                       Gửi Sài Gòn, và quãng đời sa sẩy tuyệt vời của tôi.
                                                                                 NQT

*

 

 

Má tôi bảo tôi:

-Mày sắp thành thằng ăn hại ở đây rồi đấy. Tao nghĩ đã đến lúc mày phải đi thôi.

-Nhưng đi đâu mới được chứ hả má? Tới Venezuela?

-Không, không được. Vừa xuống tầu là họ tóm mày liền. Tao quá rành mày, và tao cũng quá rành Venezuela. Không, một nơi nào khác thì được.

-Được thôi, má cứ suy tính đi, rồi quyết định cho con.

-Pandi Ganesh là bạn của ông già mày, bà nói tiếp. Tao sẽ đi gặp ông ấy. Mày phải bỏ nơi này. Chẳng mấy nỗi, sắp trở thành một thằng vô tích sự thực sự rồi đấy, bà lập lại.

Cứ cho là bà có lý đi, tôi nghĩ vậy. Cứ như ma đưa lối quỉ dẫn đường, tôi sa chân lúc nào không hay. Tôi uống như hũ chìm, và làm khá bộn chuyện khác. Tôi làm quen ma men hồi làm nhà đoan. Thì cũng tại tịch thu toàn rượu ngon, lý do tịch thu lại càng không cần. Thoạt đầu, chỉ nội ngửi mùi rượu là đã muốn ói, nhưng tôi tự nhủ: "Mày phải chế ngự mày thôi. Hãy uống thứ thuốc này đi. Hãy nhắm mắt nhắm mũi mà uống." Cứ thế, tôi trở thành một bợm nhậu thực thụ, và tôi bắt đầu đau, nỗi đau kiêu ngạo, của mấy thằng ghiền.

Rồi thì Boyce và Errol giới thiệu tôi những ngõ ngách của thành phố. Một tối, vừa mới tới sở làm một lát tụi nó đã kéo tới một tiệm ở gần Công trường Marine. Chúng tôi trèo lên lầu một, và lọt vào một căn phòng chật cứng người, dưới ánh đèn mầu xanh. Thứ mầu xanh đặc xệt, như đóng băng. Có rất nhiều gái. Họ chẳng làm gì hết, cứ đợi, và nhìn. Tôi đọc hàng chữ lớn, viết trên tấm biển: "Cấm gạ gẫm chuyện dơ dáy."

Chúng tôi làm một ly. Một thứ nước đặc, mùi dìu dịu.

Errol hỏi tôi:

-Mày chịu thứ nào?

Tôi hiểu liền, và cảm thấy lợm giọng. Tôi vọt ra khỏi căn phòng, chạy thẳng về nhà, chuếnh choáng bịnh, chuếnh choáng sợ. Tôi tự nhủ: "Phải chấm dứt thôi, con ơi!"

Ngày hôm sau, tôi lại mò tới. Rồi lại mò tới.

Chúng tôi làm một cuộc chơi, cả một bầy thuế quan. Thế là đêm nào như đêm nấy, chúng tôi suốt đêm, hết rượu lại gái, tại bãi biển Maracas.

-Ới con ơi là con, mày thành thằng bỏ đi rồi, má tôi than thở.

Tôi chẳng thèm để ý, cho tới một tối say mèm, ói mửa liền hai bữa. Khi ngóc đầu lên được, tôi thề không bao giờ hút, không bao giờ uống nữa.

Tôi nói với bà già:

-Thực sự không phải lỗi con. Đúng là tại thành phố Trinidad. Làm gì được nếu không nhậu?

Chừng hai tháng sau đó, bà già bảo tôi:

-Tuần tới, mày đi đằng này với tao. Mẹ con mình tới thăm Nhà Thông Thái (Pandit) Ganesh.

 

Đã từ lâu, Pandit Ganesh từ bỏ cõi huyền hoặc, lao vào chính trường, và rất thành công. Hiện là bộ trưởng gì đó trong chính quyền, và nghe đồn sắp sửa trở thành M.B.E. (Membre de l’Ordre de l’Empire britanique: Thành viên Hội Đế quốc Anh. Chú thích người dịch bản tiếng Pháp).

Hai má con tới căn nhà đẹp đẽ của ông thuộc khu phố St. Clair, và được diện kiến ông, không phải trong bộ "dhoti" và "kaortah" mà là một bộ com-lê đắt tiền.

Ông đón tiếp bà già thật là nhiệt tình và nói:

-Tôi sẽ làm tất cả những gì mà tôi có thể.

Bà già bắt đầu sụt sịt.

Ganesh quay qua tôi:

-Cháu muốn ra nước ngoài học không?

-Cháu chẳng muốn học, bất cứ thứ gì. Cháu chỉ muốn đi.

Ganesh mỉm cười và trả lời:

-Nhà nước chưa cho ra thứ học bổng đó. Chỉ mấy ông bộ trưởng mới được cái món mà cháu nói. Không được, cháu phải chọn một môn học.

Tôi trả lời:

-Cháu chưa từng nghĩ tới chuyện này. Cho cháu suy nghĩ một chút.

-Được rồi. Cháu cứ nghĩ đi.

Bà già bắt đầu vừa sụt sịt vừa cám ơn.

-Cháu biết phải học cái gì rồi, tôi nói. Cơ khí.

Tôi nghĩ tới ông chú Bhakcu.

Ông Ganesh cười và hỏi:

-Cháu biết gì về cơ khí?

-Hiện giờ thì chưa. Nhưng cháu sẽ làm quen với nó.

-Tại sao con không học luật? Bà già hỏi tôi.

Tôi như nhìn thấy Chattaranjan và bộ đồ mầu xậm, và tôi la lớn:

-Không, luật hả, không, không!

Ganesh nói tiếp:

-Chỉ còn một học bổng: dược.

-Nhưng cháu không muốn làm dược sĩ, tôi phản đối. Cháu không muốn xỏ vô bộ đồ trắng, và bán son môi cho mấy ả.

Ganesh mỉm cười.

-Đừng thèm để ý đến nó, panđi, bà già nói. Nó sẽ học dược. Và quay qua tôi: con có thể học bất cứ thứ gì, nếu con muốn.

Ganesh nói tiếp:

-Hãy suy nghĩ đi. Học dược nghĩa là đi Luân Đôn. Ngắm tuyết, sông Tamise và tòa nhà Quốc hội.

-Cháu chịu rồi, tôi nói. Cháu sẽ học dược.

-Tôi không biết làm sao cám ơn ngài panđi, má tôi rên rỉ.

Và, vẫn sụt sịt, bà đếm từng đồng, đủ hai trăm đô trao cho Ganesh, nói:

-Tôi biết chẳng đáng là bao, panđi. Nhưng đây là tất cả của nả tôi tằn tiện từ bao lâu nay.

Ganesh rầu rĩ cầm tiền và nói:

-Đừng để ý đến chuyện đó. Có vậy là được rồi.

Má tôi vẫn sụt sịt, và sau cùng, chính Ganesh bật khóc.

Thấy vậy, bà già chùi nước mắt và giải thích:

-Xin panđi hiểu cho nỗi khổ tâm của tôi, tôi đã phải tặn tiện, nay chạy đầu này mai chạy đầu kia, làm đủ thứ chuyện mới có được món tiền đó. Thời buổi này mà. Tôi cũng không biết làm sao tôi có nổi số tiền đó nữa. 

Ganesh ngưng khóc liền lập tức. Bà già lại đổ nước mắt.

Và như vậy tiếp tục chừng một lát, tới khi Ganesh đưa lại bà già một trăm đô. Ông nức nở, run lẩy bẩy.

-Hãy cầm lấy, ông nói, và mua vài bộ đồ cho thằng nhỏ.

-Panđi, ông thật tốt, tôi nói.

Ông ta hết sức cảm động và la lớn:

-Khi cháu trở về với đủ thứ bằng cấp, trở nên một người lớn, và một nhà dược sĩ lớn, tới lúc đó, ta sẽ tới đòi cái điều mà cháu thiếu ta.

 

Tôi kể cho Hat nghe là tôi sẽ ra đi.

-Đi làm gì? Làm thợ hả?

-Nhà nước cho tớ cái học bổng học dược.

-Cậu xoay sở tất cả chuyện đó, hả?

-Không phải tớ mà là bà già.

Eddoes nói:

-Bà già xoay tài thật. Tớ biết một tay dược sĩ, bao nhiêu năm nay tớ chỉ lo dọn cứt đái thằng chả. Thằng chả bộn của. Bồ tèo ơi, thằng chả nằm trên đống vàng.

Tin tức tới tai Elias, và anh ta chịu không nổi. Một bữa anh ta tới đằng trước sân nhà và la lớn: 

-Đồ hối lộ! Thứ mày chỉ làm được như vậy. Đồ hối lộ!

Má tôi trả đũa:

-Những thứ chửi người khác hối lộ là toàn dân khố rách áo ôm, lấy đâu ra tiền mà lo hối lộ! 

 

Cũng mất chừng tháng trời sửa soạn mới tới ngày ra đi. Nhà cầm quyền Trinidad viết cho tòa Lãnh sự Anh ở Nữu Ước. Tòa Lãnh sự Anh cho điều tra về tôi. Người Mỹ cho tôi nhập cảnh sau khi bắt tôi thề không được dùng khí giới lật đổ chính quyền của họ. 

Sáng sớm hôm sau tôi đi, buổi tối hôm trước má tôi làm bữa tiệc nhỏ mà chẳng khác chi đám tang. Người nào tới mặt cũng buồn xo, và nói, rồi tôi sẽ nhớ họ biết là chừng nào; rồi thì họ quên luôn tôi, bắt qua chuyện quan trọng: ăn nhậu.

Laura ôm hôn tôi, và tặng cái mề đay thánh Christophe. Nàng nói tôi đeo ở cổ. Tôi hứa sẽ làm, và bỏ vào túi. Tôi không biết rồi nàng sẽ ra sao. Bà vợ Bhakcu cho tôi đồng sáu "pence" đã được làm phép, và tôi nghĩ, khó mà không tiêu đồng tiền làm phép đó. Titus tha thứ cho tôi mọi chuyện và tặng tôi tập hai bộ "Tennyson", trong tủ sách "Thư viện cho tất cả mọi người". Eddoes mang cho tôi một cái bóp, anh thề, gần như mới toanh. Boyce và Errol chẳng cho tôi gì cả. Hat đưa tôi một hộp đựng thuốc lá và nói:

-Tớ biết cậu nói cậu sẽ không hút thuốc nữa. Nhưng cứ cầm lấy, trong trường hợp cậu đổi ý kiến.

Kết quả là, tôi hút thuốc trở lại.

 

Chú Bhakcu mất cả một buổi lo sửa soạn xe đưa tôi ra phi trường. Lâu lâu, tôi lại chạy qua chỗ ông, nói, đừng mất công như vậy. Ông chú trả lời, ông nghĩ là cái các-bua-ra-tưa mắc khùng. 

Sáng hôm sau, ngay từ sáng sớm, ông chú đã mò ra chiếc xe. Chúng tôi tính tám giờ khởi hành, mà mười giờ ông chú vẫn còn loay hoay với nó. Má tôi quýnh quáng, còn bà vợ Bhakcu bắt đầu tỏ vẻ hết còn chịu nổi.

Ông chú nằm bên dưới xe, huýt sáo một đoạn bài "Ramayana". Ông chui ra vừa cười vừa nói: 

-Thằng cháu của tôi lo són đái rồi, phải không? 

Sau cùng cũng xong. Ông chú không phải tháo mô tơ, nó vẫn còn chạy được. Hành lý của tôi đã sẵn sàng ở trên xe, và tôi chỉ còn việc bước qua ngưỡng cửa nhà lần cuối cùng. 

Má tôi nói: "Thủng thẳng", và đem một bình sữa để ngay giữa lối đi dẫn vào sân nhà.

Cho tới bây giờ, tôi vẫn không làm sao giải thích nổi, cái cổng rộng như thế, tôi đã cố hết sức né sang một bên, vậy mà vẫn đụng đổ bình sữa. 

Mặt má tôi nặng chĩu. 

-Điềm xấu hả má? 

Bà không nói gì. 

Bhakcu bấm còi.

Chúng tôi lên xe, đi xuống Phố Miguel theo hướng Wrightson, về phía South Quay. Tôi không nhìn ra bên ngoài.

Má tôi khóc sướt mướt, và run lẩy bẩy. 

-Má biết sẽ chẳng bao giờ gặp lại con ở Phố Miguel. 

-Sao vậy hả má? Chắc là do con đánh đổ bình sữa?

Bà không trả lời, tiếp tục khóc bình sữa đổ. 

Tôi chỉ nhìn ra ngoài khi ra khỏi Port de Spain, và khu ngoại thành. Trời trong và nóng. Đàn ông đàn bà làm dưới ruộng. Mấy đứa con nít tắm nơi ống nước bên đường.

 

Tới phi trường Piarco kịp giờ, và bỗng nhiên ngay lúc đó, tôi mong mỏi giá mà đừng được học bổng. Phòng đợi làm tôi ớn. Mấy bà Mỹ to con mang kiếng mát thấy ghê, mỗi lần nói là như hét lên. Họ như dư tiền, mặc sức thoải mái.

Rồi người ta ra thông báo, bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, chuyến bay 206 trễ sáu tiếng đồng hồ.

Tôi nói với bà già:

-Bà con mình trở lại Port de Spain.

Trở lại Phố Miguel, người đầu tiên tôi gặp là Hat. Anh ta lững thững từ quán cà phê đi ra, tay cặp tờ nhựt trình. Tôi khuơ tay, và chào khi đi ngang.

Anh buông câu cộc lốc:

-Tớ tưởng cậu chuồn mất tiêu rồi.

Tôi thấy chới với. Không phải chỉ vì thái độ lạnh nhạt của Hat. Chới với, mặc dù tôi đã quyết định và coi như số phần của mình, tốt hơn hết, là từ bỏ nơi này. Tôi cảm thấy bẽ bàng vì vẻ bên ngoài của sự vật: tất cả y như trước đó. Chẳng có gì ra dấu, về sự vắng mặt, của thằng bé là tôi.

Tôi nhìn về phía bình sữa bị hất đổ nơi bực thềm, và nói với bà già:

-Điềm triệu gì đâu! Chẳng bao giờ trở lại?

Bà già cười, coi bộ sung sướng.

 

Vậy là tôi làm bữa ăn trưa cuối cùng với má tôi, ông chú Bhakcu, bà thím. Sau đó, chúng tôi tôi làm lại cuộc hành trình, trên con đường nóng bỏng tới Piarco, nơi máy bay đang đợi. Tôi nhận ra một nhân viên thuế quan, và anh ta vờ luôn hành lý của tôi không kiểm tra.

Chuyến bay được thông báo bằng một giọng lạnh lùng, thanh thản.

Tôi ôm hôn bà già.

Tôi nói với ông chú :

-Chú Bhakcu, lúc nãy cháu không dám nói ra, nhưng cháu nghĩ là cái xú báp bị đụng.

Cặp mắt ông sáng ngời.

Tôi rời đám bà con và đi vội ra phi cơ, không nhìn lại phía sau, chỉ nhìn cái bóng của mình ở phía trước mặt, giống như một chú lùn nhẩy cà tưng trên bãi đáp.

V.S.Naipaul
 


Ghi chú: Trên đây là chuyển ngữ chương chót, cuốn tiểu thuyết "Phố Miguel", của Naipaul, Nobel văn chương 2001, từ ấn bản tiếng Pháp, dịch giả Pauline Verdun (nhà xb Gallimard, tủ sách L’Imaginaire).

Đối với một người lạ, quá giang thành phố trên xe hơi, Phố Miguel chỉ là hình ảnh nhớp nhúa của một trong vô vàn khu phố nghèo đói, khốn khổ của Port de Spain, thuộc đảo Trinidad, giữa những năm 1939 và 1947.

Nhưng với những con người sống ở đó, đây là một thế giới muôn mầu muôn vẻ, thiên hình vạn trạng, và là độc nhất. Một vũ trụ, nơi mọi chuyện đều có thể, dù cực đoan, cường điệu tới đâu.

Vẻ kỳ lạ của những nhân vật, nỗi buồn, cơn điên, cách hành xử tức cười, những nỗi không may của họ, tất cả được kể bằng một giọng têu tếu, và đây là cái thiên lương lạ lùng của tác giả, dấy lên từ những sự kiện vặt vãnh.

Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ và giới thiệu.

 

_______

 

a2a chú thêm :

1. Bản tiếng anh của truyện này có thể xem và tải xuống từ trang sau :

http://hrsbstaff.ednet.ns.ca/amirok1/English12/46629700-Miguel-Street-V-S-Naipaul.pdf

 

(Nguồn : Tin Văn

www.tanvien.net )

 

trang nguyễn quốc trụ

art2all.net

Nhân thể, nhắc anh trong bản dịch Naipaul, khúc cuối, có vài ý dịch sai khi K so bản tiếng Anh .

Sáng sớm hôm sau tôi đi, buổi tối hôm trước má tôi làm bữa tiệc nhỏ mà chẳng khác chi đám tang. Người nào tới mặt cũng buồn xo, và nói, rồi tôi sẽ nhớ họ biết là chừng nào; rồi thì họ quên luôn tôi, bắt qua chuyện quan trọng: ăn nhậu.
Laura ôm hôn tôi, và tặng cái mề đay thánh Christophe. Nàng nói tôi đeo ở cổ. Tôi hứa sẽ làm, và bỏ vào túi. Tôi không biết rồi nàng sẽ ra sao. Bà vợ Bhakcu cho tôi đồng sáu "pence" đã được làm phép, và tôi nghĩ, khó mà không tiêu đồng tiền làm phép đó.
 
Đúng ra là "họ sẽ nhớ tôi" , và " tôi không biết về sau cái mề đay ấy lạc vào cái chỗ nào" . Và " cái đồng pence làm phép ấy trông chẳng khác gì các đồng pence khác nên tôi nghĩ tôi sẽ tiêu nó" .

Không có chi quan trọng . Chỉ tiện thể thì ghi xuống vậy thôi , nhưng dịch đúng thì nét khôi hài rõ hơn .

K


Tks

Khi tôi dịch, chưa có mua bản tiếng Anh. Đọc bản tiếng Pháp, rồi dịch xong, không coi lại. Rồi cũng quên luôn. Làm sao mà K. kiếm thấy nó, cũng tài thật. Đọc lại thì quả là bồi hồi, nhớ những năm trời cực kỳ thê lương, nhưng khi qua được rồi, thì lại thật là tuyệt vời.
Bà Thảo Trần cằn nhằn hoài, sao không viết tiểu thuyết, nhưng khi đọc cái đoạn xém nhảy xuống sông Cai Lậy, tự vận, khi vừa mới cưới, từ Sài Gòn trở về lại Cai Lậy, một mình, thằng chồng bỏ đi Đà Lạt, buồn quá, giận quá, bèn ra lệnh, thôi, đừng viết nữa, đau lòng thêm 1 lần nữa.

Hà, hà!
Tks again

NQT