nqt
 
I (old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 14 15 16 17
18

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]




Mùa thu, những di dân

 

 

 

          Di dân là "số" phần, (a matter of arithmetic), theo Kundera.

Độc và Đẹp

*

Thu 2014


L'adieu

Apollinaire (1880-1918)
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Lời vĩnh biệt
(1)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...
(2)
Ðã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam
(3)
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em ?
Ðã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Ðất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên

Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(Ði vào cõi thơ, tr 80-82, Ca Dao xuất bản, Sàigon, Việt Nam)
Nguồn net

GUILLAME APOLLINAIRE (1880-1918)

The Farewell

I picked this fragile sprig of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together

Translated from the French by Roger Shattuck
[in Time of Grief]


Thơ Mỗi Ngày

HAIKU
The endless night
is now nothing more
than a scent.

Is it or isn't it
the dream I forgot
before dawn?

The sword at rest
dreams of its battles.
My dream is something else.

The man has died.
His beard doesn't know.
His nails keep growing.

Under the moon
the lengthening shadow
is all one shadow .

The old hand
goes on setting down lines
for oblivion.
-S.K.
J.J. Borges: Poems of the Night

Haiku

Đêm vô tận
Còn chăng,
Thì là một mùi
Cái gì gì, tàn hôn lên môi
Tàn quên trong tay

Có, hay không
Giấc mộng Gấu quên
Trước rạng đông
Cái gì gì, đêm không sao qua
Mà trời sao lại sáng?

Cây kiếm ngơi
Mơ hoài những trận chém giết cũ
Giấc mơ của Gấu
Là một điều gì khác

Thẳng chả ngỏm
Râu đếch biết
Móng tay dài mãi ra

Dưới ánh trăng
Cái bóng của Gấu
Dài mãi ra
Vẫn chỉ là bóng của Gấu!

Bàn tay già
Tiếp tục lần
Những dòng
Dành cho quên lãng


Borges Golem

THE GIFT

In a page of Pliny we read
that in all the world no two faces are alike.
A woman gave a blind man
the image of her face,
without a doubt unique.
She chose the photo among many;
rejected all but one and got it right.
The act had meaning for her
as it does for him.
She knew he could not see her gift
and knew it was a present.
An invisible gift is an act of magic.
To give a blind man an image
is to give something so tenuous it can be infinite
something so vague it can be the universe.
The useless hand touches
and does not recognize
the unreachable face.

J. L. Borges: Poems of the Night

Quà tặng
Trong một trang của Pliny, chúng ta đọc thấy điều này,
Trong cả 1 lũ người như thế đó, không làm sao có hai khuôn mặt giống nhau y chang
Một người đàn bà cho 1 anh mù bức hình khuôn mặt bà.
Bà chọn tấm hình trong rất nhiều;
vứt đi tất cả, chỉ giữ lại một, và chọn đúng tấm cần chọn.
Cái hành động đó, thì thật có nghĩa, đối với bà
Và luôn cả với người đàn ông mù.
Bà biết anh mù không thể nhìn thấy quà tặng của bà
Và biết, đó là 1 quà tặng
Một món quà vô hình là 1 hành động huyền diệu
Cho 1 người mù một hình ảnh
Thì cũng như cho một điều gì tinh tế, giản dị, như “cúi xuống là đất”, như Cô Tư phán.
Chính vì thế mà nó trở thành vô cùng
Một điều gì đó mơ hồ như là vũ trụ
Bàn tay vô dụng, sờ
Và không nhận ra
Khuôn mặt không làm sao với tới được.


*

PARADISO XXXI, 108

Diodorus Siculus narrates the story of a dismembered and sundered god, who, as he walks in the twilight or traces a date in his past, never senses that something infinite has been lost.
    Mankind has lost a face, an irretrievable face, and everyone would like to be that pilgrim (dreamed of in the empyrean, under the Rose) who sees Veronica's handkerchief in Rome and murmurs with faith: Jesus Christ, My Lord, True God, this, then, was Your Face?
    There is a stone face on a certain road and an inscription which reads: The true Portrait of the Holy Face of the God of Ja
én, If we really knew the likeness, we would have the key to the parables and would know if the son of the carpenter was also the Son of God.
    Paul saw it in the guise of a light which hurled him to the ground; John, as the sun shining in full force; Teresa of Jesus, oftentimes, as if bathed in a tranquil light, but she was never able to specify the color of the eyes.
    We lost those features, in the way a magical number may be lost, a number made up of customary figures; in the same way as an image in a kaleidoscope is lost forever. We may see them, and not know it. The profile of a Jew in the subway may be that of Christ; the hands which give us some coins at a change-window may recall those which some soldiers once nailed to the Cross.
    Perhaps some feature of the Crucified Face lurks in every mirror; perhaps the Face died, was effaced, so that God might become everyone.
    Who knows whether we may not see it tonight in the labyrinths of dreams and remember nothing tomorrow.

- Translated by ANTHONY KERRIGAN


Diodorus Siculus tells the story of a god who had been cut into pieces and then scattered; which of us, strolling at dusk or recollecting a day from the past, has never felt that something of infinite importance has been lost?
    Mankind has lost a face, an irretrievable face. At one time everyone wanted to be the pilgrim who was dreamed up in the Empyrean under the sign of the Rose, the one who sees the Veronica in Rome and fervently mutters: "Christ Jesus, my God, truly God: so this is what your face was like?"
    There is a stone face by a road and an inscription that reads: ''Authentic Portrait of the Holy Face of the Christ of Jaén," If we really knew what that face had been like, we would possess the key to the parables and we would know whether the son of the carpenter was also the Son of God.
    Paul saw it as a light that knocked him to the ground. John saw it as the sun shining with all its strength. Teresa of Avila often saw it bathed in a serene light, but she could never quite make out the color of the eyes.
    These features have been lost to us the way a kaleidoscope design is lost forever, or a magic number composed of everyday figures. We can be looking at them and still not know them. The profile of a Jewish man in the subway may well be the same as Christ's; the hands that make change for us at the ticket window could be identical to the hands that soldiers one day nailed to the cross.
    Some feature of the crucified face may lurk in every mirror. Maybe the face died and faded away so that God could be everyman.
Who knows? We might see it tonight in the labyrinths of sleep and remember nothing in the morning.
-K.K.
Penguin ed


Diodorus Siculus kể câu chuyện một vị thần bị chém, chặt, xẻ thành từng mẩu rồi quăng tứ lung tung, ai trong số chúng ta, lang thang trong hoàng hôn, hay, lượm lặt một ngày từ quá khứ, chẳng hề cảm nhận rằng thì là, một điều cực kỳ thiên thu bất diệt, cực kỳ quan trọng, đã mất?
Nhân loại mất mẹ cái bộ mặt, một bộ mặt không làm sao thu gom, nhặt nhạnh lại được, và, mọi người, người người, ai cũng thèm là vị hành giả kia, mơ hoài một Thiên Cung, dưới dấu hiệu BHD, kẻ đã từng chiêm ngưỡng cái khăn tay của Thánh Nữ, một bữa ở…  Chợ Lớn, và lẩm bẩm, với Niềm Tin: Thánh Nữ ơi, phải chăng, đây đúng là Khuôn Mặt của Người?
Đó là khuôn mặt của một hòn đá bên vệ đường, và một hàng chữ, Khuôn mặt thực của Chúa Jaén. Nếu chúng ta thực sự hiểu ra sự tương đồng, tương ứng, chúng ta sẽ có được cái chìa khoá của ẩn ngữ, và chúng ta, biết, đấng con trai, là con  của ông thợ mộc, hay là Con của Chúa.
Paul chứng kiến phép lạ, và nó quất cho anh đánh rầm 1 phát xuống mặt đất. John nhìn thấy nó, như là 1 cú mặt trời với tất cả sức mạnh của nó.
Teresa of Avila thường nhìn thấy nó, tắm trong 1 thứ ánh sáng thanh thản, nhưng bà không làm sao nhận ra màu của mắt.
Những cảnh tượng này, đã mất đối với chúng ta, theo cái cách mà kính vạn hoa vĩnh viễn mất, hay con số thần kỳ
gồm những hình tượng mọi ngày. Chúng ta có thể nhìn, nhưng đâu thấy, chúng. Cái bóng dáng của 1 tên Mít đang lang thang 1 ngày đẹp trời ở 1 thành phố Canada, hay đang chờ xe điện ngầm ở 1 subway station ở Toronto, thí dụ, biết đâu đấy, thì cũng là bóng của Christ, và cái bàn tay đang đưa cái vé xe điện ngầm ở quầy, biết đâu đấy, là 1 trong những bàn tay của 1 tên VC đóng đinh Chúa.
Một cảnh sắc nào đó, của khuôn mặt bị đóng đinh thập giá, có thể lấp ló trong mọi tấm gương.
Có thể bộ mặt chết, và nhạt nhòa trong mưa, theo dòng thời gian và nếu thế, Chúa có thể là bất cứ một người, mọi người.
Who knows?
GCC có thể thấy nó, đêm nay, trong những mê cung của giấc ngủ, và sáng mai, mải
nhớ BHD, bèn quên mẹ nó mất!


Legend

Cain and Abel came upon each other after Abel's death. They were through the desert, and they recognized each other from afar, since men were very tall. The two brothers sat on the ground, made a fire, and ate. They sat silently, as weary people do when dusk begins to fall. In the sky, a star glimmered, though it had not yet been given a name. In the light of fire, Cain saw that Abel's forehead bore the mark of the stone, and dropped the bread he was about to carry to his mouth and asked his brother to forgive him. "Was it you that killed me, or did I kill you?" Abel answered. "I don't remember anymore; here we are, together, like before."
"Now I know that you have truly forgiven me;' Cain said, "because forgetting is forgiving. I, too, will try to forget."
"Yes;' said Abel slowly. “So long as remorse lasts, guilt lasts."
Penguin ed


Note: Tình cờ lướt net, thấy đã được dịch:
http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=1035

*

Iosip Brodsky 
Russian
1940-1996

THE BLIND MUSICIANS

The blind go their way
        by night.
It's easier to cross
the squares
        at night.
The blind live
feeling their way,
brushing the world with their hands,
knowing neither shadow nor light,
and their hands drift over the stones
built into walls
of men, women,
children,
        money,
walls that cannot be broken,
        better
to follow along them.
Against them the music
hurls itself
and the stones soak it up.
In them the music dies
under the hands.
It's hard dying at night, hard
to die feeling your way.

The way of the blind is
simpler, the blind
        cross the empty squares.

1967, translated with
Wladimir Weidlé  

Cuốn sách về Brodsky này, như lời Bạt cho thấy, có cùng tuổi [hải ngoại] của Gấu, 1997, hay đúng hơn, kém Gấu ba tuổi.
Gấu làm quen Brodsky thời gian này, nhân đọc Coetzee viết về những tiểu luận của ông, trên tờ NYRB; bài tưởng niệm khi ông mất, của Tolstaya...
Trong cuốn này, có nhắc tới bài viết, Gấu chôm, xen với những kỷ niệm về Joseph Huỳnh Văn, trong bài “Ai cho phép mi là thi sĩ”
Post ở đây, rảnh rang lèm bèm sau.
Thú nhất câu: "Hãy nhớ Gấu, và quên số mệnh cà chớn của Gấu"!
"Remember me, but ah! Forget my fate!"


Nghĩa địa Do Thái ở Leningrad

Nghĩa địa" như bài thơ được gọi, trong bài viết, thì chẳng hay ho gì, không chỉ ở cái giọng kể lể, mà còn cả ở cái chất thơ xuôi của nó. Khổ đầu thì còn có vần điệu, nhưng sau biến thành thơ tự do. Ngoài nó ra, không còn bài nào như thế, trong số tác phẩm của Joseph... nhưng khi được 1 tay xb hỏi, có cho nó vô 1 tuyển tập Những tiếng nói ở bên trong [chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái Hiện Đại, do anh ta xb, hay là không [Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to be included in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn" có nó, trong đó!
Hay, thí dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng Chạp, 1987, ở Stockholm, khi tới đó lấy cái Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên…  Ngụy, dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó ra làm sao”, và nói thêm, “Về ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng là của 1 tên… Mít”!
Là 1 tên Ngụy, thì giống như 1 tên lưu vong, có tí lợi; nó đẩy tên đó ra bên lề, thay vì ở trung tâm xã hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng cho chúng 1 màu của chung lũ chúng, ở loanh quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban cho từng cá nhân Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây là nguồn sức mạnh của chúng, nhưng vưỡn không làm sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng ra cái chó gì cả, hắn đếch thuộc về ai, về đâu, đại khái thế!

The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy có cờ

Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….

Đáp ứng, của Akhmatova, khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and to preserve their memory among the living….

Trong 1 bài viết trên talawas, đại thi sĩ Kinh Bắc biện hộ cho cái sự ông ngồi nắn nón viết tự kiểm theo lệnh Tố Hữu, để được tha về nhà tiếp tục làm thơ, và tìm lá diêu bông, rằng, cái âm điệu thơ Kinh [quá] Bắc [Kít] của ông, buồn rầu, bi thương, đủ chửi bố Cách Mạng của VC rồi.

Theo sự hiểu biết cá nhân của Gấu, thì chỉ hai nhà thơ, sống thật đời của mình, không 1 vết nhơ, không khi nào phải “edit” cái phẩm hạnh của mình, là Brodsky và ông anh nhà thơ của GCC.
Chẳng thế mà Milosz rất thèm 1 cuộc đời như của Brodsky, hay nói như 1 người dân bình thường Nga, tớ rất thèm có 1 cuộc đời riêng tư như của Brodsky, như trong bài viết của Tolstaya cho thấy.

Bảnh như Osip Mandelstam mà cũng phải sống cuộc đời kép, trong thế giới khốn nạn đó. Để sống sót,  Mandelstam cũng đã từng phải làm thơ thổi Xì, như bà vợ ông kể lại, và khi những người quen xúi bà, đừng bao giờ nhắc tới nó, bà đã không làm như vậy:

Nadezhda Mandelstam recalled how her husband Osip Mandelstam had done what was necessary to survive:

To be sure, M. also, at the very last moment, did what was required of him and wrote a hymn of praise to Stalin, but the "Ode" did not achieve its purpose of saving his life. It is possible, though, that without it I should not have survived either. . . . By surviving I was able to save his poetry.... When we left Voronezh, M. asked Natasha to destroy the "Ode." Many people now advise me not to speak of it at all, as thou it had never existed. But I cannot agree to this, because the truth would then be incomplete: leading a double life was an absolute fact of our age and nobody was exempt. The only difference was that while others wrote their odes in their apartments and country villas and were rewarded for them, M wrote his with a rope around his neck. Akhmatova did the same, as they drew-the noose tighter around the neck of her son. Who can blame either her or M.
Roberta Reeder: Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên tri

Trong khi lũ nhà văn nhà thơ Liên Xô làm thơ ca ngợi Xì và được bổng lộc, thì M làm thơ ca ngợi Xì với cái thòng lọng ở cổ, và bài thơ “Ode” đó cũng chẳng cứu được mạng của ông. Người ta xúi tôi, đừng nhắc tới nó, nhưng tôi nghĩ không được, vì như thế sự thực không đầy đủ: sống cuộc đời kép là sự thực tuyệt đối của thời chúng ta.

Tuyệt.

Chỉ có hai nhà thơ sống sự thực tuyệt đối của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là Brodsky và TTT!

Etkind relates how this trial pitted two traditional foes against each other, the bureaucracy and the intelligentsia. Brodsky represented Russian poetry.


Viết Mỗi Ngày

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history


http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html


*

Chekhov, Pondering

Imagine Chekhov, at some point during the last weeks of his life, pondering old photographs. Imagine the dying man pausing over this image of his younger self. Consider the writer's possible responses, the clashing combinations of memory, observation, obsolete opinions, the present knowledge as he looks at himself sitting -posing, yes, definitely posing for the camera-on the steps of his country home in Melikhovo, little Khiva tucked in the crook of his arm. Perhaps the older Chekhov would observe the younger Chekhov with irritated amusement. He might even wince at the pretensions suggested by the pose, since he is an expert critic of insincerity and has filled his fiction with misguided poseurs- lovers, industrialists, peasants and landowners-who treat the world as their showcase. See how the cane cuts neatly toward the center of the picture, the tips of his shoes gleam-these details might provoke him to think with some chagrin of the author who claimed to have ideas for 1036 stories, who was planning to write a novel "a hundred versts long," and who intended someday to visit Tahiti, Chicago and the Arctic. And yet the older Chekhov, I believe, would forgive his younger self. Always a man who valued modesty above publicity, and "good literary manners" above ambition, he shows us in his work that some form of pretension, even awkward pretension, is necessary to survive in a civilized society. When we lose interest in the theatrics of behavior, we are in danger of succumbing to pernicious boredom. At best we end up like Laevsky in "The Duel." At worst, we drift off with poor Andrei Yefimich in "Ward No.6," muttering to the end, "It's all the same to me ... I won't answer ... It's all the same." Or perhaps Chekhov would marvel at this man a decade younger than himself, grandson of serfs and at the age of thirty-seven already the author of such masterpieces as "The Steppe" and "Three Years." Perhaps he would wonder how he fulfilled all of the obligations that fell on him that decade, when he became caretaker for his parents and sister, when he served as the doctor for the local peasants and as squire of the village of Melikhovo and still managed to make the grueling trip across Siberia to the island of Sakhalin. He might recall his pattern of responsible moderation with more than a little pride, seeing in this portrait a man who devoted himself to the problems of others and yet could come close himself in his study for hours at a time, pick up his pen and hear the grass singing in his mind. It could be, though, that the dying Chekhov would neither wince nor marvel at this picture but turn away in despair, comprehending more fully than ever before his own dishonesty. Here is Dr. Chekhov, villain of self-deception. What did it matter that he suffered his first bout of blood-spitting in 1884, shortly after graduating from medical school? What did it matter that for thirteen years, though he treated many victims of tuberculosis, he refused to identify the symptoms in himself? The disease probably would have progressed at the same speed even had he sought treatment earlier. But the lack of acknowledgement is troubling. If he'd been one of his characters, his pose of health would have revealed itself as a lie, and he would have seemed pathetic in his stubborn effort to make a lasting name for himself. Of course, this Chekhov, the Chekhov lounging on the steps of his Melikhovo home, collar turned up just so, will be remembered: as the jaunty, brilliant writer, as the modest poseur and as a dying man unable to acknowledge his illness because the telling would have made death sensible. He preferred to tell of life.            

-Joanna Scott
* *

Trong Duel, người ta nhận ra, đúng là chân dung Xì sau này. Người quan  tâm đến chuyện trồng người, cải thiện nó, và dưới mắt người, cái giống người như là hiện nay, thì là những tên nô lệ, những con vật......
Trong 1 lần gặp gỡ những nhà văn, Xì phán, trong văn chương, có Shakespeare, và Chekhov. Tớ, nếu là nhà văn, chỉ mong viết được như Chekhov!

La petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov

De Tchekhov et sur Tchekhov, cette année (1), date du cinquantenaire de sa mort (1er juillet 1904), nous avons eu la possibilité de lire différentes choses, et chaque fois, au cours de ces lectures, nous n'arrêtions pas de nous demander: mais en quoi consiste vraiment le secret de cet homme? Quel est le secret qui le rend d'autant plus cher et grand et toujours actuel qu'il joue en «mineur », en décrivant une réalité limitée, quel est le secret qui le fait apprécier des lettrés les plus raffinés comme du grand public des quotidiens du soir (qui, aujourd'hui encore, lorsqu'ils veulent publier une nouvelle dont le succès sera certain, puisent à sa source)? Il existe pour lui, en Union soviétique, une affection qui touche à la vénération: et, de ce petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils font presque un prophète de la sociéte socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme un symboliste mystique. Et tout cela, il faut bien le souligner, sans que de son côté il ait jamais fait preuve de lègereté ou de flatterie; en restant toujours, au contraire, obstinément fidèle à lui-même, sans pitié dans ce qu'il avait à dire, en avancant sur un chemin sans détour, droit et linéaire. Cet amour, parfois très fort, que l'on peut éprouver pour lui, comme pour un frère péniblement retrouvé, avec lequel on va pouvoir enfin tout expliquer de soi-même et tout comprendre de lui, comment se justifie-t-il, s'il est par ailleurs le frère de tant de gens, qui peuvent m'être sympathiques ou antipathiques, amis ou ennemis?
    Mon amour pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
    Nous qui ne lisons pas le russe et qui essayons de scruter la parole d'écrivains qui nous sont chers à travers les traductions de même que l'on devine les couleurs d'un visage à partir des ombres grises et noires d 'une photographie, nous avons eu enfin cette année, après tant de bonnes versions mais sans ordre et partielles, une édition complète et ordonnée chronologiquement de ses contes. «Édition complète », cela ne veut pas dire qu'elle comprend tous les récits de Tchekhov: en effet, il en a écrit plus de six cents, pendant les vingt et quelques années qui vont de ses débuts dans la nouvelle dans La Cigale, un journal humoristique banal, jusqu'aux longs récits des dernières années, où il luttait contre la maladie qui l'emporta à l'âge de quarante-quatre ans. Dans cette édition, il y a les deux cent quarante morceaux qu'il a choisis en 1899 pour l'édition définitive de ses oeuvres, en même temps que quatre-vingts morceaux environ qu'il avait écartés, Ainsi pouvons-nous suivre, année par année, les étapes d'un curriculum littéraire si court et, repétons-le, si linéaire qu'on a l' habitude de le considérer, dans l'ensemble, comme une totalité homogène. Pour nous aider à retracer le chemin de son développement, sont sorties cette année quelques biographies nouvelles dans des langues occidentales : et je veux rappeler non pas tant un gros volume paru en Angleterre (David Magarshack, Chekhov, Faber and Faber) que, plutôt, un petit volume francais (Elsa Triolet, L' Histoire d' Anton Tchekhov, Les Éditeurs francais réunis) qui offre un raccourci efficace et essentiel de la vie et de l'oeuvre, de son époque, des discussions et des problèmes d'alors, et qui focalise surtout l'attention sur les aspects de sa figure qu'il nous intéresse le plus d'éclaircir aujourd'hui.
    Déjà, dans ses petites nouvelles humoristiques, Tchekhov part avec une agressivite polémique cruelle, baignant uniquement dans les faits (Le Gros et le Maigre, Cameleon, Le Huitres, Le Sous-Officier Latrique) comme un Gogol qui n' pas eu besoin d'une caricature déformante pour trouver ses effets, mais les découvre sous ses yeux tels quels, prêts à être esquissés d 'une annotation rapide, à être racontés simplement, à voix basse. Mais si Gogol trouvait de l’intérêt à dévoiler le visage absurde, démoniaque, comiquement poignant qui se cachait sous la réalité bureaucratique la plus quotidienne de la Russie, Tchekhov, qui commence à écrire trente ans après la mort de Gogol, veut fouiller différemment la réalité, Dans la nouvelle La Fille d' Albion, qui date de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son plus haut degré, et le métal dont il forge ses contrastes comiques ou dramatiques : la dignité de l'homme. Dans des nouvelles comme celle-ci, ou comme La Choriste (1886), plus il fouaille ses petits humains, plus il en découvre les égoismes, les faussetés et les mesquineries sous le masque de leur fausse «dignité», plus se révèle à nous quelque chose qui résiste à la dégradation, quelque chose de supérieur à la bassesse générale, une qualité impalpable que nous devons recommencer à appeler dignité humaine, une dignité tout à fait opposée à celle, hypocrite et formelle, des moeurs bourgeoises. Mais Tchekhov atteint ses meilleurs résultats lorsque la decouverte de la fausse dignité et les retrouvailles avec la vraie ont lieu chez le même personnage ; lorsque le couteau qui ouvre l' abcès touche la chair vive. Et l' on voit apparaitre alors la «pitié» de Tchekhov, toujours d'autant plus présente qu'il est «sans pitié » : voilà que, après avoir découvert sous le personnage le petit-bourgeois - sa mesquinerie et son horreur historique -, sous le petit-bourgeois, il découvre l 'homme.
    Avec La Steppe (1888), événement capital dans l'histoire de la narration moderne, Tchekhov commence à avoir une conscience plus précise de l'importance littéraire de son travail, et aussi de sa responsabilité de citoyen. La critique braque son regard sur lui, et on lui reproche, à droite comme à gauche, le fait de «ne pas prendre parti ». Mais Tchekhov, dans ce qu'il écrivait, avait toujours pris un parti, même s'il ne correspondait à aucun des partis qui évoluaient dans le monde intellectuel de la bourgeoisie russe d' alors. Au contraire, il en révelait les limites et les échecs : dans les longs récits qui vont du Jour de Fête (1888) jusqu'à La Fiancée (1904), ce n' est qu 'une galerie dintellectuels velléitaires et décus, de vies de province consumées dans la paresse, de mariages et d'amours gâchés, de femmes toujours plus vitales, ou plus justes, ou moins coupables que les hommes. Et au centre de ces histoires il y a presque toujours un «que faire?» politique et social, non pas avec la ferveur qui avait été celle de Tchernichevski et que l' on retrouvera chez Lénine, mais avec l'incertitude de la période de réaction et de reflux révolutionnaire du règne d' Alexandre III et des premières années de Nicolas II, avec un manque de perspectives historiques que l'écrivain voit se refléchir dans les vies privées, dans les habitudes, dans les sentiments.

   Plus on avance dans la lecture de Tchekhov, plus on rencontre de personnages qui, à la fin, décident de «travailler sérieusement » ou qui parlent de la vie merveilleuse qu'il y aura« sur la terre dans cent, deux cents ans », ou de la« belle bourrasque qui balaiera tout» : deux phrases qui ont aujourd'hui un sens prophétique suggestif, mais qui sont toujours indéterminées, qui n'évoquent pas d'images concrètes et précises comme nous avons l'habitude d'en trouver chez lui. Ce n'est que leur accent de sincérite, presque de document d'un état d'âme de l'époque, qui fait qu'elles ne nous paraissent jamais rhétoriques ; mais la mort de Tchekhov, à la veille de la première révolution russe de 1905, acquiert presque une signification symbolique: il est l'écrivain d'une humanité qui cherche sa voie.
    En ce sens, Salle 6 (1892) se détache de tous les autres longs récits non seulement parce que c'est l'acte d'accusation le plus terrible et géneral que Tchekhov ait jamais écrit (le jeune Lénine en fut fasciné et bouleversé), mais parce qu'il investit un moment de crise de la pensée scientifique et humanitaire bourgeoise, la tentation de penser que tout est inutile, que le mal est invincible, que la matière doit être considérée vanité, et la douleur illusion. Si quelques tentations spiritualistes peuvent avoir touché l'auteur du Pari ou du Moine noir, elles trouvent ici un démenti, résultat d'une décision en même temps douloureuse et féroce.
    Tchekhov, le médecin éducateur à l'ombre de la culture positiviste, et qui avait saisi ce qu'il y avait en elle d'élan humanitaire et progressiste, en cerne aussi, avec une sensibilité précise, les crises et les deviations. Dans Le Duel, il nous a donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui soutient la suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où il n'y a rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom allemand, ni l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de ceux qui, cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe. Et dans ce personnage (comme dans celui de Dans le domaine, qui est a peu près son pendant) Tchekhov n'a pas manqué de laisser entrevoir que lui aussi n'est qu'un pauvre homme qui pourrait être capable de bonnes actions, mais qui n'en est pas pour autant moins féroce et inhumain. II ne s'agit pas de superficialité sentimentale chez Tchekhov, ni d'un «Aimons-nous les uns les autres » de la sceptique indulgence amorale qui a tant de racines dans les moeurs italiennes; c'est la douleur sévère pour tout ce que l'homme gaspille de lui-même, pour ce qu'il pourrait être et qu'il n'est pas. Tchekhov a compris cela surtout de cette société qui est encore la société dans laquelle nous vivons: que de choses irrécupérables sont quotidiennement perdues, que de beauté, que d'amour, que de qualités qui pouvaient être tournées vers le bien, que de vies gaspillées, consumées vainement. Et en cela il n'est ni élégiaque, ni résigné : il s'en prend à nous, il est d'une sévérité féroce, C'est la sa morale, la “porte étroite” qu'il ouvre à ses personnages et à nous. C'est pour cela qu'il demeure, d'autant plus qu'il est clair et sans facons, un écrivain « difficile », «peu commode» : parce qu'il est plus facile de l'éviter et de broder autour de lui que de l'accepter tel qu'il est.

Italo: Pourquoi lire les classiques
La petitesse de l' homme chez Anton Tchekhov

Cõi người bé tí ở Chekhov

Mon amour pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie: Cái tình yêu của tôi với Chekhov, có cái sự ghen tuông, đố kỵ ở trỏng.
Dans Le Duel, il nous a donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui soutient la suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où il n'y a rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom allemand, ni l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de ceux qui, cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe.
Trong Le Duel, ông ta đã cho chúng ta chân dung tuyệt hảo của Nazi...
Il existe pour lui, en Union soviétique, une affection qui touche à la vénération: et, de ce petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils font presque un prophète de la sociéte socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme un symboliste mystique.
Ở Liên Xô, ông được coi như nhà tiên tri của XHCN, ở Tây Phương, ông nổi tiếng, khi thì như là người cha của chủ nghĩa bi quan, khi thì như 1 biểu tượng thần bí..



Ai Điếu Roberto Bolaño,
người sáng tạo ra chủ nghĩa 
'infrarealism'

Chilean creator of 'infrarealism'
https://www.theguardian.com/news/2003/jul/17/guardianobituaries
Nick Caistor

Roberto Bolaño, who has died at Blanes in northern Spain of liver failure, aged 50, was one of the most talented and surprising of a new generation of Latin American writers.
Born in the Chilean capital of Santiago, Bolaño was typical of a generation of Latin American writers who had to cope with exile and a difficult relationship with their home country, its values and its ways of seeking accommodation with a turbulent history. Bolaño turned to literature to express these experiences, mixing autobiography, a profound knowledge of literature, and a wicked sense of humour in several novels and books of short stories that won him admirers throughout Latin America and Spain.
Bolaño spent much of his adolescence with his parents in Mexico. He returned to Chile in 1972, to take part in President Allende's attempts to bringing revolutionary change to the country. Arrested for a week after the September 1973 Pinochet coup, Bolaño eventually made his way once more to Mexico, where he embarked on his literary career. At first he wrote poetry, strongly marked by Chilean surrealism and experimentalism, but after moving to Spain in 1977 he turned to prose, first in short-story form and then more ambitious novels.
His mischievous spirit upset many fellow writers, who often bore the brunt of his attacks. Fed up with the pious sentimentalism of the kind of socially committed literature he felt was expected of Chilean writers, he aimed to subvert good taste, revolutionary or conservative. This iconoclasm led to books such as the History Of Nazi Literature In Latin America, an invented genealogy of writers.
In 1998, Bolaño published his best-known work, the sprawling novel Los Detectives Salvajes (The Wild Detectives), a challenging mixture of thriller, philosophical and literary reflections, pastiche and autobiography, which he baptised "infrarealism". The novel won him the Herralde and Romulo Gallegos prizes, and established Bolaño as one of the foremost writers in the Hispanic world.
English readers so far have only been able to read By Night In Chile, published by Harvill this year. This is the most straightforward of his books, looking back as it does to the Pinochet days in Chile and the coexistence of evil, compromise and literature in extreme situations.
When Bolaño came to London early this year for the English publication of By Night in Chile, he was already very ill from a longstanding liver complaint. Despite this, he was still talking non-stop of the many projects he was involved in, including a mammoth novel provisionally entitled 2666, already more than 1,000 pages long, that dealt with the murders of more than 300 young women in the Mexican border town of Ciudad Juarez, another novel, and a new collection of poetry.
But what most delighted him during his London visit was the fact that he was already becoming better known in Spain as a fictional character than as his "real" self. This is because he is one of the main characters in the Spanish bestseller by Javier Cercas, The Soldiers Of Salamis, where "Roberto Bolaño" helps the author to successfully complete his novel.
This mingling of reality and fiction seemed to Bolaño a confirmation that life and literature are of equal importance. As he said at the time, "You never finish reading, even if you finish all your books, just as you never finish living, even though death is certain."
Bolaño had faced this certainty for years, as his liver deteriorated. He died in hospital while awaiting a liver transplant, and is survived by his wife Carolina and two children, Alexandra and Lautaro.

· Roberto Bolaño, writer, born April 28 1953; died July 15 2003.

*

http://www.tanvien.net/tgtp_02/bolano.html
*

‘If a person erases him or herself in order to survive, how can they find that self again?’ … Madeleine Thien.
Photograph: Murdo Macleod for the Guardian
Nếu bạn xóa bạn để sống sót, thì làm sao tìm lại được cái con người là bạn đó
?
Bà này, báo nhà, Gấu hay đọc. OK lắm

Madeleine Thien: ‘In China, you learn a lot from what people don’t tell you’
The Man Booker-shortlisted writer on a solitary childhood in Canada and daring to question the Chinese regime


https://www.theguardian.com/books/2016/oct/08/madeleine-thien-interview-do-not-say-we-have-nothing

MADELEINE THIEN

Dream of the Red Chamber


My mother's favorite book was the Chinese classic novel Dream of the Red Chamber, also known as The Story of the Stone, also known as A Dream of Red Mansions. This was the only work of fiction on her bookshelf. I remember picking the novel up only once when I was young. I was drawn to its magisterial heft, to the consolidated weight of more than a thousand pages. But because I could not read Chinese, I gravitated instead to her Chinese-English dictionary, a heavy yet small book, the size of my hand that translated shapes into words (book). My mother passed away suddenly in 2002, and her copy of Dream of the Red Chamber vanished.
    The novel was written 250 years ago by Cao Xueqin, who was still writing it when he died suddenly in 1763. Approximately twelve copies of Dream of the Red Chamber existed in the years following his death, handwritten editions made by his family and friends. The manuscripts differed in small ways from one another, but each was eighty chapters long. Unfinished, the novel ended almost in mid-sentence.
    Those handwritten copies began to circulate in Beijing. Rumors spread of an epic, soul-splitting tale, a novel populated by more than three hundred characters from all walks of life, a story about the end of an era, about the overlapping lines of illusion and existence, a novel that took hold and would not let you go. In 1792, nearly thirty years after Cao Xueqin's death, two Chinese scholars came forward and claimed to be in possession of the author's papers. They proceeded to publish what they said was the complete manuscript, consisting of one hundred and twenty chapters, thirteen hundred pages. Movable type had existed in China since the eleventh century, but this was the first time Dream of the Red Chamber appeared in print.
    It has been the pre-eminent Chinese novel ever since, attracting legions of scholars-so many that they form a movement, Redology. Some believe that, for reasons unknown, Cao Xueqin destroyed the last forty chapters of his novel, that the two scholars finished the book themselves. Today in China there are more than seventy-five editions. Some are eighty chapters, others are one hundred and twenty, and some are one hundred and ten. Dream if the Red Chamber has multiple endings and it also has no ending.
    A few years ago, I began writing a novel set in Shanghai. My own novel circles around a hand-copied manuscript with no author, a story with no beginning and no end. I knew nothing about the story surrounding Dream of the Red Chamber because I had never read the novel; no one had mentioned it in any literature course I had ever taken. A couple of years ago, missing my mother, I finally began to read it. The novel took root in me. When I learned of the handwritten copies, the continuation, the unknown authorship, I felt oddly, exhilaratingly, as if I had always known this story. I had folded it into my own book: a truth unwittingly carried in a fiction, an illusion as the structure of a truth.
    Dream of the Red Chamber is hands down the most widely read book in the Chinese-speaking world, making it perhaps the most read novel in history. Professor John Minford, who translated an edition with celebrated translator and Chinese scholar David Hawkes, described it as a novel that combines the highest qualities of Jane Austen, William Thackeray, Marcel Proust, and Honore de Balzac. After 250 years, readers continue to decode its mysteries. Readers like my mother felt ownership over the novel. With Dream of the Red Chamber, none of us can ever know where the ending lies or what only another beginning is. The novel itself is a playful and profound mirror to the life of the imagination. Lines from the first chapter read, "Truth becomes fiction when the fiction's true. Real becomes not-real where the unreal's real. "
    I still have my mother's dictionary. I often wonder what happened to her copy if Dream of the Red Chamber. I wonder whether it had eighty chapters, one hundred and twenty, or one hundred and ten. It was her girlhood copy. She'd had it through all her migrations, carrying it across the seas from Hong Kong to Canada. I had wanted to keep it all my life, but while I grieved my mother's sudden death, someone reached out for the book on the shelf. They lost themselves in its love triangles, its forgotten era, its intricate dance between this world and its dream. They carried the book away with them, into its next life.

The Adventures of Tintin

PICO IYER

By the time I was five, I was used to my impenitently spirited father bringing strange things into our lives. I could perch on the stool he'd acquired made out of an elephant's foot, spying on the robed Tibetan monks who came to him for tutoring in Plato and Spinoza. I could stare at the photo he'd brought back of the Dalai Lama, four years old, already seated on the Lion Throne in Lhasa (a present the Tibetan leader had sent me, through my dad, following their first meeting, in 1960). After three months away in West Africa teaching political theory, suddenly my old man was dancing to highlife music in our little flat on Oxford's Winchester Road, cheerfully oblivious of the duffle-coated, tow-headed professors' children just outside, heading down the street to the Dragon School or its prequel, the Squirrel.
    As a child, of course, I took this to be quite normal; the old Englishwoman we went to see in the evenings used to magick elaborate horoscopes, all circles and esoteric scribbles, from the thick ephemerides on her shelves. The tall, no-nonsense the memsahib who looked after her-her daughter and the very picture of a commander of the British Empire-had (I learned much later) spent time as a Buddhist nun in Thailand. That handsome colleague of my father 1 saw at Christmas parties at St. Antony's turned out to be the legendary photographer of Tibet in the 1930s, Fosco Maraini, who had cut off his own finger during the war to shame his Japanese captors.
    One day-my parents had, quite fittingly, moved to California by now, though 1 continued going to school in Oxford-I headed down a narrow, barely     lit staircase in the home of the former Buddhist nun, now my unofficial godmother. Waiting for me at the bottom was a sparky boy journalist in an over-coat, who'd been pierced by a vision of a stricken Chinese friend in the snow and left Europe for the Himalayas. Within seconds, I was following this cub reporter to the Caucasus and then through the forests of Yugoslavia, all sinister black limousines and grimacing operatives. I thought nothing of accompanying him into the richly colored bazaars of the Andes, through rickshaw-filled streets in a red-lanterned Shanghai, even to the moon. I would never have guessed then that a journalist, who seemed to file no stories, had no apparent bosses or office, never thought about deadlines, and simply followed adventure wherever it took him would one day be a description of me.
    Oxford in those days was a network of children's possibilities, if you knew where to look. A few hundred yards from my bedroom was the pub where C. S. Lewis and J. R. R. Tolkien exchanged stories of Narnia and Middle Earth. Up the street a little was the garden in which the Mad Hatter and the Cheshire Cat leapt into life. Toad of Toad Hall was just around the bend, along a drowsy river, and my hero and designated alter ego-another foreigner appearing in England in almost the same year as I did, Paddington Bear-inhabited a world that seemed indistinguishable from the cozy rituals that kept us happily in place in North Oxford.
    But Tintin was the one to fling open a lifestyle for me, if only because he seemed so unrooted and so restless. We never saw his home; we could never associate him with a family. All he had was a movable feast of lovably unpredictable friends, a loyal four-legged companion, and a blend of curiosity and conscience that seemed to land him always in rapturously unexpected settings that his creator, Hergé, had fashioned out of constant trips to museums and through books.
    The stories were unexceptional. The characters were one-dimensional. I can't say my imagination was deepened or stretched by the books, as it would be by, say, Ursula Le Guin's ageless and profound Earthsea novels. Yet the beauty of Tintin was that the background was the point, at least for me. It was never the protagonist, the dialogue, the plot that mattered; what it gave this small reader was a hunger to be out in the world, in the midst of bustling markets and unreadable strangers, of words lost in translation and levitating monks, where everything we once thought strange would come in time to be familiar.
    Paddington Bear gave me a template out of which to form a character; but it was Tintin who threw open the doors to an entire destiny. +

On childhood Books
Brick, A Literary Journal, n# 95, Summer 2015

Six Poets Hardy to Larkin
The Moon 

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

Pham Nguyen Truong liked this.

Một ý nghĩ:

Đối với nhà văn đích thực, ngày mai phải viết hay hơn hôm qua, đó không chỉ là một đòi hỏi mang tính thẩm mỹ mà còn là, thậm chí trước hết là, một đòi hỏi mang tính đạo lý - cũng bức thiết và tự nhiên giống như ngày mai phải sống đẹp hơn hôm qua.

Tuy nhiên, mặt khác, nếu bạn không làm được như vậy, thì ít nhất bạn hãy bao dung với mình nếu biết bạn đã cố hết sức.

... See More

Đấng này, Gấu đọc, ngay từ khi vừa xuất hiện trên diễn đàn VHNT trên lưới, của PCL, và thú thực, không có ý kiến.
Khác hẳn trường hợp Nguyễn Quang Lập, cũng xuất hiện, cũng trên VHNT, đọc 1 phát là trúng đòn liền, và là cái mẩu Cục Uất của anh ta.
Bọ Lập sau đó, nổi như cồn, với loạt bài, trên TV có post lại. Nhưng sau đó, là hết. Gấu đã từng dùng hình ảnh ánh lửa ma trơi, để diễn tả trường hợp của anh ta.
Nhưng vấn đề của TTCD, khác hẳn.
Thì nói toạc ra ở đây, anh ta viết hoài thì cũng vẫn mãi như thế.
Và quả nó liên quan đến mỹ, đến đạo lý, như
ng không phải như anh ta hiểu.
Trường hợp của TTCD, là trường hợp của…  GCC, thời mới lớn, và Sartre diễn tả thật là thần sầu. Nhớ, Gấu, thú thực, đọc 1 phát, lại 1 phát, là thấm cả 1 đời.
Sartre phán: Vảo mỗi thời đại, con người nhận ra mình, lọc ra mình, khi đối diện với tha nhân, tình yêu và cái chết
A chaque époque, l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour et de la mort.
Theo GCC, TTCD, như cả 1 thời của anh ta, khôn quá, hoặc nhát quá, chẳng chọn gì!
Anh ta không dám lọc mình ra
, giữa cả 1 thời của anh ta! (1)

(1)

http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/chuoi_5.html


Tại sao mày cứ viết về mấy chuyện "chính trị", nhắc đến tụi chúng nó làm gì vậy? Chúng nó đâu có đáng để cho mày viết?
Một ông nhà văn Miền Nam, cũng bạn văn của Hai Lúa ngày nào, tỏ ra bực mình.

Nhưng Hai Lúa đâu có viết về chúng nó, mà viết về những người mà chúng nó ngồi lên đầu!


http://www.tanvien.net/gioithieu_02/cuc_uat.html

Ui chao, Sartre, Camus và thời mới lớn của Gấu, và những câu thần chú.
Con người bị kết án phải tự do. L’homme est condamné à être libre.
Địa ngục là tha nhân. L’enfer, c’est les autres.
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về siêu hình học của tiểu thuyết gia, une technique romanesque renvoie toujours à la métaphisique du romancier. Sartre đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ của Faulkner. Câu phán này quả là quá khủng khiếp, vì nó trở thành kim chỉ nam đối với cái việc điểm 1 cuốn sách. Sartre đọc Faulkner, và khám phá 1 siêu hình học về thời gian: Trong Âm Thanh và Cuồng Nộ, Faulkner đập nát thời gian của tiếng tích tắc của đồng hồ, và xây dựng 1 thời gian khác, với tiếng hú của 1 tên khùng, đây là câu chuyện được kể bởi 1 tên khùng, đầu âm thanh và cuồng nộ, và chẳng có ý nghĩa gì hết



1. Thế kỷ 20 của ai?

Triết gia người Pháp, Bernard-Henry Lévy trả lời bằng cả một cuốn sách: Thế kỷ của Sartre (nhà xb Grasset, Paris).
 
G. Steiner, trong bài viết "Triết gia cuối cùng?" trên tờ TLS (The Times Literary Supplement 19 May, 2000), đã nhắc tới một phương ngôn của người Pháp, theo đó, trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20, ngôi sao của Sartre lu mờ so với những "địch thủ" của ông như Camus, Raymond Aron, bởi vì thời gian này, ông còn ở trong lò luyện ngục (purgatoire). Và đây là "phần số", chỉ dành cho những triết gia lớn, tư tưởng lớn. Theo ông, hiện nay, ở Pháp, Đức, Ý, Nhật, và một số quốc gia Đông Âu, thế giá và huyền thoại của nhà văn đã từng từ chối giải thưởng Nobel văn chương này, đang ở trên đỉnh. Ở đâu, chứ ở Pháp thì quá đúng rồi: sau 20 năm ở trong lò luyện ngục, Sartre trở lại, và đang tràn ngập trong những tiệm sách, với nào là tiểu sử (loại multi-volume), nào hội thảo, đối thoại, gặp gỡ (rencontres)… Theo như Jennifer Trần tôi được biết, tạp chí Văn, trong tương lai, sẽ dành trọn một số báo để nhìn lại "triết gia cuối cùng của nhân loại", đặc biệt bởi những nhà văn Miền Nam đã một thời coi ông là "thần tượng", như Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân…

 "Địa ngục là những kẻ khác", "Người ta không thể bỏ tù Voltaire", "Con người bị kết án phải tự do", "Con người là một đam mê vô ích", "Tự do phê bình là hoàn toàn ở Liên Bang Xô-viết (La liberté de critique est totale en URSS), "chủ nghĩa Cộng sản là chân trời đừng mong chi vượt được của thời đại chúng ta (Le marxisme est l’horizon indépassable de notre temps)… nhưng hình ảnh một ông già mù phải nhờ bạn dẫn tới bàn hội nghị, để tranh đấu cho một con thuyền cho người vượt biển, vì muốn cứu những xác người trên biển Đông mà đành phải bắt tay với kẻ thù và cũng đã từng là bạn… hình ảnh đó đã vượt lên tất cả… nhưng thôi, xin hẹn gặp Văn, số đặc biệt!

Cái tay TTCD này, khi anh ta và đồng bọn làm trang e-Văn, Gấu mặt dầy gửi bài liền, chẳng đợi mời. Chỉ đến khi GCC gửi 1 bài dịch trên TLS, kèm luôn bản tiếng Anh, và khi bài post lên, thấy đề TTCD hiệu đính, Gấu bèn mail hỏi, anh ta chỉ ra mấy chỗ Gấu dịch sai, mà sai thật, Gấu mới hỡi ơi, vì cái đạo hạnh của anh ta.
Cái từ hiệu đính, như Gấu đã từng nói, rất cao quí, không thể đem ra dùng 1 cách khinh xuất như thế, mà dùng như thế là làm nhục tòa soạn e- Văn, chứ không phải người cộng sự.
Sến cũng y chang, vô tư đè bài viết của GCC ra đề tên 1 tên khốn kiếp vô, hiệu đính!
Đây là sự khác biệt giữa văn minh và dã man mà DTH đã từng chỉ ra.
Với đám Ngụy, đây là công việc bếp núc của 1 toà soạn, khi họ “edit”, biên tập,
một bài viết của cộng sự, và nó không chỉ hạn hẹp trong việc sửa những lỗi dịch sai.
Khi biên tập xong, họ gửi cho tác giả, và xin ý kiến, nếu OK, họ đăng, không, họ gửi trả lại bài viết.
Từ “hiệu đính” được dùng trong những nghi lễ trang trọng hơn nhiều.
Một tay mới viết, biết sức mình, bèn nhờ 1 đàn anh mà anh thực tình coi trọng, coi lại bài viết, “xin anh hiệu đính cho em, và cho phép em để tên anh lên đầu bài viết”
Đó là 1 vinh dự của lũ văn minh, vậy mà bị tên này, cũng như Sến, làm thành 1 trò nhục mạ người cộng sự.
Sến chẳng đã từng đăng bài viết của Nguyễn Vă
n Lục, và khi từ chối, ông ta viết mail hỏi, Sến làm nhục ông ta bằng câu trả lời, viết dưới tầm của trang của tôi!

Gấu đã từng làm những công việc như vậy, mà chưa từng để tên Gấu vô, như 1 kẻ hiệu đính. Nhờ vậy mà thoát chết trong nhà tù VC, như đã từng lèm bèm nhiều lần, khi sửa bài viết của Nguyễn Mai, khi phụ trách phụ trang văn học của tờ Tiền Tuyến

Những Hình Hài Nobel
http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/nobel_bodies.html
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày 15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích: Đăng lại bản dịch trên e-Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm một số sai sót.
NQT


http://phovanblog.blogspot.ca/2016/10/jane-eyre-ban-tay-che-dong-bao.html

Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
TYT

Note: GCC sợ đấng này lộn từ kinh điển, academic, với từ cổ điển, classic.

Bởi thế, Calvino mới hỏi và cùng lúc, trả lời bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất 1 cuốn sách vừa mới ra lò, là đã thành cổ điển!
Đã 1 bạn Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”, khiến cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!

GCC đã nói rồi, lưu vong, trễ quá, càng trễ, mộng càng lớn, nghĩa là chỉ mong kết bạn với đám viết lách, cái sự
chửi bới, dọn dẹp như sau này, là sau khi được bẩy bó, bèn dùng cái bonus thời gian vào cái việc nhơ bẩn.
Hai vị hộ pháp của TV có lúc bực mình, sao ưa cà khịa như thế, chửi người, dù thắng, thì cái phần người của mi cũng bị sứt mẻ.
Nhưng theo GCC, rõ ràng là, trong giới viết lách hải ngoại, gần như không có lấy
1 tên, có lấy 1 chút đạo hạnh.
Đó là sự thực.
Và phải có 1 tên dám vào địa ngục, làm cái việc, chỉ cho chúng thấy, chúng nhơ bẩn quá, hà, hà!

Bởi là vì, không lẽ lui cui mất 20 năm, làm trang Tin Văn, không được tí quà?
Quà làm trang TV là vạch ra cái phần vô hạnh, vô đạo đức của lũ Mít cầm viết!
Chúng viết như kít, là do đạo hạnh khốn nạn quá!

Cái gì làm cho tên ngồi bên ly cà phê, làm thơ, nhớ bạn hiền, chôm thơ Joseph Huỳnh Văn, trên trang Tin Văn nhưng lại nhớ mang máng là đọc trên tờ Thời Tập của VL?
Cái gì làm 1 tên núp váy đàn bà viết cực nhơ bẩn về những người viết đã chết, như TTT, NXH, hay những vị còn sống, như MN, TTNgh, đều là những người thành danh, có tác phẩm nổi tiếng, chẳng hề
thù oán gì hắn, và, như Gấu, chẳng hề biết hắn là thằng chó nào?

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo


*

Bên kia đường, phiá bên phải, là Quán Chùa, La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/

ELEGY FOR A PARK
The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night



Tập san Văn Chương là gì?
http://www.tanvien.net/tg/tg_tapsan_vanchuong.html

Tập san Văn chương ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn. Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ, Nguyễn Tường Giang, chán chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có; và mặc dù tập san có nhà in riêng - nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus, Soleils Retrouvés. Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện, không phải với mấy anh chàng Yankee đứng ngơ ngẩn ở ngã tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần, những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện của họ.

Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn đang biến dạng.

Note: Cái anh chàng Yankee mà Gấu nhìn thấy, là ở góc đường này, từ Quán Chùa
Nhớ hoài!




















Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây