nqt
 
I (old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 14
15

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]




Obituary: Shimon Peres
Intriguing for peace: Âm Mưu Hòa Bường


Shimon Peres, an Israeli statesman, died on September 28th, aged 93

HE OUTLIVED all his country’s other founding fathers, but failed in what he most yearned for: to lead it into a lasting peace. Missed opportunities dogged Shimon Peres’s career. He gained the highest offices—prime minister, twice, and president—but the political arithmetic invariably went against him. His forte was foreign policy, but his political nemesis, Menachem Begin, signed the peace treaty with Egypt in 1979, and his arch-rival, Yitzhak Rabin, got most of the plaudits for Israel’s deal in 1993 with the Palestinian leader, Yasser Arafat.

Mr Peres’s imprint was lasting, nonetheless. As a precocious young civil servant, he brokered arms deals which helped his uniformed counterparts to get the weapons they needed. He circumvented arms embargoes with creative ruses, such as buying warplanes as, purportedly, film props, and cannily found leaky frigates and rusty tanks in places where they were no longer needed. He bargained hard, shaming rich countries for charging full price to tiny, beleaguered Israel, and cajoling rich sympathisers. It meant breaking a lot of rules. Jimmy Hoffa, boss of America’s Teamsters union, became a friend, and Israel’s rapprochement with West Germany was cemented with marathon drinking sessions with the arch-conservative Bavarian, Franz-Josef Strauss.

    Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"

    Paris Match:
    Ông có buồn vì không nhìn thấy hòa bình được ký kết, khi ông còn sống?
    Peres:
    Tôi đâu có vội chết. Và tôi tin vào phép lạ. Chỉ nhìn Âu Châu là thấy. Hàng ngàn năm, thù hận, chiến tranh, máu đổ xuống mảnh đất này. Tuy nhiên… Anh và Pháp không còn coi nhau là kẻ thù truyền kiếp. Vào tháng Năm 1945, chẳng ai có thể tiên đoán, mà không bị coi là không tưởng, Âu châu có được hòa bình, Đức và Ba Lan nói chuyện với nhau, và những thế hệ trẻ tha hồ đi lại, bay nhảy trong không gian này. Đúng là một phép lạ, như Israel. Ai có thể tin rằng, ba năm sau Lò Thiêu, có 1 Quốc gia Do Thái?  Và Quốc gia đó ngày càng thịnh vượng? Bữa nay, khi nói chuyện với những người Âu châu, tôi không nghĩ rằng, những phép lạ đó sẽ chấm dứt.
    Làm sao mà 1 ông Nobel hòa bình lại trải qua suốt đời lo chuyện chiến tranh?
    Tôi không sửa soạn chiến tranh. Tôi sửa soạn chống đỡ. Israel đâu có chọn lựa, chỉ hoặc chết.
     (1)

    Le monde a changé. Il n’a plus besoin de leaders, il lui faut des serviteurs.
    Thế giới thay đổi. Nó đếch cần lãnh đạo, mà cần đầy tớ!
    (1)

    Paris Match:
    Vào năm 1993, ông đã sờ vô được hòa bường, với người Palestines. Hai chục năm sau, ngõ cụt tuyệt đối. Ông có coi đây là 1 thất bại cá nhân?

    Shimon Peres [đúng 9 bó, hơn GCC, tệ lắm, cả 1 con giáp]:
    Không. Những mục tiêu lớn cần những cuộc chiến đấu lớn, và điều này hàm ngụ, không thể tránh được, những khoảnh khắc giật lùi. Nếu nhìn lại, thì tôi thấy chúng tôi thấy quả là đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trước hết, người Palestines đã công nhận Israel như là 1 quốc gia thực sự, và chúng tôi, chúng tôi công nhận họ, như là một dân tộc. Bây giờ, họ phát triển về mặt kinh tế. Họ trở thành 1 quốc gia đang trở thành. Lần đầu tiên trong lịch sử của họ, họ đang xây dựng một thành phố mới, hiện đại, ngay bên cạnh Ramallah. Không thể tưởng tượng được. Và chúng tôi, chúng tôi cũng làm được 1 điều chẳng thua gì, chúng tôi đã di tản ra khỏi Gaza. Chúng tôi nhổ bật 22 vùng đồn điền để trao trả dải đất cho người Palestines. Điều thật buồn là đám Hamas xía vô, và, thay vì xây dựng 1 bến cảng hòa bình, thì lại có một lực lượng khủng bố. Bây giờ chúng cứ thế nã đạn vô chúng tôi, chẳng cần lý do con khỉ gì hết.
    Vả chăng, khủng bố mà cần gì lý do? Nhà đại chiến lược nổi danh Clausewitz chẳng bán được 1 cuốn nào vào lúc này, bởi vì theo lý thuyết của ông, chiến tranh chỉ là chính trị nới rộng ra.


    Quoc Tru Nguyen shared a memory.
    2 Years Ago
    See Your Memories

    Biển

    Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
    Nhìn hồ Georgian
    Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.

    ... See More

    *

    Dạ Vũ Ký Bắc

    Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
    Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
    NQT: Biển 

    Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
    Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên, anh gật gù:
    -Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ nữa, cũng vẫn được, anh ạ! 

    Lý Thương Ẩn [813-858]
    Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khuê sinh. Người huyện Hà Nội, tỉnh Hà Nam. Năm 837 (đời Đường Văn-tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào việc thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở nên ông bị coi là người vong ân.
    Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Đỗ Mục, nên người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Đỗ.
    Có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình giống thơ Đỗ Phủ.
    Hai Lúa mới lục trong tủ sách, cuốn Thơ Đường, của Trần Trọng San, có phần tiếng Anh, nhà xb Đại Học Tổng Hợp Thành Phố HCM.
    Lạ một điều, bản tiếng Anh, dịch bài Đăng Lạc-Du nguyên, lại giống như bài thơ Biển của... Hai Lúa!

    Biển

    Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
    Nhìn hồ Georgian
    Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

    Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
    Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả.

    Cát ở đây được con người chở từ đâu tới,
    Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này.
    Số phận còn thua hạt cát.

    Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng,
    Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.

    Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
    Như con hải âu già
    Giấu chút tình sầu
    Vào lời thì thầm của biển...
    NQT
    *

    Bản dịch qua tiếng Anh, của Witter Bynner, bài Đăng Lạc-Du nguyên của Lý Thương Ẩn. 

    The Lo-Yu Tombs
    With twilight shadows in my heart
    I have driven up among the Lo-Yu Tombs
    To see the sun, for all his glory
    Buried by the coming night 

    “Buried by the coming night”, dịch lại qua tiếng Việt, chẳng là:
    Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả?

    Tuyệt cú mèo. Cứ y hệt như Hai Lúa khi làm, sáng tác...  bài thơ Biển của mình, là... dịch nó từ tiếng Anh qua!

    *

    Thơ là toán thuần tuý, ngược với văn, là toán áp dụng, của ngôn ngữ. Nó xác thực hơn, có nhiều khả năng tạo những hình thức lý thuyết, độc lập không dựa vào nền tảng chất liệu, so với văn.
    G. Steiner: Verse in Tragedy, Thơ trong Bi Kịch.
    [... that verse is the pure mathematics of language. It is more exact than prose..., and more capable of constructing theoretic forms independent of material basis. Prose, on the contrary, is applied mathematics]. 

    Nhân nói chuyện dịch thơ, tờ Guardian online kể kinh nghiệm dịch Antigone của nhà thơ Nobel văn chương, Seamus Heaney. Ông bị bí, và rồi cảm hứng đã tới với ông, khi ông nhận ra rằng, đừng coi bản dịch của mình như là một cơ hội để phản đối cuộc chiến Iraq. Đây là một vở kịch thơ, nhưng bình luận và nghiên cứu đã biến nó trở thành một ẩn dụ chính trị. Tôi nhắm cái chiều hướng nhân chủng học của tác phẩm, không muốn bản dịch của mình biến thành một lời chỉ trích cuộc chiến Iraq, vì thế mà tôi đổi là The Burial at Thebes, Chôn Cất Tại Thebes, thay vì Antigone. 

    Burial, chôn cất, là vì, chôn hay không chôn, đó là vấn đề; một bên, quyền của người chết, và một bên, luật của đất. Nhưng chôn là một từ luôn bám rễ vào đất, nghĩa là, chẳng bao giờ mất đi cái thực tại nguyên thuỷ của nó. Chôn bảo cho những người còn sống là người chết muốn được quyền chôn cất, rằng, hãy tỏ lòng tôn kính, với chiếc quan tài, và cái xác chết ở trong đó, cho dù cái quan tài đó phủ cờ gì.
    Search for the soul of Antigone: Đi tìm linh hồn nàng Antigone
    Wednesday November 2, 2005
    The Guardian


Đăng Lạc-Du Nguyên

Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Lý Thương Ẩn
 

Sau đây là bản dịch, khi chưa chuyển thành thơ, của Trần Trọng San. 

Lên Lạc-Du nguyên
Lúc trời sắp tối, ý không thoả thích, nên rong xe lên khu đất cổ. Nắng chiều đẹp vô hạn, thế nhưng đã sắp hoàng hôn!

Bây giờ bạn đọc lại bài Biển. 

Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

Cái "air" của bài thơ rất giống cái "air" của bản dịch khi chưa chuyển thành thơ, của bài thơ Đường.
Nói một cách khác, mấy bài thơ của Hai Lúa, một cách nào đó, đều như được dịch từ Đường Thi qua, và còn ở dạng "nháp", chưa được gọt rũa, thành vần, thành điệu.

Và đây là một trong những cái "mánh", trong cái việc tập tành làm thơ:
Hãy thử dịch thơ Đường!
Và đó cũng là câu Alain khuyên ông học trò sau này nổi danh của mình, là André Maurois, mày mê ai, thì cứ dịch người đó (1) và rồi sẽ trở thành văn sĩ, như người đó.

*

 Nhưng thơ Đường không làm sao có những dòng như vầy:
Cát ở đây được con người chở từ đâu tới,
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này.
Số phận còn thua hạt cát. 

Nó là tâm thức bi đát về phận người, về những hoàn cảnh giới hạn của nó, tâm trạng sao xuyến, lưu đầy, và, lưu vong.

Cũng xin được cắt nghĩa một tí về "Cát ở đây..."
Bãi Wasaga không có cát, cát được chở từ nơi khác tới, làm một bãi biển giả, câu du khách từ thành phố tới.
Bài thơ trên, làm đúng vào lần đầu tiên được một người bạn chở tới đây. Ông bạn này nói cho biết về cái vụ "cát ở đây", và, bài thơ được hoàn thành ở trong đầu, khởi từ ý đó.
Cụm từ " bị quê hương ruồng bỏ" lúc ban đầu, đúng như vậy, rồi đuợc sửa là, "không hiểu tại sao", như bản được đọc trên Gió_O, nhưng một ông bạn đọc cả hai, bèn mắng cho, "bị quê hương ruồng bỏ", là đúng rồi, đúng ra phải nói, "bị VC đá văng ra khỏi đất nước", nhưng "bị ruồng bỏ" nghe có vẻ...  thơ hơn!

*

Hardy never said much about writing or the difficulties of it, or the moral difficulties of it. Kafka said that a writer was doing the devil's work, writing a wholly inadequate response to the brutishness of the world, and Hardy increasingly felt this. It's not that it's an immoral activity or an amoral one; it's just that the act of creation is something to which the ordinary standards of human behavior do not apply. Hardy never liked to be touched. He always walked in the road to avoid brushing against people, and servants were told never to help him on with his coat and just to drop the shawl around his shoulders and not tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle for life - and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue with the moon.

Hardy chẳng hề lầu bầu về viết, hay những khó khăn về viết, hay khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán nhà văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc đáp không thoả đáng về tính thú vật của thế giới, và Hardy càng ngày càng cảm thấy đúng như thế. Nó không phải là 1 hành động đạo đức, hay không đạo đức, mà cái hành động sáng tạo có 1 điều gì mà lũ chó, hay phường mắt trắng dã, không hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái ai đụng vô ông ta. Cây viết là vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.
Bài thơ sau đây là 1 cuộc lèm bèm với trăng
.

I Looked Up from My Writing

I looked up from my writing,
And gave a start to see,
As if rapt in my inditing,
The moon's full gaze on me.

Her meditative misty head
Was spectral in its air,
And I involuntarily said,
'What are you doing there?'

'Oh, I've been scanning pond and hole
And waterway hereabout
For the body of one with a sunken soul
Who has put his life-light out.

'Did you hear his frenzied tattle?
It was sorrow for his son
Who is slain in brutish battle,
Though he has injured none.

'And now I am curious to look
Into the blinkered mind
Of one who wants to write a book
In a world of such a kind.'

Her temper overwrought me,
And I edged to shun her view,
For I felt assured she thought me
One who should drown him too.


Nostalgia for the Present

At that very instant:
Oh, what I would not give for the joy
of being at your side in Iceland
inside the great unmoving daytime
and of sharing this now
the way one shares music
or the taste of fruit.
At that very instant
the man was at her side in Iceland.
-A.S.T.

J.L. Borges: Collected Poems [Penguin ed]
Hoài nhớ Hiện tại
Ôi, khoảnh khắc rất khoảnh khắc
Giá mà được ngồi kế bên em ở tiệm cà phê túi, hủ tíu Chợ Đũi, nhỉ!
Trong cái ban ngày ban mặt, không chuyển động, lớn lao,
của Saigon trước 1975
Và chia sẻ nó lúc này
Cái kiểu
mà đám Ngụy nghe nhạc sến,
Cái gì gì, đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn
Vào cái khoảnh khắc rất khoả
nh khắc
Anh Cu Gấu ngồi kế
bên BHD ở quán cà phê Tầu, khu Chợ Đũi!

Thu 2014

What I Overheard

In summer's idle time,
When trees grow heavy with leaves
And spread shade everywhere
That is a delight to lie in
Alone
Or in the company of a dear friend,

Dreaming or having a quiet talk
Without looking at each other,
Until she feels drowsy
As if after too much wine,
And you draw close for a kiss
On her cheek, and instead
Stay with lips pursed, listening

To a bee make its rounds lazily,
And a far-off rooster crow
On the edge of sleep with the leaves hushed
Or rustling, ever so softly,
About something or other on their mind.

Charles Simic

Điều Gấu thoáng nghe

Mùa hạ, lúc rảnh rỗi
Khi cây nặng trĩu lá
Trải bóng lên mọi nơi
Sướng làm sao, nằm
Một mình
Hay với một em thật thân, là Em, tất nhiên, hà hà!

Lơ tơ mơ, hay đi 1 đường chuyện vãn êm ả
Đếch thèm nhìn nhau
Cho tới khi Em uể oải, thờ thẫn
Như thể uống nhiều rượu chát
Và Gấu bèn đi 1 đường nằm sát vô Em
Tính xin 1 cú hôn
Lên má, và, thay vì vậy
Thì bèn cứ nằm yên, môi mím lại, lắng nghe

Một con ong lười biếng lượn vài đường
Hay con quạ, xa hơn con gà trống
Ở ven bờ giấc mộng, cùng đám lá lặng thinh
Hay rì rào nhẹ ơi là nhẹ
Về một điều, hay một điều gì khác, trong hồn.


Anonymous

Egyptian
zoth century B.C.

Death is before me today
like health to the sick
like leaving the bedroom after sickness.

Death is before me today
like the odor of myrrh
like sitting under a cloth on a day of wind.

Death is before me today
like the odor of lotus
like sitting down on the shore of drunkenness.

Death is before me today
like the end of the rain
like a man's homecoming after the wars abroad.

Death is before me today
like the sky when it clears
like a man's wish to see home after numberless years of captivity.

1960

Vô danh,
Ai Cập 20th century B.C.

Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như khỏe trước bịnh
Như rời phòng ngủ sau cơn bịnh

Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như mùi dầu myrrh
Như ngồi dưới mảnh vải trong một ngày có gió

Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như mùi hoa sen
Như ngồi ở bờ bãi say sưa

Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như chấm dứt một trận mưa
Như người đàn ông trở về sau nhiều trận chiến ở thật xa nhà, ở hải ngoại.

Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như bầu trời, khi trong sáng
Như ước mong của một người đàn ông nhìn thấy nhà của mình
Sau bao nhiêu năm tù dài dằng dặc

1960


  Thơ Mỗi Ngày

Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119

The Ideal Retreat

I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At times I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.

1967, translated with
Nguyen Ngoc Bich

Trong bài tưởng niệm NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:

Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả hai đã uống.
Source

Theo Gấu, thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt Nam.

Trước 1975, tình cờ GNV có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư Không Lộ, hình như vậy, trên Thời Tập, và như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Theo như trí nhớ tồi tệ của GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn Nhan, về Không Lộ, có cái ý “thét lên 1 tiếng lạnh hư không”, chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin và Nguyễn Ngọc Bích chuyển qua tiếng Mẽo.

Nơi thần sầu để rút dù
Tớ sẽ chọn một nơi mà rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay xác con gấu, hay con cáo gì gì đó [của Hemingway]
Mà để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!


TTT 10 năm

Tuong Niem DNM

SN_GCC_2016

*

16.8.2009

*

THE YOUNG NIGHT

And now the lustral waters of night absolve me
from the many colors and the many forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient norms
of sleep and shadow. Darkness is sealing
the mirrors which copy the fiction of things.
Goethe said it best: everything near becomes far.
Those four words capture the entire twilight.
In the garden, roses cease to be roses;
they wish to be the Rose.
                                        -C.M.

J.L. Borges: Poems of the Night. Waiting For The Night (1978-1985)

Note:

p. 137. The Young Night: Borges discussed the line by Goethe quoted in the poem: "Alles Nahe werde fern, everything near becomes far. Goethe was referring to the evening twilight. Everything near becomes far. It is true. At nightfall, the closest to us seems to move away from our eyes. So the visible world has moved away from my eyes, perhaps forever. Goethe could be referring not only to twilight but to life. All things go off, leaving us. Old age is probably the supreme solitude-except that the supreme solitude is death. And 'everything near becomes far' also refers to the slow process of blindness which is not a complete misfortune. It is one more instrument among the many-all of them strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected Non-Fictions (edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p. 483.

Đêm trẻ

Và bây giờ nước thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất nhiều màu sắc và hình thể.
Trong vườn, chim và sao tán tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu chuẩn xa xưa về ngủ và bóng
Đêm đen sẽ đóng khằn những tấm gương
Chúng lập lại giả tưởng của sự vật
Về cú này, Goethe phán bảnh nhất, mọi vật gần thì bèn xa,
[Cái gì gì ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy từ tóm trọn chạng vạng
Trong vườn những bông hồng ngưng là những bông hồng
Chúng trở thành BHD.



FOREWORD

First and foremost, I think of myself as a reader, then as a poet, then as a prose writer. The initial part of this statement calls for no explanation; the other two should be qualified. They do not mean- they emphatically do not mean-that I am fonder of my verse than of my prose, or that I judge it as technically better, For all I know, the opposite may be true. I suspect that poetry differs from prose not, as many have claimed, through their dissimilar word patterns, but by the fact that each is read in a different way. A passage read as though addressed to the reason is prose; read as though addressed to the imagination, it might be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not; I can only say that my appeal is to the imagination. I am not a thinker. I am merely a man who has tried to explore the literary possibilities of metaphysics and of religion.
    My stories are, in a sense, outside of me. I dream them, shape them, and set them down; after that, once sent out into the world, they belong to others. All that is personal to me, all that my friends good-naturedly tolerate in me-my likes and dislikes, my hobbies, my habits-are to be found in my verse. In the long run, perhaps, I shall stand or fall by my poems.
    Goethe, who is not one of my heroes, thought that all poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung). I have forgotten the context, but I suppose his statement is open to at least two interpretations: he may have been apologizing for the all-too-plentiful verses he contributed to albums, or he may have implied that true poetry springs from what a particular man feels at a particular time. In my case, I can fairly claim that every piece in this book had its origin in a particular mood, in a necessity of its own, and was not meant to illustrate a theory or to fill out a volume. I have never thought of my poems, in fact, in terms of publication.
    When this book was begun, some three years ago in Cambridge, it was the first time I had ever taken a direct hand in the translation 'of any of my own work. Di Giovanni and I have gone very thoroughly over each piece, each line, and each word; the fact that I am not only a collaborator but also the writer has given us greater freedom, since we are less tied to verbal precision than to inner meanings and intentions. I should like to thank the outstanding British and American poets who, by their skill and generosity, have made English poems of my Spanish originals and so given them this new life.

JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971

Trước hết và trên hết, tôi nghĩ về tôi như là 1 độc giả, rồi như một thi sĩ, và rồi thì là, một nhà văn xuôi.
Phần đầu của câu phán, tớ là độc giả, thì đếch cần giải thích [trừ đám Mít triết, chúng chỉ thích làm phê bình gia, khi chửi Gấu, mi đâu phải phê bình gia, vì mi đâu có bằng cử nhân triết của Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi, hà, hà!]. Hai phần sau, có lẽ nên định giá. Chúng không có nghĩa, tôi khoái thơ vần hơn thơ xuôi. Ngược lại, có lẽ thú hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách có cách đọc riêng của nó. Môt đoạn, đọc, mà nghĩ, nó viện tới lý lẽ, thì là văn xuôi, cái viện tới trí tưởng tượng, thì là thơ. Tôi cũng khó nói về cái viết của tôi, thì thơ, hay đếch thơ. Tôi chỉ có thể nói, tôi cố với/vời tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là 1 suy nghĩ gia. Tôi, giản dị mà nói, là 1 người cố phát triển, khai phá, những khả hữu văn chương của siêu hình học và của tôn giáo.

Cafe Trieste: San Francisco 

To L.G. 

To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word. 

Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.

Cold, through the large steamed windows
I watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
 
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch 

just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
   
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear” 

Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast? 

Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs? 

Still, if sins are forgiven,
That is, if souls break even
with flesh elsewhere, this-joint,
too, must be enjoyed 

as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive . 

[1980] 

Joseph Brosky: To Urania

Như người xưa, đánh rớt cây gươm xuống lòng sông
Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền
Chàng trở lại quán xưa
Tìm dấu hài ghi trên lớp bụi
Và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây

Tôi trở về đây, với con đường xưa
Với góc đời này
Như một tiếng vang
Tới cặp môi
Vốn thèm một nụ hôn
Thay vì [
Đừng yêu lính bằng] một lời!

Chẳng có gì thay đổi
Bàn ghế không
Khí hậu cũng không
Sự vật, khi vắng bóng một ai đó
Tích tụ dần cái trường tồn, từng tí, từng tí


*  

*

&


Thơ Mỗi Ngày

Poetry and the poet
Th
ơ & Thi sĩ
A display of digging

Bringing alive Seamus Heaney’s spirit



Hats off to Heaney

Aó thụng, ngả nón vái Thầy!


Thấy bài này, trên tờ “The Intel”, bèn bệ về, nhẩn nha dịch hầu độc giả TV

HIGH-VOLTAGE HEANEY

Thi sĩ điện cao thế Heaney

Notes on a Voice: Christina Patterson tunes into the poet who made English sing

From INTELLIGENT LIFE magazine, January/February 2014

In a poem in "Electric Light", Seamus Heaney talked of "language that can still knock language sideways". This is what he did. He took ordinary words like "sod" and "drain" and "rot" and turned them to gold.

When he won the Nobel prize, in 1995, he was praised for "works of lyrical beauty and ethical depths which exalt everyday miracles and the living past". Heaney, who died in August aged 74, never called his poems "miracles", but he did talk about falling in love with the "voltage" of language. He wanted, he said, to write with "a musically satisfying order of sounds", and more than almost any poet of the past 50 years, he made English sing.

Famous Seamus, as he came to be known, scooped most of the big prizes for poetry, and sold more books than most of his peers combined. But if he seemed to retain the common touch in the way he wrote and spoke, this was only because he hid the art.

GOLDEN RULE

"Don’t have the veins bulging in your biro." These words, from Heaney’s poem "Fosterage" (1975), echo the advice of his mentor, the novelist Michael McLaverty, to whom it was dedicated. Don't, in other words, show off. Make it look easy, even if it never is.

KEY DECISIONS

To keep his poetry largely rooted in the landscape of his childhood, and to bring it so vividly to life that you can almost touch and smell it. Heaney used the sounds and smells and sights of the Northern Irish countryside to talk about family, history and myth. Most famously, in his poem "Digging", in his first collection, "Death of a Naturalist" (1966), he used them to talk about his vocation. He describes the "cold smell of potato mould, the squelch and slap" of the "soggy peat" his father and grandfather would dig, but says that he'll dig with his "squat pen".

STRONG POINTS

Heaney is a storyteller. He takes the familiar and makes it strange. He does this partly by using verbs as nouns and nouns as verbs. He writes of "a sense...of glimpse and dapple" and of birds that "cuckoo your name across the fields". He also loves to stick words together—"wheat-straw", "dark-streaked", "white-pronged"—and to make them up. The word "enemy", he says in his poem "England's Difficulty", had "the toothed efficiency of the mowing machine". The poem, like so many of Heaney's, uses a real childhood memory to touch on politics and history, but it does so obliquely. His voice, he once said in a documentary, was given to him "by division". It was "a stealthy voice, a voice that spoke in codes". So you can read a Heaney poem a hundred times, and still find more in it. 

FAVOURITE TRICK

To plunge you straight into the visceral detail of an early memory, then suddenly take you to a place that almost feels—though it's not a word he’d rush to use—transcendent. In "Personal Helicon", he talks of "the smells/Of waterweed, fungus and dank moss", "soft mulch" and "slime" and then, in the last sentence of the last stanza, he pulls us away from that childhood, to what it's all about: "I rhyme," he writes, "To see myself, to set the darkness echoing." 

ROLE MODELS

Heaney cited Yeats, Wordsworth and Hopkins as influences, as well as Americans like Lowell and Bishop. His poetry is like nobody else's, but you can see shades of Lowell in some of the stories, and of Yeats in the singing line. 

TYPICAL SENTENCE "All year the flax-dam festered in the heart/Of the townland; green and heavy headed/Flax had rotted there, weighted down by huge sods." (The opening lines of "Death of a Naturalist".)

Christina Patterson has written for the Observer and the Spectator and is a former Independent columnist

Illustration Kathryn Rathke

Trong một bài thơ, trong “Ánh Điện”, Seamus Heaney nói về “ngôn ngữ vưỡn có thể khện me mé ngôn ngữ”. Đó là điều ông đã làm. Ông lấy những từ bình thường như “sod”, “drain”, và “rot” và biến chúng thành vàng.

Khi được Nobel, năm 1995, ông được ca ngợi, “tác phẩm của ông có vẻ đẹp trữ tình và những chiều sâu đạo hạnh, chúng tôn vinh những phép lạ của mọi/mỗi ngày và quá khứ sống động”. Heaney mất tháng Tám, thọ 74 tuổi, chẳng bao giờ gọi những bài thơ của mình là những “phép lạ”, nhưng có nói, ông tương tư tính “điện cao thế” của ngôn ngữ. Ông nói, ông muốn viết, với “một trật tự từ thỏa mãn như tiếng nhạc”, và bảnh hơn bất cứ một nhà thơ nào trong 50 năm qua, ông làm cho tiếng Anh hát.

Ở những ngôi nhà này


không còn gì cả
ngoài những mảnh vụn ký ức
Những người đã từng trò chuyện với tôi
không một ai sót lại

Nhưng trong trái tim tôi
Không một thánh giá của ai rơi mất
Trái tim tôi
một trú xứ thống khổ tràn đầy. (*)

Tháng 12/2013 

(*) Thơ Giuseppe Ungaretti (1888-1970), San Martino Del Carso:

Of these houses /nothing/ but/fragments of memory /Of all who/would talk with me/ not one remains. 

But in my heart/no one’s cross is missing/My heart is/the most tormented country of all.

Bài thơ này, Gấu Cà Chớn mạn phép dịch giả thêm vô, một….  “phóng bút":

Về mái ấm gia đình

Chẳng còn
Nếu còn chăng,
Thì là những mảnh vụn
Về những con người
Đã từng lèm bèm với GCC
Ai cũng bỏ GCC cả!
Nhưng trong trái tim của GCC
Không cây thánh giá nào
của một ai
bị mất mát, bỏ quên, thiếu nhớ.

Trái tim GCC là cái xứ sở bị hành hạ khủng nhất trong tất cả!

Hà hà!





Charles Simic

Seeing Things
    I came here in my youth,
    A wind toy on a string.
    Saw a street in hell and one in paradise.
    Saw a room with a light in it so ailing
    It could’ve been leaning on a cane.
    Saw an old man in a tailor shop
    Kneel before a bride with pins between his lips.
    Saw the President swear on the Bible
    while snow fell around him.
    Saw a pair of lovers kiss in an empty church
    And a naked man run out of a building
    waving a gun and sobbing.
    Saw kids wearing Halloween masks
    Jump from one roof to another at sunset.
    Saw a van full of stray dogs look back at me.
    Saw a homeless woman berating God
    And a blind man with a guitar singing:
    “Oh Lord remember me,
    When these chains are broken set my body free.”


Nhìn sự vật
Tớ tới đây hồi trẻ
Cái chong chóng trên sợi dây
[Cái diều trên sợi dây]
Nhìn con phố, địa ngục
Nhìn con khác, thiên đàng
Nhìn căn phòng với 1 tia sáng ở trong đó, èo uột làm sao
Nó có thể tựa lên 1 cái gậy
Nhìn ông già trong tiệm may
Khoá môi bằng đinh ghim
Quì trước cô dâu
Nhìn Tông Tông thề bồi với cuốn
Kinh Thánh
Trong khi tuyết rơi quanh Xừ Luỷ
Nhìn cặp tình nhân hôn nhau trong ngôi nhà thờ rỗng
Và 1 người đàn ông trần truồng chạy ra khỏi 1 toà biu đing
Tay cầm súng vẩy vẩy, miệng sụt sùi khóc
Nhìn con nít đeo mặt nạ
Halloween
Nhảy từ mái nhà này qua mái nhà khác vào lúc hoàng hôn
Nhìn 1 chiếc xe van đầy chó hoang ngoái nhìn lại tớ
Nhìn 1 bà không nhà riếc móc Chú
a
Và 1 anh mù với chiếc đàn ghi ta, và hát:
"Ôi Chúa, hãy nhớ tới con
Khi những chiếc ghế này gãy, giải thoát thân thể con"
[Khi những sợi xiềng này gãy, giải thoát thân thể con]

Erratas: wind toy, ở đây, là con diều, đi với cái tít là seeing things.
Câu chót, chains, những sợi sên, xiềng, không phải những chiếc ghế.
Sorry. NQT

Trăng

Vậy thì có phải đêm dày bỏ đi đâu hay là,
màn đêm đen sâu thẳm chưa tràn vào phải không?
Không, không phải là tôi. Tôi chính là ánh nắng,
chỉ là đôi khi bị phủ che bởi màn đêm.
Nhưng mà nàng đẹp - yay, tôi biết là anh hiểu -
Không có gì đang che lấp, không có ánh sáng triền miên.

Moon
by Annie Finch

Then are you the dense everywhere that moves,
the dark matter they haven't yet walked through?
No, I’m not. I’m just the shining sun,
sometimes covered up by the darkness.
But in your beauty—yes, I know you see—
there is no covering, no constant light.

Nguồn: Gió - O
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRTDBuoiSangNay.htm

Theo GCC, You, Em, ở đây, là Trăng
Và bài thơ như vậy:

Như vậy em là cái đậm đặc khắp nơi, chuyển động
Cái đen thui thì chưa bước qua ?

Không, không phải thế. Em là nắng chói
Đôi khi bị bóng tối bao phủ
Nhưng trong cái đẹp của em – đúng rồi, như em thấy đó –
Làm gì có bao phủ, làm gì có ánh sáng hoài hoài
*
“nàng”, là ai, “anh” là ai, ở câu cuối?

Borges có mấy bài về trăng, nhưng bài sau đây, ông làm tặng cô bạn của ông, và, quái làm sao, khi GCC dịch, cũng nghĩ đến cô bạn của GCC.
Có thể là vì bài thơ, nói lên cùng cái cảm giác như thế, về trăng & cô bạn.
Mỗi lần nhớ cô quá, là Gấu lại lôi bài thơ ra.
Nỗi cô tịch của em, là, cái dáng đi tất tả của em, khi kiếm cho được 1 cái bàn cho tên già, và sau đó, tất tả đi mua cà phê.... ?

Trong trăng của Annie Finch, có cái đậm đặc, the dense, chuyển động, trong khi
cái đen thui, the dark matter, chưa tới.
Trong trăng của Borges có cái cô tịch, nỗi sầu vạn cổ, của con người tẩ
m vào trăng.

Liệu,
cái đậm dặc, chính là cái nỗi sầu thiên cổ mà con người đem đến cho trăng?


THE MOON

for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Which the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.

[Trans. Willis Barnstone]

Trăng nữ

Có nỗi cô tịch như thế, ở trong khối vàng đó.
Trăng đêm không phải trăng Adam, thuỷ tổ giống người, nhìn.
Những thế kỷ dài ăn chay cầu nguyện của con người
Đã tẩm vào nàng nỗi sầu vạn cổ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.

The Moon
for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.

*

Liệu bạn có thể tưởng tượng cuốn sách khổng lồ, là Bách Khoa Toàn Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp gỡ trên, là giữa GCC và… độc giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài Gòn?

Yes, sure, why not?


Re: Editing and publishing... 

Today at 4:54 PM 

It's exactly right! Why not? Hooray...
Happy New Year, Gau Nha Van.
H/A


Tks
Take Care



Sách & Báo Mới

* *

    SOMETHING ABOUT WRITING

IF I'M not mistaken, Balzac, for example, wrote novels nonstop until the moment that pulled him out of the practice of his profession. Let us just try and roughly imagine the extent of such a faculty for fantasizing. For Dostoyevsky, as I believe I should know, it may have been the same. After publishing a string of comparatively very worthwhile novellas, Gottfried Keller entered the civil service, which for the next fifteen years kept him from any further continuous literary work. Adalbert Stifter, who possessed a lively talent for narrative like an effervescent spring upon which he drew to his heart's content, held a civil service post in education. Goethe, this giant, as his life history displays, poeticized himself into, as it were, a courrlike, that is, administrative position through works that soared into the ranks of the imperishable. The existence of a writer is determined by neither success nor acclaim, but rather depends on his desire or power to tabulate anew again and again. Balzac apparently did this constantly, Keller not, and undoubtedly there were reasons why he didn't. I believe the causes as to why some continue to write on and on and others at times cease their poetic endeavors are, under certain circumstances, too subtle to be easily defined. External events are capable of giving a career a certain direction; for example, the character or incidents in the region of the heart may be worthy of serious consideration. Some writers present their best work at the beginning of their strivings only to succumb afterwards to their proclivity, bit by bit, to flatten out, while we know of quite a few others who strike us as curious because they happen to start inconspicuously or uncertainly, but nevertheless precisely for this reason acquire in the course of time more certitude, superior vision, etc. To which type one gives preference is left to necessity. Every writer is an aggregate of two people, the citizen and the artist, to which he, more or less fortunately, resigns himself.
(1930)

Note: Bài Bạt tuyệt lắm. Tin Văn sẽ đi liền. Tác giả bài viết, Tom Whalen nhìn ra 1 Walser khác hẳn với cách nhìn chung, coi ông cùng dòng với Musil, Broch hay Thomas Mann, thí dụ.

* &

LI-YOUNG LEE

Folding a Five-Cornered Star
So the Corners Meet

This sadness I feel tonight is not my sadness.

Maybe it's my father's.
For having never been prized by his father.
For having never profited by his son.

This loneliness is Nobody's. Nobody's lonely
because Nobody was never born
and will never die.

This gloom is Someone Else's.
Someone Else is gloomy
because he's always someone else.
For so many years, I answered to a name,
and I can't say who answered.

Mister Know Nothing? Brother Inconsolable?
Sister Every Secret Thing? Anybody? Somebody?

Somebody thinks:

With death for a bedfellow,
how could thinking be anything but restless?
Somebody thinks: God, I turn my hand face down
and You are You and I am me.


I turn my hand face up
and You are the I
and I am your Thee.


What happens when you turn your hand?

Lord, remember me.
I was born in the City of Victory,
on a street called Jalan Industri, where
each morning, the man selling rice cakes went by
pushing his cart, its little steamer whistling,
while at his waist, at the end of a red string,
a little brass bell
shivered into a fine, steady seizure.

This sleeplessness is not my sleeplessness.
It must be the stars' insomnia.
And I am their earthbound descendant.

Someone, Anyone, No one, me, and Someone Else.
Five in a bed, and none of us can sleep.
Five in one body, begotten, not made.
And the sorrow we bear together is none of ours.
Maybe it's Yours, God.
For living so near to your creatures.
For suffering so many incarnations unknown to Yourself.
For remaining strange to lovers and friends,
and then outliving them and all of their names for You.
For living sometimes for years without a name.
And all of Your spring times disheveled.
And all of Your winters one winter.

from Image

   
SUJI KWOCK KIM

Return of the Native
****
for Kang,
born in Sonchon, North Korea
Better not to have been born
than to survive everyone you loved.
There's no one left of those who lived here once,
no one to accuse you, no one to forgive you-
only beggar boys or black-market wives
haggling over croakers and cuttlefish,
 
hawking scrap-iron and copper-pipes stripped from factories
in the shadow of the statue of the Great Leader.
Only streets emptied of the villagers you knew,
only the sound of steps of those no longer living,
ghosts grown old, grim shadows of what they had once been:
some in handcuffs, some in hoods taken away at midnight,
some roped and dragged into Soviet Tsir trucks
driven to the labor camps that "don't exist."
Every absence has a name, a face, a fate:
but who, besides you, remembers they were ever alive?
You don't know why you were spared,
why you breathe walk drink eat laugh weep-
never speaking of those who had been killed,
as if they had never existed, as if the act of surviving them
had murdered them.
Forget,jorget! But they want to be remembered.
Better people than you were shot:
do you think your life is enough for them?
For the silence
is never silent: it says We hate you
because you survived. No. We hate you
because you escaped.

from Ploughshares

Imaginary Beings Book

The Sphinx

The Sphinx found on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus, to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent lion with the head of a man; it is believed to represent the authority of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian animals, but the only description he offers is that it has "brown hair and two mammae on the breast."
    The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman, the wings of a bird, and the body and legs of a lion. Others give it the body of a dog and the tail of a serpent. Legend recounts that it devastated the countryside of Thebes by demanding that travelers on the roads solve riddles that it put to them (it had a human voice); it devoured those who could not answer. This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker it is?" (1)
    Oedipus answered that it was man, who crawls on four legs as a child, walks upon two legs as a man, and leans upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
    In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation, which might complement the traditional one. The answer to the riddle, according to De Quincey, is less man in general than Oedipus himself, a helpless orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone in his blind and hopeless old age.

(1)
This is apparently the oldest version of the riddle. The years have added the metaphor of the life of man as a single day, so that we now know the following version of it: "What animal walks on four legs in the morning, two legs at midday, and three in the evening?" 

Đọc/Viết mỗi ngày

Borges Conversations

You Only Need To Be Alive:

Art Should Free Itself from Time

OSVALDO FERRARI. Today we will talk about beauty. But before we do so, we will transcribe your views about the place of art and literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and free themselves from time. Often, I have been told that art depends on politics or on history. I think that's untrue. It escapes, in some way, from the organized causality of history. Whether art happens or doesn't, either depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about, apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days, artists or writers do not talk about what is supposedly always their inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept- because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible, doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it could do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made him forget not only literature but his literature. But he has remained in the histories of literature, which collects everything, as the founder of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to consult you about something that has caught my attention. Plato said that of all the archetypal and supernatural entities, the only visible one on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts aspire to the condition of music. I think that is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary that we perceive it as more than a string of  words. We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only a string of words, then that character has not been well created. For example, reading a novel, we must believe that its characters live beyond what the author tells us about them. If we think about any character in a novel or a play, we have to think that this character, in the moment that we see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission. And among us, Murena has said that he considers beauty capable of transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it as a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless. I believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example, my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora, in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive! She was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions are the ones he had casually overheard. But that could be another clever feature of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary for so many masters that perhaps what matters is to be a secretary and not the inventor of the sayings.

FERRARI. An individual memory of a
collective.
BORGES. Yes, exactly that.

Bạn chỉ cần còn sống, và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém: Văn Chương.

Bạn chỉ cần, chỉ cần, chỉ cần....  còn sống!
Đám tinh anh Ngụy chết vì câu này. Chúng chỉ cần còn sống, và tìm đủ mọi cách để....  bỏ chạy cuộc chiến.
Lũ Triết Mít, sở dĩ chúng chọn Triết, vì cứ học thuộc lòng cours của Thầy, là đậu, là được hoãn dịch, là thoát chết.
Rõ ràng là, đám này không viết được 1 cái gì cho ra hồn, là do phần đạo hạnh của chúng có 1 vết chàm to tổ bố, làm sao viết?
Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh. Đạo Hạnh có vết chàm làm sao có Mỹ?
Rồi đám bỏ cuộc chiến bằng con đường du học, cũng Mắm Sốt Kít! 

Ferrari: Dos phán, trong cái đẹp Chúa và Quỉ uýnh lộn và chiến trường là trái tim của con người
Borges. Giống câu của Ibsen, Đời là cuộc chiến với quỉ, ở hang cùng ngõ hẻm của cục não của con người và thơ là sự lên ngôi của Phán Quyết Chót của 1 con người về chính nó.
Đúng thế. Plato gán cái đẹp, cho số phần, cho nhiệm vụ. Và giữa chúng ta, Murena phán, cái đẹp có thể chuyên chở một sự thực “khác”


Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…

L' Appel Du Mort

Lướt TV

http://www.tanvien.net/Ky/Hay_doi_hay_dien.html

Ðuốc Tình

Có một người con gái rất trẻ
hỏi một người phụ nữ lớn tuổi
Đàn ông yêu như thế nào
họ yêu có khác mình không?

Người phụ nữ ngẫm nghĩ
Tình yêu của đàn ông à?
Lạ lắm
nói thế nào cho đúng nhỉ

Thế này nhé
Đó là một ngày
bỗng dưng
có một người đàn ông ở đâu đến
một tay cầm bó đuốc
tay kia gõ gõ lên cánh cửa hồn mình
ngọn đuốc
cháy phừng phừng
tưởng như không có cách nào dập tắt được

Anh ta quơ quơ ngọn đuốc
linh hồn mình bắt cháy
thành than
Anh ta ghé xuống
sưởi cả thân thể ấm áp của riêng anh
xong
bỏ đi
quên ngay ngọn lửa

Và đàn bà
thì muôn thủa
tiếc ngọn lửa đã đốt cháy hồn mình
thu những tàn tro
phủ lên những mảnh than còn sót lại
cố che chắn giữ cho đốm lửa âm ỉ
tự sưởi một phần đời

Cho dù có một ngọn lửa khác đốt lên
hong ấm lại nàng
những mảnh than đầu tiên
vẫn không bao giờ tắt

Đó là sự khác biệt về tình yêu
giữa đàn ông và đàn bà.

TMT

Note:
Bài thơ, đăng trên DM, có 1 lỗi đánh máy, GCC chờ hoài, coi có ai nhận ra.
Nô là Nô.
Thơ bị coi rẻ là vậy.
Một cái dấu phảy thôi, mà có thế giới, chết vì nó, như Cioran đã từng mơ tưởng.

GCC sợ rằng, chính tác giả của bài thơ cũng coi rẻ nó.

NMG phán về GCC, ông ưa cầu toàn, vì cái tật, vừa gửi text đi, là đã gửi tiếp text revised liền tù tì theo rồi.

Hồi GCC còn quan hệ thân thiết với đám bạn văn VC, có 1 em nhận xét, vừa nhận 1 bài viết của anh, đã có liền bài revised, chỉ khác bài trước, đúng 1 cái dấu phảy!
Hà, hà!

Gọi là gì, xứ của anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ

(1) Người đi, ừ nhỉ người đi thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành

Là cái gì, chuyện 1 bản văn (hay bất cứ cái chi chi) cưỡng lại cố gắng của chúng ta khi làm cho nó có nghĩa?
Về câu hỏi này, những bản viết của George Steiner có vẻ như chỉ đúng hướng cho chúng ta. Câu hỏi phơi bày cho chúng ta, tới cái kinh nghiệm cơ bản của người dịch thuật, mà người ta có thể tóm gọn, và nói, đây là thứ kinh nghiệm có trước tất cả mọi kinh nghiệm, kinh nghiệm về không-căn cước, hay về cái cá thể tối giản, hết còn đơn giản được nữa, của mọi hiện hữu, đặc biệt là về con người và ngôn ngữ của nó. Kinh nghiệm này thì vừa đạo hạnh, vừa mở, nghĩa là không bao giờ chấm dứt.
Một bên thì cố gắng làm cho bên kia trở thành thông suốt, ở bên trong ngôn ngữ, khung văn hóa của riêng nó, nhưng bên kia không thể nào bị khách hoá, đối tượng hóa, theo cái kiểu này, bởi vì nó thuộc về thế giới của riêng nó, và không thể nào bị đánh gốc, bật rễ ra khỏi nếu không dùng bạo lực. Cổ đại Latinh hiểu rõ điều này, khi gắn kết dịch thuật với những chiến thắng thành phố, bắt nô lệ, và khuân của cải về nhà – nói ngắn gọn, sự hình thành đế quốc.

Cái em nhà quê tuy lớn lên ở ngoài này, đâu có hiểu rằng là, khi dịch ba thứ văn thơ ăn cướp của VC, là cũng góp phần kiện toàn Cái Ác Bắc Kít. 
[Sorry DTBT. NQT]

Không phải tự nhiên mà TV lại giới thiệu những tác giả như W.G. Sebald.
Cũng thế, phản ứng của 1 anh bạn văn VC ở Hà Nội, sao cứ lải nhải hoài về Lò Thiêu, mắc mớ gì đến Mít.
Hay của 1 độc giả TV, mi bị THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC.
May mà có em BHD, không thì mi biến thành quỉ VC từ khuya rồi!

Cũng thế, không phải tự nhiên “em” DTBT, ưa mơ mộng, thích vượt khoảng trống dịch thơ LTMD, người đẹp của HPNT, thí dụ.
Trong bài phỏng vấn, do khả năng chắc cũng hơi hạn hẹp của cả hai, cho nên chẳng người nào đề cập đến sự nguy hiểm của dịch dọt.

Nếu không bị đám khốn xúm lại đánh, [ngay khi Chợ Cá vừa xuất hiện. Trận đòn hội chợ này có sự tiếp tay của Sến. Em giả đò thương hại, khi có vài độc giả lên tiếng bênh Gấu, sao anh không chịu đích thân trả lời, hết xí oát rồi hả…], thì Gấu đã tiếp tục loạt bài về dịch cho talawas.
SCN lúc đầu rất mừng, liền sau khi đọc bài đầu Gấu gửi. Em viết mail, trước giờ, viết sâu sắc, nhưng bài này
, Dịch Là Cướp, cho thấy khía cạnh tức cười…. Gấu đã tính đi 1 loạt bài cho CC.
Cái tít của Sến, của Gấu dài thòng.
SCN rất có tài đặt tít. Thật gọn, thật nổi. Cái tít “Miếng Cơm Manh Chữ” cũng của Sến

Nay nhân cơ hội, viết tiếp.
Trước hết, giới thiệu bài của Gerald  L. Bruns
Về Cái Khó, On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan
Trong Ðọc Steiner, Reading George Steiner.

*

Cuốn này của NTV cho GCC, ngay những ngày mới ra hải ngoại, khi thấy GCC mê Steiner quá!
Anh cho biết, đọc Steiner từ Việt Nam, trước 1975, tại Sài Gòn, cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng, nhưng không bị choáng như GCC.
Và kết luận, mi phải có Cái Ác Bắc Kít, và nó phải thật đậm đặc đến nỗi, vừa g
p… Cái Ác Nazi và Lò Thiêu, là nó bùng bổ ra.

Cốm là 1 đặc sản của Mít, nó đâu có từ đương đương để mà dịch qua tiếng Anh?
Cũng thế, những từ “phanh”, lốp [xe], xà phòng của Tây mũi lõ, mà dân Mít mượn.
Ðâu chỉ 1 từ cốm. Những từ áo dài, cái nhà, nước mắm, con gái… mũi lõ chỉ nội nghe đọc lên, là đã thèm nhỏ nước miếng rồi.
Vậy mà dám dịch là “green rice”, thì đúng là hiếp dâm… cốm!
Em này do sống ở ngoài này, thành ra chưa từng nhìn thấy cái gọi là green rice, thứ gạo hẩm, lên men xanh, bốc mùi hôi, mà nhờ VC Bắc Kít giải phóng Miền Nam, dân Miền Nam mới nhìn thấy và được thưởng thức.
Em cũng bày đặt mê tiếng thơ át tiếng bom, thành ra mới dịch thơ của người đẹp và con thú LTMD, mới dịch cái gì gì “Đạn bom rơi chẳng sợ đâu/ Chỉ e sương ướt mái đầu lá chanh", mà DTBT dịch “We are not frightened by bullets and bombs in the air/Only by dew wetting our lime-scented hair”, “Tình Sầu” thành “Meditations on Love”… thật tội nghiệp cho chữ nghĩa Việt Nam quá chừng!!! [Trích 1 cái còm của một độc giả trên DM].
Ðây là ăn phải Kít WJC.
Hay có thể, cũng nhắm đường về rồi.
*

GERALD L. BRUNS

On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan

*

what is it called, your country
behind the mountain, behind the year?
I know what it's called.
Like the winter's tale, it is called,
it's called like the summer's tale,

your mother's threeyearland, that's what it was,
what it is,

it wanders off everywhere, like language.

Gọi là gì, xứ của anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ

(1) Người đi, ừ nhỉ người đi thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành



ALEXIS RHONE FANCHER

When I turned fourteen,
my mother's sister took me
to lunch and said:


***

soon you'll have breasts. They'll mushroom on your
smooth chest like land mines.

A boy will show up, a schoolmate, or the gardener's son.
Pole-cat around you. All brown-eyed persistence.

He'll be everything your parents hate, a smart aleck,
a dropout, a street racer on the midnight prowl.

Even your best friend will call him a loser.
But this boy will steal your reason, have you

writing his name inside a scarlet heart, entwined
with misplaced passion and a bungled first kiss.

He'll bivouac beneath your window, sweet-talk you
until you sneak out into his waiting complications.

Go ahead, tempt him with your new-found glamour.
Tumble into the backseat of his Ford at the top of Mulholland,

flushed with stardust, his mouth in a death-clamp on your nipple,
his worshipful fingers scatting sacraments on your clit.
Soon he will deceive you with your younger sister,
the girl who once loved you most in the world.

from Ragazine

From The Best American Poetry 2016
Note: Đọc song song với Đuốc Tình














Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây