SN_GCC_2016
1
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ.
ROSE
Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.
[Norman Thomas di Giovanni]
J.L. Borges
Bông Hồng
http://tanvien.net/new_daily_poetry/9.html
Bồng hồng không tàn
phai, vượt quá thơ của tôi
Bông
hồng - nở trọn, thơm ngát –
Bông
hồng, từ cánh vườn đen, nơi sâu thẳm của đêm
Bồng
hồng của bất cứ vuờn, bất cứ đêm
Bồng
hồng lại sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro
than tinh khiết, giản dị.
Bông
hồng của những người Ba Tư, và của Ariosto,
Bông
hồng luôn luôn bằng chính nó
Bông
hồng luôn luôn là bông hồng của những bông
hồng
Bông
hoa trẻ măng, của tình yêu Platonic - chiêm ngưỡng và
kính trọng -
Bông
hồng mù, cháy bỏng vượt quá thơ của tôi
Bông
hồng không làm sao nắm bắt được.
Thơ Mỗi Ngày
Away from Dogma
I was prevented by a sort of shame from going into churches ...
Nevertheless, I had three contacts with Catholicism that really counted.
-SIMONE WElL
1. In Portugal
One night in Portugal, alone in a forlorn
village at twilight, escaping her parents,
she saw a full moon baptized on the water
and the infallible heavens stained with clouds.
Vespers at eventide. A ragged procession
of fishermen's wives moving down to the sea,
carrying candles onto the boats, and singing
hymns of heartrending sadness. She thought:
this world is a smudged blue village
at sundown, the happenstance of stumbling
into the sixth canonical hour, discovering
the tawny sails of evening, the afflicted
religion of slaves. She thought: I am
one of those slaves, but I will not kneel
before Him, at least not now, not with
these tormented limbs that torment me still.
God is not manifest in this dusky light
and humiliated flesh: He is not among us.
But still the faith of the fishermen's wives
lifted her toward them, and she thought:
this life is a grave, mysterious moment
of hearing voices by the water and seeing
olive trees stretching out in the dirt,
of accepting the heavens cracked with rain.
The Poet at Seven
He could be any seven-year-old on
the lawn,
holding a baseball in his hand, ready to throw.
He has the middle-class innocence of an American,
except for his blunt features and dark skin
that mark him as a Palestinian or a Jew,
his forehead furrowed like a question,
his concentration camp eyes, nervous, grim,
and too intense. He has the typical
blood of the exile, the refugee, the victim.
Look at him looking at the catcher for a slgn-
so violent and competitive, so unexceptional,
except for an ancestral lamentation,
a shadowy, grief-stricken need for freedom
laboring to express itself through him.
Thi sĩ lúc lên bảy
Chú
có thể là bất cứ đứa bảy tuổi
Cầm trái banh trên bãi, sẵn sàng ném
Chú có cái vẻ ngây thơ, thuộc tầng lớp
trung lưu, Mẽo/
Ngoại trừ những nét, vẻ , có vẻ ngổ ngáo, và
da đen đen
Cho thấy, có thể chú gốc người Palestine, hay Do Thái
Trán nhăn nhăn như hằn một câu hỏi
Cặp mắt chú, đúng thứ đã từng ở trại tập trung,
cáu kỉnh, bồn chồn, dữ dằn
Rất ư là căng thẳng
Đúng típ máu lưu vong, tị nạn, nạn nhân
Hãy nhìn chú, cái gì gì
bắt trẻ đồng xanh, như là 1 ký hiệu
Ôi chao, sao mà hung dữ đến như thế, như muốn choảng
nhau tới nơi,
Sao mà không thể chê trách được 1 chút
nào như thế
Ngoại trừ cái nét than van, rầu rĩ, có từ tổ
tiên ngàn đời của chú
Một nhu cầu, đòi hỏi, mờ ảo, như bị xâu xé bởi
nỗi đau, ta cần tự do
Một đòi hỏi tự do, tự nó kiếm đường, tự nó lao động cật
lực, để diễn tả
Qua chú bé.
Note: Bài thơ quả là 1 phản bác cuốn Kẻ Phản
Thùng, của VTN, Mít gốc Ngụy, của 1 thi sĩ Mẽo, thứ chính cống
Bà Lang Trọc!
Krakow, Six A.M.
-For Adam Zagajewski
I sit in a
corner of the town square
and let the ancient city move through me.
I sip a cup of coffee, write a little,
and watch an old woman sweeping the stairs.
Poland is waking up now: blackbirds patrol
the cobblestones, nuns rush by in habits,
and the clock tower strikes six times.
Day breaks into the night's reverie.
The morning is as fresh and clean
as a butcher's apron hanging in a shop.
Now it is pressed and white, but soon
it will be spotted with blood.
Europe is waking up, but America
is going to sleep, a gangly teenager
sprawled out on a comfortable bed.
He has large hands and feet
and his dreams are innocent and bloodthirsty.
I want to throw a blanket over his shoulders
and tuck him in again, like a child,
now that his sleep is no longer untroubled.
I'm alone here in the Old World
where poetry matters, old hatreds seethe,
and history wears a crown of thorns.
Fresh bread wafts from the ovens
and daily life follows its own inexorable
course, like a drunk weaving slowly
across a courtyard, or a Dutch maid
throwing open the heavy shutters.
I suppose there's always a shopgirl
stationed in the doorway, a beggar taking up
his corner post, and newspapers fluttering
from store to store with bad news.
Poetry, too, seeks a place in the world-
feasting on darkness but needing light,
taking confession, listening for bells,
for the first strains of music in a town square.
Europe is going to work now-
look at those two businessmen hurrying
past the statue of the national bard-
as her younger brother sleeps
on the other side of the ocean,
innocent and violent, dreaming of glory.
Krakow, 6 A.M.
For Adam Zagajewski
Tôi
ngồi ở một góc quảng trường
Và mặc kệ thành phố cổ chuyển động qua tôi
Tôi chơi 1 ngụm cà phê, viết tí tí
Và theo dõi 1 bà xụt xùi nơi cầu thang
Ba Lan lúc này thức giấc:
chim hét tuần tra sỏi đường, nữ tu vội vã trong những
bộ đồ tu hành
Và đồng hồ thành phố điểm sáu tiếng
Ngày giẫm vào cơn mơ màng của đêm
Buổi sáng tươi mát sạch, như chiếc tạp dề của anh hàng
thịt treo trong tiệm
Vào lúc này, nó phẳng phiu, trắng tinh
Nhưng chẳng mấy chốc lấm tấm máu
Âu Châu thức giấc nhưng Mỹ Châu đi ngủ
Một cậu choai choai cao gầy
Xoải người trên cái giuờng thoải mái
Tay chân cu cậu to lớn làm sao
Và những giấc mơ của cậu ngây thơ, thèm máu
thế nào
Tôi muốn tung 1 chiếc mền lên vai cậu
Và ấp ủ cậu, như 1 đứa bé
Lúc này giấc ngủ của cậu bèn êm ru bà
rù
Tôi, ở đây, một mình, nơi Cựu Thế Giới
Nơi thơ “gây chuyện”, hận thù cũ sôi sục
Và lịch sử đeo vào đầu chiếc vương miện gai
Thoáng mùi bánh mì mới từ lò nướng
Và cuộc đời ngày lại ngày cứ thế trôi
trong cái dửng dưng, vô cảm, đếch thèm động lòng
của riêng nó
Như 1 tên say lừ khừ đi qua cái sân
Hay người tớ gái Hà Lan mở những cánh cửa nặng
nề
Tôi cứ giả dụ luôn có 1 cô gái bán
hàng đứng ở
lối ra vô
Một người ăn xin tới giờ lên gác
Nghĩa là ngồi vô chỗ ngồi hàng ngày của
anh ta
Ở 1 góc đường
Hay tờ nhựt trình lượn lờ từ sạp báo này tới
sạp báo tới
Với những tin xấu
Thơ, thì cũng thế
Nó kiếm 1 chỗ trong thế giới
Thỏa thuê thèm thuồng trong bóng tối, nhưng cần
ánh sáng
Đi 1 đường sám hối, thú tội; lắng nghe chuông
gọi hồn ai
Hoặc đơn giản, lắng nghe những chuỗi nhạc đầu tiên ở 1 quảng
trường thành phố
Âu Châu lúc này có công chuyện
để làm nhe,
Nhìn hai đấng thương gia hối hả vượt quá cái
bức tượng của nhà thơ nhà nước
Trong khi thằng em trai của nàng ngủ
Ở phiá bên kia bờ đại dương
Ngủ giấc ngủ ngây thơ, dữ dằn, hung bạo, mơ màng vinh
quang, chiến thắng.
Mit Critic
Ông cũng chả có
công mẹ gì trong cái vụ bà Tám
ló ra ló vào văn chương này cả. Lý
do là trang của ông chỉ một mình ông tự
sướng. Bà Tám thì gửi bài cho nhiều nơi
khác như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán
Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác.
Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu
cùng một lúc, mà ông nào có
phải là nhà phê bình và là
chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông
bảo là ông xúc bà Tám lên.
LB
Tên LB này quả là 1
độc giả hết sức “cần mẫn” của TV.
Trong 1 dịp tự hào về cái
chiều dài 20 năm làm trang TV, Gấu quả có
khoe, đã khám phá ra khá nhiều tác
giả, trong có vị chủ trang blog Bà Tám nói
trên, và Gấu thú thực, rất hãnh diện
về chuyện này.
Nhưng cái sự nổi tiếng của Bà
Tám, không có Gấu ở trỏng.
Thú thực cái trò có
bài đăng búa xua ở những nơi như trên,
chỉ làm bẩn mắt độc giả, vì, vừa mới đọc ở đây,
lại phải đọc ở kia, hay đã khổ, mà dở thì
thực là khốn nạn.
Steiner, trong 1 lần xoa đầu Sartre, lôi
đúng câu mà Gấu trích dẫn, trong
bài viết về LMH, “Bếp Lửa” trong văn chương:
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý
hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản
của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng
(réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào
trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những
nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê
sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với
những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình
yêu."
LMH. Lần đầu tiên vợ chồng Gấu gặp
gỡ gia đình, trong chuyến ngao du Paris cuối thiên
niên, Bà nhắc tới bài biết của Gấu đăng
trên Văn Học, và nói, làm sao mà
ông lại kiếm ra đúng câu văn cháu giấu
thật kỹ ở trong đó, không hề tin rằng có người
tìm ra nó, để mà khen?
Cũng thế, là với Bà Tám.
Câu văn mà Gấu, đọc 1 phát, đúng
là bị chấn động khủng khiếp, nhưng khác câu
của LMH, ai cũng đọc nó, không thể bỏ qua, nhưng thực
sự, chưa đọc:
Trước khi thấy biển tôi thấy cái
nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người
tị nạn.
Bà Tám này, đúng
ra là rất sợ nổi tiếng, theo Gấu.
Có lần chính Bà thú
nhận, tôi sợ đau, nên không dám đụng
vô những chỗ đau.
Và mỗi lần lỡ đụng vô, là
có 1 bản văn thật được!
GCC mới đọc 1 truyện, đúng thứ đó.
Mời bạn nghe truyện ngắn Màu
Mắt Chưa Quên qua giọng đọc của Ngọc Phụng.
Cám ơn chị Ngọc Phụng và Gió O. Nhắn
nhỏ: Truyện hoàn toàn là tưởng tượng.
https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/09/06/mau-mat-chua-quen/
Thời gian viết cho Văn Học
của NMG, Gấu được Thấm Vân gửi cho mấy tác phẩm của
Bà, chắc cũng có ý nhờ đi 1 đường điểm sách.
Thú thực, lúc đó, Gấu không
đọc được, do cái khẩu vị của mình không hợp.
Phải đến những ngày mới đây, tò
mò theo dõi, khi được Bà yêu cầu/ra lệnh,
ta cho phép mi là bạn FB của ta, thì mới nhận
ra cái phần “ngộ nhận” của Gấu về chuyện sex của Thấm Vân:
Tác giả cũng có “giấu”, khi đụng vô nỗi đau này.
Quái “1 phát”, là đây chính
là nội dung “thư toà soạn” của tờ Văn Học Pháp,
Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Lò Thiêu,
lấy từ 1 câu của Melville, “Tôi chọn đừng”.
Đây cũng là câu TTT viết, khi “ngừng
viết”, sau khi ra khỏi Trại Tù VC, qua 1 ấn bản khác
của nó:
Tôi tự hỏi khi nào tôi lại-viết?
Truyện ngắn của HH, theo tôi, đúng là
thứ "tôi chọn đừng", như vậy, khi viết về nỗi đau/hạnh phúc:
Tôi không tiến tới dù chưa có
người đàn ông nào làm tôi cơ thể
thèm muốn đến thế. Tôi nhớ cái mùi đàn
ông của anh đến ngây ngất. Tim tôi vẫn đập rộn
ràng khi nghĩ đến buổi sáng dưới chân cầu. Scott
thích mái tóc dài, dáng dấp nhỏ
nhắn, nước da màu mật của tôi. Anh không ngần ngại
nói với tôi điều này và ngạc nhiên
khi tôi nói thật là tôi vẫn thường mang mặc cảm
xấu xí. Màu da của anh và màu da của tôi
thường làm tôi liên tưởng đến cà phê
sữa và kem vanilla hay con ong bầu đậu trên hoa lan trắng.
Anh thường bảo, “mỗi sáng em phải soi gương và tự bảo mình
là Scott thấy em rất là xinh xắn.” Tôi nói
xa xôi, “quan hệ làm việc không nên để lẫn
tình cảm cá nhân. Những người làm việc chung
dễ ghét nhau vì tranh tài giành chức giành
quyền, tình cảm riêng tư thường bị tổn thương và
chết sớm.” Anh hay nói đùa là tôi là
hiện thân của sắt (thành cầu) và đá (chân
cầu). Anh nói nếu vợ anh làm lương cao hơn, anh tình
nguyện ở nhà nấu cơm và viết văn. “Nếu em trở thành
xếp của tôi, tôi sẵn sàng nâng xếp lên
khỏi đầu bằng hai cánh tay tôi.” Tôi dùng một
ẩn dụ của dân kỹ thuật trả lời, “thép này đã
từng đổ biết bao nhiêu mồ hôi đấy nhé!”
Điều mà tôi muốn nói nhưng giữ
lại lời là, tôi là một phiến đá biết
sầu tư!
Sách
&
Báo
Mới
http://bibliobs.nouvelobs.com/rentree-litteraire/20160824.OBS6805/europe-daech-trump-les-predictions-de-salman-rushdie.html
Số báo này có bài essay của
Bắc Đảo, Smells, Mùi, đọc tuyệt lắm, dù loáng
thoáng, lúc nhặt nó lên, tự nhủ, đọc
bài này, làm mồi, viết về ốc nhồi Bắc Kít,
chắc là đã lắm:
Mùi Bắc Kít, khi bạn xa nó, nhớ nhất,
thèm nhất, là mùi gì?
Với Gấu, là mùi ốc nhồi!
Bắc Đảo viết essay tới lắm. Tin Văn
đã từng giới thiệu, nhưng cuốn essay của ông cũng đi
theo Cô Út làm từ thiện mất rồi.
Về nhà, đọc, thêm được bài essay về Woolf
cũng quá tuyệt, tác giả Margot Livesey: (1)
Nothing Is Simply One Thing
She always had the feeling that it was very,
very dangerous to live even one day.
Mrs Dalloway
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Kafka_Prague.html
Hai
Anh commented on this.
Follow
Hai hôm
trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún
ốc nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình
tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách
khiêm tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi
nhé . Mình cả 10 năm nay không ăn bún ốc
của ai nấu vì không ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà
cho công thức Post lên cho cả nhà tham khảo nhé
. Bạn nào thích nấu thử đi bảo đảm có món
bún ốc thần thánh gia truyền của cô giáo
Thiện ( mẹ mình Hà Nội gốc 8 đời ) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...
Continue Reading
Ui chao, đây là
1 trong những món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất
nhiên là do ngon, nhưng còn do 1 điều gì
khác nữa, đúng không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra
được.
(1)
Có
lần Gấu lèm bèm về cái “viết như không viết”
của Gấu Cái, khác hẳn cái viết cực kỳ khốn khổ của
Gấu, Woolf giải thích, chỉ khi nào viết tới đỉnh thì
mới bật ra được cái viết như không viết.
Nhưng dù Bà viết như thế, theo Gấu, vấn đề vẫn chưa
thông.
Ở đây còn là vấn đề của “thiên tài
của nơi chốn”: Lối viết của Thảo Trần, Cô Tư, Mai Minh, cái
nhịp của nó là từ sông ngòi kênh, rạch…
của Miền Nam:
Here she is, in 1926, in the thick of To the Lighthouse, writing
to Vita.
Style is a very simple matter; it is all rhythm. Once you get
that, you can't use the wrong words ... Now this is very profound, what
rhythm is, and goes far deeper than words. A sight, an emotion, creates
this wave in the mind, long before it makes words to fit it; and in writing
(such is my present belief) one has to recapture this, and set this working
(Which has nothing apparently to do with words) and then, as it breaks
and tumbles in the mind, it makes words to fit it.
Cuốn này, mới mua,
có minh họa, cuốn cũ, Cô Út làm từ thiện!
Fairies
The name of these creatures
is linked to the Latin word faturn, meaning "fate" or "destiny"; with
their magic they intervene in the affairs of men. Some have said that
the Fairies are the most numerous, beautiful, and memorable of the minor
deities. They are not limited to anyone region r time; the ancient
Greeks, the Eskimos, and the American Indians tell stories of heroes
who have won the love of these fantastic creatures. Such adventures are
dangerous, however: once the Fairy's passion is satisfied, it may kill
its lover.
In Ireland and Scotland, Fairies are
said to have underground dwellings where they lock up the men, women,
and children that they kidnap. People believe that the neolithic arrowheads
they dig up in their fields once belonged to the Fairies, and that
these arrowheads possess unfailing medicinal properties.
Fairies like singing and music and the
color green. In the late seventeenth century, a Scottish cleric, one
Reverend Kirk, of Aberfoyle, compiled a treatise titled The Secret
Commonwealth of the Elves, Fairies, and Fauns. In 1815, Sir Walter
Scott had Kirk's manuscript printed. Mr. Kirk was said to have been
carried off by the Fairies because he had revealed their secrets. In
the seas off Italy, there is a Fairy, the Fata Morgana, that weaves mirages
that con- fuse sailors and make them lose their course.
http://www.tanvien.net/Viet/Borges_Imaging_Beings.html
Cuốn sách
những sinh vật tưởng tượng
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like
to get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal
is constantly moving about, the tail is constantly being flung this way
and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which
is flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have
any power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I
have the feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose
could it have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again
waiting calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con
vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét,
giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi thèm được sờ
1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái
cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được
chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng
vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân
hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng
cái mặt không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho
nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm
răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn
này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô
ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần
hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong
nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại
sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính
sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới
khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại
nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
The Bloi and the Morlocks
The hero of the novel The Time Machine, which a young writer Herbert
George Wells published in 1895, travels on a mechanical device into
an unfathomable future. There he finds that mankind has split into two
species: the Eloi, who are frail and defenseless aristocrats living in
idle gardens and feeding on the fruits of the trees; and the Morlocks,
a race of underground proletarians who, after ages of laboring in darkness,
have gone blind, but driven by the force of the past, go on working at
their rusted intricate machinery that produces nothing. Shafts with winding
staircases unite the two worlds. On moonless nights, the Morlocks climb
up out of their caverns and feed on the Eloi.
The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes
back into the present. He brings with him as a solitary token of
his adventure an unknown flower that falls into dust and that will not
blossom on earth until thousands and thousands of years are over.
Nguỵ vs VC
Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy
Thời Gian”, sử dụng cái máy thần sầu du lịch xuyên
qua thời gian tới những miền tương lai không làm sao mà
dò được. Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại -
được chia thành hai, một, gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và
là những nhà trưởng giả, bất lực, vô phương chống
cự, sống trong những khu vườn nhàn nhã, ăn trái cây,
và một, VC, gồm những tên bần cố nông, vô sản,
sống dưới hầm, địa đạo [Củ Chi, thí dụ], và, do bao nhiêu
đời lao động trong bóng tối, trở thành mù, và,
được dẫn dắt bởi sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng,
với sức người sỏi đá cũng thành cơm, cứ thế cứ thế lao động,
để thâu hoạch "chẳng cái gì". Có những cầu
thang nối liền hai thế giới, và vào những đêm không
trăng, VC, từ những hang động, hầm hố, bò lên làm thịt
lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy
đuổi, trốn thoát được, và trở lại thời hiện tại. Anh ta
mang theo cùng với anh, một BHD, như chứng tích của cuộc
phiêu lưu, và vừa trở lại hiện tại, bông hồng bèn
biến thành tro bụi, và, như…. Cô Sáu
trong Tiền Kiếp Của GCC, hàng hàng đời sau, sẽ có
ngày nào đó, bông hồng lại sống lại…
Who knows?
Hà, hà!
Đọc/Viết
mỗi ngày
Báo
#NaUy
#Aftenposten
đã chỉ trích #Facebook
vì đã xóa hình ảnh hậu quả bom napalm ném
xuống #ViệtNam.
vn.sputniknews.com|By Sputnik
Note: Bỏ, đúng.
Chính Kim Phúc là người khiến FB quyết định như
vậy, theo GCC, khi Bà nói, tôi chạy trốn suốt đời, bức
hình đó.
Bức hình đã làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó
rồi. Đã đến lúc giải phóng nó ra khỏi gánh
nặng đó. Trong cuộc chiến Bắc Kít phạm vô vàn
tội ác, đã đến lúc phải khui ra, vì rõ
ràng là hậu quả của những tội ác của chúng là
1 xứ Mít đang đi vào tận thế như hiện nay...
NQT
John Gray
The Dialectical Man
Karl Marx: Greatness and Illusion
By Gareth Stedman Jones
Cái tít ở bìa mới thú: Full Marx
https://literaryreview.co.uk/the-dialectical-man
Tin Văn sẽ dịch/giới thiệu bài
viết này, bonus kỷ niệm thời mới lớn mê Marx. Phải đến khi qua
được trại tị nạn, đọc bài viết của Tolstaya, như đã từng lèm
bèm nhiều lần, Gấu mới hỡi ơi, Bắc Kít chỉ lợi dụng chủ nghĩa
Marx, như “ngọn cờ chính nghĩa”, nhằm che giấu Cái Độc, Cái
Ác tầng tầng lớp lớp, trong suốt 4 ngàn năm sợ đói, sợ
Tẫu của nó
In 1981, Leszek Kolakowski began the introduction to the first volume of
his magisterial trilogy Main Currents of Marxism with the statement ‘Karl
Marx was a German philosopher.’ If we add ‘who lived and worked in the nineteenth
century’, this remains the perfect truism on the subject. The grand intellectual
construction that later came to be known as Marxism has only a tenuous and
oblique connection with Marx’s own efforts to understand and respond to
the events of his time. Episodic and disjointed because of his uncertain
life as a penurious émigré, Marx’s writings never added up
to a unified world-view. Even his largest theoretical claims – those about
capitalism made in The Communist Manifesto (1848), co-authored with Engels,
for example – were reactions to particular historical circumstances. Reading
Marx as the architect of Marxism can only lead to misunderstanding the man
and his thought.
This was the message of Jonathan Sperber’s Karl Marx:
A Nineteenth-Century Life (2013), a methodical demolition of some of the
myths surrounding Marx and his thought. An unfamiliar picture emerges from
Sperber’s well-documented account. At points in the 1840s Marx’s political
views had something in common with those of 20th-century anti-communists.
In 1842 he wrote that as a result of the spread of communist ideas ‘our once
blossoming commercial cities are no longer flourishing’, while in 1848 he
rejected the idea of revolutionary dictatorship by a single class as ‘nonsense’.
Partly as a result of the influence of Engels, Marx has often been seen as
an admirer of Darwin. But in fact Marx disliked Darwin’s theory of natural
selection because it left human progress ‘purely accidental’, preferring
the work of the forgotten French ethnographer Pierre Trémaux, who
argued that racial differences have ‘a natural basis’ in biology and geology
– a common view at the time. Intellectually Marx was a prototypical 19th-century
figure, absorbing from French positivist thinkers the idea that traditional
religions were fading away and industrialism becoming better organised and
ultimately more harmonious. These aspects of his thinking were at odds with
others shaped by Hegelian philosophy and German radical humanism. Rather
than being an exercise in system-building, Marx’s shifting and at times contradictory
theoretical views were closely related to the political struggles in which
he was actively involved.
Gareth Stedman Jones shares with Sperber the objective
of representing Marx as a 19th-century figure and covers much of the same
ground. But the picture of Marx that emerges in Stedman Jones’s rich and
deeply researched book is interestingly different. He is blunter than Sperber
in discussing Marx’s complicated relationship with his Jewish ancestry. According
to Marx, Stedman Jones writes, Judaism ‘despised nature, was uninterested
in art or love except for the financial value they might contain, while
its interest in law was primarily in its circumvention’. Despite the efforts
of his father and brother, Marx ‘unhesitatingly adopted Napoléon’s
secular equation between Judaism and usury. Not only did he attack the supposed
monotheism of the Jew in the most insulting terms derived from Voltaire as
“a polytheism of many needs”, but also went on to attack the Talmud as “the
relation of the world of self-interest to the laws governing that world”.’
Marx’s essay on The Jewish Question (1843–4) contains many such ‘catty anti-Semitic
jibes’.
The most original section of Stedman Jones’s account has to do with Marx’s
view of village communities. Marx is commonly supposed to have thought that
villages embodied an archaic form of life that would have no role in shaping
socialism, and it is true that this view dominates his writings from the
1840s up to the publication of Capital in 1867. Throughout these years Marx
was strongly modernist in his thinking, envisioning socialism as a successor
to capitalism that would be based on the aspirations of the emerging industrial
working class. From 1868 onwards, though, he began to look to traditional
forms of communal agriculture as embodiments of an egalitarian type of community.
From this point of view, the Russian mir – the communal ownership and periodic
redivision of land in the Russian village community – provided an example
of future regeneration by building on survivals from ancient and even primitive
societies. One of the inspirations for socialism came not from visions of
the future but vestiges of the past.
In the case of Russia, this placed Marx close to thinkers
who promoted agrarian populism, such as Alexander Herzen. In a draft of
a letter written in 1881, Marx looked to the Russian peasant commune as
the germ of a post-capitalist economy: ‘if the revolution comes at the opportune
moment, if it concentrates all its forces to allow the rural commune its
full scope, the latter will soon develop as an element of regeneration in
Russian society and an element of superiority over the countries enslaved
by the capitalist system.’ Marx’s social-democratic Russian disciples believed
socialism would only be possible after a longish period of capitalist development,
but the master scornfully repudiated these ‘Russian “Marxists”’ as holding
views ‘diametrically opposed’ to his own. As he saw it, a socialist revolution
was needed before capitalism destroyed the village commune.
Marx’s views on this and many other matters have little
in common with what later came to be understood as ‘Marxism’, but this is
not because Marx’s work was traduced. Through his collaboration with Engels,
Marx was implicated in the spread of a version of his ideas that differed
significantly from his own understanding of them. Financially dependent
on his collaborator, it was difficult for him to be open about the areas
in which the two disagreed. Marx never endorsed Engels’s efforts to meld
socialism with Darwinism, but neither did he ever clearly dissociate himself
from them.
What remains of Marx’s thought is his insight into the
emergence and consequences of a global market, which Stedman Jones summarises
forcefully. Marx, he writes:
was the first to chart the staggering transformation produced in less than
a century by the emergence of a world market and the unleashing of the unparalleled
productive powers of modern industry. He also delineated the endlessly inchoate,
incessantly restless and unfinished character of modern capitalism as a
phenomenon. He emphasized its inherent tendency to invent new needs and
the means to satisfy them, its subversion of all inherited cultural practices
and beliefs, its disregard of all boundaries, whether sacred or secular,
its destabilization of every hallowed hierarchy, whether of ruler and ruled,
man and woman or parent and child, its turning of everything into an object
for sale.
It is a prescient glimpse of our world. But along with
many other thinkers of the 19th century (and the 20th), Marx failed to foresee
how older forms of life would be reinvigorated even as the world was being
transformed. While village life has not been renewed, religion and nationalism
have mutated into new and at times strikingly malignant forms. Capitalism
may be a revolutionary force, as Marx believed. But for that very reason
it cannot help creating powerful forces that resist and sometimes defeat
it.
Stedman Jones describes Marx’s view of the village community
as ‘a nineteenth century phantasm’, and in this he is surely right. There
was no more reason to think a new socialist society would develop from peasant
communes than from the industrial working class. Both visions of a post-capitalist
society were illusions. The strength of Marx’s thought lies in his analysis
of capitalism itself, whose enormous productive and disruptive potential
he understood better than most thinkers in his time or ours.
http://www.magazine-litteraire.com/rencontre/amos-oz-%C2%AB-judas-cru-en-j%C3%A9sus-%C2%BB
Amos Oz: « Judas a cru en Jésus
»
Le
mercredi 7 septembre 2016
Ju
Đà tin vào Chúa
Je
crois aux compromis (…) et le contraire du compromis, ce n’est pas l’idéal,
l’idéalisme, mais c’est le fanatisme et la mort. »
Tôi tin vào thỏa hiệp... và ngược lại thỏa hiệp,
không phải là lý tưởng, mà là cuồng
tín, là cái chết
Thảo nào lũ Mít hải ngoại tên nào cũng
bò về!
Sến chẳng đã từng mắng iêu GCC, sao mi cay đắng hoài
như thế?
For those who have
never experienced defeat, destruction, or exile, there
is an undeniable charm to loss
Với những kẻ chưa từng
kinh nghiệm thất bại, huỷ diệt, hay lưu vong, có 1 sự quyến
rũ không thể nào chối cãi được về mất mát.
Lũ Ngụy, chỉ đến khi vô
tù VC, thì mới hiểu được, chúng
đánh mất, làm mất Thiên Đường Miền Nam!
Nostalgie de la boue
La
nostalgie de la boue is alien to history’s
victims.
Nỗi
nhớ bùn thì xa lạ, với những nạn nhân của
lịch sử.
Bếp
lửa trong văn chương ( Nguyễn Quốc Trụ)
V/v Tận thế là đây:
Sartre
(Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính",
coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện
tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller)
sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong
những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những
nghệ sĩ và của những nhà tiên tri:
Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng,
với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng
và tình yêu."
Tôi
đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta
lại được đọc những trang sách tuyệt vời,
về Hà-nội.
Có
thể là do một câu thơ và viễn
ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi.
"Chỉ
thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu
thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây),
không phải chỉ riêng cho Hà-nội.
Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy suốt
cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng,
mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân
tộc ?
Liệu Mít thoát “Tận
Thế Là Đây”?
Một câu
hỏi như thế, vô nghĩa, mà phải đặt
ngược lại:
Chỉ Tận
Thế mới cứu nổi Mít!
Kundera, trong Gặp Gỡ, có
viết về cái gọi là Tận Thế Là Đây,
qua kinh nghiệm nghe nhạc sến, khi đi tù VC, của....
GCC.
The Total Rejection
of Heritage, or Iannis Xenakis (a text published in 1980,
with two interventions from 2008)
1
IT WAS TWO OR THREE YEARS AFTER
THE RUSSIAN INVA-sion of Czechoslovakia. I fell in love
with the music of Edgard Varese and Iannis Xenakis.
I wonder why.
Out of avant-garde snobbery? In the solitary life I was
living at the time, snobbery would have made no sense. Out
of an expert's interest? I might, with some effort, understand
a piece by Bach, but faced with Xenakis's music I was completely
unprepared, unschooled, uninitiated, an utterly naive listener.
And yet I felt genuine pleasure at hearing his works, and I would
listen avidly. I needed them: they brought me some strange consolation.
Yes, the word
slipped out: I found consolation in Xenakis's music.
I learned to love it during the darkest time of my life, and
that of my homeland.
But why did
I seek consolation in Xenakis rather than in the patriotic
music of Smetana, where I could have found the illusion of
perennial life for my country, which had just gotten a death sentence?
The disenchantment
brought on by the catastrophe that had struck my country
(a catastrophe whose consequences will be felt for centuries)
was not only about political events: the disenchantment was
about man as man, man with his cruelty but also with the alibi he
uses to disguise that cruelty, man always quick to justify his
barbarity by his feelings. I was seeing that sentimental agitation
(in private life as well as public) is not antithetical to brutality,
but rather, merges with it, is part and parcel of it ....
(1980)
KUNDERA: ENCOUNTER
Note: Bài này tuyệt
lắm. Đúng là thứ kinh nghiệm GCC đã từng
trải qua khi đi tù VC, thay vì 10 ngày lương
thực, ăn hết là được về đời, thì là 1 nhúm
nhạc sến, qua suốt 9 cửa địa ngục.
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/09/nhung-tro-lai.html#more
càng ngày, tôi càng thấy
thực sự phải coi Phan Khôi là "âm chuẩn" của
một thời: đúng thế, Phạm Quỳnh có tư cách học
trò chứ không có tư cách học giả, cái
học của Phạm Quỳnh là cái học kiểu Trương
Vĩnh Ký, mà ta có thể coi là một truyền
thống không nhỏ của nửa cuối thế kỷ 19 và đoạn đầu thế
kỷ 20 ở Việt Nam (về Trương Vĩnh Ký, ta sẽ nói kỹ sau);
trong khi, Phan Khôi và các trí thức thế
hệ tiếp theo coi trọng thực học, và nhất là tác
động của học thuật để làm thay đổi xã hội
GCC nghĩ, ngược lại.
Ở đây, là cuộc đối đầu lớn hơn nhiều, giữa,
Cái Ác Nazi mà đỉnh cao của nó là
Lò Thiêu, và, nhờ sống sót nó, nên
Âu Châu, trong có Tẩy, trị được nó, nhờ vậy thoát Quỉ Đỏ, và Cái Ác Á Châu, Cái Ác
Bắc Kít, cho đến bây giờ, chưa thuốc chủng, và
chỉ Tận Thế mới cứu nổi xứ Mít, là vậy.
Ở đây, còn vọng lên câu, Đông
là Đông, Tây là Tây.
Cái đám Bắc Kít đã từng mê
Liên Xô, cho đến giờ này vẫn chửi Tây Phương,
là cũng từ những mầm ác này mà ra.
GCC đã từng lèm bèm, Xứ Mít chết, đúng vào
lúc Bác Hồ trốn thoát Cớm Tẩy, ở Paris, qua được
Moscow, thoát cú thanh trừng của Xì và được
phái về Trung Quốc hoạt động trong cái gọi Đông
Phương Vụ cái con mẹ gì đó, tháng tháng
lãnh lương Cớm Đệ Tam, tối ngủ Xẩm Tầu Tăng Tuyết Nghi [?]....
Đừng nghĩ đây là do GCC phịa ra, mà đúng
là lịch sử nó phải như thế.
Cuốn Ngôi Mộ của Kis viết về cú này.
Bóng Đêm của Koestler cũng vậy, bởi thế mà GCC tin rằng
chỉ có giả tưởng mới cưu mang được sự thực xứ Mít.
Đâu có phải "vô tư", vào những giây phút
cuối cùng của đời mình, bị VC dùng đá đập cho
tới chết, vì tiếc 1 viên đạn, cho tên Việt Gian,
Phạm Quỳnh vẫn phán, không có thằng Tẩy, là thằng Mít chết.
Ở Phan Khôi, vẫn có cái tiểu khí
- vết thương hình chữ S - mà sau này,VP, có.
Khi GCC gọi VP nhà văn Bình Định, Viên
Linh thú quá, phán, đúng quá,
là vậy.
Ở Phạm
Quỳnh không có nỗi đau hình chữ S.
Bài thơ của Szymborska dưới đây, đúng
là bông hoa tưởng niệm PQ, khi ông bị VC dùng
đá đập, cho tới chết:
Khi một người nào đó
đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn
ra từ mọi cú liếm.
GREEK STATUE
With the help of people and
the other elements
time hasn't done a
bad job on it.
It first removed the
nose, then the genitalia,
next, one by one,
the toes and fingers,
over the years the
arms, one after the other,
the left thigh, the
right,
the shoulders, hips,
head, and buttocks,
and whatever dropped
off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel,
to sand.
When someone living dies that
way
blood flows at every
blow.
But marble statues die white
and not always completely.
From the one under discussion
only the torso lingers
and it's like a breath
held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and
gravity
of what was lost.
And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits
some applause here,
since it stopped work
early,
and left some for
later.
Wislawa Szymborska: Here
Tượng Hy Lạp
Với sự giúp đỡ của con
người và những yếu tố khác
Thời gian đã
làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên,
nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái
một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng,
những cánh tay, cái này tới cái
kia
Bắp đùi trái,
phải
Vai, hông, đầu,
mông đít,
Và bất cứ cái
gì rời ra,
là kể từ đó,
trở thành miểng,
thành sỏi,
đá, thành cát.
Khi một người nào đó
đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn
ra từ mọi cú liếm.
Nhưng tượng đá chết trắng
Và không
phải luôn luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang được
bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng
bán thân
Cứ như thể, mọi hơi
thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ
bây giờ
Nó phải níu
vào chính nó
tất cả ân sủng
và trọng lực (1)
cái phần đã
bị liếm mất
Và nó làm
được
Kể từ giờ này
nó làm được
Và nó
chói lòa,
Nó chói
loà, và nó kéo dài,
nó tồn tại –
Thời gian, như thế,
thì cũng đáng để mà vỗ tay khen
1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà
nó ngưng cái việc liếm, để mai tính,
mốt tính, cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng
hai từ này của Simone Weil.
Bà này,
“bạn quí” của Milosz, mà Milosz thì
là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá
tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là
vậy.
Không làm
sao mà nói lên được cái
ý ân sủng và trọng lực!
NQT
Hội chứng Bartleby
Tính bỏ dziết, Melville bèn
tưởng tượng ra 1 anh chàng Bartleby, chấp nhận thách đố im
lặng và hư vô, bằng cách chui vô 1 căn phòng
vắng mặt với mọi người và với chính mình. Tôi
chọn đừng làm bất cứ cái gì
HERMAN MELVILLE: Le maudit,
tên trời đánh thánh vật!
Đừng, đừng, chẳng bõ,
chẳng đáng:
Un lunatique du Non
Pour Enrique Vila-Matas, le
modèle du personnage de Bartleby serait à chercher du côté
de son créateur lui-même. II voit en Melville un “lunatique
du non”, qui dans sa vie comme dans son oeuvre, préférait ne
pas.
Herman Melville's reticent scrivener
is the ideal symbol for this new wave of passive protests as well as for
the original occupy Gezi events
Đọc, thì bèn nhớ tới bài viết của Enrique Vila-Matas,
trong số ML, về Melville. TV sẽ chuyển ngữ bài này. Tuyệt
lắm. Nó làm GCC nhớ tới em Oanh, cô học trò
của Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác,
khi em đề nghị, bỏ hết, lẽo đẽo theo Thầy:
Đừng đừng, chẳng bõ,
chẳng đáng!
Liệu Lỗ Bình Sơn,
đã có lần trả lời Đảo Xa, như trên?
Nhân viết về le Carré,
có 1 cuốn phim mới ra lò, phỏng theo tiểu thuyết của
ông, rất ăn khách, The Night Manager. GCC đang
coi, OK lắm!
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|