nqt
 
I (old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 14

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]




   

Bi khúc ngắn tháng Chín 

 

  THƠ MỖI NGÀY

 

EUGENIO DE ANDRADE (1923-2005)
 


 

 

BRIEF SEPTEMBER ELEGY

I don't know how you came,
but there must be a road
leading back from death.


You are seated in the garden,
your hands in your lap, filled with sweetness,
your eyes resting on the last roses
of these vast and calm September days.


What music do you follow so intently
that you don't even notice me?
What forest, or river, or sea?
Or is it within yourself
that everything still sings?


I would like to speak to you,
just to tell you that I'm here,
but I'm afraid,
afraid the music all will stop
and you will cease to see the roses.
Afraid of breaking the thread
with which you weave un-remembered days.


With what words
or kisses or tears
can one awake the dead without harming them,
without bringing them to that black foam
where bodies and bodies repeat themselves,
parsimoniously, among shadows?


Stay as you are then,
filled with sweetness
seated, gazing at the roses,
and so very far away
you don't even notice me.


Translated from the Portuguese by Alexis Levitin

 

 

 

BI KHÚC NGẮN THÁNG CHÍN
 

Tôi không biết bằng cách nào bạn tới
Hẳn là phải có con đường
Dẫn người chết trở lại


Bạn ngồi ở ngoài vườn
Tay đặt trên đùi, ngọt ngào, êm ái làm sao
Mắt bạn dừng lại ở những bông hồng cuối cùng
Của những ngày Tháng Chín, thênh thang và êm ả.


Âm nhạc nào bạn lắng nghe
Đến chẳng nhận ra sự hiện diện của tôi?
Rừng nào, hay sông nào, hay biển nào?
Hay là nó ở trong chính bạn
Mọi ngày xưa, vẫn hát?


Tôi muốn nói với bạn
Chỉ để rằng, có tôi ở đây
Nhưng tôi lại sợ
Âm nhạc sẽ ngưng
Và bạn sẽ ngừng ngắm những bông hồng
Sợ làm đứt sợi tơ
Với nó, bạn dệt những ngày không thể nào tưởng nhớ được

Bằng những lời nào
Những cái hôn nào
Những giọt nước mắt nào
Chúng ta có thể đánh thức những người đã chết
Mà không làm tổn thương họ?
Không khiến họ trở lại biển đen
Nơi xác người, xác người, tự chúng lập lại chúng,
Một cách dè sẻn, giữa những cái bóng?


Cứ ở đó nhé
Tràn đầy êm ái, ngọt ngào
Ngắm những bông hồng,
Xa ơi là xa
Chẳng cần bạn để ý gì đến tôi

  

Nguyễn Quốc Trụ dịch
 

ARS POETICA

To look at the river made of time and water
And remember that time is another river,
To know that we are lost like the river
And that faces dissolve like water.

To be aware that waking dreams it is not asleep
While it is another dream, and that the death
That our flesh goes in fear of is that death
Which comes every night and is called sleep.

To see in the day or in the year a symbol
Of the days of man and of his years,
To transmute the outrage of the years
Into a music, a murmur of voices, and a symbol,

To see in death sleep, and in the sunset
A sad gold-such is poetry,
Which is immortal and poor. Poetry
Returns like the dawn and the sunset.

At times in the evenings a face
Looks at us out of the depths of a mirror;
Art should be like that mirror
Which reveals to us our own face.

They say that Ulysses, sated with marvels,
Wept tears of love at the sight of his Ithaca,
Green and humble. Art is that Ithaca
Of green eternity, not of marvels.

It is also like the river with no end
That flows and remains and is the mirror of one same
Inconstant Heraclitus, who is the same
And is another, like the river with no end.

-W.S.M.

J.L. Borges

ARS POETICA

Nhìn dòng sông dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra thời gian là 1 dòng sông khác.
Và ngộ thêm ra rằng chúng mình thì cũng sẽ mất nhau, như dòng sông
Và khuôn mặt đôi ta rã ra như là nước

Và để ý rằng thì là, những giấc mộng thức, thì không phải là ngủ
Nó là một giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà xác thịt chúng ta sợ hãi nó,
Là cái chết hàng đêm chúng ta quen gọi là giấc ngủ. 

Là nhìn ra, trong ngày, hoặc trong năm, một biểu tượng
Của những ngày của người, và những năm của nó
Thế là bèn chuyển hóa cơn giận dữ của những năm
Vào âm nhạc, vào tiếng thì thầm, vào một biểu tượng

Để nhìn ra trong giấc ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn vàng – và cái đó gọi là thơ ca của Miền Nam, là nhạc sến
Nó thì mới bất tử, và nghèo nàn làm sao. Thơ
Trở lại như rạng đông và hoàng hôn.

Có những lúc vào buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng ta từ những chiều sâu thăm thẳm của 1 chiếc gương
Nghệ thuật thì như thế đấy,
Như tấm gương đó
Nó vén lên, như 1 em vén váy, làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp tuyệt trần

Người ta nói là Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những giọt nước mắt thương yêu khi nhìn thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô cùng
Nghệ thuật là Xề Gòn đó
Xề Gòn của Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.

Nó cũng là dòng sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở lại và là tấm gương của vẫn một
Heraclitus không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông không tận cùng.

ELEGY

Three very ancient faces stay with me:
one is the Ocean, which would talk with Claudius,
another the North, with its unfeeling temper,
savage both at sunrise and at sunset;
the third is Death, that other name we give
to passing time, which wears us all away.
The secular burden of those yesterdays
from history which happened or was dreamed,
oppresses me as personally as guilt.
I think of the proud ship, carrying back
to sea the body of Scyld Sceaving,
who ruled in Denmark underneath the sky;
I think of the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the burning boat the purity
and whiteness of the beautiful dead god;
I think of pirates too, whose human flesh
is scattered through the slime beneath the weight
of waters which were ground for their adventures;
I think of mausoleums which the sailors
saw in the course of Northern odysseys.
I think of my own death, my perfect death,
without a funeral urn, without a tear.

-A.R.

J.L. Borges

Bi Khúc

Có những khuôn mặt từ đời nào đời nảo
Ở hoài với tôi:
Một là Đại Dương, lèm bèm hoài với Claudius
Cái nữa, là Miền Bắc, với cái tính khí cà chớn của nó,
hung dữ, man rợ, cả vào rạng đông cũng như hoàng hôn
Cái nữa, là, Thần Chết,
Một cái tên khác mà chúng ta ban cho
Thời gian,
Nó lẵng nhẳng như đỉa đói, có bao giờ tha làm phiền chúng ta đâu?
[Kiếp trước mi đúng là con đỉa
Như 1 nữ thi sĩ mắng Gấu Cà Chớn
Nên kiếp này mi làm phiền ta hoài,
Ta bận chồng, bận con
Bận làm thơ,
Đâu có thì giờ dành cho mi]
Cái gánh nặng trường kỳ của những ngày hôm qua
của lịch sử, xẩy ra, hoặc, mơ xẩy ra.
Chúng đè dí tôi xuống, riêng tư, cá nhân, như là tội lỗi.



http://www.nytimes.com/2016/09/17/arts/edward-albee-playwright-of-a-desperate-generation-dies-at-88.html


*
Edward Albee, The Art of Theater No. 4
Interviewed by William Flanagan
http://www.theparisreview.org/interviews/4350/the-art-of-theater-no-4-edward-albee

TTT 10 năm

Phép lạ bí ẩn
  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Khi VP qua Paris, ở nhà KT.  Anh hỏi VP, thưa ông Tiên Chỉ, TTT nổi tiếng nhờ thơ hay là tiểu thuyết, Người phán, tiểu thuyết.
Câu trả lời, quá đúng với đa số độc giả, không đúng với thiểu số, nhất là độc giả TTT, và lại càng quá đúng, đối với VP, 1 người mù tịt về thơ.
Hai cuốn tiểu thuyết của TTT, đ
ều bị thời gian xực mất, và coi là của nó!
Hai cái dấu vết thời gian này, thì đều quá nhức nhối, đối với Mít
Bếp Lửa bị 1954 nhận là của nó.
MCNK thì bị biến cố 1975 xí phần.
Khủng nhất, không chỉ xí phần cho nó, mà còn cho cả 1 lũ Mít lưu vong, nếu bạn đọc Phép Lạ Bí Ẩn, và, nhất là câu kinh Koran, mở ra nó:

Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.

Koran, II 261

Chỉ với thơ, là TTT thoát ra khỏi cõi rằng buộc của thời gian!
Lần đầu đọc Phép Lạ, Gấu choáng người, Borges viết truyện này cho Mít, cũng như Kafka, với "Y sĩ đồng quê".
Cả 1 quãng thời gian dài ơi là dài, một phần hay 1 phần cái con mẹ gì đó, bắt đầu bằng thời điểm 10 ngày cải tạo, cho đến lúc TTT té xuống ở 1 thành phố quê hương của tác giả Dịu Dàng Như Đêm, 1 hình ảnh minh họa cho cả 1 cõi văn chương lưu vong của Mít sau 1975, bắt đầu bằng cái giơ tay ra lệnh bắn cho đến khi nhân vật trong truyện té xuống:

Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ
.

Cái 1 năm qua đi, là cõi văn chương lưu vong của Mít đó!


You Only Need To Be Alive:

Art Should Free Itself from Time

Nguyễn Quốc Trụ

 

  PHÉP LẠ BÍ ẨN

 

Jorge Luis Borges

 


Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.

Koran, II 261

 

Lời người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...


NQT
 

          Đêm 14 tháng Ba, 1939, trong căn phòng ở Zelternergasse, Prague, Jaromir Hladík mơ một trận đấu cờ dai dẳng. Anh là tác giả Những kẻ thù, một bi kịch chưa hoàn tất, Minh xác Vĩnh cửu, và một nghiên cứu những nguồn gốc Do-thái không trực tiếp của Jacob Boehme. Đối thủ không phải hai cá nhân, mà là hai gia đình nổi tiếng. Cuộc đấu đã bắt đầu từ bao thế kỷ trước. Không ai còn nhớ giải thưởng trị giá bao nhiêu, nhưng nghe nói lớn kinh khủng, và có lẽ vô cùng. Quân cờ, bàn cờ được bố trí ở trong một cái tháp bí mật. Jaromir (trong giấc mơ) là đứa con đầu lòng của một trong hai gia đình tranh đua. Giờ giấc cho nước cờ tới đã được đóng cứng trên mọi mặt đồng hồ, và không thể trì hoãn. Người mơ thấy mình chạy dài trên cát, dưới mưa, và không còn nhớ được những quân cờ cũng như luật chơi. Tới đó, anh tỉnh dậy. Ngưng luôn, tiếng ầm ầm của mưa và tiếng đồng hồ khủng khiếp. Một tiếng động nhịp nhàng, tách bạch với những tiếng người ra lệnh, từ Zeltnergasse vang lên. Rạng đông, những binh đoàn thiết giáp tiên phong của Đệ Tam Reich đang tiến vào thành phố Prague.

Vào ngày 19, nhà cầm quyền nhận được lời tố cáo Jaromir Hladík; buổi chiều cùng ngày, anh bị bắt. Anh được đưa tới một doanh trại mầu trắng và được khử trùng, ở phía bờ đối diện Moldau. Anh không thể biện bạch, dù chỉ một trong những lời cáo buộc của Gestapo: họ mẹ anh là Jaroslavski, máu anh là Do thái, nghiên cứu của anh về Boehme nặng chất Do thái, chữ ký của anh, trong thống kê chót, cổ võ sự chống đối Anschluss. Vào năm 1928, anh đã dịch Sepher Yezirah cho một nhà xuất bản của Hermann Barsdorf; nhằm mục đích thương mại, bản danh mục thái quá của cơ sở này càng cường điệu thêm tiếng tăm của người dịch. Danh mục ở trong tay điều tra viên Julius Rothe, một trong những viên chức quyết định số phận Hladík. Trừ những kẻ ở trong môi trường chuyên môn riêng biệt, có viên chức nào mà không cả tin; chỉ cần hai hoặc ba tĩnh từ kiểu Gothic là đủ thuyết phục Julius Rothe về tầm quan trọng của Hladík, và ông ta ra lệnh tử hình, pour encourager les autres (1). Cuộc hành quyết được ấn định vào ngày 29 tháng Ba, vào lúc 9 giờ sáng. Sự chậm trễ (độc giả sẽ nhận ra tầm quan trọng của nó sau đây) một phần là do nhà cầm quyền mong muốn tiến trình hành động không có tính cá nhân, và thật từ từ, như cây cỏ.

Hết cả hồn vía, đó là phản ứng đầu tiên của Hladík. Anh biết mình chắc chắn không khiếp sợ, bởi cái giá treo cổ, đoạn đầu đài, hay một con dao, nhưng bị xử bắn do một đội hành quyết là điều anh không thể chịu nổi. Thật vô ích, khi anh cố tự thuyết phục chính mình, chết, chỉ riêng chuyện đó thôi, là một hành động đáng sợ, nhằm nhò chi ba trường hợp lẻ tẻ. Anh tưởng tượng đến mệt nhoài, hết chết cách này tới cách khác. Cứ như thế anh tham dự hoài hoài, tiến trình cái chết của anh, từ rạng đông không ngủ tới loạt đạn huyền bí. Trước ngày chết ấn định bởi Julius Rothe, anh đã chết hàng trăm lần, tại những sân bắn mà hình dáng, góc cạnh của chúng thách đố luôn cả môn hình học; bị bắn gục bởi hết đám lính này tới đám lính khác, con số người tham dự cũng thay đổi, kẻ này lúc bắn gần, kẻ khác lúc bắn xa. Anh đối diện những cuộc hành quyết tưởng tượng, khiếp đảm thực sự (và có lẽ, can đảm thực tình). Cảnh tượng này mỗi lần kéo dài chừng vài giây đồng hồ. Khi vòng tròn khép kín, Jaromir lại thấy mình trở lui hoài hoài với buổi đêm run rẩy, của cái chết ban mai. Rồi anh suy ngẫm ra một điều, thực tại vốn không trùng hợp với những dự đoán của con người về nó. Với luận lý riêng, anh suy ra rằng, dự đoán một tình huống, là ngăn chặn cho nó đừng xẩy ra. Tin tưởng nơi huyền thuật yếu ớt, anh làm phép: như vậy chúng sẽ không xẩy ra, những tình huống tối tăm độc địa. Lẽ dĩ nhiên, cuối cùng anh cũng đành phải lo sợ, những hoàn cảnh thê lương này mang tính tiên tri. Trong đêm tối thương tâm, anh cố nắm chút thời gian trơn tuột. Anh hiểu rằng, thời gian, tự nó cũng chúi về buổi mai 29. Anh lớn tiếng suy luận: Lúc này, ta hiện đang ở trong đêm 22. Trong khi đêm còn dài (còn 6 đêm sẽ tới), ta bất khả xâm phạm, tuyệt đối an toàn, bất tử. Giấc ngủ đêm như những giếng tối sâu mà anh tự mình có thể trồi lên. Có những khoảnh khắc, anh nôn nóng loạt đạn dứt khoát, tốt cũng vậy, mà xấu cũng xong, nó sẽ giải thoát anh khỏi nỗi thôi thúc vô ích của bao điều tưởng tượng. Vào ngày 28, khi ánh dương quang cuối cùng chấp chới trên song sổ cao, ý nghĩ về vở bi kịch Những kẻ thù bứt anh khỏi những âu lo tuyệt vọng.

Hladík đã quá 40. Ngoại trừ một số ít bạn bè, và rất nhiều thói quen, ba bốn điều viết lách là cuộc đời anh. Như tất cả các nhà văn, anh đo lường sự thành tựu của kẻ khác bằng những gì họ đã hoàn tất, yêu cầu họ đo lường anh bằng những điều anh nghiên cứu, hoạch định. Tất cả những cuốn sách anh xuất bản, đã để lại nơi anh một mớ tình cảm hỗn độn, về nỗi niềm ăn năn, thống hối. Những nghiên cứu về tác phẩm của Boehme, Ibn Ezra, và Fludd cơ bản chỉ là sản phẩm mang tính ứng dụng vậy vậy; dịch bản Sepher Yezirah, sản phẩm của sự cẩu thả, mệt mỏi, đoán mò. Minh xác Vĩnh cửu, theo anh, ít khuyết điểm hơn: tập đầu là những quan niệm của con người về vĩnh cửu, từ Hiện Hữu bất di bất dịch của Parmenides tới Quá Khứ có thể sửa đổi được của Hinton. Tập thứ nhì, (cùng với Francis Bradley), phủ nhận điều, tất cả những sự kiện trong vũ trụ cấu thành một chuỗi thời gian, bằng cách lập luận rằng, con số kinh nghiệm khả hữu của con người thì không vô cùng, và chỉ một lần "lập lại" đủ chứng minh, thời gian là một ảo tưởng... Bất hạnh thay, những luận cứ chứng minh ảo tưởng này, thì cũng ảo tưởng như rứa. Hladík có thói quen vượt qua chúng theo kiểu bối rối, nhuốm chút dè bỉu. Anh cũng đã viết một chuỗi thơ Biểu Hiện; và nhà thơ chưng hửng, chúng có trong thi tập xuất bản vào năm 1924, và thi tập nào xuất hiện sau đó cũng đều thừa hưởng chúng. Trong nỗi nôn nóng cứu rỗi chính mình, thoát ra khỏi quá khứ mập mờ, và não nề, tất cả đều trông mong vào vở bi kịch thơ, Những kẻ thù. (Hladík coi trọng thể kịch thơ, bởi vì nó làm cho khán giả không quên phi thực tại, vốn là một điều kiện cần thiết của nghệ thuật.)

Tác phẩm tôn trọng tính đồng nhất của bi kịch (thời gian, nơi chốn, hành động). Nó mở ra tại Hradcany, trong một thư viện của Nam tước Roemerstadt, vào một trong những buổi chiều cuối cùng của thế kỷ 19. Trong cảnh một, hồi một, một người lạ tới thăm Roemerstadt. (Đồng hồ gõ 7 tiếng, sự thôi thúc của những tia mặt trời khi lặn, rực rỡ trên những ô cửa kính, không gian có tiếng nhạc Hungary quen thuộc, tha thiết.) Cuộc thăm viếng kéo theo những cuộc thăm viếng khác; Roemerstadt không quen biết những người tới làm phiền ông, nhưng ông lại có cảm giác khó chịu là ông đã nhìn thấy họ, trước đó: có lẽ trong một giấc mơ. Tất cả đều xun xoe, bợ đỡ, nhưng thật hiển nhiên - trước tiên là đối với khán giả vở bi kịch, và sau đó, đối với chính Nam tước - họ là những kẻ thù bí mật, thề huỷ hoại ông. Roemerstadt tỏ ra cơ trí hơn, hoặc đã thoát khỏi những âm mưu lằng nhằng của họ. Trong cuộc đối thoại, người yêu của ông, Julia de Weidenau, được nhắc tới, và một tay Jaroslav Kubin nào đó, có thời đã từng cầu hôn cô. Kubin bây giờ đã mất trí, và nghĩ anh ta là Roemerstadt... Nguy hiểm trùng trùng. Roemerstadt, vào cuối hồi hai, đã bắt buộc phải giết một trong những kẻ âm mưu. Hồi ba và là cuối cùng, bắt đầu. Những sự phi lý cứ thế tăng thêm: diễn viên, có vẻ như đã đóng xong vai, lại xuất hiện; người đàn ông bị Roemerstadt giết, trở lại, một lát thôi. Người nào đó ghi nhận, thời gian trong ngày không tiến triển: đồng hồ gõ 7 tiếng, mặt trời hướng tây hắt lên những ô cửa sổ cao, nhạc Hungary tha thiết trong không khí. Xướng ngôn viên thứ nhất của vở kịch tái xuất hiện và nhắc lại những từ anh ta đã nói trong cảnh một, hồi một. Roemerstadt nói chuyện với anh ta, chẳng một chút kinh ngạc. Khán giả nhận ra rằng, Roemerstadt là anh chàng Jaroslav Kubin khốn khổ. Vở bi kịch chưa từng xẩy ra: chỉ là vòng mê sảng Kubin hoài huỷ sống đi sống lại.

Hladík chẳng bao giờ tự hỏi chính mình, vở bi hài kịch của những lầm lẫn như vậy, là vô lý, hay đáng yêu; có dụng tâm, hay chỉ là tuỳ tiện. Anh trực giác ra rằng, một âm mưu như vậy là phát minh thích hợp nhất để che giấu những khiếm khuyết, và để biểu tỏ những điểm mạnh của anh, và nó còn cho anh khả năng cứu rỗi, (một cách biểu tượng) ý nghĩa căn bản cuộc đời anh. Anh đã hoàn tất hồi nhất và một cảnh hay là hai, của hồi ba. Tính vần luật của tác phẩm cho phép anh liên tục suy nghĩ về nó, chỉnh lại khổ thơ mà không cần bản thảo ở trước mặt. Anh nghĩ tới hai hồi còn phải làm, và cái chết cận kề. Trong bóng đêm, anh khẩn cầu Thượng Đế. Nếu, một cách nào đó, con hiện hữu, nếu con không phải là một trong những lập lại của Người, và sự lầm lạc; con hiện hữu như là tác giả của Những kẻ thù. Để hoàn tất vở bi kịch này, nó có thể sử dụng để biện minh con, biện minh Người, con cần một năm nữa. Xin hãy cho con năm đó. Người mà tất cả những thế kỷ, tất cả thời gian đều thuộc về Người. Đó là đêm cuối cùng, hãi hùng hơn tất cả, nhưng chỉ mười phút sau, giấc ngủ như biển đen sâu thẳm đã nhận chìm anh.

Gần rạng đông, anh mơ thấy tự giấu mình, ở một trong những gian, tại thư viện Clementine. Một người thủ thư đeo kính đen hỏi anh: Anh kiếm gì? Hladík trả lời: Thượng Đế. Người thủ thư bảo anh: Thượng Đế ở một trong những con chữ, của một trong những trang, của một trong 400,000 bộ, của Clementine. Cha tôi, và những người cha của những người cha của tôi, đã tìm kiếm con chữ này. Tôi trở nên mù cũng chỉ vì tìm nó. Ông gỡ cặp kính, và Hladík nhìn thấy mắt của ông đã chết. Một độc giả bước vào, mang trả cuốn atlas. Cuốn atlas này vô dụng, ông ta nói, và đưa nó cho Hladík, anh mở ra theo ngẫu nhiên. Trong một thoáng bàng hoàng, anh nhìn thấy bản đồ xứ Ấn độ. Đột nhiên hết sức tự tin về mình, anh chạm vào một trong những con chữ nhỏ bé nhất. Một giọng như có ở khắp nơi, nói: Thời gian cho tác phẩm của mi đã được chấp thuận. Hladík giật mình thức giấc.

Anh nhớ ra rằng, những giấc mơ của con người thuộc về Thượng Đế, và Maimonides đã viết, những từ trong giấc mơ thì linh hiển, khi chúng được nói ra một cách rành rẽ, rõ ràng, bởi một người mà không ai nhìn thấy. Anh mặc quần áo. Hai người lính vào sà lim và ra lệnh cho anh đi theo họ.

Từ bên trong cửa, Hladík đã mường tượng mê cung với những lối đi, những cầu thang, và những dẫy nhà nối với nhau. Thực tại tồi tệ hơn: họ đi xuống một sân trong, bằng thang sắt hẹp chỉ một người đi lọt. Một vài người lính - mặc đồng phục, khuy áo mở banh - đang xem xét một chiếc xe gắn máy, và bàn cãi về nó. Viên đội nhìn đồng hồ của anh ta: 8 giờ 44. Họ phải đợi tới 9 giờ. Hladík thấy mình chẳng đáng chi, hơn là đáng thương hại; anh ngồi trên đống gỗ. Anh nhận ra ánh mắt những người lính tránh né anh. Để cho việc chờ đợi dễ dàng hơn, viên đội mời anh một điếu thuốc. Hladík không hút thuốc. Anh nhận chỉ vì lịch sự, hoặc vì tủi nhục. Trong khi châm thuốc, anh thấy tay mình run run. Trời có mây. Những người lính xì xầm nói chuyện, như thể anh đã chết. Một cách vô ích, anh cố nhớ một người đàn bà, và qua người này, Julia de Weidenau là một biểu tượng...

Đội hành quyết được tập hợp, và mọi chú ý hướng về họ. Hladík đứng dựa vào tường doanh trại, đợi loạt đạn. Một người nào đó tỏ ý lo ngại, bức tường sẽ dính máu. Kẻ bị kết án được lệnh bước tới phía trước vài bước. Thật phi lý, Hladík nhớ lại những sắp xếp sơ khởi của một người thợ chụp hình. Một giọt mưa nặng nề rớt, trên thái dương Hladík, rồi lăn dần xuống má. Viên đội hô mệnh lệnh cuối cùng.

Vũ trụ vật chất dừng lại.

Súng chĩa vào Hladík, nhưng những người được lệnh bóp cò đều bất động. Cánh tay viên đội trở thành thiên thu, trong cử động chưa kịp hoàn tất. Trên phiến đá lát sân, một con ong để bóng im của nó. Gió ngưng, như trong một bức tranh. Hladík cố kêu một tiếng, một từ, cố nhấc tay. Anh nhận ra mình liệt cứng. Không một âm thanh thoát ra từ thế giới đứng dừng.

Anh nghĩ: Ta đang ở địa ngục. Ta đã chết.
Anh nghĩ: Ta điên rồi.
Anh nghĩ: Thời gian ngưng.

Rồi anh suy nghĩ, trong trường hợp như vậy, ý nghĩ của anh, cũng phải tới một điểm ngừng. Anh nóng lòng xét nghiệm khả năng này: anh nhắc lại (mà không mấp máy môi) Bài Thơ bí ẩn thứ Tư của Virgil. Anh tưởng tượng những người lính đằng xa cùng chia sẻ với anh nỗi nôn nóng; anh mong được liên lạc với họ. Anh sững sờ khi thấy mình không một chút mệt mỏi, không choáng váng vì sự bất động hoài huỷ. Sau một thời gian dài, không biết là bao lâu, anh rơi vào giấc ngủ. Khi tỉnh dậy, anh nhận ra thế giới vẫn bất động, tê cóng. Giọt mưa vẫn đọng trên má anh; bóng con ong vẫn dừng trên mặt phiến đá; khói từ điếu thuốc anh ném bỏ vẫn chưa tan. Một "ngày" khác đã qua, trước khi anh hiểu được.

Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.

Anh đâu có tài liệu chi, ngoài hồi ức của riêng mình. Đám rong chơi tài tử, vốn đã quên những chương đoạn mơ hồ, phù phiếm, họ không thể tưởng tượng, anh đã từng có được một sự nghiêm thủ hạnh phúc, khi làm chủ từng khổ thơ thêm vô đó. Anh không làm, cho hậu thế, ngay cả cho Thượng Đế, cũng không, những thưởng ngoạn văn chương cũng chỉ là vô danh đối với anh. Hết sức tỉ mỉ, không cử động, hết sức bí mật, anh dệt đúng thời gian, mê cung vô hình, kiêu hãnh của anh. Anh làm đi làm lại hai lần, hồi thứ ba. Anh bỏ đi những biểu tượng quá lộ liễu: tiếng đập của thời gian, của âm nhạc. Chẳng có gì thúc hối anh. Anh bỏ bớt, anh cô đọng, anh khuếch đại. Có chỗ, anh trở lại nguyên bản. Anh thấy mình trở nên trìu mến cái sân, doanh trại, một trong những mặt tiền của nó, trước mặt anh, đã sửa đổi quan niệm của anh về tính tình của Roemerstadt. Anh khám phá ra rằng, những tạp âm nặng nề đã làm Flaubert bực mình rất nhiều, chỉ là những mê tín thị giác, sự yếu đuối và giới hạn của chữ viết, không phải chữ có âm thanh, trầm bổng... Anh kết thúc bi kịch của anh. Anh chỉ còn bận tâm với mỗi một câu. Anh đã kiếm thấy nó. Giọt mưa lăn trên má anh. Anh bắt đầu một tiếng kêu man rợ, xoay mặt qua một bên. Ba bề, bốn phía, một luồng hơi đẩy anh té xuống.

Jaromir Hladík chết vào ngày 29 tháng Ba, lúc 9:02 sáng.
 

Nguyễn Quốc Trụ

(Theo bản Anh ngữ của Anthony Kerrigan, và bản của Harriet de Onís)
________________


(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản, nghĩa: Để khuyến khích những kẻ khác.



Tuong Niem DNM

http://www.viet-studies.info/TuongNhoDuongNghiemMau_NV.htm

*

GNV & Nguyễn Tân Văn

Bút hiệu Dương Nghiễm Mậu là ghép tên thật (Phí Ích Nghiễm) với tên làng quê nội và quê ngoại (Dương Liễu, Mậu Hoàng), có lẽ thế.

NTV

Note: Nhảm. DNM là từ Nghiễm (Phí Ích Nghiễm] + Dương Từ Hà Mậu [tên tác phẩm của Đồ Chiểu].
Khi chọn cho mình 1 cái nick như thế, là DNM còn chọn 1 miền đất, và sĩ khí/linh hồn/ông thần đất…  của nó, qua nhân vật Đồ Chiểu, “chở bao nhiêu đạo…”

GCC nhìn thấy DNM, lần đầu,
là lần đi cùng Nguyễn Tân Văn, lang thang trên đường phố Sài Gòn, khu Chợ Đũi, gần nhà BHD.
Đang đi, anh
chỉ, DNM kìa, và GCC, từ xa nhìn thấy, DNM đang chăm chú theo dõi 1 xen gì đó trên đường phố.
Thời gian liền sau khi Rượu Chưa Đủ xuất hiện trên Sáng Tạo.

NTV là người kể cho GCC về những con sư tử, trong 1 truyện ngắn của DNM, mà anh nghe, từ DNM, chôm của Hemingway!
Lạ, là GCC nhớ hoài chi tiết này, mỗi lần đọc/chôm từ lũ mũi lõ.
Mình chôm giùm bạn mình, chứ không phải chỉ cho mình mình!

Trang TV là như thế đó: Viết là chôm chĩa.
Bài đầu tiên viết cho talawas là cũng theo tinh thần đó: Nhà văn là 1 tên biệt kích văn hóa.
Sến đọc mê quá, bèn cho phép Gấu cắp rổ theo hầu!

Theo tôi, dịch là cướp. Nếu không cướp được thì ăn cắp, như trường hợp một ông trạng đi xứ nhét hột ngô Tầu vào bìu khi qua ải Nam Quan, đem về Việt Nam làm giống.
Vào cái thời chủ nghĩa thực dân đang cực thịnh, chuyện học tiếng Tây tiếng U chỉ là để "tồn tại", theo nghĩa của câu "bây giờ ông đổi lông ra sắt, cách kiếm ăn đời có nhọn không?" Nhìn rộng ra, cả một nền văn chương dịch thuật, hoặc "bảnh" hơn, viết văn bằng tiếng Tây tiếng U, trước đây, đều qui vào chuyện "cách kiếm ăn đời có nhọn không". Thời Tây thuộc còn khá, vì còn có những bậc tiền bối dám mầy mò tới cõi văn Tây. Thời Mỹ thuộc thì thật quá tệ. Nhưng đây là do quan thầy chứ không phải do đầy tớ: Người Mẽo chỉ muốn có những thằng đầy tớ biết nghe răm rắp lời của chủ: tao là thằng chi tiền! Tây thì còn muốn "làm bạn" với một tên cô lô nhần nào sáng sủa một chút.
Ngay cả những bậc tiền bối viết văn bằng tiếng Tây đúng mẹo văn phạm hơn cả Phú Lãng Sa, dưới mắt một độc giả mẫu quốc, những tác phẩm như "Cổ tích về những miền đất thanh thản" [tạm dịch cái tựa "Légendes des terres sereines"  của nhà văn Phạm Duy Khiêm] cũng chỉ được coi như là một thứ hương xa cỏ lạ. (1)
Hiện hữu có trước yếu tính. Tồn tại trước đã, kỳ dư là văn chương (tout le reste est littérature), như người Tây nói. Thành thử công đầu lại vẫn ở những bậc tiền bối như Trương Vĩnh Ký, hay những thầy thông, vào cái thời chữ Nho mới là chữ của nước. Vả chăng, quyền uy của chủ nghĩa thực dân lúc đó ghê gớm quá, dễ gì mà làm một thằng ăn cướp!
Phải đợi đến những nhà văn di dân thời kỳ hậu thuộc địa, người ta mới hiểu được, chuyện viết văn bằng tiếng nước ngoài, không phải là mất gốc, mà là ngược lại: nói rõ hơn, muốn không mất gốc, là phải viết văn bằng tiếng nước ngoài! Theo nghĩa đó, Kazuo Ishiguro, nhà văn gốc Nhật viết văn bằng tiếng Anh, tác giả Tàn Ngày (The remains of the day), được coi là "một người Anh hơn cả người Anh", un Anglais plus british que les autres, theo Sean James Rose, tác giả một bài viết trên tờ báo Pháp, Đọc (Lire), số tháng Chín 2001.
Salman Rushdie, một trong những đứa con của giờ Tý thì cho rằng, muốn giải phóng ra khỏi giấc mơ (muội) vong thân trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng Anh. Trong bài viết "Quê hương tưởng tượng", ông viết: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
Vả chăng, vẫn theo ông, những nhà văn Anh gốc Ấn khó mà từ bỏ tiếng Anh. Con cái của họ lại càng khó hơn nữa, vì đây là ngôn ngữ thứ nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với tất cả và chống với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch", traduire, là từ tiếng La tinh "traducere", "mener au de-là", dẫn (đi) đằng đó. Bị đá văng ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị dịch" (nous sommes des hommes "traduits"). Cho dù ‘dịch là chết ở trong hồn một tí’, ông vẫn khăng khăng với ý nghĩ, rằng có một chút chiến lợi phẩm, mỗi khi đi ăn hàng!
Chuyện cũng chẳng mới mẻ gì. Cổ đại La tinh đã coi dịch là cướp, giống như mấy trò chém giết (đàn ông), hãm hiếp (đàn bà), cướp bóc vàng bạc của cải, đất đai.
Nói ngắn gọn, đây chính là sự thành lập đế quốc.
Thành thử hủy diệt ngôn ngữ một đất nước đã bị xâm lăng, là nhiệm vụ hàng đầu của kẻ thắng trận, là vậy.
Talawas: ta là gì? Ta là thằng dịch thuật. Và dịch thuật với người Việt ở trong lẫn ở ngoài, là vấn đề sinh tử; nếu cần, hãy vờ đi chuyện sáng tác trong một thời gian; đổ công, đổ của, đổ sức vào việc dịch.
Nghĩa là cướp. Không cướp ngày thì cướp đêm. Thành thử những "nhà dịch thuật" chính là những tên biệt kích văn hóa, vậy.

NQT

[Bài viết cho diễn đàn talawas, khi mới xuất hiện trên net]

(1) PHAM Duy Khiêm : "Légendes des terres sereines "


*

Phí Ích Bành, ông em Dương Nghiễm Mậu & NQT
@ Phạm Phú Phong's


Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động

Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở một nơi khác…

GCC, viết về DNM, khi anh còn sống, “thật chững chạc, thật cảm động”, từ trong hồi ức bật ra câu chuyện cổ trên đây, 1 phần là nhờ cái nick của anh, từ vị phúc thần Miền Nam, là Đồ Chiểu, mà có được.
Chuông đúc ở xứ Bắc Kít, gõ lên 1 phát, không thấy kêu kiếc con mẹ gì
hết, mà cả 1 một miền nam thì lại nghe, tạo thành cả 1 nền văn học có tên là văn học Ngụy, thế mới ghê, “nàm” sao, từ hai địa danh của Miền Bắc, ra cái nick DNM được?
“Vô ný” quá!
Đã 1 đấng đầu bạc phán nhảm rồi, giờ lại thêm Nguyễn Tân Văn!

NTV, làm thơ, ký là Hà Tuệ, Tin Văn có giới thiệu. Anh là bạn thời mới lớn, người đưa thư giùm Gấu, khi Gấu bị ông cụ của BHD cấm cửa, và là người đi cùng Gấu xuống Sóc Trăng mang xác thằng em trai tử trận về nghĩa trang Gò Vấp mai táng. Anh, khi đó đóng ở Mỹ Tho, trên đường đi, Gấu ghé đón. Trở về lại đơn vị, anh bỏ chuyến xe thứ nhất, vì thèm ly cà phê, và có thể, thèm nhìn lại ST lần cuối, nhờ
vậy thoát chết, trong chuyến xe đò thứ nhất rời thành phố, trên đường đi ăn mìn VC. Anh vẫn thường nghĩ, anh thoát chết, nhờ thằng em của Gấu cản anh đừng đi chuyến xe đó.
Cũng có thể.

Hà Tuệ

Hạ Huyền 

Tưởng niệm TTH 

Vầng trăng thôi đã ngàn thu

Nguồn mơ còn lại mấy tờ thư phai

Gửi về đâu, những dấu hài

Tóc huyền ai thả theo lời thơ bay

Hồn trăng trên ngọn lau gầy

Hắt hiu sông nước sương đầy bến không

Mây trôi thuyền lạc muôn trùng

Mênh mang thiên cổ mịt mùng viễn khơi

Tiếng kêu thương nỗi ngậm ngùi

Trăng tà núi lặng không lời vọng âm

 Huyền 

Trong bầu trời xám của Utrillo của Đà Lạt và em chiếc khăn hồng rực rỡ em bừng sáng trên phố đông em bừng sáng suốt thời thanh xuân anh. 

Anh ủ dột ngã quỵ trong bão lốc. Anh chết dấp bên bờ rừng còn vo ve lời trá ngụy. Gục đầu đi trong bóng chụp ma quỷ chẳng còn gì đời anh. 

Như thế ba mươi năm không thấy nhau, những buổi chiều rũ nát không còn em dòng máu anh vẫn tiềm ẩn ảnh hình một buổi chiều đường Lê Lợi. Ba mươi năm những ngày vỡ vụn buồn chán những ngày hốt hoảng mù mịt không có em anh đã quên trong cuộc đời. Vầng trăng sơ huyền mắt trong xanh vầng trăng hạ huyền trong đêm Sài Gòn khuya lặng lẽ đi. 

Huyền vẫn là vầng trăng trong đêm sao vẫn là pháo bông một ngày hội suốt thời thanh xuân anh chưa bao giờ đạt tới.

 Mùa Xuân Mùa Đông 

Đầu mùa hạ cuối mùa xuân, lan đã tàn, quỳnh bắt đầu nở, chùm bông giấy tím cuối bờ tường. Buổi sáng chim gọi nhau ríu rít. Bỗng tưởng như một buổi chiều trong rừng Trảng Táo chim xào xạc. Những ngày tháng hoảng hốt âm u em đã đến như bông hồng rực rỡ sáng trong đời.

Rừng mưa lũ, thác réo như cuốn trôi mọi tồn sinh mọi hy vọng. Một nhánh phong lan còn nằm trong tâm tưởng đợi một mùa êm đềm. Và nhớ mãi một buổi sáng mưa xuân những giọt nước long lanh trên lá cỏ, những bài hát của một thời chiến tranh mà chúng ta lạc lối hoang mang. Anh vẫn nghe và nhớ em nhớ một thời hỗn độn tối tăm và tình yêu như cánh chim trong lửa cháy mịt mù.

Thấp thoáng nắng hàng tre bên kia sông có tà áo xa xa dẫn anh về một nẻo đường như ngày xưa như ngày mai, nhưng hôm ấy nhưng hôm nay còn mộng mị.

Mùa xuân, anh vẫn sống trong mùa thu buồn bã anh vẫn sống trong mùa đông ủ dột. Em, em ở đâu bây giờ. 

Bạn bè anh em ta đã chết nơi bìa rừng cuối bãi, và chân lý vẫn biền biệt như chưa từng hội tụ.

Vang vọng một mùa xuân, vang vọng một mùa đông chiêm bao. Em về đâu giòng thời gian đi mãi. Em về đâu?

 Ngọc. Hỗn Mang 

Nhớ một tình yêu ngập ngừng nhớ một quê hương tối tăm.
Giả đò quên thân phận một gã thợ thúc ép giữa những hãng xưởng căng thẳng.
Giả đò quên một xứ sở xa lạ một bầu trời đe dọa, trái đất cheo leo vũ trụ hung hiểm.
 

Làm thơ như đốt lửa trong đêm Bắc Cực, trong lung linh tìm một bóng hình.
Như trang kinh những phép lạ hư thực.
Đã hai ngàn năm, đã hơn hai ngàn năm, một sinh vật nhỏ nhoi còn hốt hoảng. 

Chẳng là gì, không về đâu.
Điếu thuốc trên môi ly rượu trong tay và nỗi thơ quay cuồng quay quay mãi.
Không thể sống một mình như sẽ chết một mình.
Có thét gào vẫn im lìm không tiếng vọng.
Trơ trọi như ngủ với một người đàn bà không cảm giác.

Ngọc.

Chẳng thể vãn hồi, đừng bao giờ trở lại.
Nàng đã chết từ muôn ngàn năm.

 Trời đất một màu mây 

Lòng trong xanh ngọn suối
Cuồn cuộn sóng đời sông
Vòi vợi bao núi rừng
Đêm ngàn sao mong nhớ 

Có gì xa xôi quá
Trời đất một màu mây
Có gì sao xuyến lạ
Chập chùng khói sương bay

Và mùa xuân buồn bã
Mùa thu qua hoang vu
Biển vỗ vô cùng tận
Trời mênh mông không bờ

 Trăng long lanh lòng suối
Chiều nhuộm đỏ sông xưa
Người tìm hoài đợi mãi
Điều không đến bao giờ.

Nguyễn Hà Tuệ

Thủ bút thơ Joseph Huỳnh Văn, bản độc nhất còn lại, của TSVC, số ra mắt, Nhã Tập, trong có bài Truyện Kiều ABC của Đỗ Long Vân, là của Nguyễn Tân Văn gửi cho Tin Văn

Nhã Tập

Truyện Kiều ABC

*


Văn chương ai điếu

[Note: Bài này đầu tháng lòi ra]

http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html

*

GCC & NDT & VTD & DPP với mấy đấng nữa, không biết tên

Cali 3.08

Hà Nội

Bài này, nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL

Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa 

It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens

Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ

Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!

Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có ảnh hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.

"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"

Những ngày ở Sài Gòn

Những ngày thì ở Sài Gòn, nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này, ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán rau muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng, cùng tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng trọ họ ở Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của Gấu, chắc thế.

Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già, lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:

[Khúc này Hải Âu mê lắm, hà, hà!]

Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng
*

Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.

Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.

Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...

Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.

Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.

Nhưng cái kỷ niệm sau đây, nhờ NTV mà Gấu nhớ lại được, thì thật là tuyệt vời, chưa kể cái kỷ niệm, lần cả hai đứa xém chết vì lên xóm

http://www.tanvien.net/Notes_2/kyniem_2.html


* *

Call For The Dead

John Le Carré, Gấu cũng tự mình khám phá ra, cũng một cú tự sướng, lần ghé tiệm Xuân Thu, kế bên Quán Chùa, tình cờ cầm lên cuốn L’espion qui venait du froid, Gián điệp về từ miền lạnh, vừa đọc đến ‘du froid’ một phát, là lạnh run người, con vai-rớt Bắc Kít, bật nhỏm dậy, bao nhiêu sợi nắng, sợi mưa Sài Gòn cũng chịu thua, hà, hà, đúng là tâm trạng đó, cú mặc khải đó, khi Gấu bập vô cuốn truyện.
Rồi mò tới Gọi người đã chết, bản tiếng Tây, loại sách bỏ túi đóng dấu IC, giá tiền bằng giá tại gốc,10 đồng, tiền ông Diệm, đọc thì đọc, nhưng không cảm.
Phải tới khi vô nhà tù quốc tế Bangkok, nhờ bản tiếng Anh, của một tay thanh niên người Mã Lai, nằm kế bên, thì mới thấm đòn, và nhận ra, đây mới là cuốn hiển hách nhất của Le Carré.

Ui chao, bạn đọc đoạn sau đây, khi Smiley bị vợ bỏ, ông bạn VC người Đức tên Dieter thì lại tha thứ cho anh, không thèm làm thịt, và gieo mình xuống sông Tà Mi tự trầm, rồi nghĩ đến những thân phận PXA, thí dụ, bị chính cái Miền Bắc của anh bỏ rơi, sau khi vắt sạch, chết không nổi, cứ ngắc nga ngắc ngoải, vì địa ngục chật quá rồi, và cỡ như anh, Diêm Vương cũng lắc đầu không dám nhận, hay nghĩ đến thân phận thằng cha Gấu, cũng sắp đi rồi, mà đi về đâu, về đâu… hà, hà?

Smiley put this on one side and turned to the next letter. Just for a moment he did not recognize the handwriting; just for a moment he looked bleakly at the Swiss stamp and the expensive hotel writing paper. Suddenly he felt slightly sick, his vision blurred and there was scarcely strength enough in his fingers to tear open the envelope. What did she want? If money, she could have all he possessed. The money was his own, to spend as he wished; if it gave him pleasure to squander it on Ann, he would do so. There was nothing else he had to give her - she had taken it long ago. Taken his courage, his love, his compassion, carried them jauntily away in her little jewel case to fondle occasionally on odd afternoons when the time hung heavy in the Cuban sun, to dangle them perhaps before the eyes of her newest lover, to compare them even with similar trinkets which others before or since had brought her.
My darling George.
I want to make you an offer which no gentleman could accept.
I want to come back to you.
I'm staying at the Baur-au-Lac at Zurich till the end of the month. Let me know.
Ann
Smiley picked up the envelope and looked at the back of it: 'Madame Juan Alvida'. No, no gentleman could accept that offer. No dream could survive the daylight of Ann's departure with her saccharine Latin and his orange-peel grin. Smiley had once seen a news film of Alvida winning some race in Monte Carlo. The most repellent thing about him, he remembered, had been the hair on his arms. With his goggles and the motor oil and that ludicrous laurel-wreath he had looked exactly like an anthropoid ape fallen from a tree. He was wearing a white tennis shirt with short sleeves, which had somehow remained spotlessly clean throughout the race, setting off those black monkey arms with repulsive clarity.
That was Ann: Let me know. Redeem your life, see whether it can be lived again and let me know. I have wearied my lover, my lover has wearied me, let me shatter your world again: my own bores me. I want to come back to you ... I want, I want ...
Smiley got up, the letter still in his hand and stood again before the porcelain group. He remained there several minutes, gazing at the little shepherdess. She was so beautiful.
*
Đoạn hai tay kẻ thù bạn cũ đụng độ trên cầu, trên sông Ta Mì, cũng thật là tuyệt cú mèo:
Anh ta [Dieter] đi rồi, bầy mình ra, như một sự hy sinh của con người cho sương mù London và dòng nước khùng điên, đen ngòm ở bên dưới...
[He was gone, offered like a human sacrifice to the Lodon fog and the foul black river lying beneath it.]
Chắc là đành phải 'như một cú hi sinh con người', và lụi cụi dịch hết cuốn truyện này thôi !

Kỷ Niệm

- Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen của nàng quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt, trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.

Bạn đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua.
Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải nói chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng Gấu ở ngoài, khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương xơ xác trên chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.
Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm! (1)

(1)

Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
Kỷ niệm

Note: Thi sĩ Hà Tuệ còn là thính giả đầu tiên nghe thơ TTT được phổ nhạc, ở trong nhà tù VC
http://www.tanvien.net/tg_vn_01/30.4.ttt.html

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền

Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ  viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].

Bài nhớ thi sĩ

Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục

Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút

(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79

Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa

Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.

Ghi chú của người sao lục:

Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết.

Trong đất trời nhau, là từ thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin anh đi xa, là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát. Quê ngoại là hải ngoại.

... Hôn thụy, ngủ mê, như Gấu tôi được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển từ "coma" [hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ này, và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
Nhưng phải đợi đến đầu năm 87 ở Lao Kay, lần đầu tiên nhận được tin nhà, biết Mai Thảo đã vượt thoát, Thanh Tâm Tuyền mới chợt tỉnh giấc hôn thụy, và chúng ta mới thấy hết ý của lời khen của TTT dành cho bạn mình là Tô Thuỳ Yên [luý dịch hay thật!].
Một lời khen biến thành một lời tiên tri, cho số phận của ba nhà thơ.

- Mai Thảo, chắc chắn là nhận ra được lời nhắn gọi của bạn mình [Trong thơ tui có thơ anh], nên đã trở lại với thơ, nhờ vậy chúng ta có Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền.
- Tô Thuỳ Yên tiếp tục làm thơ, và có Ta Về.
- Thanh Tâm Tuyền, có Thơ Ở Đâu Xa.
Toàn bài thơ là từ "chợt tỉnh giấc hôn thụy", mà ra:

Sáng nay, thức giấc, nhà giam
Nhớ thơ làm hồi trẻ
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo.
Cũng qua cơn hạn khác thường...

Note: Bài thơ này, Gấu mê nhất, trong Thơ Ở Đâu Xa

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm


NXH's Poems of the Night

SN_GCC_2016

Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động

*

Đồng Vọng Lò Thiêu
Le Magazine Littérarie. Mai, 2016


Trang Kertesz

Văn Hóa Lò Thiêu


Today at 11:38 AM

Hello. Ong TRU.
Khi nao qua Cali, mua ve may bay chua?
Nho la xuong fi truong John Wayne nhe !

Chưa, nhưng cỡ đầu tháng 11, qua, sure
Tks
NQT

 

Nguyễn Quốc Trụ

 

Dương Nghiễm Mậu:

Thật chững chạc, thật cảm động

 

Dương Nghiễm Mậu, ký họa của Tạ Tỵ

 

          Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghé ngồi hút thuốc lá thấy ở bên cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt lên những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là bản thảo một truyện ngắn.
-Bỏ đi tất cả đấy à?
-Ừ đã đọc rồi bỏ không đăng.
-Moa lấy đi được không?
-Để làm gì vậy?, người bạn ngạc nhiên hỏi.
-Mặc moa, tôi nói và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó nguyên văn không sửa một dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm.

(Mai Thảo, Chân Dung nhà văn).

 

          Trong thế giới văn chương, những trường hợp như trên không nhiều, nhưng cũng không phải là quá hiếm hoi. Bel Kauffman, tác giả cuốn Lại lên cầu thang đưa xuống En remontant l'escalier qui mène en bas, kể lại, một bữa bà đưa con đi coi xiếc, trên đường đi, bà mua cho con một trái bóng bay. Đứa bé từ lúc đó, chỉ mải mê phiêu lưu cùng chiếc bong bóng bay trên trời, chẳng thèm để ý đến những chú voi khổng lồ đang diễn trò. Và bà chợt nhận ra, đứa con đã nhìn thấy nhiều hơn là những đứa trẻ khác đang cùng ngồi trong rạp. Trường hợp En remontant cũng thật ly kỳ: tiền thân của nó là mấy mẩu giấy học trò, trong một giỏ bỏ giấy vụn, tại một trường tiểu học tại New York; một ông Mai Thảo nào đó tò mò lượm lên, rồi được một nhà xuất bản New York đăng (1962). Cuộc phiêu lưu của mấy mẩu giấy vụn chưa chịu ngưng ở đó: nó biến thành những chiếc bóng bay, khi một nhà xuất bản lớn tình cờ đọc mẩu chuyện nho nhỏ, và đã đề nghị tác giả viết lại, từ bốn trang giấy vụn.

Đề tài trong En remontant (theo tờ Thời Mới, Temps Nouveaux, một tạp chí tiếng Pháp của Liên-xô) có thể tóm gọn: giữa Sự Thực và Tình Thương, cái nào hơn? Câu trả lời: Tình Thương.

Trí nhớ thường lầm lạc, có khi còn do cố ý, hoặc tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên; đây là một trong những bản năng của con người, luôn luôn muốn tái tạo quá khứ, cho những nhu cầu hiện tại. Trong Chân Dung nhà văn, cùng bài về Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo viết... kỷ niệm với mỗi người mỗi khác, (với) Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép ám khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ Ngọc Các, thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Trong khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm Tuyền trên tạp chí Thơ (số Mùa Xuân 1998), nhà thơ nhận ra bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên, sau khi nhận được một bản thảo đánh máy... Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc...

Còn điều này nữa, cơ duyên truyện đầu tay, nhiều khi tự nó đã là một giai thoại. Như sau đây, tôi viết lại theo trí nhớ. Qua kể lại của Simone de Beauvoir, Sartre trong khi viết Buồn Nôn, La Nausée, lúc nào cũng cảm thấy có “cua bò trên lưng”! Gửi bản thảo tới nhà xuất bản Gallimard, bị chê: phần đầu ảnh hưởng Dostoevsky... một cuốn tiểu thuyết bình dân! Sartre thời gian đó, suốt ngày chầu chực ở văn phòng nhà xuất bản; một bữa ông đang ngáp gió, thấy một ông vô, trong khi nói chuyện với bè bạn, ông này lấy thuốc lá, loay hoay tìm hộp quẹt, Sartre nhanh nhẩu tới làm cử chỉ đẹp. Ông này hỏi, xin lỗi ông là ai, Sartre tự giới thiệu. Hóa ra là Jean Paulhan, ông chủ tiệm. Phần tiếp theo, chắc các bạn đoán ra được...

Trường hợp Dương Nghiễm Mậu, giả sử Mai Thảo không buồn tay, có thể chúng ta vẫn có một Dương Nghiễm Mậu, nhưng thiếu Rượu Chưa Đủ, thì thật là một vô cùng thiếu sót. Bởi vì đây là một truyện ngắn, như một loài chim hiếm quí, khi nó xuất hiện, văn chương sẽ... không còn như trước nữa!

Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở một nơi khác. Rượu Chưa Đủ bản thân nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác (1), âm thanh của nó như được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực sự rền rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa đồ tỉ lệ xích 1/1 của Borges, mà người Việt cố mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó như xưa. Chúng ta càng nghe rõ âm thanh của tiếng chuông lạ này, khi đọc Mai Thảo, viết về đoạn kết Rượu Chưa Đủ:

Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện, chỉ nhớ cái anh chàng nào đó, với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một kết thúc tuyệt hay. Đoạn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồ côi cha mẹ từ sớm (một ẩn dụ về một Hà-nội?, người viết bài này thêm vô). Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố không có một đồng xu nhỏ (những ngày đầu di cư của họ Dương?). Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, anh dẫn em vào công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình sông núi với em để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp, buồn rầu một ý niệm về một điểm tựa, về nguồn gốc. Thật chững chạc và thật cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu. Một công viên vắng lặng... Hình ảnh con đường văn chương Mậu mở ra và đi trên đó một mình... Những mô hình sông núi quê hương. Đứa trẻ mồ côi, nghiêm chỉnh sớm hiểu biết, ý thức trong truyện chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong, rất hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn cõi viết của mình... Và Mai Thảo kết luận: Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi là những kẻ khác kia.

Hay khi đọc Thanh Tâm Tuyền viết về Đêm Giã Từ:

Đấy là một truyện không cốt truyện. Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe - theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của nó -, ở sự dồn đẩy khôn nguôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn nhòa tắt tiếng...

Năm di cư thứ hai mươi (1974), khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh ở cả hai miền lúc ấy...

Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hà-nội đợi giờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên thềm ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai 'Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy', câu của Anh vẳng ngân như một câu thơ. (Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc).

Cái nền thiếu vắng, những mô hình sông núi tưởng tượng, tiếng chuông ngân ở một nơi khác: mồ côi là những kẻ khác, nhưng Rượu Chưa Đủ, Đêm Giã Từ, Bếp Lửa... mãi mãi vẫn chỉ là những đứa con tư sinh của một miền đất.

Hình ảnh con đường Mậu mở ra và đi trên đó một mình..., câu này chỉ có thể coi như một nghi vấn, thay vì một khẳng định. Nói một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những con người đứng bên lề...

Dân làng sau đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông trở về, từ đó, nó bình thường như mọi quả chuông khác.

 Nguyễn Quốc Trụ

_____


Chú thích: (1) Dương Nghiễm Mậu vào Nam năm 1954.

"Cho dù ở bất cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào, nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là một cô hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu, ở nơi đâu nếu không là trong tiếng nước người..." Imre Kertész

Nhớ, là, khi Nguyễn Tiến Văn, đọc bản thảo bài viết, lần anh ghé nhà, thời gian “còn lưu vong”, thú quá, gật gù,
cái giai thoại chuông đánh không kêu, tất nhiên, nhưng quá tất nhiên, là cái chi tiết, tách nó ra khỏi toàn bài, cho nó cái lưu vong, cái đồng vọng Lò Thiêu, và cầu mong, lại được "bình thường", như mọi quả chuông khác:

Chúc ai mãi giữ được nụ cười
K

Tks
Take Care
NQT


Ngôn Ngữ Lưu Vong

Quyền tự do xác định tự thân
[Ngôn ngữ lưu vong]
Bản Tiếng Anh

Diễn Văn Nobel 2002
1 NQT dịch
2 NTV dịch

Đồng Vọng Lò Thiêu
http://www.tanvien.net/cn/cn_kertesz_medium.html

Medium có nghĩa là bà đồng, kẻ trung gian. Đồng vọng lò thiêu, là theo nghĩa này: Call for the Dead

THE MEDIUM

This round table belonged to a woman
who used to summon ghostly visitors
And transmit their cryptic messages
To her guests holding hands in a circle,
Their faces dimly lit by a candle,

Hoping to see their loved one appear,
Or at least hear the familiar voice
Greet them once again, divulge a secret
From beyond the grave,
Make someone in the room cover their ears,
Another one break into sobs,

While beyond the thick drawn curtains,
The snowflakes are starting to fall
On this cold, dark and silent night,
Each one determined to bury something
No matter how small, no matter how big.

Charles Simic: The Lunatic

Cô Đồng

Cái bàn tròn thuộc về người đàn bà
Làm cái nghề gọi hồn người chết
Và chuyển những “mails”, “messages”, những dấu hiệu ngoằn ngoèo trên mặt cát, trong cái nia
Tới khách hàng của bà, ngồi xúm quanh, tay cầm tay, thành 1 vòng tròn
Mặt họ mờ mờ dưới ánh đèn cầy

Hy vọng thấy người thân yêu ngày nào xuất hiện
Hay ít ra, nghe được tiếng nói quen thuộc
Chào mừng họ, bật mí cho họ về 1 bí mật ở bên kia nấm mồ
Làm người nào đó trong phòng bịt tai
Một người khác sụt sùi

Trong khi, quá những bức màn dầy, bên ngoài
Tuyết bắt đầu rơi
Xuống đêm, lạnh, tối, và im ắng,
Mỗi người quyết định chôn một điều gì đó
Cho dù nhỏ cỡ nào, bự ra sao.

Thơ trong The Lunatic, bài nào cũng thần sầu, đúng cái ý của Brodsky, với bậc đại thi sĩ, đọc thơ của họ, là biết liền, thuộc vào thời nào trong đời của họ. Khác hẳn thơ lũ chó, hà, hà!
Thơ, văn như kít mà cứ làm hoài, in hoài!
Tập này, Gấu chơi sạch rồi, có bạn nào ở trong nước, tính in thơ Simic, thì
ới 1 tiếng. Bịa ra 1 cái nick, như tên khốn Lăng Băm đã từng làm, là qua mặt nhà nước liền tù tì.
Vả chăng thơ thì vốn khinh bỉ
chính trị, thời đại, đúng ý Borges, nên cho nghệ thuật thoát ra khỏi thời gian, dù thời gian có năn nỉ cỡ nào.


Thơ Mỗi Ngày

Charles Simic

HISTORY

Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,

Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.

What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.
*

Chuyện
Chuyện đời chúng ta, hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào

Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may

Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là...  chuyện

Note: GCC dùng Ipod chôm bài thơ trên, tính không mua. nhưng lật lật, thấy được quá, bèn...

Fall 2016    

Seeing Things
    I came here in my youth,
    A wind toy on a string.
    Saw a street in hell and one in paradise.
    Saw a room with a light in it so ailing
    It could’ve been leaning on a cane.
    Saw an old man in a tailor shop
    Kneel before a bride with pins between his lips.
    Saw the President swear on the Bible
    while snow fell around him.
    Saw a pair of lovers kiss in an empty church
    And a naked man run out of a building
    waving a gun and sobbing.
    Saw kids wearing Halloween masks
    Jump from one roof to another at sunset.
    Saw a van full of stray dogs look back at me.
    Saw a homeless woman berating God
    And a blind man with a guitar singing:
    “Oh Lord remember me,
    When these chains are broken set my body free.”

    —Charles Simic
    Charles Simic has been Poet Laureate of the United States. His most recent books are The Lunatic (poetry) and The Life of Images (prose).


Note: Hai bài thơ mới nhất của Charles Simic.
 

Mit Critic
Thời sự

"Nái xe ở VN":

Bốn bánh, tốt.
Hai bánh, tốt hơn nhiều

Four wheels good, two wheels better
Driving in Vietnam is becoming even more of a nightmare
A proliferation of cars threatens to clog the country’s big cities


Sách & Báo Mới

*

Thịt [tươi, sống]
Every man must descend into the flesh to
meet mankind.
Mọi thằng đàn ông đều phải lặn
vô đó, để gặp...  Chúa
[Đó: Nơi chốn âm u và ẩm ướt, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo, nơi Thượng Đế thường xuyên ẩn nấp...]

-G.K Chesterton, 1910

*

Study of Flesh and Gold, by William Merritt Chase 1888

Vàng [Gold] bay mấy lá
năm hồ hết
Hờ hững ai xui Thiếp [Flesh] phụ Chàng
!

Imaginary Beings Book

The Sphinx

The Sphinx found on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus, to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent lion with the head of a man; it is believed to represent the authority of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian animals, but the only description he offers is that it has "brown hair and two mammae on the breast."
    The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman, the wings of a bird, and the body and legs of a lion. Others give it the body of a dog and the tail of a serpent. Legend recounts that it devastated the countryside of Thebes by demanding that travelers on the roads solve riddles that it put to them (it had a human voice); it devoured those who could not answer. This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker it is?" (1)
    Oedipus answered that it was man, who crawls on four legs as a child, walks upon two legs as a man, and leans upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
    In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation, which might complement the traditional one. The answer to the riddle, according to De Quincey, is less man in general than Oedipus himself, a helpless orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone in his blind and hopeless old age.

(1)
This is apparently the oldest version of the riddle. The years have added the metaphor of the life of man as a single day, so that we now know the following version of it: "What animal walks on four legs in the morning, two legs at midday, and three in the evening?" 

Đọc/Viết mỗi ngày

*

Carnet de lecture

par Enrique Vila-Matas

ÉCRIRE POUR DISPARAITRE

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur

Que l'histoire de la subjectivité en Occident ait toujours été la chronique d'une disparition annoncée, d'une disparition qui n'en finit pas de se produire, semble se confirmer définitivement. Pour l'heure, il ne s' agit que d'une chronique qui va de Montaigne a Blanchot, sans que, bien sur, il faille forcément en déduire que cette histoire ne se déroule qu'en France. II n'y a pas longtemps, Jose Luis Pardo disait au sujet des excellents travaux menés par Christa et Peter Burger sur la disparition du sujet : « Sur ce point, l'histoire ne commence pas avec la naissance du sujet ni ne se termine avec sa mort ; c'est l'histoire de la facon dont la tendance du sujet occidental à
s' affirmer soi-même comme fondement le conduit à une étrange volonté d'annihilation de soi, et de la facon dont ces tentatives suicidaires sont, à leur tour, des tentatives d'affirmation du moi.»
Nous sommes done confrontés à 1'histoire d'une disparition ambigue et qui n'en finit pas de se produire. Parce que, en ce bas monde, personne n'a encore disparu et, en même temps, tout le monde l'a fait. Le premier a s'en aller fut Dieu, joyeusement enterré par Nietzsche. Pourtant il est bien là, tout a fait vivant, remuant la queue, ranimant le feu de la Maison Blanche. Quant à l'homme, on a dit de lui qu'il embolterait le pas à Dieu et que lui aussi s'effacerait, on a annoncé amaintes et maintes reprises «1a mort du sujet », il n'êmpeche qu'aujourd'hui, l'histoire des lettres occidentales, la passion de disparaitre, se produit à l'intérieur du sujet en même temps que ses plus retentissantes manifestations d' affirmation. Écrire pour disparaitre, dirait Blanchot, qui est celui qui a réflechi à ce problerne jusqu'au vertige ; il s' est promné avec l' écriture de la disparition à l'extrême bord de l'abime, conscient que tout, absolument tout, s'effacera. Lui-même s'effaca, disparut des accessoires actuels du monde littéraire et fut conscient de l'horreur d' écrire pour être photographié. Quoique, comme dit Antoni Mora, « affirmer spontanément que Blanchot fut un écrivain secret suffit à compromettre cette hypothèse ».Nous sommes confrontés à ce secret discutable et bruyant qui dit que «d'abord nous pensons, ensuite nous existons», et qui aurait fait rire Montaigne avec compassion. Montaigne consacra sa vie à l'interminable processus de l'acquisition de l'expérience dans son propre moi, tandis que Descartes découvrit dans le moi abstrait, universel, le fondement d'un savoir sur. Tout s'effacera, même ce savoir, conduit jusqu'à ses demières extrémittés par Blanchot avec une phrase lapidaire qui, elle aussi, s'effacera: «Je suis, je suis seulement parce que j'ai fait du néant mon pouvoir, parce que je puis ne pas être (1), » Nous en arrivons ainsi à L'Avventura, le film d'Antoniont qui, it y a deux mois et avec tous les honneurs (honneurs qui, eux aussi, vont devoir s'effacer), réapparut en France en DVD aux Editions Montparnasse, un film qui illustre magistralement - il s'agit d'une oeuvre essentielle de l'art contemporain -la disparition d'un personnage principal du récit qui nous a été raconté jusque-là. L'Avventura relate l'histoire de jeunes amis qui, naviguant dans les Iles Éoliennes, voient disparaitre l'un des leurs sur le ré
cif de Lisca Blanca. Au fur et à mesure qu'avance la recherche d'Anna, la disparue, on se rend compte que ce n'est pas exactement la disparition de la jeune fille qui compte le plus, mais la sensation de vide, de hasard et d'errance qui tire les fils de la vie de quelques personnages en train de chercher la disparue et qui, en realité, se cherchent eux-mêmes, tout comrne ils tentent de trouver le Dieu que Nietzsche n'avait pas réussi à connaitre. Pour ma part, it me semble que dans L'Avventura résonnent comme jamais n'ont résonné les mots de Blanchot, l'héritier de Montaigne, quand il nous dit que l’oeuvre écrite produit et manifeste l'existence de l'écrivain, mais que, finie, elle ne témoigne plus que de sa dissolution, de sa disparition, de sa défection et, pour le dire sans ménagernent, de sa mort dont, par ailleurs, il ne reste jamais de preuve définitive .•

Traduit de l'espagnol par Andre Gabastou

(l) L'Espace littéraire. Maurice Blanchot, éd. Gallimard, col. Polio essais, p. 215.

Bốc phét mà phán, thì cả 1 bài viết thần sầu trên đây, chỉ để vinh danh, chỉ 1 câu văn của GCC:

Viết, một cách nào đó, là....  chết:

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur: một khi hoàn tất, tác phẩm chứng kiến tác giả của nó tan rã ra!

 
Lần Cuối Sài Gòn

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".

Một tiệm sách có tấm bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá khứ, vừa làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi thường đứng tỳ tay nhìn xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ cô bé trở về nhà trên đường đón em học trường mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng. Ngay ngã tư có tiệm Thanh Xuân, nơi hân hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học bạ, nhờ vậy tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được họa sĩ Ngọc Dũng thương tình chuyển thành phác họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ ba tháng hè kéo nhau tới nhà anh T. ăn bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những buổi chiều hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo dài...

Khi gặp lại, cô bé đã đậu tú tài phần một, được ông bố khắc nghiệt cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi theo chuyến xe đò sớm nhất vượt quãng đường mấy trăm cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ hai đi làm, trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà phê Tùng, tiếng hát Sylvie Vartan, "J'attendrai que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé xuất hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng xa gần giữa vườn thông, trước ống kính máy chụp hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng sở. Khi đó tuy ông Diệm không còn, nhưng Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh trừng địa chủ nên bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.

Note: Truyện ngắn này, sáng tác những ngày ở trại tị nạn Thái Lan.
Gửi đăng trên tờ Làng Văn ở Toronto.
Cô bạn có đọc, như sau đó cho biết, và nói, tôi cứ nghĩ là anh ở Sài Gòn, viết, gởi ra hải ngoại, đăng!


Larry Burrows

In 1997 Horst Faas and Tim Page published Requiem, a homage to the 135 photographers who died while covering the wars in Indochina and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking. Vietnam, a more extensive selection of his work, enables us to see his achievement more extensively and to define it more clearly.
    Burrows was born in London in 1926. He left school at sixteen and got a job in Life magazine's London bureau, where he printed thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent career. Capa practically invented the genre of combat photography and defined the standards by which it would be judged. If your- pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens . . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned, Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It is possible to detect these qualities in the formal elegance of the work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong, technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the camera recording it all had remained absolutely steady
    This unflinching quality is seen to dramatic effect in a black-and- white' photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course of what was expected to be a routine mission the squad comes under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time they are airborne again two badly wounded men are sprawled on the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22. But what makes them into a perfect story is the shot of Farley back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of a dozen photographs.
    That was the luxury of working for Life: an absence of deadlines and the freedom to construct a narrative around photographs rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows used these freedoms to similar effect in the color sequence on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous image of the wounded black sergeant apparently reaching towards his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat. But it is also a classic Life-like image in that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened) and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence, an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering and tenderness between races) which might not : true at all. What we have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability: not the creation of a myth but its depiction.
    It would be a mistake, therefore, to see images like this as proof the photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later, in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he had so often pictured: a sign of how the gap between photographer and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught. Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable, which is slightly odd given that the photo is so like one by him, thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer, Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since the two photographers died together on that helicopter flight on the Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance, crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
    This is not to diminish Burrows' individual talent or achievement. It is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's work from another, except insofar as he or she has monopolized a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting the same subject. Similarly, Burrows has always been praised for his humanity and compassion when, if you think about it, what would really set a photographer apart would be the ability to photograph injury, suffering and death with a lack of compassion, even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer less because of what distinguishes him as an artist than because of what he has in common with his colleagues and subjects. And I think that those trademark spectacles of his enable us to view his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate: whether to take photographs of the injured or to try to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded men being helped by their comrades, even when they were themselves wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking at photos like this it is striking how often one or more of the people doing the helping are wearing spectacles like Burrows'. Maybe it's just a coincidence (though that in itself is almost meaningless in a medium that is about visual coincidences) but it is difficult not to regard these bespectacled helpers as the active representatives of Burrows's own seared conviction: that showing the wound was also a way of tending to it.

2002

* Actually, they are even more similar than I thought: although Jones Griffiths' image is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot in color.

Note: Kinh Cầu, trước Tin Văn có post, lấy từ trang báo điện tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng cấm luôn.
Nghe nói, nó được về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên VC.
Cũng được.

Tin Văn post bài này, nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần gửi gấp.

L' Appel Du Mort

Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion Prague 68”

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

*

Vào ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..  hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!

Mùa Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.

Tôi rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế? 
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã từng nghe được.

-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.


My Old Saigon

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157665925001473

*

Tôi viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn. 

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.


* *


*

Note: Gấu viết truyện ngắn “Những Ngày Ở Saigon” đúng thời gian nằm dưỡng thương do xực hai trái mìn Claymore của VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Do làm cho UPI nên dưỡng thương ngay tại  Đài Liên Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng.
Nhân Trần Công Quốc, 1 trong Thất Hiền đưa vợ đi làm [bà vợ là nữ điện thoại viên ở Đài] bèn nhờ anh đưa bản thảo cho ông anh TTT, khi ghé nhà thăm bà cụ. Ông anh đăng liền trên Nghệ Thuật số 9, và gọi điện thoại, nhắn, khi nào hết dưỡng thương thì xuống tòa soạn lãnh tiền nhuận bút.
Gấu vào làng văn như thế đó.
Viết cho Văn, là do gặp NDT tại tiệm phở số 44 PDP, dưới chân Đài, phía bên kia Đài Phát Thanh Sài Gòn. Anh đến bàn, tự giới thiệu, và đề nghị viết cho Văn. Truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, là Thời Gian, 1 trong Tứ Tấu Khúc. Bà vợ NDT là người đầu tiên đọc nó, trong dạng bản thảo. Lần gặp đầu tiên, khi NDT đưa tới nhà giới thiệu [nhà anh ở ngay dưới chân Đài Liên Lạc VTD, trong 1 chung cư thuộc Bưu Điện, khu Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao], bà nói, anh đúng là văn sĩ mê gái!



















Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây