Album
Đầu năm khai bút bằng 1 bài
dịch Milosz, Sự quan trọng của Simone Weil, trong To Begin Where
I Am, Selected essays. Trên Tin Văn đã có bài
Bad Friday, giờ thêm bài này.
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
FRANCE offered a rare gift to the contemporary world in the person of
Simone Weil, The appearance of such a writer in the twentieth century was
against all the rules of probability, yet improbable things do happen.
The life of Simone Weil was short. Born in 1909 in
Paris, she died in England in 1943 at the age of thirty-four. None of her
books appeared during her own lifetime. Since the end of the war her scattered
articles and her manuscripts-diaries, essays-have been published and translated
into many languages. Her work has found admirers all over the world, yet
because of its austerity it attracts only a limited number of readers in every
country. I hope my presentation will be useful to those who have never heard
of her.
Perhaps we live in an age that is atheological only
in appearance. Millions were killed during the First World War, millions
killed or tortured to death in Russia during and after the revolution: and
countless victims of Nazism and the Second World War. All this had to have
a strong impact upon European thinking. And it seems to me that European
thinking has been circling around one problem so old that many people are
ashamed to name it. It happens sometimes that old enigmas of mankind are
kept dormant or veiled for several generations, then recover their vitality
and are formulated in a new language. And the problem is: Who can justify
the suffering of the innocent? Albert Camus, in The Plague, took
up the subject already treated in the Book of Job. Should we return
our ticket like Ivan Karamazov because the tear of a child is enough to tip
the scale? Should we rebel? Against whom? Can God exist if He is responsible,
if He allows what our values condemn as a monstrosity? Camus said no. We
are alone in the universe; our human fate is to hurl an eternal defiance at
blind inhuman forces, without the comfort of having an ally somewhere, without
any metaphysical foundation.
But perhaps if not God, there is a goddess who walks
through battlefields and concentration camps, penetrates prisons, gathers
every drop of blood, every curse? She knows that those who complain simply
do not understand. Everything is counted, everything is an unavoidable
part of the pangs of birth and will be recompensed. Man will become a God
for man. On the road toward that accomplishment he has to pass through Calvary.
The goddess's name is pronounced with trembling in our age: she is History.
Leszek Kolakowski, a Marxist professor of philosophy
in Warsaw,* states bluntly that all the structures of modern philosophy,
including Marxist philosophy, have been elaborated in the Middle Ages by
theologians and that an attentive observer can distinguish old quarrels under
new formulations. He points out that History, for instance, is being discussed
by Marxists in the terms of theodicy-justification of God.
Irony would be out of place here. The question of Providence, or of
lack of Providence, can also be presented in another way. Is there any
immanent force located in le devenir, in what is in the state of becoming,
a force that pulls mankind up toward perfec-
• At the time of this writing
Bad Friday
For Weil, the "crimes" of colonialism
related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation
of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical
or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked
by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble.
She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's
being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality"
theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take
seriously, existentially, the question of the significance of human life
and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or
futility of political action and social design is not merely to risk personal
health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The
two individuals who have in our time not only taught or written or generated
conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them,
in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein
and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.
Đối với Simone Weil, những “tội ác”
của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu tới
băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn
chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn
– những lập ngôn này dù
được trích ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì
đều như mũi dao - cắt tới tim vấn nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng
đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn bước trước mâu
thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn
là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người,
và, kiếp người là một cõi xé lòng, và,
đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến
như thế, thì, những cuộc thảo luận thần học, những định đề triết
học chỉ là ba trò tầm phào giữa đám khoa bảng.
Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn,
câu hỏi về ý nghĩa đời người và cái chết trên
hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi
hỏi về đáng hay không đáng, một hành động chính
trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn đòi hỏi
như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân,
cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà nó
còn gây họa cho chính cái gọi là lý
lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này
không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang
tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự
trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo
của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó
là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những
khoảng tối tù mù như nhau.
But
no analogy suffices. Weil represents what modern physics might call a "singularity."
Some of her finest work-on Descartes, on the theory and practice of Marxism-belongs
to normal philosophic and intellectual argument. She wrestles with the
mystery of God's love as do the saints and doctors of the Church and the
visionaries of the Middle Ages and the Baroque. Yet within a hair's breadth,
as it were, of her ardent analytic rectitude, of her logical scruples and
compassionate questioning, blow those "great winds from under the earth"
evoked by Franz Kafka (another cousin in spirit). Some vein of madness
is tapped.
Nhưng
tương tự chỉ nói lên một phần. Weil đại diện điều mà
những nhà vật lý học hiện đại gọi là ‘đặc dị’. Một
vài công trình tuyệt hảo của bà - về Descartes,
về lý thuyết và thực hành của chủ nghĩa Marx – là
những đề tài mà giới trí thức và triết học thường
xuyên tranh luận. Bà vật lộn với sự bí ẩn của tình
yêu của Chúa như các vì thánh, các
Tổ Phụ Giáo Hội, các bậc thấu thị thời Trung Cổ và Baroque.
Tuy nhiên, chỉ trong một sát na – như thế đấy - của sự ngay
thẳng ác liệt, của sự đắn đo mang tính lô-gíc
và sự tra vấn đầy lòng trắc ẩn, bùng lên những
“trận gió lớn đến từ bên dưới lòng đất”, những trận gió
đã từng được Kafka viện dẫn tới (đây cũng là một đấng
tinh anh, một bà con khác của bà). Một mạch khùng
điên cũng được khơi ra.
The evidence patiently probed in
Nevin's unsettling book points toward a twist of feeling at once sharp and
deep-buried. In some way, this "chosen outsider" was jealous of God, of His
infinite love, which she acknowledged mentally but could not bring to bear
on the image she construed of her own identity. Jealous - as, perhaps, were
St. Teresa of Avila and St. John of the Cross
- of the agonies God had borne in the person of His martyred son. Black waters.
To which it may be that the least inadequate response comes from a language
at once desolate and sardonic - from the Yiddish, which she ignored or might
have despised. Simone Weil was, undoubtedly, the first woman among philosophers.
She was also a transcendent schlemiel.
Bằng chứng được Nevin kiên nhẫn nêu
ra trong cuốn sách đáng ngại của ông [Simone Weil: Portrait of a Self Exiled Jew (North Carolina)],
khiến chúng ta lập tức như bị co thắt lại, bởi một thứ tình
cảm sắc bén, sâu thẳm. Một cách nào đó,
‘kẻ đứng ở bên lề được chọn lựa’ này, thì ghen với
Chúa, ghen với tình yêu vô vàn của Người.
Bà cảm nhận ra được tình yêu vô vàn của
Người, hình ảnh của Người, ở trong tâm khảm của mình,
nhưng không thể đem ra ngoài, dựa vào hình ảnh
đó để mà xây dựng nên bản sắc riêng cho
bà. Ghen – có thể như là Thánh Têrêxa
Đavila và Thánh Gioan Thánh Giá - với những
cơn quằn quại của Người, trong thân xác Đứa Con bị khổ nạn.
Từ đó, ít ra, chúng ta có thể có câu
trả lời, tuy không đầy đủ, đến từ thứ ngôn ngữ sầu não
và nhạo báng - tiếng Do Thái Yiddish, thứ tiếng mà bà không
biết hoặc có thể, coi thường. Simone Weil, chắc chắn, là người
đàn bà đầu tiên giữa các triết gia. Và
bà cũng là người bất hạnh siêu việt.
G. Steiner
Đọc & Dịch Weil
*
Bac Tru,
Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
*
Phúc đáp: Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
One
final legend, and my chronicle
Is finished: the task ordained by God...
Pushkin,
Boris Godunov
Một giai thoại chót, và ký sự của
tôi,
[về những ngày tháng đó], hoàn tất.
Đây là do Ông Trời hành tôi.
D.M.
Thomas viết "Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong tao", "mê" nhất đoạn,
trong lời tựa Solz. mở ra "ẩn dụ" Lò Cải Tạo, hay Gulag:
Vào năm 1949 tôi và vài người bạn vớ được
một ghi chú thật đáng tiền, trong tạp chí Nature, của
Viện Hàn Lâm Khoa Học, về một vụ khai quật một vùng băng
nằm dưới những tầng đáy ngầm của sông Kolyma River. Trong tầng
băng ngầm đó, có một con suối, và trong con suối, họ
khám phá ra một thứ sinh vật tiền sử [a prehistoric fauna]
cách chúng ta chừng hàng chục ngàn năm. Chúng
được bảo quản tuyệt vời đến nỗi, còn tươi rói. Thế là
cả đám người bèn đập bể mảng băng ra, và cứ thế nhai
sống nuốt tươi sinh vật tiền sử đó!
Solz tiếp tục tưởng tượng ra sự kinh ngạc của độc giả tờ tạp chí,
về một thứ sinh vật từ bao nhiêu ngàn năm trước còn
tươi rói, nhưng đồng thời, dúm bạn bè của ông
cùng hiểu ngầm với nhau, về cái ý nghĩa đích
thực và hùng tráng của một 'mẩu tin vô ý
vô tứ như thế', ['thiếu cẩn trọng', chữ của Solz.], ấy là nói,
về phiá 'nhà nước ta'.
Solz. viết, chúng tôi hiểu, liền lập tức, sự thực của câu
chuyện, bởi vì chính chúng tôi, đã từng
là đám người đó. "Chúng tôi, cũng như
thế, cũng thuộc về cái bộ lạc zeks, độc nhất trên mặt
đất này, những con người có thể ăn sống nuốt tươi, sinh vật
tiền sử, với hứng thú, with relish".
Hai Lúa cũng đã từng trải qua kinh nghiệm trên đây
rồi. Những ngày cải tạo. Và cái sinh vật tiền sử kia,
thực sự chỉ là một con tép, tình cờ quơ được trong
khi trầm mình dưới lòng kinh.
Đó là lần đầu, Hai Lúa biết cái ngon, cái
ngọt, cái tươi, cái mát, của một con tép rẫy
lách nhách ở kẽ răng.
Di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn, học hành,
tốt nghiệp, làm việc ngay tại Sài Gòn, chỉ tới một ngày
trầm mình trong một con kinh ta đào đã có nước
chảy qua đó, Hai Lúa mới được thưởng thức một con tép
tươi rói, quẫy ở giữa những cơn đói triền miên...
Bao nhiêu năm trời, Hai Lúa vẫn còn nhớ y nguyên
những ánh mắt thèm thuồng của chúng bạn, và
một thằng trong đó, hét lên:
-Đợp liền nó đi, thằng ngu!
Hoá Thân
Chúc Mừng Năm
Mới
Feb 15 at 3:27 PM
Năm mới chúc cô chú cùng gia quyến
nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và vạn sự như ý
chia. tay
tặng 2 bạn
em. lẫn vào. đám đông
sao anh. tìm ra. được
phi trường. chiều. đưa tiễn
nhặt được. nước mắt rơi
em. về con đường. vắng
chất ngất. màu. rưng rưng
xe. nổ giòn. nỗi nhớ
chở. một người. rất buồn
ở lại. người. ở lại
vui. hay buồn? không em
chén. nồi. nằm một góc
chờ. tay nào? nâng niu
thời gian. sao đi. mất
mang em. về miền. xa
tuyết. ngập ngừng xóa. bóng
mùi hương. vướng. đâu đây
em về. mình xa. nhau
gửi. nụ hôn. nghìn kiếp
áo. ngày nao. dù nhàu
xin. giữ lại nếp. xưa
những đợi. chờ
cành cây. ngẹo đầu sang. một phía
xẩm tối. những ngọn đèn. đường vỡ. bung
tuyết. từng đụn. trong bãi parking
khu shopping. cuối tuần
người đàn ông. ngồi. trong xe
ho. tiếng khan
những ngày. cuối năm
đằng đẵng. lạnh
lù mù. tuyết rơi
tít. tắp
áo quần kín. bưng
tiếng chuông. tiếng vẳng dài
như gọi. tên
về chưa? những đợi chờ
Đài Sử
Tks
Trước thềm Năm Mới, cầu Ơn Trên ban cho đại gia đình
chúng ta mọi điều an lành.
NQT
Trước thềm năm mới Mậu Tuất em kính chúc anh chị
cùng bửu quyến được an lành, vạn điều như ý. Riêng
chúc anh sức khỏe càng bền, ung dung như bao năm nay.
Em, SLN
Tks
Chúc SLN và gia đình mọi điều an lành,
nhân dịp Xuân về.
NQT
Valentine's Day & Tết Mít mà đi bài
Haishi này, mới thú. Post, nhân đọc 1 stt viết
về cái trò nhìn đâu cũng thấy xứ Mít,
nhất là Tết, của lũ Mít lưu vong, của 1 bạn văn.
Sốt cả ruột.
https://www.facebook.com/ha.leminh.1…
Bài ca Gió Xuân
thổi dọc theo bờ sông Kema
Một bữa tôi lên đường về làng cũ
của tôi để thăm một bạn cũ. Khi tôi qua sông Yodo
River và tới Ngạn Kema, tôi gặp 1 cô gái trên
đường về thành phố quê nhà của cô. Chúng
tôi đi chung vài dặm đường, có lúc tôi
đi trước, có lúc tôi đi sau cô. Một lần, cả
hai nhìn nhau và trao đổi vài lời. Cô gái
đẹp. Khốn khổ thân tôi cảm thấy mình quyến luyến, ngẩn
ngơ vì cô. Tôi bèn làm 18 bài
ca, với cái tít “Gió Xuân vi vu Ngạn Kema”,
trong đó, tôi làm như tôi là cô
gái, và thủ thỉ những ý nghĩ của cô
Buson
Nhân nghỉ Tết,
Tôi bèn rời Naniwa
Và tới sông Nagara River
Gió Xuân dịu dàng làm sao
Con đường thì dài dọc theo bờ sông
Và tôi thì xa nhà
Trên lối xuống bờ nước
Để ngắt vài bông hoa
Cỏ gai quẩn chân tôi
Tại làm sao mà chúng ghen với tôi
Chúng làm rách áo dài của
tôi và đâm cho tôi nhiều mũi
Trên dòng nước, sỏi đá rải rác
chỗ này, chỗ kia
Tôi bước lên một khối đá để ngắt bông
Cám ơn nhe
Nhớ mi vượt lên khỏi mặt nước
Mà áo dài của ta không ướt
Tôi tới 1 tiệm trà
Cây liễu nức nở bên quán nay đã già
hơn trước
Khi nhìn thấy tôi,
Vị nữ chủ tiệm trà niềm nở chào
Chúc sức khỏe
Trầm trồ khen chiếc áo dài mùa xuân
của tôi
Hai người khách ngồi trong tiệm trà
Nói với nhau bằng thổ ngữ miền hạ lưu con sông
Thảy ba đồng tiền lên mặt bàn
Và từ ghế ngồi vẫy vẫy chào tôi khi rời
quán
Ở Ga Cổ
Cách, chỉ hai, hoặc ba giờ đồng hồ
Một con mèo gào bạn gái
Nhưng nàng không tới
Bên ngoài, nơi bờ giậu
Một con gà mái cục cục lũ gà con
Đất, ở bên ngoài hàng giậu
Rậm cỏ
Lũ gà con loay hoay bay qua hàng giậu
Quá cao đối với chúng
Hai, hay ba con, té xuống.
Phía trước tôi là một ngã
ba
Cỏ xuân phủ
Một trong ba, là một lối đi tắt
Nó ra vẻ mời tôi
Bồ công anh nở rộ
Chỗ này một ít, chỗ kia nhiều hơn
Hầu như một màu vàng, với 1 dúm màu
trắng
Tôi nhớ năm ngoái
Đã đi theo con lộ này, suốt.
Tôi ngắt 1 bông bồ công anh
Từ 1 cọng ngắn
Sữa nhỉ ra
Tôi nhớ đến bà mẹ dịu dàng của
tôi
Ui chao lâu lắm rồi so với lúc này
Những bông bồ cô anh của bà nở rộ
Từ một mùa Xuân, một thế giới khác
Bây giờ, ở đây, là mùa Xuân
Tôi lớn lên và sống ở Naniwa
Hoa mận trắng nở rộ
Tôi sống với một gia đình giàu có
Gần cây cầu chính ở Naniwa
Cảm giác, xúc động của tôi, về mùa
Xuân
Thì bây giờ, cũng y chang người ở đó
Bây giờ tôi đã trải qua ba mùa
Xuân
Kể từ khi rời bỏ nơi chốn cũ,
Và em trai của tôi
Tôi thì giống như một bông mận
Trên một cành ghép,
Quên mất cội nguồn của mình
Làng cũ của tôi thì đang vào
Xuân
Tôi đi bộ, đi bộ, và tiếp tục đi bộ
Dọc theo bờ sông, dưới những hàng liễu nức nở,
xùi xụt
Sau cùng lối đi dẫn tới một dốc đồi
Tôi nhìn lên và nhìn
tới
Tới căn nhà của mình ở trong làng, vào
lúc chạng vạng
Bà mẹ của tôi, bây giờ, tóc muối tiêu,
đang đợi tôi
Ôm đứa em trai của tôi trong lòng
Xuân này, Xuân nọ tiếp nối, họ đợi tôi.
*
Chắc là bạn biết bài haiku này
của Taigi:
Nghỉ Tết tôi về nhà
Ngủ
Bên cạnh phần mộ của cha mẹ của tôi.
Tình
đầu ( Isaac Babel / Đặng Lệ Khánh)
Tinh dau nao vay?
K dich Babel. Chuc Mung Nam Moi
Tình đầu của người ta !!
Sắp qua năm mới, thân chúc Oanh và anh Trụ một
năm mới an vui, viết, đọc không mệt, và làm việc gì
cũng thấy hứng thú .
K
Năm nay, có tí Ơn Trên.
Nhờ đọc. Tks Both of U
NQT
Thèm khóc như
thèm mưa
Tóc khô như hoa cỏ
Ai có về trong đêm
Gội dùm khu vườn nhỏ
Thèm khóc như
thèm mưa
Thịt da như gạch nỏ
Ai có về trong đêm
Thổi mưa vào áo lụa
Thèm khóc như
thèm mưa
Trái tim khô mùa hạn
Ai có về trong đêm
Làm mưa rơi trên ngực
Ôi! Đêm nghiêng
theo gối
Thân cong như nhánh hoa
Hồn cong như giọt rượu
Vỡ òa thành mưa sa.
Bốn khổ thơ chót, tuyệt.
Hình ảnh "đêm nghiêng
theo gối", quái làm sao, làm Gấu nhớ tới Brodsky.
Ông có câu thơ, You will write
about us on a slant, Anna Akhmatova dùng làm
đề từ cho bài thơ The Last Rose
Pages full of women
who are wet not because it's raining and men who are hard not because they're
cruel.
Ôi, những trang đầy
đàn bà, ướt không phải bởi vì trời mưa,
và đàn ông, cứng không phải bởi vì
độc ác!
Em đã biết tay anh chưa!
TTT
"Thân cong như nhánh
hoa" thì Gấu hiểu, và tưởng tượng ra được,
nhưng "hồn cong như giọt rượu, vỡ òa thành
mưa sa", hình ảnh lạ thật!
Thịt da như gạch nỏ.
Từ "nỏ" dùng đắt quá!
Làm nhớ đến những cây đóm, dùng
để hút thuốc lào.
Hình ảnh “đóm
nỏ hút thuốc lào”... đưa
chúng ta trở lại với bài thơ của Akhmatova, như là 1
kết thức tuyệt vời cho những dòng trên đây:
THE LAST ROSE
You will write about us on a slant
J. Brodsky
With Morozova I should bow and obey,
I should rise with the smoke from Dido's pyre,
I should dance with Salome,
And thus be again with Joan in the fire.
Oh Lord! You see how tired one grows
Of resurrection, and dying, and living,
Take it all except this crimson rose-
Let me feel the freshness of the gift it's giving.
1962
Akhmatova
Bông Hồng Cuối
Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về
chúng ta
J. Brodsky
Với Morozova tôi
sẽ cúi đầu vâng lời
Tôi sẽ bay lên cùng khói từ giàn
thiêu Dido
Tôi sẽ khiêu vũ với Salome
Và rồi lại bắt đầu với Joan trong giàn hỏa
Ôi Chúa ơi! Người cũng biết đấy, ta mệt đến
bã người
Với ba chuyện làm xàm phục sinh, và
chết, và sống,
Lấy mẹ hết đi, cha nội, trừ CM –
Hãy để cho ta cảm thấy sự mát rượi của món
quà mà nàng mang tới!
Cuộc Tình Thực: Real Romance
[Bài viết cho Valentine's Day]
Trên tờ Người Nữu Ước, 22 Tháng Sáu,
2009, có bài viết về nhà văn nữ được ưa nhất, America’s
favorite writer, Nora Robert.
Tác giả bài viết nhắc tới 1 cuộc thăm dò
dư luận, vào mùa hè năm trước đó, của một
website, Smart Bitches, Bướm Khôn, với câu hỏi, cái
dòng nào sến nhất [tình nhất, nhức nhối nhất….] nó
“cắm” vào bạn, như “thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn
đời”, như ca dao Mít phán, là dòng nào,
của tác giả nào…
Nữ văn sĩ Anh, Jane Austen được vài phiếu:
Mi chích hồn [“hồn” nhe!] ta. Khiến ta nửa hấp hối, nửa
hy vọng.
"You pierce my soul. I am half agony, half hope".
GCC bỗng nhớ đến những câu, như dấu ấn một thời, thời Gấu
còn trẻ măng, của những em nữ văn sĩ Mít thời danh thời
đó, thí dụ “Mưa không ướt đất”, “Em lên anh
nhé”, hay “Mèo Đêm”, “Lao Vào Lửa”, hay, hay…
Nhưng phải đến già, sắp di xa, thì mới nhận ra,
cái câu đau thương nhất, là của 1 cô em gái,
trong cái truyện ngắn Trăng Huyết, của Ngọc Minh:
Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho anh em
tôi...
Valentine's Day, 2013
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Valentine_Day_2013.html
Valentine's Last Year
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Valentine_Day.html
Luân Hoán
23 hrs •
NGÀY NHÂN TÌNH NĂM 2015
https://www.facebook.com/profile.php…
Note:
Tình Nhân mới đúng.
Nhân tình thì đi với nhân ngãi.
Tinh Nhân thì đi với Valentine!
Đếch thèm ghé xuống bãi biển chót
Con vịt giời già [GCC] một mình bay qua đêm
Hà,hà!
Buson đi 1 đường lèm bèm về bài
Hai Cu này:
Kishu ở mép bờ phiá nam dưới mặt trời.
Không chịu đáp xuống, con chim, một mình với
một mình, cứ thế bay.
Nó tính bay đi đâu, tôi tự hỏi,
Kiếm.... nhân tình hay tình nhân?
Tôi cứ ưu tư hoài về thằng cha GCC, con vịt giời
già này
Với ngàn ngàn con sóng phía trước
nó.
Note:
Tiếng Mít, cùng 1 tiếng, viết ngược,
xuôi, là đã khác nghĩa.
Với “nhân tình”, ta có hai từ thường gặp,
“nhân tình thế thái”, dùng để chỉ cái
tính tình, cách đối xử của 1 vùng đất, thí
dụ, và “nhân tình nhân ngãi”, để chỉ
liên hệ trai gái.
Nhân tình để chỉ những cặp qua đường, "phát
1 phát rồi đi" - đại khái thế - trong khi tình
nhân, lover.
Từ “tình cảm” cũng khác từ “cảm tình”.
Tình cảm giống từ sentiment, còn cảm tình, affection,
đại khái thế.
Thằng chả có cảm tình với mi đấy, có nghĩa
thằng chả có vẻ mết mi.
Thi sĩ thường được coi là kẻ thật rành tiếng mẹ
đẻ của nó. Chẳng thế mà một dịch giả thi sĩ bảnh hơn dịch
giả trơn!
Lại nhớ tới chuyện Ngũ Viên.
Ông tên tự là Tử Tư người nước Sở thời Xuân
Thu, cha và anh đều bị Sở Bình Vương giết hại. Ngũ
Viên đã trải qua bao gian truân vất vả,
lưu lạc sang nước Ngô giúp Hạp Lư giết chết
Ngô Vương Liêu chiếm được ngôi vua. Về
sau, Ngũ Tử Tư cùng Ngô vương Hạp Lư dẫn quân
tiến đánh nước Sở, nước Sở bị thất bại. Khi ấy Ngũ
Tử Tư râu tóc trắng xóa, Sở Bình vương cũng
đã chết; ông bèn đào mộ lên rồi dùng
roi đồng đánh luôn ba trăm cái vào thi thể
của Sở Bình vương xong chặt mất đầu để báo
thù cái tội giết cả nhà mình khi trước. Người
bạn Thân Bao Tư của ông nghe được tin này bèn
sai người đem thư sang cho Ngũ Tử Tư, trong thư viết: "Ngay đến
người chết anh cũng không tha, làm như vậy
thật quá tàn nhẫn". Ngũ Tử Tư xem thư xong
liền nói với người đưa thư rằng: "Tôi nhờ anh về
nói lại với Thân Bao Tư là tôi chẳng khác
nào một người đi đường, trời đã gần tối
mà đường đi còn xa lắc xa lơ, nên tôi mới
làm cái việc nghịch với lẽ trời này". Trong
tâm thế người chiến thắng, việc đối xử với những kẻ thua cuộc, thất
thế – cho dù đã chết, là vấn đề hết sức tế nhị. Nó
có thể cho thấy sự tự tin, lòng bao dung, nhân tâm
và tình người; nhưng mặt khác, cũng có thể cho
thấy thái độ hằn học, và vẫn còn tư tưởng thù
hận. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nói theo cách Ngũ Tử
Tư, thì nếu đường đã rộng đẹp thênh thang rồi thì
hà cớ gì không làm những việc hợp với lẽ trời.
Cư xử với kẻ thù như những người bạn, điều này còn
tốt hơn bất cứ sức mạnh và quyền lực nào; đó là
điều không phải ai cũng làm được!
---------------------------------------------------------------------
THE PRODIGAL
Dark morning rain
Meant to fall
On a prison and a school yard,
Falling meanwhile
On my mother and her old dog.
How slow she shuffles now
In my father's Sunday shoes.
The dog by her side
Trembling with each step
As he tries to keep up.
I am on another corner waiting
With my head shaved.
My mind hops like a sparrow
In the rain.
I'm always watching and worrying about her.
Everything is a magic ritual,
A secret cinema,
The way she appears in a window hours later
To set the empty bowl
And spoon on the table,
And then exits
So that the day may pass,
And the night may fall
Into the empty bowl,
Empty room, empty house,
While the rain keeps
Knocking at the front door.
Charles Simic
Đứa con hoang đàng
Sáng u ám
Mưa sẽ rơi
Trên nhà tù, trên sân
trường
Trên Má và con chó của
Bả
Ôi chậm chạp làm sao
Cách Má xỏ chân vô đôi
giầy Chúa Nhật của Ba
Con chó kế bên
Run rẩy từng bước
Cố theo kịp Bả.
Tôi ở một góc khác, chờ
Với cái đầu cạo
Với cái óc lóc xóc như
con chim sẻ
Trong mưa
Tôi luôn luôn trông chừng
và lo lắng cho Bả
Tất cả thì như là một nghi lễ thần kỳ
Một phim bí ẩn
Cách Má hiện ra ở cửa sổ vài
giờ sau đó
Để 1 cái chén không
Và 1 cái muỗng lên bàn
Và rồi ra khỏi phòng
Và như thế, một ngày qua đi
Đêm sẽ đổ
Vô chén không,
Căn phòng rỗng, căn nhà trần trụi
Trong khi mưa
Tiếp tục gõ ở cửa trước.
Bài thơ này, quái làm
sao, làm Gấu nhớ đến chiều 30 Tết, khi gia đình làm
mâm cúng cuối năm, và cũng là cúng ông
cụ của Gấu, mất tích đúng 30 Tết, 1946, khi qua sông,
tại Ngã Ba Việt Trì, dự bữa tiệc tất niên, do một ông
học trò mời, rồi đi luôn. Đọc bài này, rồi đọc
thêm bài này nữa, cũng của Simic, thì đúng
là đủ 1 cặp!
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans Magnus
Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra
đời!
Với cặp mắt nhắm tít, tôi có thể
nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái
đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó
Bao la, tối, không cách nào xuyên
thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của
họ
Trong một thế giới mà tôi thì
hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có
thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi
tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì
vẫn còn trên hai vai
Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại
của cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng
Đế
Như là Quỉ
Mười hai năm trước, ngày 21.4.2000 Ðại lão
Hoà thượng Thích Huyền Quang, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, đã gửi bức thư 6 trang đến
các cấp lãnh đạo đề nghị lấy 30.4 làm “Ngày
Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” : Sám
hối những sai lầm trọng đại, giải quyết tình trạng bi thảm của
những người tử vong, tàn tật qua 2 cuộc chiến, và bảo
đảm Nhân quyền cho người sống, Linh quyền cho người chết; dù
họ thuộc bộ đội miền Bắc hay binh sĩ miền Nam, để chôn cất và
trả nghĩa, cho gia đình họ khỏi ngậm ngùi. Hoà
thượng đã viên tịch, nhưng những gì ông
mong muốn vẫn chỉ có thể nhìn thấy nơi suối vàng.
Có một chuyện kể ra nghe chơi, ai tin thì tin không
thì …thôi nha. Cách đây mấy năm tình
cờ đi Điện Biên Phủ chung một đoàn làm phim truyền
hình có nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng,
đang nửa đêm đốt lửa dưới chân đồi A.1 - nơi diễn ra những
trận chiến đấu dữ dội, dai dẳng và quyết liệt nhất trong chiến
thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ; mọi người đang ngồi trầm tư,
im lắng bỗng giật thót khi thấy bà Hằng mắt mờ dại dõi
nhìn xa xăm, mông lung và miệng nói lầm
bầm mấy chuyện gì đó. Một lúc sau, bà rùng
mình rồi quay sang nhìn mọi người cười bảo: “Mấy chú
lính Tây và mấy anh bộ đội mình đang đi chơi
với nhau ngang qua đây, thấy họ vui lắm…”.
and in that weeping
there is always
so much life
Và trong tiếng nức nở đó
Luôn luôn có quá
nhiều sự sống
[Tưởng Niệm Mậu Thân]
- STANISEAW BARANCZAK
"The Day After Tomorrow"
manhhai
Tổng tấn công đợt 2 Tết Mậu Thân 1968 -
Đầu cầu Phan Thanh Giản, Saigon
05 May 1968, Saigon, Vietnam - American Soldiers Carrying
Children During Second Offensive on Saigon - Image by ©
Christian Simonpietri/Sygma/Corbis
ALBUM
1968 Saigon
www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157621401683943
Thơ
Mỗi Ngày
GREGORY ORR
Three Dark
Proverb Sonnets
****
1.
None have done wrong who still
Have a tongue: even Cain
Can explain.
Yet every atrocity
Breeds its reciprocity:
No murder
That doesn't lead to further.
If I was in charge, those who
Praise rage would be made
To visit more graves.
Skulls
Annul. All knives should be dull.
And yet, once we'd built the coffin
We had no choice: we had to find a corpse.
2.
Watch the leopard, not its spots.
It's the tiger that strikes,
Not the stripes.
The smart hide their claws
In their paws, then add
Fur for allure.
Combining smiles and wiles
And calling it "style."
A sword has a point,
But a needle
Is sharper and cleaner-
Less mess, less evidence.
It was never just the arrow
We bowed to; it was also the bow.
3.
Remember: every fist
Began as an open hand.
Even a bridge is a ledge
If you stray to its edge.
You can lead a horse
To water, but
You can't make it drink.
You can guide a fool
To wisdom,
But you can't make him think.
You can close one eye to evil,
But you'd better not blink.
In the dark, adjust your eyes.
In the darker, your heart.
from Mississippi Review
[ The Best American Poetry 2017]
NYRY/POETS
The Polish poet Ryszard Krynicki, born in a Nazi labor
camp in Austria in 1943, became one of the most prominent
poets of the New Wave generation of 1968, his poetry offering
what Adam Michnik has called "a strange and beautiful marriage
of Joseph Conrad's heroic ethics with a great metaphysical perspective."
Krynicki is the author of a body of work marked at once by the
solitude of a poet» maudit and solidarity with a hurt
and manipulated community. Our Life Grows, published in Paris
in 1978, was the first poetry collection to appear as Krynicki intended,
beyond the reach of the Communist censorship that had crippled
his earlier books. These poems, combining a biting wit and rigorously
questioning mind with a surreal imagination, are a vital part of the
story of postwar Europe.
"Krynicki has a rare gift if naming
things even in shortest poems; he goes straight to the essence.
Among Polish poets and readers he has the reputation if a master,
if an archer who never misses."
-Adam Zagajewski
"His dense verbal play, his allusive language, was
always a way if challenging official speech and ideology,
normative language, normative feeling."
- Edward Hirsch
[Lời giới thiệu bìa sau]
An unknown spy will send him a challenge
A perjured court will do battle with
him
- ADAM MICKIEWICZ
"Do Matki Polki" (To a Polish Mother)
I rebelled
but I think this bloody knot
should be the very last one
a man freeing himself
should tear loose
- ZBIGNIEW HERBERT
"Reflections on the Problem of the
Nation"
You survived not so that you might live
you have little time you must give
testimony
- ZBIGNIEW HERBERT
"The Envoy of Mr. Cogito"
and in that weeping
there is always
so much life
Và trong tiếng nức nở đó
Luôn luôn có quá
nhiều sự sống
- STANISEAW BARANCZAK
"The Day After Tomorrow"
This, Nothing
Or, Other Poems for Internal Use
If it is true that the same suffering is harder to
endure for noble reasons than for base ones (people who
have stood motionless in a queue from one o'clock at night
to eight in the morning to obtain an egg would have had great
difficulty doing the same to save a human life), it may be that
virtue of a base kind is more resistant to adversity, temptation
and misfortune than virtue of a noble kind.
• • •
We know from experience that the truth is always universal
and reality is always particular, and yet they are inseparable
and even form a whole. We can find no way out of this problem.
-SIMONE WElL
Cái Này, Hư Vô,
Chẳng Là Cái Gì
Hay
Những Bài Thơ Khác
dành cho Sử Dụng Nội Tại
Đúng, là, cũng nỗi đau đớn đó,
thì thật khó chịu đựng, với những lý lẽ phong nhã,
so với những lý lẽ bần tiện [những người đứng xếp hàng bất
động từ một giờ đêm tới tám giờ sáng để có được
1 hột vịt hay gà, sẽ gặp khó khăn lớn nếu làm như vậy
để cứu một mạng người). Có thể là, 1 thứ đức hạnh ở tầm thấp
hèn, thì có nhiều sức đề kháng hơn, đối với thế
lực thù nghịch, sự cám dỗ, bất hạnh, so với đức hạnh ở tầm
phong nhã.
****
Chúng ta biết, nhờ kinh nghiệm, sự thực thì
luôn luôn phổ cập, và thực tại thì
luôn luôn đặc biệt, cá biệt, tuy nhiên,
chúng thật khó chia cắt, tách rời, và
ngay cả, tạo thành trọn 1 cục.
Thật vô phương, giải được bài
toán này.
[Hai trang đầu]
[Bài thơ mở ra tập thơ]
I Believe
for Stanislaw and Anna Baranczak
The truth is: at times I believe
in the existence of the other world,
I believe in ghosts,
in vampires sucking your brain and
blood,
perhaps in the end I fear even more
than believe
(which comes to the same thing in
our time: to fear-to
believe).
At those times I try not to sit with
my back to the door,
a door has a life of its own, and
what's more,
I've become superstitious, I don't
talk about my dreams
or hopes aloud anymore, so I don't
scare them off, I avoid
uttering words that could come back
to haunt me,
I cross them out of old poems (and
for that matter
not only I), but I won't hide the
fact
that I sometimes forget these measures
of security,
drink vodka, love a woman, go on
a trip, think
telepathic thoughts, turn my back
to the door-which has its own life
and sooner or later will open,
and sooner or later I'll feel the
touch
of that icy hand, which may only
give me a sign
or may without warning tighten around
my heart,
the truth is: I don't believe this
is the hand
of Osip Mandelstam or Georg Trakl,
or of any other poet who, independently
of the human
or inhuman death he met,
still speaks to us with his living words.
Tôi tin
Sự thực là, đôi khi tôi tin sự hiện
hữu của thế giới khác, tôi tin có
ma, có ma cà rồng hút khô não,
khô máu của bạn
Và có lẽ, sau cùng
tôi sợ nhiều hơn là tin
(thì cũng mắm xốt với thời
của chúng ta: sợ - tin)
Vào những lúc như thế,
tôi không dám ngồi dựa lưng vô
cửa,
Một cái cửa có đời
riêng của nó, và quá nữa,
Tôi trở nên mê
tín, tôi không la lớn lên nữa,
về những giấc mơ, hay hy vọng của mình, như vậy tôi
sẽ không làm chúng sợ, bỏ đi mất.
Tôi tránh thốt lên
những từ mà chúng, có thể trở về ám
ảnh tôi
Tôi gạch bỏ chúng ra
khỏi những bài thơ cũ (vụ này, không
chỉ tôi) nhưng tôi sẽ không giấu diếm, sự
kiện này, đôi khi tôi quên những những
biện pháp an ninh, uống vốt ka, yêu 1 người đàn
bà, đi chơi 1 chuyến, nghĩ những điều tâm linh, giao
cảm, quay lưng về phía cửa - vốn có 1 đời riêng
của nó
Và sớm muộn gì, sẽ
mở
Và sớm muộn gì, tôi
sẽ cảm thấy, mình đụng vô cái tay lạnh
giá đó
Chỉ nó, sẽ làm 1 dấu
hiệu gì đó cho tôi.
Hoặc có khi, chẳng cần làm
dấu hiệu bóp nghẹt trái tim tôi,
Sự thực là: Tôi không
tin, đó là tay của Osip Mandelstam, hay
Georg Trakl
Hay bất cứ một nhà thơ nào,
chẳng hề mắc mớ với 1 cái chết, nhân đạo hay
phi nhân mà anh ta gặp phải,
sẽ nói với
chúng ta với những tứ máu mủ, ruột thịt, tươi
rói, của anh ta.
Buddha, Christ
Buddha, Christ,
in vain you hide
in so many incarnations
Buddha, Christ
Phật ư, Chúa ư?
Mấy người ẩn náu, nhập
thân
Trong cái chó
gì
Thì ta cũng nhận ra!
You Will Be Forgiven
You will be forgiven all the wrongs you committed
if you committed them
to save someone's life.
I myself am the one
for whose sake I was blind to the suffering
of others
and deaf to their cries for help.
But did you really survive?
Well, I'm talking to you, I'm alive.
So that's what you call survival,
you miserable son of death?
It Was Beginning
And it was beginning to look like all of Poland
would keep its lips shut tight
and become an impenetrable empire once again.
The Tongue, That Untamed Flesh
for Zbigniew Herbert and
Mr. Cogito
The tongue, that untamed flesh that grows
in a wound,
in the open wound of the mouth that lives on
false truth,
the tongue, that beating heart laid bare, that
naked blade
that is a defenseless weapon, that truncheon
that beats
down
the defeated uprisings of words, that animal,
daily tamed,
with human teeth, that inhumanity that grows
in us
and outgrows us, that animal fed on a body's
poisoned
flesh,
that red flag that we swallow and spit out
with the blood,
that forked thing encircling us, that true
lie deluding us,
that child that, learning the truth, lies truthfully.
Viết
mỗi ngày
https://foreignpolicy.com/2018/02/12/russias-clash-with-the-west-is-about-geography-not-ideology/
EXCERPT
Russia’s Clash With the West Is About Geography, Not Ideology
The Marshall Plan recognized the limits of U.S. power in Europe.
To be successful, so must diplomacy with Moscow today.
By Benn Steil
February 12, 2018
At his dacha, standing before a map of the newly expanded Soviet
Union shortly after Germany’s surrender in May 1945, Josef Stalin nodded
with approval. The vast buffer he’d carved out of Soviet-occupied Eastern
Europe would now protect his empire against future Napoleons and Hitlers.
Stalin then took the pipe from his mouth, waving it under the base of the
Caucasus. He shook his head and frowned.
“I don’t like our border right here,” he said to his aides, gesturing
at the area where the Soviet republics of Georgia, Armenia, and Azerbaijan
met the hostile powers of Turkey and Iran.
Over the next year and a half, U.S.-Soviet relations would collapse
as Stalin pressured Ankara and Tehran for territorial concessions and
U.S. President Harry S. Truman pushed back by sending a naval flotilla
to the Mediterranean. In February 1947, a penniless Britain told the State
Department that it could no longer defend the Greek government in its civil
war with Yugoslav-backed Communist rebels, prompting Truman to pledge U.S.
economic and military aid for Athens and Ankara. Stalin, whose country
was struggling to recover from Nazi devastation, fell back on defense.
His aim now would be to hold the new security zone in Eastern Europe and
to prevent the United States from controlling Russia’s mortal enemy: Germany.
In March 1947, the new U.S. secretary of state, George C. Marshall,
embarked on six grueling weeks of negotiations in Moscow with his Soviet
counterpart, Vyacheslav Molotov, over the future of occupied Germany.
With neither side willing to accept the possibility of such a dangerous,
strategically situated country becoming an ally of the other, the talks
ended in stalemate. Yet Stalin still believed that Truman would ultimately
be compelled to concede German unification on Soviet terms — massive reparations
and a political structure favorable to the Communists — in order to fulfill
his predecessor Franklin D. Roosevelt’s pledge to withdraw U.S. troops from
Europe within two years after the war.
Marshall left Moscow convinced that cooperation with the Soviets
was over. Germany, and much of Western Europe, was edging toward economic
and social collapse, and the Leninist dictum “the worse, the better” appeared
to be Stalin’s response. The time had come, Marshall decided, for unilateral
U.S. action to secure democratic, capitalist government in the parts of
Europe still outside Soviet control. In an iconic speech at Harvard University
on June 5, 1947, he presented the outline of what would become a massive
four-year U.S. aid scheme to support European reconstruction and integration:
the Marshall Plan.
Note: Bài này tuyệt lắm. Từ
từ tính
http://damau.org/archives/48826
Editions des Femmes là một nhà
xuất bản uy tín, việc quảng cáo rầm rộ Thiên Sứ
và cho in dưới chân dung Phạm Thị Hoài câu văn
của tác giả: "Je refuse tout uniforme. Ils sont toujours trop
étroits ou trop larges pour moi. Qu’on me laisse nue, avec ce
corps flétri qui, très tôt, s’est arrêté
de grandir." (Tôi từ chối mọi đồng phục. Chúng luôn
quá chật hay quá rộng đối với tôi. Hãy để
tôi trần truồng với tấm thân chết khô mà đã
từ rất sớm, ngừng lớn lên.) — là một hiện tượng.
Note: Nhảm. Bà này, 1 thứ gà mái
gáy.
Có hai thứ đồng phục mà Bắc Kít
không làm sao rũ bỏ.
Một, là cái đói. Bốn ngàn năm đói.
Và 1, do nhà văn Tẫu phát giác, liên
quan đến tem phiếu.
Mi không phải là người, mà do tem phiếu đóng
khung, tạo đồng phục.
Cả hai, phỏng vấn lẫn bị phỏng vấn, thi nhau gáy!
HOPE IN A THIN SHELL
Hy vọng ở trong 1 cõi nhân gian bé tí!
Câu này, bà ĐTĐ cũng đã phán,
khi trả lời anh sứ Tẫu.
“You were not
who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được
cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.
Từ từ tính.
Xa Bắc cả 1 nửa thế kỷ, lần trở lại,
Gấu mang về những kỷ niệm về cái đói, và tự hỏi,
ông biết bà chị ruột của mình, có còn
nhớ.
Nhớ. Nhớ hết. Nhưng nó làm Bà trở nên cực
kỳ cứng rắn, đúng là như cái cây còm
cõi, không thể lớn nổi, như Sến phán, cũng là
điều Updike nhận ra, khi viết về Mặc Ngôn, măng già, đắng
nghét, không làm sao trở thành tre xanh, rợp
bóng mát cho một Miền Đất.
Người đọc nào
đọc Mạc Ngôn, tri kỷ cho bằng... Updike:
Cả hai thế giới, cũ, và
thế kỷ 20, thì đều là những hắc điếm, nhà thổ, của
làm thịt người, tra tấn, đói khát, và - đối
với tập thể dân quê, lao động quá độ, quá sức
con người, thật là dã man, tàn bạo. Cả hai loại nhân
vật được đưa vô tiểu thuyết thì đều là những con người
yếu ớt, không trưởng thành nổi. Tuy nhiên, không
giống như ba thứ nhân vật can đảm hơn, dấn thân hơn, ở trong
những cuốn biên niên giả tưởng, họ sống sót để kể ra
những câu chuyện của họ. Sự yếu đuối của họ, tự buông xuôi,
và chất thơ ca tự nhiên mà cả hai đều có thể
có được, thì bèn dõng dạc nói "Không"
với những xã hội đã làm cho cuộc sống trên trái
đất trở thành địa ngục.
Những xã hội tồi tệ không khuyến khích con người
trưởng thành, làm người.
Ba loại nhà
văn
Tháng 10 14, 2012
Phạm Thị Hoài
Cả hai nhà văn gối đầu
giường của tôi, Kafka và Nabokov, đều không và
sẽ không bao giờ lọt tầm ngắm của Giải Nobel Văn chương nữa. Những nhà
văn mà tôi khâm phục cũng thế: James Joyce, Robert Musil,
Jorge Luis Borges, Thomas Bernhard, Roberto Bolaños. Chưa kể những
bậc thầy kinh điển: Lỗ Tấn, Lev Tolstoy, Marcel Proust. Lấy tôn chỉ
ấn định trong di chúc của Alfred Nobel năm 1895 ra xét thì
hai tác giả văn học duy nhất – trong đó một người đã
tự vẫn – tôi đọc trong năm vừa rồi, David Foster Wallace với Infinite
Jest và Mark Z. Danielewski với Only Revolutions đều đại diện cho
văn học ngoài hành tinh, cách Viện Hàn lâm
Thụy Điển vài năm ánh sáng. Liệt kê dài
dòng như vậy và với ưu thế của một người biết chắc mình
không bao giờ thắng xổ số, tôi có thể thoải mái
tuyên bố rằng Nobel Văn chương rơi vào đầu ai thì người
đó phải chịu, chẳng liên quan gì đến tôi; không
thay đổi vận mệnh văn chương nhân loại đã đành, lại càng
không ảnh hưởng đến tình yêu văn chương của từng cá
nhân. Miễn không phải là một ông Hoàng Quang
Thuận nào đó, còn lại mọi lựa chọn đều xứng đáng
như nhau. Có thể bạn ưu tiên Bob Dylan, tôi ưu ái
Thomas Pynchon, nhưng tôi không có gì bất mãn
khi cuối cùng Mạc Ngôn thay vì Ngũgĩ wa Thiong’o hay
Murakami Haruki được chọn. Thế giới này có nhiều nhà
văn đáng đọc hơn một đời đọc của chúng ta có thể kham
nổi.
Tác gia văn chương, chung quy có ba loại. Loại dành
cho đồng nghiệp, tác gia của tác giả. Loại dành cho
công chúng, tác gia của độc giả. Và loại dành
riêng cho sự tự mê hoặc của những tác giả tự phong.
Loại thứ nhất hiếm hoi, là những người không thể thay thế,
mất một ai trong số họ là cơ thể văn chương nhân loại tàn
phế một bộ phận trọng yếu. James Joyce, nói theo lời đồng nghiệp Đức
Tucholsky của ông, vô cùng khó nhằn, nhưng chẻ
ra thật nhỏ thì mỗi viên cũng nấu được một nồi súp đầy
chất lượng. Kafka là mẫu mực. Nabokov là trường đào tạo.
Borges là kho tàng văn hóa. Thomas Berndhard là
vòi phun cảm hứng… Người không thể thay thế trong văn học Việt
Nam theo tôi là Nguyễn Du, nhà hậu cần ngôn ngữ.
Loại thứ hai đông hơn và là đối tượng chính
của các nhà điểm sách, phê bình và
nghiên cứu văn học. Đánh giá về tài năng và
tầm cỡ của họ là việc phụ thuộc chủ yếu vào khí hậu
và môi trường văn hóa. Từ Balzac, Dostoevsky, Sartre,
George Orwell đến Günter Grass, Paul Auster, Dư Hoa, Murakami…, tất
cả đều chung số phận được công chúng này ngưỡng mộ, bị
công chúng kia chê bai. Mạc Ngôn là nhà
văn của công chúng, một công chúng về số lượng
thậm chí có thể vượt qua cộng đồng độc giả của cả Harry Potter
lẫn Fifty Shades of Grey gộp lại. Sau khi trúng giải, riêng
độc giả Trung Quốc của ông đã có thể chấp thêm
cả cộng đồng Chạng vạng (Twilight)
vào đó. Gu văn chương của tôi không thật hạp với
những bàn tiệc ú hụ mà tác giả Phong nhũ phì đồn thường dọn,
đầy ắp đến bội thực hình ảnh, hình tượng, phúng dụ,
ngoa dụ, không từ cả những món đẫm “nước chảy thành mương”
đầy khêu gợi, hay những đặc sản sởn gai ốc như nguyên một chú
bé nướng ròn bày trên khay bạc. Nhưng các
món mà ông chế biến tài ba không chỉ khoái
khẩu với giới bình dân. Người đọc khe khắt hơn cũng được ông
phục vụ tận tình. Ông là một nhà kể chuyện xuất
sắc. Thành tựu của ông, theo Ủy ban Nobel, một “hiện thực huyễn
giác pha trộn cả cổ tích, lịch sử và hiện tại“, tôi
thừa nhận không bàn cãi, chỉ xin thay Faulkner bằng Gabriel García
Márquez, Rabelais bằng Tây du kí trong “kết hợp
của Faulkner, Dickens và Rabelais” được nhắc đến. Giải Nobel Văn chương
năm nay không hề làm văn chương xuống giá. Văn học Trung
Quốc đương đại hoàn toàn có quyền tự hào với
Mạc Ngôn. Về những gì đáng bàn ngoài vòng
hiện thực huyễn giác của ông, xin đề cập trong một dịp khác.
Loại thứ ba đông hơn cả, nhưng chỉ đáng quan tâm ở
khía cạnh họ là những kẻ làm ngôn ngữ xói
mòn nhanh nhất, ngốn nhiều giấy mực và byte nhất, và
là thủ phạm chính khiến văn chương bị xóa thành
công khỏi danh sách nhu yếu phẩm tinh thần của con người. Trong
khi nhà văn loại thứ nhất có khi cần đến 10 năm, 20 năm để
bỏ dở một tác phẩm thì nhà văn loại thứ ba mỗi ngày
đều đẻ nóng vài ba đứa con tinh thần rồi đem máu thịt
của mình đi rải trong thiên hạ, với phương châm thà
bị tống vào thùng rác còn hơn không tồn
tại. Tác phẩm của ông Hoàng Quang Thuận thuộc loại thứ
ba này. Đề cử một tác giả như vậy vào Giải Nobel Văn
chương không khác việc đoàn Việt Nam đăng kí mức
xà nhảy cao 1m70, là mức Thế vận hội không biết đến.
Thơ ngẩn ngơ nhập đồng đến từ Việt Nam cũng là thứ mà Giải
Nobel Văn chương trong 111 năm lịch sử của mình không lường đến.
Câu chuyện Hoàng Quang Thuận cho thấy nhà văn loại thứ
ba ở Việt Nam đã đạt đủ thành tựu để văn chương ở đất nước
này trở thành một tồn tại thứ yếu, không còn đáng
đếm xỉa ngay cả cho các nhà kiểm duyệt.
Tôi tự thấy mình may mắn đã ra mắt ở một thời điểm
mà văn chương còn quan yếu, có lẽ quan yếu hơn vai
trò thật của nó. Trong bối cảnh hiện thời, kẻ thù đáng
sợ nhất của nhà văn Việt Nam không phải là chế độ kiểm
duyệt – tuy vẫn tùy tiện và ngu xuẩn như bao giờ, nhưng đã
chểnh mảng và lỏng tay hơn xưa nhiều – mà là sự thờ
ơ chính đáng của xã hội dành cho cái được
coi là văn chương quốc gia.
© 2012 pro&contra
Đọc bài viết này,
thì Gấu lại có cái cảm giác, là Sến lên
tiếng về giải Nobel, và bèn, phân loại nhà văn,
có thể là do bực bội, khi đọc những dòng Gấu lèm
bèm về Mạc Ngôn!
Bài viết của Sến rất bảnh.
Nhận xét về thông báo chính thức của Viện Hàn
Lâm [bỏ tên sư phụ của Gấu ra], quá tuyệt. Những nhận
xét về Mạc Ngôn cũng quá đúng.
Nhưng, bà này vẫn không đọc ra Mạc Ngôn, như
John Updike đọc ông.
Bà này không biết nỗi đau của dân TQ, cũng
như cái Ác của giống Á.
Đọc văn là phải đọc bằng trái tim, không phải bằng
cái đầu.
Gấu hơn người là ở chỗ đó, thượng vàng hạ cám,
gì cũng đọc, và đều bằng trái tim!
Viết cũng thế, mà đọc cũng thế.
Hà hà!
Trong hai
nhà văn gối đầu giường của Sến, Kafka là người ngoài
hành tinh, giải thưởng nào ở cõi đời này xứng
với ông? Ngoài hành tinh đấy, nhưng lại khuyên,
trong cuộc chiến đấu sinh tử giữa mi và thế giới, hãy ở về
phía thế giới. Nabokov, ngược lại, là 1 người rất thèm
Nobel: "Vladimir Nabokov có lẽ là
người than van nhiều nhất về chuyện hụt giải" (one of the most-lamented non-laureates,
The New Yorker). Khi Pasternak được, ông
cay cú quá, tố Pasternak là nhà văn nhà
nước Liên Xô! Cũng 1 thứ cai ngục, nói theo Thầy
Cuốc, khi viết về Mạc Ngôn.
Nabokov quả là 1 bậc đại sư phụ, nhưng cái ông thiếu,
thì Kafka lại thật thừa. Quái là làm sao mà
Sến lại nhét chung hai ông ở dưới gối?
*
Please,
sir, I want some Mo
Mo Yan wins the Nobel prize in literature
Prospero
Oct
11th 2012
by The Economist
online
MO YAN, a prolific Chinese author,
has been awarded the 2012 Nobel prize in literature. Mr Mo's best-known
works are "Red Sorghum", which was made into a film by director Zhang
Yimou, and "The Republic of Wine". He is one of the most widely translated Chinese
writers. According to the official Nobel citation, Mr Mo "with hallucinatory
realism merges folk tales, history and the contemporary". His works
have been compared to the magical realism of Colombian author, Gabriel
Garcia Marquez. Mr Mo came close to winning the Man Booker International
prize in 2007 but lost out to Chinua Achebe, a Nigerian author.
The news has been well-received
by many in China. Unlike Liu Xiaobo, a Chinese dissident who was awarded
the Nobel peace prize in 2010, Mr Mo is considered a safe choice. State
broadcaster CCTV reported the news of the award, and it is not
being censored on Weibo, the Chinese version of Twitter. Some critics,
however, suggest that Mr Mo is too close to China's establishment and too
compliant with the Communist Party's continued censoring of books and
media.
HPNT's Case
Whatever Happened
Whatever happened had already
happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Adam Zagajewski
Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái chó
gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó
rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi
cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium:
cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì
sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ
lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không,
không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng
ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên
tai Gấu.
Lướt Tin Văn
Viết như không
viết
Đọc còm của độc giả Chợ Cá,
về bài ký của Trần Vũ, Gấu ngộ ra một
sự thực, về cái đọc của độc giả quyết định “số
phận” cái diễn đàn của họ.
[Chợ Cá đâu
phải bản chất là Chợ Cá, nhưng mà
do những người hội họp ở một nơi, và nơi này
từ đó có tên là Chợ Cá!]
Mr. TV dùng hình ảnh khoảng
lưng trần đẹp ơi là đẹp của phụ nữ, để làm bật
lên tấm lưng trần đầy sẹo của một người đàn ông,
và nhân đó, nói về cái
lưng trần "da beo" của chính TV.
Còn chuyện cái bụng đàn
bà Mít đẻ ra cả một lũ ngu Mít, trong
có Gấu, tất nhiên, lại là chuyện khác!
Cái tay thi sĩ ở trong nước, nhìn
ra hình ảnh Chợ Cá, khi nó chưa là
Chợ Cá, quả là thần sầu!
NQT
Ngô
Nhật Đăng
MÙA XUÂN NÓI
CHUYỆN MẬU THÂN
Bài của ông
Quoc Tru Nguyen
(viết đã lâu nhưng ta-là-ai - talwas không
đăng vì "động chạm"). Đưa lại vì vẫn còn tính
thời sự :
Nhữ...
See More
Bài này, Gấu viết cho 1 số Xuân báo
Người Vịt, của băng đảng Cờ [Hoa] Lăng [Bác] mà ông
Trùm của nó là Đại Ma Đầu có nick là
“Ông Số 2”, khi bạn quí của Gấu là Nguyễn Xuân
Hoàng, khi đó là Tổng Thư Ký, order, nhưng
không đăng, như 1 bạn văn ở Cali cho biết.
NXH thì vờ luôn, mà Gấu cũng chẳng
hỏi. Chắc là lệnh của ông Trùm.
Sau, khi làm quen với tờ
VHNT trên lưới, của Phạm Chi Lan, Gấu thử 1 lần nữa. PCL cho biết,
nhân vật này gây tranh luận, controversial, chữ của PLC,
tốt nhất anh gửi bài khác.
Với Sến Cô Nương, khi gửi bài cho talawas,
là Gấu tính mở ra 1 loạt bài khác hẳn
những gì đã viết trước, và Sến nhận ra liền,
viết mail, từ trước, đọc thấy “nghiêm túc, sâu
sắc… cái con khỉ
gì đó”, lần
này, là 1 NQT rất tếu táo, nhớ đại khái.
Nhưng sau đụng mấy cú liên
tiếp, như vụ Hoặc Ngữ, hay vụ “sái sảm”, là Gấu nhận
ra, "bà này", phần đạo hạnh có vấn đề.
Đúng ra, “bà này” phải bắt buộc Hoặc
Ngữ dùng cái tên HNT, và phải delete cái
từ "sái sảm" – ý muốn nhắc tới thời kỳ Gấu thờ Cô
Ba, (1) của 1 tác giả ở trong nước, chắc có biết về Gấu. Mấy vụ này, có
trên Tin Văn, ai tò mò, có thể đọc, mục
(1)
Dịch
Là Số
Dịch là chấp nhận phần số của mình
20.01.02
Lời người viết:
Nhân Trần Trọng Hoàng Bách, một tác
giả ở trong nước, có nhắc tới hai bài viết mới đây
của tôi, trên diễn đàn Talawas, tôi viết
bài này, như một món quà gửi người bạn
nói trên, (trong bài viết có một chi tiết
làm tôi tự hỏi, liệu có phải đây là
một cố nhân đã từng rành rẽ Sài Gòn,
và quãng đời sa sẩy tuyệt vời của tôi hay không).
Bài hơi dài, tôi xin viết thành vài
kì.
NQT
Bài đầu tiên viết cho talawas
Thơ Mỗi Ngày
http://www.tanvien.net/TV_Diary_New/30.html
Adam_Zagajewski_1
2
3
CHINESE POEM
I read a Chinese poem
written a thousand
years ago.
The author talks
about the rain
that fell all night
on the bamboo roof
of his boat
and the peace that
finally
settled in his heart.
Is it just coincidence
that it's November
again, with fog
and a leaden twilight?
Is it just chance
that someone else
is living?
Poets attach great
importance
to prizes and success
but autumn after
autumn
tears leaves from
the proud trees
and if anything remains
it's only the soft
murmur of the rain
in poems
neither happy nor
sad.
Only purity can't
be seen,
and evening, when
both light and shadow
forget us for a moment,
busily shuffling
mysteries.
ADAM ZAGAJEWSKI
Thơ Tầu
Tôi đọc thơ Tầu,
viết từ một ngàn
năm trước.
Thi sĩ nói
về những giọt mưa đêm,
rơi trên mái
thuyền tre,
và sau cùng
đem đến sự bình an cho trái tim của
mình.
Liệu chỉ là
tình cờ,
Tháng Chạp
lại tới,
với sương mù,
và hoàng
hôn nặng nề?
Liệu chỉ là
nhân duyên
Một người nào
đang sống, ở đâu đó?
Thi sĩ đặt nặng vào
giải thưởng, thành công
nhưng thu này,
thu tới
vặt lá ra
khỏi đám cây cao ngạo
và nếu có
gì còn lại,
thì chỉ là
tiếng thầm thì của mưa
trong những bài
thơ
chẳng hạnh phúc,
mà cũng chẳng buồn bã.
Chỉ có sự
tinh khiết là không thể nhìn thấy
Và buổi chiều,
khi cả hai, ánh sáng và bóng
tối,
đều quên chúng
ta trong thoáng chốc
vì bận bịu
trao đổi những điều bí ẩn
Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống,
ở đâu đó?
Tuyệt!
Đúng ‘air’ Lý
Thương Ẩn:
Gặp đã khó,
xa nhau càng khó;
Có nhau trên
đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực
khó! (a)
Ui chao,
nhìn cái hình, thì
lại nhớ ra Rule "number 1" của art2all!
MEET EDDIE
Whose life is as merry as a
beer can
Hurtling down a mountain stream
Giving some rocks a wide berth,
Bumping head-on into the others,
And going into a head-spinning
twirl
Like a little girl on a piano stool,
The water shouting as it rushes past:
Are you ready to meet your Maker?
As the woods around him begin
to thin
And the trees don their fright wigs
As he prepares to go over the falls
Like a blind man strapped to an accordion.
Charles Simic
Gặp con K.
Người mà đời thì
vui như là một lon bia
Lao xuống một con suối từ đỉnh núi
Tránh mấy cục đá to tổ bố
Trong khi đụng đầu bồm bộp, vô mấy
cục khác.
Và nhập vô một
con xoáy xoay vòng vòng cái đầu
Như cô bé trên ghế
dương cầm
Nước la lớn khi nó lướt qua:
Mi đã sẵn sàng chưa, để
gặp Người Làm Ra Mi?
Trong khi rừng quanh mi mỗi
lúc một thêm mỏng
Cây ban cho nỗi sợ của chúng
những bộ tóc giả
Và, như con cá chép
ở khúc sông Bạch Hạc, Việt Trì,
Quê hương ngày nào
của mi,
Hăm hở vượt Vũ Môn
Và, như ông già của
mi đã từng,
Cũng ở khúc sông đó,
Mi lao qua con thác,
Như người đàn ông mù
xiết vô chiếc phong cầm.
(a)
Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực
khó!
Đây là cái
cực khó, vị thân hữu K., gọi là
“Rule number One” của trang art2all!
Nói thì
nói thế, thế mà GCC đã được chiêm
ngưỡng dung nhan vị
K này, khi còn là 1 cô thiếu
nữ Huế, giữa đám
bạn học của cô.
Hình như có
post lên TV, và K mail hỏi, nè sao post hình
tui, THNM ư?
Hà, hà!
http://amnhac.fm/index.php/photo/ca-s/minh-trang-qunh-giao/quynh-giao/quynh-giao-va-tran-mong-tu-o-festival-van-hoa-dallas-2005-21957
Mi làm phiền ta quá.
Kiếp trước mi đúng là con đỉa
Ta bận chồng, bận
con, bận công việc nhà thờ, ngoài
ra còn bận... "Viết" nữa!
Làm gì
có thì giờ thí cho mi!
Mi muốn chiêm ngưỡng
ta ư?
Ta làm MC
ra mắt sách cho bộ lạc Cờ Lăng, tại chỗ đó,
chỗ đó....
Passing Through
An unidentified,
inconspicuous someone,
smaller than a flea
snuck over my pillow last night,
unbothered by me,
in a big rush, I bet,
to get to his church
and thank his saints.
Charles Simic
London Review of Books 9 May 2013
Quá Giang
Một tên nào đó
Làm sao biết là ai
Lịch sự, kín đáo
Nhỏ hơn con bọ chét
Tối qua ghé ngang cái gối
của tôi
Không làm tôi bực mình.
Phận dấu bèo,
Và hình như đang rất vội,
hẳn thế,
Tới nhà thờ
Cám ơn những vì thánh
của hắn
Ui chao đọc bài thơ này,
thì lại nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày
Mậu Thân, cực kỳ thê thảm, và hình
như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi bên
giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta
dậy lấy sữa cho nó, mà không làm
sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân
mi, đừng làm phiền ta quá như thế.
Giấc mơ thì có thật, mơ
đúng cái cảnh trên đây.
Sách
& Báo
Mới
https://www.lrb.co.uk/v40/n02/max-hastings/wrath-of-the-centurions
Tờ LRB đi 1 đường về vụ Mỹ Lai
cho đọc free.
Mỹ Lai thì nhằm nhò gì so với Huế
Mậu Thân, tác giả bài viết phán. VC giỏi
chùi miệng lắm (1)
It deserves notice that the communists murdered in cold
blood far more innocent people during their February 1968 occupation
of Hue than the My Lai killers did. The Vietcong were merely smart
enough not to allow their massacres – or their frequent disembowellings
and live burials of village chiefs who declined to support them –
to be recorded on camera, as My Lai was, or to become the object of
war crimes trials.
(1)
Nguyễn Quốc Trụ
Thư góp ý cùng độc giả Nguyễn Việt
Kiều (talawas)
Cái mánh loại trừ là bản năng tự
vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Vụ da cam đang nóng, nóng dây chuyền
tới những vụ khác, như thảm sát Mậu Thân, mà
những tài liệu từ một diễn đàn trên lưới cho thấy,
không phải VC mà là CH [Cộng Hoà] gây
nên. Rồi ngày nào, là vụ pháo kích
vô một trường học ở Cai Lậy, cũng pháo CH, không
phải hoả tiễn VC.
Nếu có chăng, là độc nhất một tấm hình,
chụp một ông xã trưởng bị VC chặt đầu, rồi dùng
chính cái sọ dừa, dằn bản án lên bụng tử thi,
trên bìa tờ Time của Mẽo ngày nào, mà
độc nhất Gấu tui còn nhớ.
Ngoài ra là… chấm hết!
Cả cuộc chiến, VC không gây một tội ác
nào khác. Nếu có, là phải đợi tới sau
1975.
Chúng ta tự hỏi, liệu sau này, lịch sử sẽ
phải giải thích như thế nào, về trường hợp quái
dị trên đây?
Cả một dân tộc chạy ra biển cả để trốn VC, mà
VC thì tốt như thế, không hề gây ra tới… “hai”
tội ác.
Để giải thích trường hợp quái dị trên
đây, Gấu tui đành mượn một câu, nhà văn
Đức Sebald trích dẫn, trong cuốn Về lịch sử tự nhiên
của huỷ diệt (On The Natural History Of Destruction) của ông:
Cái mánh loại trừ là bản năng tự
vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Nói rõ hơn, mấy ông VC rất rành
về chuyện chùi mép - nghĩa là loại trừ mọi rủi
ro, bị phanh phui, bị bật mí - này.
Chỉ tội ông tướng Loan, nghe nói, đã
từng mời báo chí Mẽo tới chứng kiến ông xử một
anh VC ngay tại trận tiền, những ngày Mậu Thân.
Độc giả Tin Văn [tanvien.net] đã biết về Sebald,
qua bài tưởng niệm ông, khi ông qua đời sau một
vụ đụng xe. Cuốn Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, cũng là
do một sự ngạc nhiên quái dị liên quan tới Đồng
Minh uýnh nhau với Nazi: Trong thời Đệ Nhị Chiến, 131 thành
phố và đô thị là mục tiêu ăn bom của Đồng
Minh, nhiều nơi biến thành bình địa. Sáu trăm
ngàn thường dân bị chết, gấp đôi con số thương vong
của Mẽo. Bẩy triệu rưởi thường dân Đức không còn
nhà ở. Sebald ngạc nhiên tự hỏi, tại làm sao mà
lịch sử lại vờ đi một sự kiện như thế, nhất là ở nơi ký
ức văn hoá của chính nước Đức?
Trong những lời ca ngợi cuốn sách lạ kỳ của ông,
có:
Hầu hết mấy ông nhà văn, ngay cả thứ ngon
cơm, viết cái điều có thể viết... Thứ quá sá
ngon cơm, nghĩa là thứ đại hảo hạng, viết cái không
thể viết... Tôi nghĩ đến nữ thi sĩ Nga, Akhmatova, và
nhà văn Ý gốc Do Thái, Primo Lévi. Nay có
thêm W.G. Sebald.
(Nữu Ước Thời Báo)
Bí mật của nỗi ngạc nhiên đến phải cầm viết
viết, và lên tiếng, của Sebald, là, ông
tự thấy mình cổ lỗ sĩ, khi chọn cho mình thứ tiếng nói
của lương tâm mà hầu như chẳng còn ai nhớ. Đó
là thứ lương tâm của một người nào đó, và
người này nhớ đến sự bất công, và nói thay cho
những người không còn có thể nói được.
(Điểm Sách Nữu Ước)
Trong bài viết Không chiến và văn
chương (Air War and Literature) ông có giải thích
về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi ức văn hoá Đức: Họ
coi đây là một điều cấm kỵ, một vết thương, vết nhục ở
trong gia đình, [a kind of taboo like a shameful family secret].
Người Việt thường tự hào về một Điện Biên
Phủ trên không. Chưa thấy ai nói tới cái
tủi nhục như là niềm bí ẩn trong gia đình, về
con số thương vong, thí dụ như trong những ngày Mậu Thân,
chỉ ở Sài Gòn không thôi, bởi những trái
hoả tiễn của VC?
*
"Nhà tôi ở dưới chân cầu Thị Nghè,
gần Sở Thú, gần Đài Truyền Hình, Đài Mẹ
Việt Nam, Đài Phát Thanh Sài Gòn, những ngày
Mậu Thân trở thành "mục tiêu" của hoả tiễn vi xi.
Cũng là thời gian bà xã mang bầu cháu gái
lớn. Tuy những ngày quá gay cấn phải "sơ tán"
tới nhà một người bà con ở Trương Minh Giảng, nhưng cái
thai đã bị ảnh hưởng, cháu sinh ra tưởng bị liệt, cứ
nằm hoài trong nôi, chỉ tới khi ông bố đi làm
về mới mỉm cười và chịu cho bế. Đi bác sĩ Trần Xuân
Ninh ở Tân Định, ông khám thật kỹ lưỡng xuơng, gân,
thần kinh... Sau khi kê thuốc, ông mắng vốn: gia đình
phải biết yêu thương nó! Ông đâu biết, khi nằm
trong bụng mẹ, cái thai đã "nghe ra" những tiếng hoả tiễn
réo xèo xèo khi bay ngang nhà. Nhờ thuốc insulin
do ông Ninh kê đơn, cháu đỡ dần, nhưng phải tới 5 tuổi
mới biết đi. Và cho tới khi lấy chồng, có con, vẫn còn
mắc tật đái dầm!"
Lướt
TV
GCC đọc Y Uyên ngay khi anh xuất hiện, và,
đúng như tên tác phẩm của anh, Bão
Khô, văn của anh khô quá, khác hẳn thứ
văn phong nhão nhẹt, đầy nước, đầy “cảm tính”, đầy than van, của mấy đấng khác!
Tuy nhiên, vẫn có 1 cái gì đó
thiếu, một hình ảnh, một viễn ảnh, như chữ GCC hay dùng,
trong trường hợp này. Thí dụ, hình ảnh anh
chàng lỡ độ đường lom khom với bọc quần áp, bên
lu nước, trong Dọc Đường của Thanh Tâm Tuyền. Hay hình
ảnh mấy tấm mồ, trong câu văn của Nguyễn Hải Hà, khi
viết về thành phố Pleiku mà tác giả chưa từng
tới:
Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa
địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
Nhưng mới đây, nhân đọc Bắc Đảo, thì
GCC mới hiểu ra là, có 1 thứ thiếu, của chính
chữ, chữ Mít.
Cái mà Y Yuyên, và những
nhà văn như ông thiếu, chính chữ Mít,
thiếu!
"History decomposes into images, not into narratives."
Walter Benjamin, trích dẫn bởi Coetzee.
Lịch sử vỡ ra thành hình ảnh, không
phải tự sự.
Cả 1 cuộc vượt biển khủng khiếp như thế, đọng vào
hình ảnh, vài nấm mồ, trấn ngự biển cả như 1 chân
trời lừng lững phía sau nó.
Hình ảnh tên Mít độ đường là
hình ảnh lũ Mít lưu vong sau này, không
ai dám chứa!
Memo
A RIDE
My feather was brushing the top of the carriage
And I was looking in to his eyes.
There was a pining in my heart
I could not recognize.
The evening was windless, chained
Solidly under a cloud bank,
As if someone had drawn the Bois de Boulogne
In an old album in black indian ink.
A mingled smell of lilac and benzine,
A peaceful watchfulness.
His hand touched my knees
A second time almost without trembling.
ANNA AKHMATOVA
Translated by D.M Thomas
Russians Poets
Everyman’s Library
Một chuyến đi
Cái lông chim vũ của tôi thì
đang quét quét
Ở trên chỏm chiếc xe ngựa
Và tôi thì đang nhìn vô
mắt chàng
Có cú nhói ở tim tôi
Tôi không thể nhận ra
Buổi chiều không gió,
Bị xiềng thật chặt bên dưới một bức tường mây
Như thể 1 người nào đó đã vẽ công
viên Bois de Boulogne [Paris]
Trong 1 cuốn an bum cũ, bằng mực đen Ấn Độ
Một mùi tử đinh hương lẫn mùi xăng,
Một chăm chú theo rõi bình yên
Tay chàng bèn chạm khẽ vào đầu gối
tôi
Lần thứ nhì
Gần như không run run.
Ui chao, đọc thì lại nhớ lần đi với Seagull.
Khi từ giã, thấy tội quá, hẳn thế, em mới đưa tay
ra...
IN DREAM
Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.
1946
Trong mơ
Xa cách, đen thui và dai như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà còn
vãi lệ hoài, không sợ con nít nó
cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta, như lần
từ giã chót, trên chiếc xe mà ta mượn
của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali, thăm ta.
Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.
To Seagull, en attendant Noel.
Take Care
Missing U
GNV
'YOU'RE LIKE A STRANGE AND
VERY STRICT DIET'
You're like a strange and very strict diet;
I'm learning to obey and be quiet.
Your love, my lover, my squire,
Is a trial by iron and fire.
You forbid me to sing and to smile,
And praying's been banned for quite a while.
As long as we don't separate,
You think everything's great!
So, a stranger to everything,
I live and no longer sing.
You might just as well
Forbid me heaven and hell.
Anna Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
Tribute to Dinh Cuong
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Dinh_Cuong_Memoriam.html
Lần gặp Đinh Cường lần đầu mà cũng là
lần cuối, sau này, nghĩ lại, y chang những lần gặp định
mệnh trong đời Gấu, theo nghĩa, phải có Lão Tặc Thiên
dính vô, nếu không, không thể xẩy ra.
Thí dụ, lần suýt đuối khi còn nhỏ,
Gấu đã kể đôi lần rồi (1): Thấy thiên hạ nhảy xuống
ao bơi ào ào, thằng nhóc nghĩ trong đầu, ai
cũng bơi được, chứ sao, thế là bèn cũng phóng
xuống, và chìm nghỉm, may nhờ 1 đấng đứng kế bên,
thuộc dạng đàn anh, nhảy theo, xách lên.
Rõ ràng là anh ta đứng đó,
để chờ làm cái bổn phận đó, tếu thế!
Cũng thế, là lần gặp ĐC.
Nếu không gặp ĐC, không có vụ nhường
phòng cho đấng bạn quí của anh, qua tá túc
bên nhà bạn Bạn, thì làm sao thoát
chết vì cái vụ tự làm thịt mình, ở PLT?
ĐC không phải thứ đến nhà bạn, ngủ. Anh
đi giang hồ, là ở khách sạn, không khi nào
làm phiền bạn bè, dù thành phố buồn,
hay không buồn, lạ hay không lạ, có bạn quí
hay không có bạn quí. Do trước đó, lái
xe, tí cán người, hay tí xém chết, vì
buồn ngủ, anh phải đến nhà NDT, để phòng hờ lỡ gặp chuyện
không may, còn có người biết.
Thê lương nhất, hay, cảm động nhất, thằng cha
già khú đế, là Lão Tặc Thiên,
để mắt tới Gấu Cà Chớn, là lần ở Đỗ Hòa. Phải
có thằng chả, Gấu về già, phán, như Einstein,
phán, lần ông khám phá ra luật tương đối.
Cái “great mistake” của Einstein, như ông nhìn
nhận, là tin vào định mệnh thuyết, tức là tin có
1 ông Trời!
https://www.goodreads.com/…/sh…/197053.You_Will_Hear_Thunder
You Will Hear Thunder by Anna Akhmatova
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã
từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ
trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời
thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
ANNA SWIRSZCZYNSKA [SWIR]
(born 1909)
ANNA Swirszczynska [Swir] was born in Warsaw, daughter
of a painter, and grew up in an artistic milieu. Her first volume, short
prose-poems published in 1936, secured for her the reputation of a refined
crafts woman consciously drawing from medieval Polish poetry and from
the imagery of painting. The years spent in Nazi-occupied Warsaw and her
service as a military nurse during the Warsaw Uprising of 1944 marked
her profoundly, but she found a form adequate to those experiences only
many years later. As she says herself, a writer has two basic tasks:
'First, to create his/her own style. Second, to destroy his/her own style.
The second is more difficult'. She reached her goal-a 'naked' style clinging
to reality-late in life, in the nineteen seventies, but those who knew
her early poetry recognized an internal logic in her development. In her
mature phase she is the author of violently feministic poems as well as
of brutal erotic poems of a rare concision. Her chronicle of the Warsaw
Uprising composed of tense descriptive poems, Building the Barricade, appeared
in 1972. (In 1979 a bilingual edition, with a translation into English
by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire, was issued in Cracow.) She
is fierce, lucid, ecstatic, terrifying. Though recognized as an eminent
poet, she occupies a place somehow apart, perhaps because she often disconcerts
critics.
ANNA SWIRSZCZYNSKA
I Knocked My Head Against the Wall
As a child
I put my finger in the fire
to become
a saint.
As a teenager
every day I would knock my head against the wall.
As a young girl
I went out through a window of a garret
to the roof
in order to jump.
As a woman
I had lice all over my body.
They cracked when I was ironing my sweater.
I waited sixty minutes
to be executed.
I was hungry
for six years.
Then I bore a child,
they were carving me
without putting me to sleep.
Then a thunderbolt killed me
three times
and I had to rise from the dead three times
without anyone's help.
Now I am resting
after three resurrections.
Anna Swir sinh tại Warsaw, bố là họa sĩ, lớn
lên trong môi trường nghệ thuật. Tác phẩm đầu tay,
những bài thơ xuôi ngắn, xb năm 1936 đã bảo đảm với
thiên hạ, đây là một nữ thi sĩ rất ư là ưu tư
về việc làm thơ, và thơ của bà lấy nguồn từ thơ Ba
Lan thời trung cổ, và từ hình ảnh hội họa. Những năm Warsaw
bị Nazi đô hộ, và thời gian phục vụ, như nữ y tá trong
quân ngũ, trong cuộc nổi dậy Warsaw Uprising 1944, tạo ấn tượng sâu
đậm ở nơi bà, nhưng phải những năm sau đó, nó mới khiến
bà tìm ra được một thể loại xứng đáng với những kinh
nghiệm này.
Như chính bà nói, một nhà văn thì
có hai nhiệm vụ cơ bản, thứ nhất, kiếm ra 1 văn phong riêng
cho mình, thứ nhì, huỷ diệt nó. Cái nhiệm vụ
thứ nhì thì rất ư là khó khăn.
Bà tới được cái “goal” này - một văn phong trần
trụi bám chặt vào thực tại – vào lúc muộn
màng ở trong đời của bà, thập niên 1970, nhưng những
ai biết những dòng thơ đầu đời của bà, thì nhận ra,
cái lô gic nội tại của phát triền, nảy nở. Vào
cái lúc trưởng thành rất ư là bảnh tỏng của
mình, bà là tác giả của những bài thơ,
nữ tính, dữ dằn, cũng như là những bài huê
tình tàn ác, dã man, "của 1 thứ súc
tích hiếm hoi". Ký của bà, về cuộc nổi dậy, gồm có
những bài thơ miêu tả, căng thẳng, “Xây dựng 1 chiến
tuyến”, xuất hiện năm 1972. [Bài thơ này, Mít đọc,
thì bèn nhớ đến "Hãy cho anh khóc bằng mắt em,
những cuộc tình duyên Budapest", của TTT]
Bà thì thật là hung dữ, sáng suốt, tới
đỉnh, cực kỳ ngây ngất… khủng khiếp.
Tuy được coi là nhà thơ thần sầu, nhưng lại chiếm giữ
1 vị trí riêng lẻ, có lẽ là do bà rất
tởm lũ phê bình gia!
Thơ
Mỗi Ngày
Poem-a-day
December
W. S. MERWIN
(1927- )
The New Song
For some time I thought there was time
and that there would always be time
for what I had a mind to do
and what I could imagine
going back to and finding it
as I had found it the first time
but by this time I do not know
what I thought when I thought back then
there is no time yet it grows less
there is the sound of rain at night
arriving unknown in the leaves
once without before or after
then I hear the thrush waking
at daybreak singing the new song
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
New Stanzas for
Amazing Grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
O homeless hand on many a street
Accept this change from me
A friendly smile or word is sweet
As fearless charity
Woe workingman who hears the cry
And cannot spare a dime
Nor look into a homeless eye
Afraid to give the time
So rich or poor no gold to talk
A smile on your face
The homeless ones where you may walk
Receive amazing grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
BEZHETSK
There are white churches there, and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son are blossoming there.
Diamond nights above the ancient town, and yellower
Than lime-blossom honey is the moon's sickle.
From plains beyond the river dry snow-storms fly in,
And the people, like the angels in the fields, rejoice.
They have tidied the best room, lit in the icon-case
The tiny lamps. On an oak table the Book is lying.
There stern memory, so ungiving now,
Threw open her tower-rooms to me, with a low bow;
But I did not enter, and I slammed the fearful door;
And the town rang with the news of the Child that
was born.
26 December 1921
Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
BEZHETSK
Ở đó có những giáo đường màu
trắng và những chuỗi nước đá đóng băng vỡ
rạn
Ở đó, đôi mắt như chòm hoa bắp của
con trai tôi cũng đang rộ nở tưng bừng (1)
Trời đêm lóng lánh kim cương soi
trên vòm con phố cổ
Và vầng trăng khuyết còn óng vàng
hơn cả màu mật hoa chanh
Những cơn bão tuyết khô khốc thổi về từ
những đồng bằng xa xa bên kia dòng sông
Và người dân, như những thiên thần
trong những ruộng đồng, cũng hoan ca hòa điệu
Họ đã dọn dẹp sắp xếp căn phòng đẹp nhất,
đã đốt sáng ngọn đèn nhỏ đặt trong chiếc hộp
xinh
Đã đặt lên chiếc bàn gỗ sồi cuốn
Thánh Kinh
Ở đó, ký ức khắc nghiệt xưa, giờ lại càng
khó chấp nhận, đã cúi đầu mở toang những căn
phòng trên ngọn tháp cho tôi.
Nhưng tôi đã không bước vào.
Và tôi đã đóng sầm lại cánh cửa
đáng sợ ấy.
Và khắp thành phố đã ngân
vang báo tin Chúa Hài Đồng vừa mới ra đời
(1)
Cornflower không phải là hoa bắp, mà
là thứ hoa này, tiếng Việt không biết gọi là
gì. Nó giống hoa cúc xanh. Tạm dịch,
Ở đó, đôi mắt màu xanh hoa cúc
của con tôi đang bừng nở .
Nghe vẫn kỳ kỳ .
K
Tks. NQT
Sách
& Báo
Mới
Just now ·
Second-hand
Văn học Nga thế kỷ 20, độc bản, cầm tay: The Portable
20th Century Russian Reader.
Blok nổi tiếng với bài thơ 12 tên Vẹm Liên
Xô, “The Twelve”.
Post sau đây bài giới thiệu của Clarence
Brwown, người biên tập, và sẽ có bản dịch tiếng
Mít.
Trong đời Blok, có ba người đàn bà.
Người thứ nhất, biểu tượng của 1 thánh nữ. Người thứ nhì,
1 em điếm thần sầu. Và người thứ ba, là Bà Mẹ
Nga Vĩ Đại, là hai bà kia cộng lại.
... Continue Reading
Cây nhà lá vườn, số mới nhất có
bài của Vila-Matas, post dưới đây.
Lâu lắm mới lại được đọc "tay này". Gấu
hăm he dịch 1 số bài trong Sổ Đọc của ông, ra Giêng
ngày rộng tháng dài, nếu chưa đi xa...
Vila-Matas gọi Rulfo là nhà văn "No"
- như Rimbaud - bỏ chạy, đào thoát văn chương: Chỉ
từ cú hích tiêu cực này, từ mê cung
"No", cái viết tương lai có thể ló ra.
Ông phán, Rulfo là nhà văn,
mà, đọc ông ta 1 phát, là bèn
bị liệt bại.
Một cách nào đó, nói theo
Blanchot, "không thể truyền đạt"?
Tôi nhận thấy, ông ta làm liệt
bại, có lẽ là do, đọc là 1 kinh nghệm khác thường,
giống như 1 giấc mơ, và khi giấc mơ quá hung liệt,
hơn cả cuộc đời, chính nó, và cuối cùng,
nó đếch làm sao truyền đạt: "Khi bạn không thể
nói, tốt nhất là câm bặt!"
In Bartleby & Co. (translated by Jonathan Dunne
and published by Harvill in 2004), Enrique Vila-Matas calls Juan
Rulfo a writer of the No; a writer who, like Rimbaud, abandoned
literature. "Only from the negative impulse, from the labyrinth
of the No, can the writing of the future appear," writes Vila-Matas.
Christopher Dominguez Michael: You've said that Rulfo
is one of the authors who paralyze you. Is he in some way, as
Maurice Blanchot would say, incommunicable?
Enrique Vila-Matas: I found Pedro Paramo paralyzing,
perhaps because reading it was literally an extraordinary experience,
similar to when a dream is so intense-more intense than life itself-that
in the end it is incommunicable to others. In my opinion, in a situation
like this, when you see that you will never be able to transmit
with the same intensity the emotion and the message contained in
the dream, the most sensible course of action is to kneel down before
the famous precept: "Whereof one cannot speak, thereof one must be
silent,"
Dominguez Michael: Did you read Rulfo before your first
trips to Mexico? Does it matter you that Rulfo is Mexican?
Vila-Matas: Yes, I read Rulfo before I ever went to
Mexico. I began with his short story "Luvina," which made a big
impression on me. On one of my first trips to Mexico, I remember
I spent the Day of the Dead by Patzcuaro Lake and believed I was
within Pedro Paramo, that is, in a sort of paradise on earth, converted
into hell.
Dominguez Michael: Do you agree with Borges when he
says that Pedro Paramo is one of the "best novels of Hispanic
literature, or indeed of any literature"?
Vila-Matas: It is a perfect novel, written by one of
the five best writers of the last century.
It is so perfect that you can barely add anything to
that, or perhaps just add: no comment.
I remember now, when I read it I felt I'd been left
even more alone than I already was, although strangely accompanied,
perhaps in the company of the unsayable.
- Letras Libres, May 2017. Translated from the Spanish
by Anne McLean.
The glory or the merit of certain men consists in
writing well; that of others consists in not writing.
Jean de la Bruyère
FICTION
Bartleby & Co.
Translated from the Spanish by
JONATHAN DUNNE
"A wry, mind-bending delight: Borges and Calvino would
have welcomed Vila-
Matas as a kinsman."
-Kirkus Reviews (starred review)
In his witty and delectable novel Bartleby & Co.,
Enrique Vila-Matas tackles the theme of silence in literature:
the writers and non-writers who, like Melville's Bartleby, "would
prefer not to." Addressing such "artists of refusal" as Robert Walser,
Robert Musil, Arthur Rimbaud, Marcel Duchamp, Herman Melville, and
J. D. Salinger, Bartleby & Co. could be described as a sort of meditation,
or an homage to the "Writers of the No": a walking tour on a particularly
rocky path through world literature. Written as a series of footnotes
(a non-work itself), Bartleby embarks on answering such questions
as why do we write? Why do we exist? The answer lies in the novel
itself: told from the point of view of a hermetic hunchback who has
no luck with women, and is himself unable to write, Bartleby is utterly
engaging, a work of profound and philosophical beauty.
"Perfect. Beautiful. Wistful. There's no hint of irony
in these words of praise for Bartleby & Co., the first novel
by the Spanish writer Enrique Vila-Matas to appear in English."
-Thomas McGonigle, L.A. Times
"Mr. Vila-Matas shows that the reasons for (and the
consequences of) not writing fiction can, in a funny way, be almost
as rich and complicated as fiction itself."
-The Economist
ENRIQUE VILA-MATAS was born in Barcelona in 1948.
His novels have been translated into eleven languages and honored by many
prestigious literary awards, including
the Prix Medicis Etranger.
JONATHAN DUNNE has translated Bartleby & Co. and
Montano's Malady, by Enrique Vila-Matas, as well as a number of
other books from Spanish, Catalan, Galician and Bulgarian. His work
has been nominated for the International IMPAC Dublin Literary Award
and the Weidenfeld Translation Prize.
Cover photo: "Typing" © H. Armstrong Roberts/GORBIS
Design by Semadar Megged
A New Directions Paperbook NDP1063
Independent Publisher Since 1936
ndbooks.com
USA $15.95
Câu vinh danh, mở ra cuốn sách, cái
thằng viết, khen nó bảnh, sao bảnh bằng, cái thằng
chẳng thèm viết?
Câu này làm nhớ câu của
Lý Trác Ngô, mở ra Mái Tây, nhớ
đại khái: Cái thằng viết bảnh nhất, có bao giờ
viết?
Cuốn sách của Vila-Matas, là về, "tớ chọn
đừng"
Vả chăng, những kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu
nào có ý định viết văn?
(Lý Trác Ngô. Tựa Tây Sương
Ký).
TTT, lần độc nhất ở hải ngoại, Gấu nói chuyện
điện thoại, khi thằng em hỏi, anh không viết nữa ư, ông
anh trả lời, trời cho có vậy - đúng là trả
lời như thế - GCC nghĩ, "ông chọn đừng", sau Trại Tù.
NONFICTION
Translated by Anne Posten
Trong Bartleby & Co. có nhắc tới cuốn "Vừa
đi đường vừa kể chuyện" - thuổng Bác Trần Dân Tiên
- giữa Walser và Seelig.
Bèn khoe hàng. (1)
Walser cũng thuộc trường phái No, nghĩa là
cũng mắc hội chứng Bartleby’s syndrome: Tớ chọn đừng.
(1)
Of Walser's noiseless howls, we have the copious testimony
of Carl Seelig, the loyal friend who continued to visit the writer
when he ended up in the mental hospitals of Waldau and Herisau. Out of
all the "portraits of a moment" (the literary genre Witold Gombrowicz
was so fond of), I choose the one where Seelig caught Walser at the exact
moment of truth, that instant when a person, with a gesture - Holderlin's
nodding of the head, for example - or a phrase, reveals who they really
are: "I shall never forget that morning in autumn when Walser and I were
walking together from Teufen to Speichen, through a thick fog. I told
him that day that perhaps his work would last as long as Gottfried Keller's.
He stood rooted to the spot, viewed me with utter seriousness
and asked me, if I valued his friendship, never to repeat such a
compliment. He, Robert Walser, was a walking nobody and he wished
to be forgotten."
Re: TTT, “chọn đừng”, sau Trại Tù.
Vila-Matas giải thích:
8) Are there any other reasons for thinking it is better
to write? I have just read The Truce by Primo Levi, in which
the author describes the people he was with in a concentration camp,
people we would know nothing about were it not for this book. Levi tells
how they all wanted to return to their homes, how they wanted to continue
living, not just out of the instinct for survival, but because they wished
to recount what they had seen. They wanted their experience to prevent all
this happening again, but there was more: they sought to explain their tragedy
so that it might not sink into obscurity.
We, all of us, wish to rescue, via memory,
each fragment of life that suddenly comes back to us, however unworthy,
however painful it may be. And the only way to do this is to set it
down in writing.
Literature, as much as we delight in denying
it, allows us to recall from oblivion all that which the contemporary
eye, more immoral every day, endeavors to pass over with absolute indifference.
Tạm dịch câu chót:
Văn chương, một khi mà chúng ta sướng điên
lên, vì chối từ nó, cho phép chúng
ta giành giựt lại, từ quên lãng, tất cả những
điều bằng con mắt đương thời, bằng mỗi ngày, mọi ngày
vô đạo đức, cố gắng truyền đạt, với 1 sự d ửng dưng tuyệt đối,
Viết
mỗi ngày
Trước khi tiếp tục câu
chuyện ở kia, tức là, cụ thể hơn, báo Nhân
dân đã đăng những tin tức gì trong dịp Tết Mậu
Thân 1968? (tương ứng với ngày hôm nay, 31 tháng
Giêng, là mồng 2 Tết năm ấy):
Đoạn cuối bức điện ở trang nhất (ký tên Phạm Văn Đồng):
Mỹ và tay sai càng mức càng tệ hơn:
Vụ Mậu Thân, nổ ra sớm 1 ngày, ở Miền Trung. Gấu tử thủ
ở trên Đài VTD, building số 5 Phan Đình Phùng,
gửi vô tuyến viễn ảnh cho cả hai hãng AP & UPI, vì
AP man, ông Hưng, bị vụ giới nghiêm không vô được
Đài. Horst Faas, trưởng phòng hình ảnh AP, phái
1 tên ký giả Mẽo lên Đài, căn me, trông
chừng, phòng hờ Gấu vờ hình AP. Tên Đức này tinh
ma còn hơn cả Mít.
Cõi khác
1969 (1)
Những đêm trực ở Đài,
hoặc ngủ ngay sau khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu thuyết,
nghe lơ đãng một điệu nhạc, một giọng hát, chập chờn theo
khói thuốc rồi ngủ lúc nào không hay. Có
khi ngủ luôn tới sáng. Đó là những đêm
thành phố may mắn không bị pháo kích, tình
hình chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu như đêm nào
cũng bị dựng dậy. Khi thì nhân viên viễn ký hai
hãng AP, UPI yêu cầu chỉnh lại tín hiệu. Hoặc đồng nghiệp
trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ thay
đổi tần số liên lạc. Có khi một đồng nghiệp Phi Luật Tân
ở mãi Manila réo chuông máy viễn ký liên
hồi, chỉ để hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ
con gia đình, hay nhờ dịch giùm một message bằng tiếng Pháp
của hãng SITA than phiền nhân viên RCA Manila làm
ăn cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận để điện
thoại ngay kế bên, và chỉ giật mình thức giấc khi nghe
tiếng đập cửa ầm ầm: Anh chàng Mẽo trưởng phòng tin tức AP
và nhân viên viễn ký, cũng đồng nghiệp Bưu Điện
làm ngoài giờ cho hãng thông tấn ngoại quốc,
một đỏ gay tức giận, một lắc đầu ái ngại, hình như vào
lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống Johnson
tại đảo Midway. Hôm sau bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may
còn là thầy dậy cũ khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, gọi lên
văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là trong Mậu Thân
đợt hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng
mọi giá phải chuyển ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục
ký giả, phóng viên ngoại quốc, ngồi xe díp lùn
có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không
may bị Việt Cộng tóm được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là
thảm sát. Người gục chết trên vô lăng, kẻ vắt nửa khúc
đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt
lộ. Sau này, khi cuộc chiến nghiêng về phía Miền Bắc,
dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ cảnh tướng Loan xử bắn
tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass, trưởng
phòng hình ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền
với Trưởng Đài Vô Tuyến Điện Thoại, anh viết văn thư tố cáo
gã chuyên viên trẻ, Jeune Technicien, nhân viên
Bưu Điện làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm.
Sau cùng mọi chuyện cũng ổn thỏa, vì ngay những ngày
đầu biến cố Mậu Thân, khi hai bên đang tranh giành từng
viên gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày
Biệt Động Thành, ai chết trước tại Đài Phát Thanh
Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh
Mỹ đang vật lộn tay đôi với Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ
cách đó cũng không xa, gã chuyên viên
trẻ do nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên
đã một mình "tử thủ", sau thêm tay phóng viên
AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở vòng
kẽm gai cho vào bên trong phòng tuyến. Gã chuyên
viên trẻ đã chuyển hình cho AP, giùm ông
bạn già trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh
Quân Đội cho đi nằm ấp một thời gian dài, khi được thả bị Bưu
Điện cho về hưu non, do có kẻ tố cáo ông là Việt
Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông
bị một đồng nghiệp mưu hại chỉ vì nhất định không vào
đảng Cần Lao hay tham gia phong trào Cách Mạng Quốc Gia. Những
ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình ông
đi Mỹ, nhưng ông từ chối.
Bao nhiêu năm, quãng
đời vẫn bám cứng. Những giây phút tuy chết chóc,
tuy kinh hoàng nhưng sao vẫn có vẻ chi quyến rũ, chi kỳ
cục. Cảm giác của một người tuy biết rằng có thể chết bất
cứ lúc nào nhưng vẫn loay hoay, cựa quậy: Gã chuyên
viên trẻ lui cui chỉnh tín hiệu máy chuyển hình,
như đây là tấm cuối cùng, đặc biệt nhất, chất lượng
nhất. Gã phóng viên người Mẽo cao như cây sào,
chẳng biết một chút gì về máy móc, kỹ thuật,
nhưng cũng chăm chú theo dõi, như để nhắc nhở nếu có
gì sai sót, và không quên lom khom, cố
thu gọn cái thân xác kềnh càng sao cho bằng
gã chuyên viên người Việt, ý như vậy là
đồng đều nếu chẳng may có một viên đạn bất ngờ. Cả hai cùng
lúc nhoài người xuống sàn nhà, có khi
còn trước cả một tiếng nổ lớn ngay phía dưới chân building,
hay ở Đài Phát Thanh liền bên. Những lúc tiếng
súng tạm ngưng, trong khi chờ Tokyo xác nhận chất lượng buổi
chuyển hình, và quyết định tấm nào cần lập lại, cả
hai chăm chú theo dõi biến động trên bản tin AP, UPI
qua máy viễn ký, có cảm giác vừa ở bên
trong vừa bên ngoài những giây phút nóng
bỏng, và chiến tranh cho đến lúc này, vẫn còn
thuộc về những kẻ kém may mắn hơn mình.
Bao nhiêu năm vẫn còn
giữ nguyên cảm giác rụng rời, trong đêm khuya vì
mệt mỏi quá thiếp đi, khi giật mình thức giấc, thản nhiên
bật đèn, thò đầu ra bên ngoài cửa sổ, thấy
từng mũi súng trên tháp chiến xa giận dữ ngó
thẳng khuôn mặt trắng bệch, tách bạch từng sợi tóc
đang dựng đứng...
Có đêm, khoảng ba giờ
sáng, chợt thức giấc, mở cửa căn phòng nhỏ có gắn
máy lạnh và được ngăn tiếng động, ban ngày dùng
làm studio cho đám phóng viên các hãng
thông tấn truyền hình đọc tin về hãng chính
và cùng lúc cho cả thế giới. Khi chiến tranh leo thang,
nhất là sau vụ nổ tại nhà hàng Mỹ Cảnh khiến gã
chuyên viên và ông Trưởng Đài suýt
mất mạng nếu không có sự thông cảm của số mệnh, vào
phút chót đã kiếm giùm hai người thế mạng,
Bưu Điện cho thành lập Trung Tâm Báo Chí, Press
Centre tại khu Thương Xá Rex và Trung Tâm USO ở đường
Nguyễn Huệ cho đám quân nhân Mỹ, khi đó cuộc
sống tại đỉnh cồn mới trở lại bình thường, và bớt mùi
nơm nớp sợ sệt. Buổi sáng sớm không còn cảnh mở cửa
ra cầu thang thấy một anh GI nằm ngủ ngon lành, chờ làm người
khách hàng đầu tiên nói chuyện với vợ con gia
đình. Hoặc cảnh một cô điện thoại viên dẫn anh chàng
ngoại nhân vào phòng studio, khi trở ra anh khóc
ròng: Giờ này đã nửa đêm gần sáng, vậy
mà vợ anh không có nhà. Thời gian đầu, Bưu Điện
chỉ có một mạch vô tuyến điện thoại trực tiếp với Oakland, California qua hệ thống cao tần HF, máy
móc sử dụng do người Pháp để lại nên ba trật bốn vuột,
và chỉ trao đổi điện đàm cao lắm là hai hoặc ba tiếng
đồng hồ. Rồi cuộc chiến bắt đầu thực hiện những điều cam kết tàn
khốc. Ông Diệm chết. Người Mỹ đổ quân xuống bãi biển
Đà Nẵng, hy vọng mở ra một Normandie thứ hai tại Á Châu,
lập lại lịch sử, lần trước là Phát-xít, Quốc Xã,
lần này biết đâu là Cộng Sản. Đám diều hâu
kên kên ký giả, phóng viên, đánh
mùi xác chết, thèm mùi danh vọng, biết đâu
một "Chuông Gọi Hồn Ai", một "Mặt Trận Miền Tây..." tái
xuất hiện nơi đầm lầy nhiệt đới này. Đám tài phiệt
ATT ở Mỹ, RCA Manila, Cable/Wireless Hongkong... ngửi mùi tiền, đổ
xô vào Việt Nam.
Sốt sắng nhất là RCA Manila.
Được lời mời của Bưu Điện, họ phái ngay hai chuyên viên
Phi Luật Tân qua Sài-gòn giúp thành
lập mạch viễn ký, đường điện thoại viễn liên Sàigòn-Manila
(vô tuyến điện), Manila-New York (cáp
ngầm dưới biển). Trong bữa tiệc chia tay tại nhà hàng nổi
Mỹ Cảnh, số phận run rủi xui khiến gã chuyên viên nẩy
ý định tốt, nhường hai ông bạn mới quen chỗ ngồi phía
trong, nhìn ra mặt sông, ngắm cảnh Thủ Thiêm, những
con đò đưa khách qua lại hoặc mua vui trên sông,
những ánh đèn rực rỡ từ những con tàu đùa giỡn
cùng sóng nước. Như đã được chỉ định làm vật
tế thần, hai ông bạn Phi vừa mới chân ướt chân ráo
tới Sài-gòn, chưa được thưởng thức gái đẹp, đồ ăn
ngon, phong cảnh hữu tình, đã hứng giùm hầu hết những
mảnh mìn Claymore từ phía bờ sông thổi xuống. Một
bị mảnh mìn cưa ngang cổ họng chết tại chỗ. Một bị thương nặng,
được chở cấp tốc về căn cứ Clark Phi luật Tân, vài ngày
sau chết vì xuất huyết nội sau khi giải phẫu. Gã chuyên
viên trẻ suýt cụt một cánh tay, nếu không nhờ
tài giải phẫu của Bác Sĩ Daney, người Pháp, làm
việc tại nhà thương Grall. Vậy mà anh ta cũng không
làm sao từ bỏ được cái tật khuỳnh tay lên thành
ghế.
Có khi vào khoảng hai
ba giờ sáng, như người khách tuy không được Cõi
Âm mời gọi nhưng vẫn cố tình mò tới, như bị người
chết, những gã phóng viên, nhiếp ảnh viên người
Mỹ, người Nhật... dựng dậy, gã chuyên viên trẻ mở cửa
căn phòng nhỏ, bước ra ngoài nhìn đám máy
móc quen thuộc. Ra bao lơn nhìn ngang tầm thành phố.
Ngọn đèn đỏ lập lòe trên tháp Đài Truyền
Hình, trên tháp Đài Viba Bưu Điện. Những hàng
cây đen sẫm trong đêm. Những ngọn đèn đường lạnh. Bãi
đất trống bên dưới chân Đài. Những vòng kẽm gai
quấn quanh tòa nhà. Những người lính gác trong
những công sự cá nhân quanh quất đâu đó...
Chính vào những lúc cô đơn như thế, vẫn thường
tự hỏi đã yêu thương cô bạn, kể từ lúc nào...
Khi chưa gặp nhưng đã tưởng
tượng ra một hình bóng, một dáng dấp tuy mảnh mai
yếu ớt, nhưng cũng thật bướng bỉnh cứng cỏi, tuy sẵn sàng chịu đựng,
sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác, kể cả lỗi lầm
của định mệnh, nhưng không thể nào cho phép cuộc chiến,
cuộc đời, hoàn cảnh sống và nhất là những người khác
làm xấu đi, hủy hoại, hoặc tiêu diệt. Một hình ảnh
kết tụ của khí hậu, đất đai, mùa màng, cây cối...
thay thế những nuối tiếc chắt chiu, những khô cằn, khắc nghiệt,
mặc cảm côi cút, bất hạnh: Tất cả đã chết, lần thất
thểu dưới mưa, chạy theo một cô bé con với một ý tưởng
thật ngây ngô tức cười, nhưng cũng thật cảm động: "Anh yêu
em bởi vì anh yêu Hà-nội."
Hay ngay khi gặp lần đầu nhưng tất
cả đều đã muộn, đã không thể sửa chữa được, và
đó là ý nghĩa của thảm kịch, thần thánh cũng
phải cúi đầu khuất phục.
Hay những lần gặp sau đó,
những buổi tối ngồi trò chuyện ở phòng khách trong khi
mấy đứa em, mấy cô bạn ở chung nhà đã lui vào
phía trong. Kể cô nghe những chuyện lặt vặt ở sở, cuốn phim
vừa coi, cuốn sách vừa đọc, xứ Bắc Kỳ xa xôi, và Hà-nội.
Nghe cô kể những năm học trường quận lỵ, trung học Mỹ Tho, đại học
Đà Lạt. Nghe cô giảng giải về một miền đất không hoàn
toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu thật
mơ hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu
giống như chớm thay đổi thời tiết. Tự nhủ thầm cô bạn chắc không
nhận ra, và sẽ chẳng bao giờ dám thú nhận. Sau này
nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì
quá cô đơn, lén viết lên trang tiểu thuyết Tô
Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong,
Je vous aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không
gặp, đành nhờ một cô bạn ở chung nhà nói giùm,
tin chắc cô sẽ hiểu.
Và trong những đêm ngồi
canh xác đứa em tại nhà Hội thị xã Sóc Trăng,
chờ máy bay đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai
táng, trong lúc loay hoay thắp từng cây nến trên
quan tài bị gió thổi tắt, hay nhặt nhạnh từng mẩu nến, đốt
lên ngọn lửa ngồi xúm quanh, chia nhau chút hơi ấm,
hơi lạnh của người đã chết, nghe những người lính, viên
sĩ quan cùng đơn vị nói về những ngày đầu chuẩn uý
tới nhậm chức, những giờ phút cuối... Trong những giờ phút
thê lương vẫn nghĩ rằng một ngày nào sẽ kể lại tất cả.
Sau cùng phải cảm ơn cô
bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình. Con chó
dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo không còn
sợ hãi cái bóng của chính nó. Những
lần từ biệt cô trên đường trở về, thành phố những đêm
run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần giáng
xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai.
Có những khoảng đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm
vào một quãng đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong bóng
đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy
những mũi súng đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa.
Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà
không được gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi,
nói không, nói không thể yêu, không
thể hiểu được tình yêu là gì. Nhiều lần tới
nhà khi đã quá khuya, trong nhà đèn
đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết
sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng
chân di động. Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói,
tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt
hoảng trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt
buộc cô phải nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong
khi không có thì giờ để phân vân, cân
nhắc...
Hoặc không hề có ý
định gặp. Không hề trông mong cô sẽ giúp đỡ,
thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên hàng
giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá khô, tiếng
mèo kêu thảm thiết trên mái ngói, chờ
cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần rồi thất thểu rời con
ngõ. Một lần xe hết xăng, đứng xớ rớ ngay giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng
một tên khùng, một thằng say, hay một người lính ban
cho một cái chết lãng nhách, nhưng ít ra còn
có thể giải thích như một tai nạn. Sau cùng một người
đi đường đã thương tình kéo về tận đỉnh cồn. Nơi làm
việc là tầng lầu trên cùng của một building, bất động
sản của người Pháp. Những đêm trực thường lợi dụng những lúc
rảnh rỗi giao Đài cho người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng.
Ghé quán cà phê khu Đa Kao, nơi đứa em từng ngồi
dán lưng vô tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà
phê túi, hủ tíu Tầu khu ngã Sáu Sài-gòn,
hồi tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé
sạp thuốc lá, mua từng điếu lẻ, một thói quen từ hồi còn
đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà Trẻ
trong căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé
sạp báo mua một tờ có đăng truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua
những hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một lần đọc thấy tin quận lỵ
quê cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm
sau vội ghé nhà rồi cả hai ra bến xe đón những chuyến
đầu tiên từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc pháo kích
không gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh
bạo rủ cô ra Sài-gòn. Đó có lẽ là
lần du ngoạn đầu tiên.
Một lần trên đường về, khi
chạy xe đến gần khu chợ Bến Thành, từ xa đã nhìn thấy
một gói đồ nằm giữa mặt lộ, đường Trần Hưng Đạo, dưới ánh đèn
chói lòa. Có tiếng súng nhỏ rồi tiếng còi
xe Quân Cảnh thổi dạt xe cộ, người đi đường qua hai bên. Khi
cơn báo động hoảng đã qua đi, trong một thoáng bỗng
nhận ra vẻ tiều tụy của thành phố. Của mối tình. Ngay cả những
giây phút êm đềm ngồi quây quần bên mấy đứa
em, mấy cô bạn, vẫn cảm thấy cực kỳ cô đơn, có cảm giác
như không còn thương yêu nổi ai, đã tự lừa dối
khi nghĩ rằng đã yêu thương cô bạn. Đã lấy mức
độ pháo kích làm thước đo tình yêu, đã
lầm tiếng hỏa tiễn là tiếng reo hò đắc thắng của mối tình:
Nhiều khi quẩn trí còn mong mỏi thành phố bị pháo
kích hoài hoài để được sống mãi mãi những
giờ phút thê thảm nhất của mối tình. Những ngày
Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê,
nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng
với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng
câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những
thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy
còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô
bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân
xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
1969 (2)
Mối tình tưởng tượng nhưng
luôn có cảm tưởng cuộc chiến coi nó như kẻ thù,
luôn soi mói rình rập, khi nhắn nhủ khi đe dọa, phải
chi mi đừng tưởng tượng ra một cô bạn tuyệt vời như vậy, phải chi
mi bớt yêu thương cô bạn đi một chút, số phận không
phải của riêng mi mà biết đâu của cả dân tộc sẽ
bớt chút thê thảm. Khi cô bạn tìm được người bạn
đời, mi không còn trông cậy vào đâu để chạy
trốn nỗi cô đơn, đành trốn chui trốn nhũi vào trong
mớ sách vở, và khi hết còn chịu đựng nổi, đã
tàn phá đời mi thay vì chịu thua... Đó những
ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn
khi ra đường còn nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi
nét mừng rỡ vì đêm qua Việt Cộng tha không pháo
kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không
còn được nghe lời ân cần chúc đồng bào ngủ
ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc la-dô để khỏi làm
phiền bà con lối xóm. Thay vào đó là
một giọng nói đã được gột bỏ mọi rào đón: Tên
những người phải trình diện theo lệnh Tổng Động Viên, nghe
như đã thuộc tài nguyên của một thế giới khác,
những con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn
chút ý nghĩa vì chúng cho biết sắp tới lượt
ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...
Nhà cô bạn lúc
này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung
cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố
Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần
hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào
cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới,
một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả
đều lạ mặt. Cảnh vật, con người còn tỏ vẻ giận dữ, như thể mi là
nguồn cơn của mọi tai họa, tại mi mà cô ta rời khỏi chỗ này...
Vậy mà khi đến lượt trình diện, thời tiết Miền Nam những
ngày cận Tết, lần đầu tiên nằm giường sắt Quang Trung, tự
nhủ thầm đứa em trai cũng có thể đã từng nằm đúng trên
chiếc giường sắt lạnh lẽo này... Khi đã bớt bi thương, vẫn
khuôn mặt cô bạn từ trong căn nhà đứng nhìn ra,
vẫn mũi súng đen ngòm ngó sâu vô mắt,
đêm nào từ nhà cô bạn về đã quá
giờ giới nghiêm, một người lính từ đáy sâu thành
phố đột nhiên xuất hiện. Anh chàng như bực tức vì
đã phải chờ đợi giây phút này từ đời kiếp nào,
như hả hê vì bắt được quả tang, mũi súng đen ngòm
đầy hăm dọa tra hỏi, nhưng cũng đầy đau thương trắc ẩn: "Có phải
mi yêu thương cô bạn?", và cứ thế khăng khăng chối miết
:"Không, Không!"... Ba mươi năm sau, tưởng vết thương đã
lành, tưởng không chỉ mọi người mà ngay cả chính
mi cũng đã quên đi, Thần Chết cũng bỏ qua, hoặc chính
nó cũng bị đánh lừa, hả hê trong nỗi chiến thắng, như
vậy mi không hề chịu thua định mệnh, đúng vào lúc
đó, mọi chuyện lại bắt đầu, còn thê thảm hơn ngày
nào, bởi vì bây giờ đâu còn chiến tranh
để mà ăn vạ. Không những vậy, bây giờ mi còn một
người vợ mà mi chưa từng nói được một lời yêu thương
an ủi, còn mấy đứa nhỏ đã trưởng thành, hoàn
toàn do người vợ đau khổ của mi nuôi nấng, dậy dỗ...
Đột nhiên nhớ những ngày
ở Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Nhớ cái chết của anh chàng
thanh niên tuy cách xa chừng chục tuổi nhưng cùng
trình diện một đợt. Bởi vì đối với mi, nếu không có
biến cố Mậu Thân và sau đó là lệnh Tổng Động
Viên, chắc gì đã có dịp được nằm giường sắt
Quang Trung. Mấy ngày đầu bỡ ngỡ, suốt ngày ngồi câu
lạc bộ, hoặc bên ly cà phê, hoặc bận rộn với mấy trái
bida, đêm nằm co quắp trên chiếc giường sắt. Đúng vào
thời điểm này, bài Tình Nhớ của Trịnh Công Sơn
vừa được tung ra. Khoảng nửa đêm, một tay nào chắc nhớ nhà,
nhớ bồ, hay chính nỗi cô đơn của mi cứ thế huýt sáo
mãi điệu nhạc... Bây giờ mỗi khi tình cờ, hoặc cố tình
nghe lại, có cảm tưởng bài nhạc vẫn cất giữ giùm
nỗi chia xa Sài-gòn trong khi cuộc chiến, trước mắt là
những ngày tháng gian khổ nơi quân trường đang chờ đợi,
nỗi nôn nóng mong được gặp lại cô bạn nếu mai kia có
dịp trở lại Sài-gòn. Nhưng kỳ diệu, không, phải nói
thê thảm, bài nhạc vẽ rõ bộ mặt, tuy non nớt tuy thẫn
thờ ngơ ngác, còn nguyên nét học trò
lần đầu tiên xa mái trường, lìa gấu áo mẹ, nhưng
vẫn toát ra vẻ bướng bỉnh, liều lĩnh của một con bạc dốc hết túi
làm cú đánh cuối cùng: Để phản đối chiến tranh,
thay vì trốn tránh, cưỡng lại lệnh trình diện nhập
ngũ, cậu thanh niên chờ chiếc xe GMC đang chạy hết ga, từ bên
lề đường ngay phía bên ngoài câu lạc bộ, lao ra
hứng trọn...
Đợt trình diện đó có
đủ mặt "anh hào". Thì vẫn đám bạn bè từng
ngồi chung bàn ở quán Cái Chùa, cùng
ngửi mùi mực in quán Văn đường Phạm Ngũ Lão. Quán
có ông chủ già rất lịch lãm, và ưu ái
anh em văn nghệ, chẳng bù cho ông thư ký tòa
soạn Trần Phong Giao, bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng
nhăn nhó trong cách tính trang, tính tiền nhuận
bút, và nhất là trong việc giúp đỡ những người
chưa thành danh muốn nhờ bảng hiệu nhà xuất bản Nguyễn Đình
Vượng. Cậu thanh niên hình như chưa từng bỏ sót một
số báo Văn, "văn kỳ thanh" nào Nguyễn Xuân Hoàng,
nào Huỳnh Phan Anh... lần này gần như gặp đủ mặt. Sau khi
cậu ta tự tử chỉ hùi hụi tiếc một điều, nếu biết trước đã
kéo cả bọn tới trình diện. Bởi vì Huỳnh Phan Anh, bị
ám ảnh bởi những ngày "đổ mồ hôi nơi quân trường
thay vì đổ máu nơi trận địa", cộng thêm những lời hù
dọa của những anh chàng ra vẻ hiểu biết những trò "huấn nhục"
sắp tới, khiến căn bệnh bao tử đột nhiên lên cơn, đêm nào
cũng dùng cái thùng nước lèo của mi làm
chiếc gối; còn Nguyễn Xuân Hoàng vốn bô trai
nên lúc nào cũng quanh quẩn bên mấy nữ tiếp viên
câu lạc bộ; cuối cùng chỉ có còn mi, để quên
đi nỗi nhớ, để đỡ bồn chồn chờ ngày nghỉ phép cuối tuần gặp
lại Sài-gòn, gặp lại cô bạn, đã thân cận
người bạn nhỏ mê văn chương và có thể còn mê
làm cách mạng, còn mong mỏi cái chết của mình
có thể sẽ có ích, nếu không gây một tiếng
vang nào đó thì ít ra cái mạng sống
này cũng do ta quyết định. Nhưng những người Quân Cảnh đã
mau chóng xóa sạch dấu vết, nếu còn chăng, đối với
mi, là khuôn mặt trẻ thơ không chút dấu hiệu cho
biết đây là người được Thần Chết tuyển chọn, không thông
qua cuộc chiến...
Đêm, vẫn đêm đêm,
như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm
muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại
Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng
ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần
chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng
rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố
bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa
làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn
tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant,
và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy
đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa
khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm
việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé
qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông
thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu
có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán.
Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc,
khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách
che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn
Đình Toàn làm canh xì.
Nhà Toàn ở ngay dưới
chân building nơi hàng ngày làm việc, số 7
Phan Đình Phùng, Đài Phát Thanh Sài-gòn
số 5, Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện số 11: nhiệm sở đầu tiên
sau khi ra trường. Một nửa tòa nhà sau bị phá bỏ
lấy chỗ xây cất Trường Quốc Gia Bưu Điện, thay vì học nhờ
trường Quốc Gia Thương Mại ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng đối diện nhà
thờ Phan-xi-cô. Hai năm trời làm công việc sửa chữa
máy móc từ các đài địa phương gửi về, lâu
lâu vì nhu cầu công vụ, lại một thầy, một đệ tử, thường
là một chú nhỏ học việc, một chiếc công xa đã
được chuyển bảng xe thành số dân sự, phòng ngừa dọc
đường gặp mấy ông du kích giải phóng, hai thầy trò
làm một chuyến viễn du tới một đài địa phương, thời gian
yên tĩnh trước cơn bão tố, trước khi gặp cô bạn...
Quen tác giả Chị Em Hải một
bữa tình cờ cùng ăn sáng tại quán phở 44 đối
diện Đài Phát Thanh Sài-gòn. Ông chủ
quán cùng làm Bưu Điện giữ việc tháng tháng
phát tiền. Toàn tới làm quen, tự giới thiệu và
đề nghị viết cho Văn. Vợ Toàn là một trong những người đầu
tiên đọc bản thảo truyện ngắn "Thời Gian". Khi Toàn đưa đến
nhà giới thiệu, Bà tuyên bố một câu xanh rờn
:"Anh đúng là văn sĩ mê gái!". Không ngờ
câu nói trở thành định mệnh. Y hệt Bà biết rất
rõ, cái cảnh thất thểu chạy theo một cô bé con
nơi cổng trưởng Đại Học Khoa Học, đại lộ Cộng Hòa, không phải
tận cùng mà là bắt đầu. Y hệt Bà biết rất
rõ cô bạn tuy hai người chẳng hề gặp nhau. Sau truyện ngắn
là lần gặp gỡ Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao
ở quán Cái Chùa. Ông già rất trịnh trọng,
đúng tác phong protocole. Tiền nhuận bút để trong phong
bì. Ba trăm đồng, thời ông Diệm mới bị giết là một món
tiền đủ cho một buổi gặp gỡ tại quán Ngân Đình, ngay
cột cờ Thủ Ngữ ngó qua Thủ Thiêm, nơi mi suýt đi theo
ông Diệm.
Bởi vì nếu ông Diệm
còn sống, có thể không có vụ người Mỹ đổ quân
tại Đà Nẵng, và sau đó là cả một đám kên
kên, diều hâu, ký giả, phóng viên ngoại quốc
đổ xô vào Việt Nam. Mi đâu có dịp kết bạn cùng
hai chuyên viên Phi Luật Tân làm cho hãng
RCA Manila. Theo lời mời của Bưu Điện, họ sang Sài-gòn giúp
thành lập mạch viễn ký dành cho báo chí
ngoại quốc, cuối cùng bỏ mạng tại nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh trong vụ Việt Cộng đặt hai trái mìn dàn chào
đám quân nhân Mỹ mới tới, xác được mang về Manila,
những nạn nhân đầu tiên của mạch thông tin liên
lục địa qua cáp ngầm dưới đáy bể. Nhưng ký giả đầu
tiên hy sinh tại chiến trường Việt Nam là Huỳnh Thành
Mỹ, nhiếp ảnh viên hãng thông tấn AP...
Trong số những ký giả, phóng
viên chiến trường chết tại Việt Nam, Huỳnh Thành Mỹ (1) là
người đầu tiên, và được nhắc nhở nhiều nhất, ít ra
cũng giữa đám đồng nghiệp tại hãng AP. Cuộc chiến khi đó
tương đối còn sớm sủa, nếu chỉ tính về con số tử vong. Thần
Chết còn mải thăm dò con mồi, chưa lựa chọn nạn nhân
giữa đám người lăng xăng với cái máy chụp hình,
cái camera, cuốn sổ tay, như thể ba thứ đồ linh tinh, cộng thêm
mớ dây nhợ lằng nhằng, kể luôn cả hai chữ báo chí,
Press, gắn trước ngực, là những bùa trừ tà, súng
đạn phải tránh né.
Những buổi sáng, nếu có
Radiophoto, khi xong việc, hoặc ở lại sở phụ giúp một đồng nghiệp
làm ca sáng, chờ tới trưa coi UPI có hình
cần chuyển, hoặc theo ông Hưng, đồng nghiệp làm cho hãng
AP tới văn phòng hãng này, ở tầng lầu phía
bên trên passage Eden, nhìn bức hình Huỳnh Thành
Mỹ phóng lớn treo trên tường, uống ly cà phê
kiểu Mỹ, nói dăm ba câu tiếng Tây với Horst Fass, trưởng
phòng hình ảnh, rồi cùng ông Hưng đi kiếm mấy
cuốn truyện "série noire" của một tay bán sách dạo
ở một con hẻm chật cứng giữa hai bức tường gần bên tiệm thuốc tây
trên đường Tự Do. Trường hợp không có Radiophoto, thường
ngồi trơ cu lơ một mình trong lúc chờ bạn bè tại một
bàn tại góc quán Cái Chùa, mơ màng
tự hỏi không biết sáng nay cô bạn có giờ học
tại Văn Khoa hay không, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi
sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ gặp một người chắc chắn hơn hẳn mi: Một người
hoặc không nợ nần gì cuộc chiến nên không bị nó
hành hạ đến trở thành khật khùng, hoặc thừa thông
minh, thừa khôn ngoan để cùng cô thoát ra khỏi,
cho dù người đó có yêu thương cô hay không
thì mọi chuyện cũng chẳng liên can chi tới mi.
Buổi tối hôm đó khi
ở nhà cô bạn ra về đã quá giờ giới nghiêm,
mi bị một người lính bất thần chặn lại, lúc đó mi
như nhìn thấy nỗi chết hiện ra qua mũi súng đen ngòm
ngó sâu vô mắt, mi như sống lại những kỷ niệm, cảm giác,
lần đầu tiên xuống xe đò, Cai Lậy đã xế chiều và
đang tan chợ. Mi ngu ngơ lạ hoắc giữa phố thị đang trong cơn hối hả thu
dọn. Khi đi ngang qua cây cầu gỗ, bất thình lình đại
bác từ chi khu bắn đi. Ầm một tiếng. Không gian chao đảo. Cây
cầu gỗ run lẩy bẩy. Mặt nước sông nhăn nhó... Giây phút
đó mi mới nhận ra một điều thật tầm thường là chiến tranh
có thực, và những gì mi tưởng tượng ra về một cô
bạn chưa từng gặp, tất cả đều có thực, ba mươi năm sau, mi mới hiểu
ra, đó chỉ là một nửa ý nghĩa của thảm kịch...
Hoặc ba hoa trò chuyện chán
chê với đám bạn bè cho tới khi không còn
kiếm ra một câu nói thật độc địa, thật cay đắng về nhau,
về một cuốn sách vừa được xuất bản, một bài thơ, một truyện
ngắn vừa được đăng báo, tựu chung cũng chỉ để quên đi một
chốc một lát, hoặc may lắm một nửa buổi không nhớ tới cô
bạn. Rồi cũng tàn câu chuyện, đám bè bạn từng
đứa bỏ ra về. Huỳnh Phan Anh có thể đã đến giờ lên
lớp, có thể bực mình vì thằng bạn Bắc Kỳ đổi tên
cuốn truyện, Thất Lạc thành Thật Lạt, nhại cách nói
của dân miền Nam. Còn Nguyễn Xuân Hoàng có
lần bỏ quán Cái Chùa đến cả tuần lễ, chỉ vì
cũng vẫn thằng bạn khốn nạn bầy đặt viết bài phê bình,
giới thiệu cuốn sách mới ra lò của anh, Sinh Nhật, bị đổi
thành Sinh Nhạt, và bài phê bình mang
tên Đi Tìm Một Chiếc Mũ Đã Mất, nhại theo Proust. Bao
nhiêu năm trời nhớ lại mới thấy càng thù ghét
cái phần thâm căn cố đế, cái bản chất thâm độc
nơi đáy sâu thân thể, bao nhiêu năm tháng,
mưa gió, khí hậu, con người, vùng đất hiền hòa
không sao gột rửa nổi. Ba mươi năm sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn
bè, đứa còn đứa mất, chẳng đứa nào được may mắn với
cõi sống, cõi viết. Nguyễn Đình Toàn ở Việt Nam, nghe
nói mắt cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không
được may mắn. Còn Nguyễn Xuân Hoàng bây giờ lại
ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo gì
hay không...
Khi đã gần trưa, gã
chuyên viên trẻ bèn ghé hãng, không
biết làm gì xoay qua đổ xí ngầu với Tư Râu,
người chuyên mang hình lên Đài để chuyển đi.
Rồi cuộc chiến ăn sâu tới tận xương tận tuỷ Miền Nam. Có
những lần Tư Râu phải chạy lên chạy xuống hàng chục
bận, từ 19 Ngô Đức Kế - con phố nhỏ gần bờ sông, đâm
ra Công Trường Mê Linh, có tượng Đức Trần Hưng Đạo tay
chỉ hướng sông hướng biển khuyên con cháu sau này
lấy "nước" mà dựng "đất", do vậy mà có dân tộc
"Boat People"- tới Đài Liên Lạc Vô Tuyến Điện Thoại Quốc
Tế, số 7 Phan Đình Phùng. Mỗi bận như vậy, có khi chỉ
để mang một tấm hình vừa mới rửa xong, từng tấm một vì không
thể chờ đợi, những tấm kia còn đang trong phòng tối, hoặc
còn tươi mùi thịt sống, còn khét mùi
bom đạn đang được cấp tốc từ chiến trường gửi về. Một lần trong khi chạy
xe, anh may mắn chụp được hình, đúng ra là tử thi viên
Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí, bị hai tay đi xe gắn
máy thả một trái lựu đạn vô xe trên đường Nguyễn
Du.
Huỳnh Thành Mỹ là nhiếp
ảnh viên hãng AP đầu tiên bỏ mạng trong khi UPI, người
đầu tiên bị cuộc chiến làm cho sống dở chết dở là
Nguyễn Thành Tài. Anh là người giới thiệu gã
chuyên viên trẻ cho UPI, ngay sau khi AP có mạch vô
tuyến viễn ảnh. Một lần, vì quá đói hình,
anh mò lên, nghe đâu khu Long Thành, gạ một người
lính làm "người mẫu" cho anh chụp một série hình,
cảnh một anh lính trúng đạn Việt Cộng, buông rơi súng
rồi từ từ khuỵ xuống. Đối với một chuyên viên sử dụng camera,
chuyện này quá thường, nhưng với một nhiếp ảnh viên,
đây là một hành động đòi hỏi sự gan dạ, bình
tĩnh, làm chủ bản thân, làm chủ tình hình...
Bạn cứ thử tưởng tượng trong lúc súng nổ đạn bay mà
cứ bình chân như vại, căn từng chút ánh sáng,
lấy từng góc độ cho không phải một, mà năm, bẩy tấm
hình nghệ thuật, chụp một người trúng đạn đang từ từ... từ
giã cõi đời.
Hình đem về hãng, rửa
ra, gây chấn động trong đám phóng viên, nhiếp
ảnh viên UPI. Viên trưởng phòng hình ảnh tuyên
bố, kể từ chiến tranh Algérie đến nay mới lại có một série
hình độc đáo như vậy. Trước mắt, Tài được thưởng
"Nhiếp ảnh viên số một trong tháng". Câu chuyện đúng
ra không ngừng ở con số một đó, vì tiếp theo vinh quang,
tiền bạc của ngày hôm nay, còn giải thưởng Pulitzer
của ngày mai. Nhưng không ngờ khi hình được đăng lại
trên báo chí Việt Nam,
đám cảnh sát Tổng Nha ngửi thấy mùi là lạ qua
cái tên Việt Nam, Nguyễn Thành Tài.
Giá tên một nhiếp ảnh viên người Nhật, người Mỹ thì
lại không sao. Họ bèn liên lạc với tiểu khu, nơi có
trận đánh xẩy ra. Sau khi được xác nhận không có
một trận đụng độ, chạm súng nào trong thời gian đó,
họ sau cùng kiếm ra anh lính đã tử trận nhưng vẫn
còn sống. Tài bị kết tội "phá hoại tinh thần chiến
đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa." Sau vụ đó, anh
hết còn được UPI tin tưởng. Trong một lần theo hành quân,
anh bị mảnh mìn muỗi cài giữa đám lá cây
xớt qua mang tai, không may chạm dây thần kinh, trở thành
ngớ ngẩn, sau cùng bị UPI cho thôi việc.
1996
"J'écris depuis que tu me lis
Les mots sont en retard sur nos vies"
Christian Bodin (L'inespérée)
(Tôi viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta)
Đau khổ nhất là những ngày
cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây
ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói
xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài
địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng
tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc,
hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình
ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những
đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình
sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang
cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài,
không còn nơi để ghé, không còn chỗ để
ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng
viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi
Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này
hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu
em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Nguyễn Quốc Trụ
Cõi Khác, phần đầu [1969 (1)], là
một ấn bản - version - "khác", của Kiếp Khác, đã
đăng trong Những Ngày Ở Sài Gòn, tập truyện,
nhà xb Đêm Trắng, Sài Gòn, 1970. Phần sau được
viết tại hải ngoại, đã đăng trên một tờ báo địa phương
ở Canada, sau trên
Văn Học (Cali).
Không nhớ rõ số mấy, ngày mấy.
Chú
thích hình: Gấu đứng trước căn nhà ở chúng
cư Nguyễn Thiện Thuật, thời gian trước Mậu Thân, hình do cô
bạn chụp từ phía trong nhà.
Bạn NKL, lần đầu nhìn bức hình,
nắc nỏm, hình thằng cha nào mà đẹp trai thế!
(1) Huỳnh Thành Mỹ, tên thực Huỳnh Công Là,
anh ruột của Huỳnh Công Út, tức Nick Út, người chụp
bức hình cô bé Kim Phúc bị bom lửa ngày
nào. Hình dưới đây, trích BBC.
Xử VC
Shell-shocked US
marine, Hue, Vietnam,
February 1968.
Photograph: Don McCullin
Don McCullin's most celebrated
image is his portrait of a dazed American soldier, entitled Shellshocked US Marine, Hue, Vietnam.
It was taken during the battle for the city of Hue in 1968 and, in its stillness
and quiet intensity, says as much about the effects of war on the individual
psyche as many of McCullin's more graphic depictions of conflict and carnage.
The eyes that stare out beneath the grimy helmet are not staring at the
camera lens, but beyond it, into nowhere.
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features
in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It
kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere.
It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."
Lính
Mẽo kinh hồn bạt vía vì pháo VC.
Hai con
mắt thất thần, nhìn xuyên qua ống kính, tới hư vô!
Bức hình trở thành
“thương hiệu” của McCullin. Nhưng khi nhắc tới, ông
nhăn mặt: Nó làm tôi đau đầu. Bởi vì nó
xuất hiện ở khắp mọi nơi. Chẳng khác chi bức hình xử VC của
Eddie Adams. Những dòng chữ viết
tay trong nhật ký cho thấy Eddie đã thừa nhận ông rất
muốn được giải Pulitzer cho bức ảnh ông chụp đệ nhất phu nhân
Jacqueline Kennedy đang giơ tay đón lấy lá cờ Mỹ được gấp
lại mà người ta trao cho bà tại lễ tang Tổng thống John F.
Kennedy vào tháng 11 năm 1963.
Source
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features
in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It
kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere.
It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."
Source
Hình Eddie Adams chụp tướng
Loan khử VC, và hình MC Culllin chụp
anh GI chết sững vì pháo VC, hai cái hình bổ
túc cho nhau.
Cả hai nói lên nhận xét của Rushdie:
There is something predatory about all photography. The portrait is
the portraitist's food. In a real-life incident I fictionalized in Midnight's
Children, my grandmother once brained an acquaintance with his own camera
for daring to point it at her, because she believed that if he could capture
some part of her essence in his box, then she would necessarily be deprived
of it. What the photographer gained, the subject lost; cameras, like fear,
ate the soul.
Source
Có cái gọi là ăn thịt sống, làm thịt sống,
ăn tươi nuốt sống con mồi, trong chụp hình. Bức hình là
thức ăn của người chụp hình. Bà tôi đã có
lần cầm cái máy chụp hình của chính nạn nhân,
để đập bể đầu anh này, một gã quen biết, vì dám
đưa cái máy về phía bà, bởi vì bà
tin rằng, nếu anh ta có thể xén một phần nào của cái
tinh túy ở nơi bà, và đưa vô cái hộp đen,
thì bà sẽ mất đi cái phần đó. Cái mà
bức hình có, thì người bị chụp, mất; máy chụp
hình, giống như sự sợ hãi, "ăn" linh hồn.
Chân Dung
Portraits
(To the memory of Akhmatova)
Nothing visits the silence,
No apparition of lilac,
But an inexplicable lightness
I sense when I breathe your name.
It's not All Souls'. The planet
Spins on without you, Anna.
You're now the Modigliani
Abstract. No candles flame
To amass shadows. Light elected
You. Annenkov's portrait ... erect head
That tilts with a swan's curve
Towards the Neva, towards the living
Surge of the iced river
That will not stop nor swerve
But plunge, if need be, within you ...
Till room and time started spinning,
I've gazed, I've tried to splinter
With love that smiles at stone
This photo of nineteen-twenty,
The only one where your tender
Pure and gamine face, grown
One with the page you've entered,
Blurs at the lips, half-surrenders
A smile ... And your lips open
To me, or familiar Chopin ...
It must have been a dream.
But dreams are something substantial,
The Blue Bird, the soft embalmer.
It doesn't smell of catacombs
There, and your black fringe is no nimbus.
A cathedral bell tolls dimly.
The unmoving stylus hums.
So deep has been this trance,
Surely its trace fell once,
Caught your eyes and startled you,
Between the legendary embankment
And your House on the Fontanka?
I, like the woman who
Had touched the healer's soul,
Find everything made whole
In your poetry's white night,
Envy the poor you kept watch
With, outside the prison; the touch
Of a carriage-driver, your slight
Hands bearing down with a spring, one
Moment in the tense of his fingers.
Poems outlive a Ming case,
But your ageing portraits bring me
The rights of a relative
To grieve. Tonight alone I could spare
All that is written here
To restore the chaos where
The Neva deranges your hair,
You laugh, weep, burn notes, live.
Note: D.M. Thomas, nhà văn, nhà thơ,
dịch giả, tác giả cuốn tiểu sử Solzhenitsyn. Chuyên
gia về văn học Nga. Ông nhận viết tiểu sử Solz, như 1 thách
đố với chính ông.
Gần như chưa ai dám đụng vô tiểu sử của Solz.
Cuốn tiểu sử của Solz, cách viết, lập đi lập lại những chương
hồi, là theo cấu trúc những trại tù, cứ thế lập
đi lập lại, nhân thêm lên mãi, cùng
sự hoán đổi hai hình tượng, Thiên Sứ và Quỉ
Đỏ.
GCC chôm, làm trang Tin Văn, mở ra là
hình ảnh Thiên Sứ của Sến, khép lại bằng Con Quỉ
Chuồng Heo trong Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Cuốn này, là sách gối đầu giường của
GCC. Cô Út, nhân bố đi chơi với cháu trong
dịp hè, bèn chở cả kho sách, cho bịnh viện, để họ
bán xon lấy tiền cho bịnh nhân.
Bố đừng đọc sách nữa. Chơi với cháu, không
khoẻ hơn sao?
Cuốn trên, cũng sách xon, thư viện thải
ra.
Mua thêm được cuốn Milosz giới thiệu thơ Ba Lan hậu
chiến.
Cũng OK lắm.
Dân khí suy đồi và trách
nhiệm con người
Nhà văn Võ Thị
Hảo
Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội
Đây cũng 1 thứ cực kỳ tinh
anh, của Bắc Kít, theo GCC. Bà này can đảm hơn mấy tên
kia nhiều, nhưng óc vẫn bị thiến mất 1 khúc, hay một mẩu, vẫn
theo GCC.
Hoặc cũng đã từng nhận hàng, miệng cũng
có mùi chiến lợi phẩm cho nên không thể nói
khác đi được.
Christ and the Devil have changed
places.
Chúa Ky Tô và Quỉ đổi chỗ cho nhau.
D.M. Thomas Tiểu
sử Solzhenitsyn, chương 2: Demons
D.M nhắc tới bài thơ “The
Twelve” của Blok, 12 tên Vệ Binh Đỏ, Red Guards, trong đêm tối
St Petersburg, gặp ai giết người đó, tàn phá, hủy diệt
tất cả cái gì vướng chân chúng trên đường
đi: They lust to drink, have pleasure, and uphold the Revolution, chúng
ăn nhậu, chơi đồ chơi thỏa thích, dâng cao ngọn cờ Cách
Mạng. Đằng sau chúng, là 1 con chó đói –
cái thế giới cũ, the old world, chúng tính đâm
cho con chó 1 một mũi bayonet, nhưng quay nhìn về phía
xa, về phía trước, một hình ảnh như đang dẫn dắt chúng:
Trong tuyết dầy, đặc, là 1 ngọn cờ đỏ, và hình bóng
chúa Ky Tô: Bearing the flag, leading the cutthroats, walking
lightly above the storm- is Jesus Christ.
Chúa và Quỉ đổi
chỗ cho nhau là vậy.
Cuộc chiến Mít, thay vì
Chúa Ky Tô, chính là giấc mơ thoát ra khỏi
cái kiếp người thê lương ở nơi “Quê Người”, là xứ
Bắc Kít.
Hơn cả hình bóng Chúa Giê Su cầm
cờ dẫn đường bọn giết người Vệ Binh Đỏ, trong bài thơ của Blok
- là hình ảnh về một thiên đàng ở bên
ngoài, ở quá lũy tre làng, ở đâu đó
ở một Đàng Trong...
Chính Cái Ác
Bắc Kít, nằm nơi trái tim mọi tên Bắc Kít,
đã đổi giấc mơ của giống Mít – Chúa cho chúng
làm người để thực hiện giấc mơ đó - thành đại ác
mộng, là một nước Mít như hiện nay.
What has That to Do with Me?
Số phận của họ mắc mớ gì đến tôi?
Yiyun Li, đã tự hỏi mình
như vậy, khi viết văn, kể ra những câu chuyện về những con người
mà bà chẳng thể nào quên nổi, “You were not
who you were, but what you were rationed to be” [Yiyun Li, Hope in a thin shell, Hy vọng ở trong
1 cõi nhân gian bé tí: Xứ Bắc Kít],
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái
chế độ tem phiếu đó nắn khuôn. Có thể, đất nước Mít,
nhất là xứ Bắc Kít, suy đồi đến như hiện nay, là
vì họ đã quên đi thời tem phiếu. The day you were
lucky enough to get a basin of eggs, you also watched a long line of strangers
eyeing you with jealousy, even hatred. Ngày mà bạn nhận hàng
Miền Nam, bạn vẫn nhìn thấy cả một dẫy người sắp hàng, nhìn
bạn với con mắt ghen tuông và thù hận.
Note: Đây cũng là
1 cuốn sách gối đầu của GCC [em NT gọi là sách
gối mông, và mông của em thì đang bị VC lột
ra, để đánh đòn! Take care, please! NQT]. Đọc đến quăn tít
mấy góc sách. Có những chương thật thần sầu. D.M.
Thomas là 1 nhà văn, thứ bảnh nhất, tôi là tiểu
thuyết gia, thi sĩ, không phải nhà viết tiểu sử. Ông
nhận viết tiểu sử Solz, như là 1 thách đố, với chính
mình. Tin Văn sẽ giới thiệu 1, 2 chương, thí dụ, chương
III: Quỉ [Demons]; chương về Pasternak, cái chết của
1 thi sĩ.
Và Prologue,
Lời mở đầu.
Người lén đem tác
phẩm của Solz qua Tây phương
Khi
DT chê NHT, thứ nhà văn vô học như ông ta,
có cả đống, ở nước ngoài, để bênh vực bạn văn VC,
Gấu bèn lôi tổ sư phê bình Mác xít
ra.
*
Trong bài viết trước, khi viết về sự xuất hiện của những
truyện ngắn, thay vì truyện dài, của một NHT, Gấu có
nhắc tới trường hợp Solzhenitsyn và sự xuất hiện "Một Ngày
trong Đời Ivan Denisovich", như một xuất hiện ở vào cuối một giai
đoạn. Đây là sự cần thiết của chính văn học, khi nó
bị đẩy vào đường cùng, và cùng tắc... biến.
Nên nhớ, Nước Nga Đỏ chưa hề vơ Một Ngày vào dòng
chính, chưa từng hợp thức hoá cho nó. Nhà
nước cần nó, không có nghĩa, nó thuộc vào
dòng chính.
Nói rõ hơn, với NHT, không có "đổi
mới", mà có sự lại làm mới văn học, renouveau,
như là một thử thách, một rủi ro bắt buộc, nếu muốn thoát
ra khỏi bế tắc, nếu nhà văn không muốn chết ngạt.
G. Steiner, khi điểm cuốn "Alexander Solzhenitsyn: A Century in
His Life", của D. M. Thomas, (583 trang, New York, nhà xb St. Martin's Press 1998)
trên NY
Times Book Review, March 1, 1998, cũng đã nhấn mạnh đến sự
kiện này:
"Khi Khrushchev bật đèn xanh cho "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich",
với ông ta, đây là một hành động mang tính
chính trị giai đoạn: Anh tù Ivan là một nông
dân, không phải một trí thức. (Khruschev cho rằng
khẩu phần nhà tù như trong cuốn sách mô tả
là vượt định mức). Nếu ông ta tiếp tục làm cho xong,
việc tẩy uế chủ nghĩa Stalin, cuốn sách cũng chẳng thể kéo
dài, và nhân lên mãi, niềm vinh quang
ngây ngất của nó. Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày",
chỉ trong "một đêm", Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông
tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất khi đó hiện còn
sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được lâu, vinh quang?...
Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang,
nhất là thứ đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng"
[Một linh hồn lưu vong]
Bây giờ với Tuổi Bụi, NHT cũng làm một toan tính
như vậy.
Không phải ăn theo, không phải kiệt cạn, như Đoàn
Cầm Thi nhận định, như ông Tây trích dẫn trong bài
viết.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt
một số thuật ngữ như "lại làm mới",
"đổi mới", "cởi trói" và hoàn cảnh lịch sử khi
chúng xuất hiện, và chúng ta nhận ra, có
gì tương tự, giữa câu cảnh cáo của Akhmatova, và
lời cầu chúc đừng thuận buồm xuôi gió của Hoàng
Ngọc Hiến.
Sự xuất hiện của truyện ngắn NHT đúng là một
cách ăn theo hiện tượng cởi trói trong văn học. Lợi dụng
nhà nước ra lệnh, hãy cởi trói... sơ sơ cho tụi
nó, nhờ đó xuất hiện những Cù Lao Tràm, Đứng
Trước Biển, Ly Thân... , Nguyên Ngọc bèn nhét
kèm thêm, cho ăn theo, một hai truyện ngắn của NHT.
Gấu tôi bỗng nhớ tới vị sư già ở Tàng Kinh
Các, trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung, thấy mấy thằng ngu
chỉ say mê giết người, toàn lựa những sách dậy
giết người để mà đọc, để mà học, bèn nhét
xen vô những cuốn kinh Phật...
Một cách nào đó, phải đọc NHT theo tinh
thần đó, tinh thần giải độc.
Câu cảnh cáo NHT, của HNH là phải hiểu
theo cách đó:
Này đừng có thuận buồm xuôi gió,
rồi lại trở thành một thứ Trần Mạnh Hảo, một thứ...
*
Khi phải so sánh giữa hai ông khổng lồ, một về
văn, và một về thơ, ở thời tận cùng của chủ nghĩa cộng
sản ở Liên xô, thiên hạ nói, sự xuất hiện của
Solzhenitsyn, là để tố cáo Lò Cải Tạo Nga, và
đồng thời chấm dứt nó. Còn Brodsky, như Coetzee nhận xét,
là người đánh cái dấu chấm hết to tổ chảng, cho
cái gọi là văn học Xô Viết.
Gấu
tôi nghĩ, với Việt Nam, có vẻ như cả hai, Bảo Ninh thì
tố cáo và chấm dứt huyền thoại cuộc chiến và cùng
với nó, huyền thoại Phù Đổng về người lính cụ Hồ,
còn Nguyễn Huy Thiệp, chính là người đánh
dấu chấm hết cho văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, của miền Bắc,
thứ văn học đến liền sau thất bại của Tự Lực Văn Đoàn, chính
nó mới là cái nền đẻ ra cuộc chiến, đẻ ra anh bộ đội
cụ Hồ. Thiệp bị nhập nhằng, bị gán bậy vào đổi mới là
vậy, theo nghĩa, văn học hiện thực miền bắc đưa đến chiến thắng miền nam,
còn Thiệp là người, khi cái văn học hiện thực đó
bị "lão hoá", bèn "đổi mới" nó!
Bởi
vì rõ ràng là, thiếu một ông Thiệp,
thì cả một đống những nhà văn của trào lưu đổi mới
đó, đều là hàng giả, đồ cuội. Một cách nào
đó, chính họ mới ăn theo NHT. Điều này giải thích,
cả đám ôm lấy Thiệp, coi như là thần tượng của họ,
nhưng khi thần tượng không chịu a dua, cá mè một lứa
với họ, khi Thiệp cố gắng đổi mới thực sự, chính mình, thì
cả bọn la lên, thằng này hết thời rồi!
[Trường hợp DTH, xin để riêng ra, như một số nhà
văn nhà thơ khác, đã thực sự tin vào chủ
nghhĩa CS, gia nhập cuộc chiến với lòng hăng say, sau vỡ mộng,
bèn chống lại nó].
Thiệp không hề tin vào văn học hiện thực, càng
không tin vào đổi mới. Nông dân, thứ thiệt,
của miền đất đó, nhưng ông không bị hớp hồn bởi chủ
nghĩa Cộng Sản, như một quỉ, hoặc như một cứu rỗi. Khác hẳn bất
cứ mọi trường hợp khác. Ngay cả Pasternak, ngay cả Solzhenitsyn,
suốt cả một thời trẻ trung của họ, đều đã từng tin tưởng, và
chiến đấu cho chủ nghĩa đó.
Bởi vì Demon, và Savior, chỉ là một. Trước
1975, là Savior. Sau 1975, biến thành Demon. Vẫn chỉ là
một thứ.
Nên nhớ, không phải Dos là người đầu tiên
nhắc tới Demon, Quỉ. Quỉ của
Pushkin - viết năm 1830, một trăm năm trước cơn phẫn nộ của Stalin, giáng
xuống đầu nông dân Nga - mô tả một chiếc xe ngựa bị
bão tuyết làm mất phương hướng, mấy con ngựa kéo
xe bị quỉ xúi giục và cứ thế lao vào địa ngục. Tới
thời Dos, Những Con Quỉ
[thường được dịch là Lũ Người Quỉ Ám, 1871], Quỉ
biến thành Kẻ Cứu Rỗi, Vị Cứu Tinh. Hãy tưởng tượng, 1921,
ông Hồ đói rét, run lẩy bẩy ở Paris, đọc Lênin,
và sảng khoái la lên, cứu tinh đây rồi, đây
là tri âm tri kỷ, kẻ đồng điệu, người đồng hành...
Bởi vì tầng lớp trí thức miền bắc đã đón
nhận quỉ sứ như kẻ cứu rỗi, như thế đó. Họ thực sự tin rằng
chủ nghĩa Cộng Sản sẽ là cơ may, cơ hội đổi đời. Chính
niềm tin này là nền tảng của, thí dụ, "Đường Ra
Trận Mùa Này Đẹp Lắm", của những cảnh tượng thật bi hùng,
bi tráng, bi thương, trai tráng làng, người người
trích máu tay, làm đơn tình nguyện xin đi
chiến trường miền nam.
Nhưng 1975, tất cả đều chưng hửng. Đều vỡ mộng. Hãy
tưởng tượng tâm trạng của DTH lúc đó.
Như một nhà tiên tri, Kafka đã nhìn
ra từ bao lâu cảnh này, trong Y sĩ đồng quê. Độc giả Việt, đọc
ông, mà cứ nghe ra giọng của DHT, vào đúng cái
ngày cay đắng nhục nhã đó:
"Ta đã bị bội phản! Bội phản!"
Sài Gòn Ngày Nào
Của Gấu
D. M. Thomas,
trong “Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta”, chương “Cái chết
của một thi sĩ”, đã nhận xét, về cuốn Dr. Zhivago:
Bác sĩ Zhivago không chính
trị một cách lộ liễu, như nhiều người tại Tây Phương hô
hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo...
Nhưng nhà cầm quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng
là một kẻ thù chết người đối với chế độ. Bất cứ một trang
là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì
hết sức lớn lao, thực hơn nhiều, so với bất cứ một chế độ
chính trị nào, đâu phải chỉ cái thứ chính
quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết,
lao động khổ sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater
and more truthful than any political system, let alone a creed
built on millions of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless
language].
Giả như áp
dụng nhận định trên cho Thơ Ở Đâu Xa, những vần thơ
làm ở một nơi chốn không thể làm thơ, liệu có
khiêm cưỡng chăng?
Không! Chúng còn bảnh hơn cả Dr. Zhivago,
theo nghĩa, thơ bảnh hơn văn, càng bảnh hơn tiểu thuyết, thứ văn
chương bình dân. Người ta chẳng kể, về một nhà văn
nữ hàng đầu thế giới, vừa nhặt gạo, vừa trông ông bố
nằm bệnh, vừa viết tiểu thuyết, khi được in ra, mấy dấu chấm trên
mấy chữ i, toàn là sạn gạo!
Nhà văn nữ Tuý Hồng chẳng đã, vừa nấu cơm,
vừa [Tôi] nhìn tôi trên
vách [bếp]?
Nên nhớ,
khi Pasternak được tin, Nobel trao cho ông vì Dr. Zhivago,
ông rất bực. Ông nghĩ ông phải
được Nobel như là nhà thơ.
Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960 [sau 30 Tháng
Tư một ngày!] Đám tang của ông là một sự
kiện khác thường, và, hầu như bí ẩn: Có lẽ
đây là dấu báo đầu tiên, chỉ cho thấy, cái
nhà nước uy quyền tột bực, hiển hiện ở khắp mọi nơi như thế đó
vậy mà không thể lấn lướt thơ ca, … simply could not overcome
poetry.
Thông báo giải
thưởng Nobel, tháng 10, 1958, tiếp theo sự ra mắt Dr. Zhivago tại Tây Phương đã
bùng ra chiến dịch tố cáo, bôi nhọ Pasternak, bắt
đầu từ tờ Sự Thật. Tiếp theo, Hội Nhà Văn trục xuất ông.
Bí thư Thành Đoàn gọi Pasternak là một con
heo ỉa đái vào cái máng ăn của nó.
Pasternak từ chối giải thưởng, nhưng cũng không yên thân.
Ông gần 70, sức khỏe tồi tệ, chiến dịch làm nhục làm
ông hoàn toàn suy sụp. Người tình, Olga Ivinskaya,
sợ ông bị tim quật chết, và căng hơn, có thể tự sát,
bèn năn nỉ ông viết thư cho Khrushchev, xin cho ở lại nước
Nga, vì nếu rời nước Nga, là chết.
Ông mất ngày 30
Tháng Năm 1960. Thông báo chính thức, nhỏ
nhoi, và, cáo thị độc nhất về đám tang, là
một bản viết tay, dán ở kế bên quầy bán vé
đi Kiev Station, ở Moscow, từ đó đi tới Peredelkino, một 'colony'
ở ngoại vi thành phố Moscow, là nơi nhà văn cư
ngụ:
“Vào 4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng
Sáu, linh cữu Boris Leonidovich Pasternak, nhà thơ vĩ
đại nhất của Liên Xô hiện nay, sẽ được đưa về lòng
đất”.
Cáo thị bị bóc, lại dán tiếp, nhiều lần,
bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo đã được cử hành
tại nhà riêng, một cách êm ả, vào buổi
chiều hôm trước đám tang.
Sáng hôm sau, bốn danh thủ dương cầm – Stanislav
Neigauz, Andrei Volkosky, Marya Yudia [bà đã từng nói
với Stalin, ông là một kẻ tội lỗi lớn lao, a great sinner]
và Sviatoslav Richter đã chơi nhạc vài tiếng đồng
hồ tại nhà.
Trong số những người khiêng quan tài, có
Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel [sau bị truy bức, bách
hại vì những bài viết chống đối, ly khai của họ], và
Lev Koplev [Solz đưa ông này vô, làm một nhân
vật trong Tầng Đầu]. Họ nhập vô một biển cả, những khuôn mặt
rầu rĩ, tiếc thương: bạn bè, sinh viên, học sinh, công
nhân, và dân quê. Một viên chức Hội Nhà
Văn bước ra từ một chiếc limousine lớn, mầu đen, tính ké
tí vai, khiêng quan tài nhà thơ, nhưng đám
sinh viên la to, đi chỗ khác chơi.
Giỗ đầu
Gấu đọc Dr. Zhivago thời
mới lớn, thời gian thường qua nhà ông anh nhà thơ,
đói ăn đói cả đọc. Cùng đọc với bà cụ. Hai
bà cháu cùng mê đọc. Và cùng
mê Dr Zhivago. Em Lara ở trong truyện đẹp
hơn nhiều so với Lara khi được chuyển thể thành phim, nhưng bắt
buộc phải như vậy thôi.
Trên VN thư quán
có cuốn này.
Về già, sắp [sắp gì
nữa] đi xa, bèn tự hỏi, hay là BHD là từ… Lara?
Như 1 nữ thi sĩ Bắc Kít, mối tình tội nghiệp kéo
dài suốt 1 thời già cằn, từ những ngày đầu tiên
ra được hải ngoại?
Như 1 cô Hồng Con của làng Thanh Trì, sau
bị cả 1 miền đất bỏ chết đói?
Bởi là vì “Bác sĩ Zhivago” quả là
mối tình đầu của Gấu.
Italo Calvino cũng có 1 bài thật là tuyệt
về Pạt: “Pạt và Cách Mạng”.
Chắc là phải đi 1 đường về.. Lara.
Về Pạt, đúng hơn.
Về Pạt, thật nhã
Viết
là Khiếp
"Tôi trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan Thomas mở đầu “Hồi
tưởng & Hoang tưởng”.
Với ông, khả năng thấu
thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó xẩy ra, ở
một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật,
(ở chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi nó.
"Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc,
mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và
cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều,
rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết,
từ đó sáng tạo ra sự sống.
Điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng. Cách
đây vài năm, tôi [D.M. THomas] đi thăm Lydia, người
chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria,
ọp ẹp, tối thui. Chủ nhà, một người bà già nhỏ nhắn,
rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt lủn, lủng lẳng bị chìa
khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng
cà phê. Một cái hũ cà phê, loại uống liền,
hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không
làm sao liên hệ bà với Boris, người sáng tạo
ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có
muốn đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách
biết ơn, tôi nói vâng. Tôi đi theo đôi giầy
cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn
phòng.
Một luồng mầu sắc và ánh sáng làm
tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng
tranh tuyệt vời. Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn
ngổn ngang những khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà
giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo, suốt căn phòng
rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có
đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức
họa. Chân dung một người đàn bà đẹp, dáng mơ
mộng, đang chải tóc.
Tôi yêu liền ngay
nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất mát lớn lao,
là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì đáng
kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi
có cảm giác những bức họa đã hút sạch bao
nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà
của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã có
bảo hiểm những bức họa?" "Không, nếu bị đánh cắp, cái
gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi những bức hình
gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu
của ông.
Một trong những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết
trong những tình huống thật là kỳ bí, đáng
sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn
quay ra chết, vì đứng tim, ngay trên đường phố Moscow, đúng
chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến một điều, cái
chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago, đã "ứng" vào
người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu
thành một cái bóng, y hệt như cô con gái
Lydia đã trở thành cái bóng của nghệ thuật,
của ông thân sinh.
Liền đó, ông kể lại một kinh nghiệm của riêng
ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác sĩ tâm
thần làm ông nhớ đến mẹ, và một lần không
vâng lời bà.
(Ở đây có một cái gì liên can
đến mặc cảm Oedipe).
"Thay vì đi nhà thờ, cậu đã tới một sex
shop".
"Đúng như vậy". "
Rồi trí tưởng của tôi đầy rẫy những hình
ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà bác sĩ gọi điện thoại:
"Tôi không thể gặp anh bữa nay. Tôi phải đi
đám ma.
"Oh, I am sorry, tôi mong không phải là một
người thân của bà.
"Thảm thay, đúng như vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết luận, đâu có gì là
đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm
vì nghệ thuật ? "Không phải cuốn sách của tôi
là một tên sát nhân, nhưng đâu đó,
từ những trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái,
của quỷ...".
Chỉ là lộng giả thành
chân. Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi
đầu thai.
Đó cũng là cảm giác ghê rợn, khủng
khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh. Như thể
cuộc chiến lập lại, khi giả tưởng "xuất hiện".
Không
phải vậy. Càng chờ... đi xa, Gấu càng hiểu ra, thế
nào là ân sủng, thế nào là cứu chuộc,
dù không có 1 tí tôn giáo trong
thằng bé Bắc Kít ngày nào. Cái chuyện
Gấu gặp lại cô bạn, quả đúng là ân sủng, theo
cái nghĩa của truyện ngắn “K” của Buzzati, Gấu đọc nó từ
hồi còn Sài Gòn, và đã từng được dịch,
và đăng trên tờ Bách Khoa: Mi hãy sống đời của
mi cho thật đàng hoàng, tử tế, thì thể nào mi
cũng sẽ gặp con K, khi mi không cần đến nó nữa. (1)
(1)
Trên tờ Bách Khoa
ngày nào còn Sài Gòn có đăng
truyện ngắn K. của Buzatti. Đây là câu chuyện một
anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền, đừng đi biển, đi biển
là sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày
để ăn thịt. Thế là anh chàng chẳng bao giờ dám đi
biển, cho đến khi già cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình,
giờ này mà còn sợ gì nữa.
Thế là bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một
tua, và quả là gặp con K thật. Con quái vật cũng
già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao có
viên ngọc ước quí, chờ gặp mày để trao, nó
đây này...
Ui chao Gấu lại nhớ đến Big Minh, thều thào, tao chờ chúng
mày để bàn giao viên ngọc quí Miền Nam, và
con K bèn biểu, tao lấy rồi, cám ơn lòng tốt của
mày!
The Penguin Poets
Erotic, horrific, eulogistic, these poems reflect many of the themes
that D. M. Thomas explored in his best-selling masterwork The White
Hotel-exile, sexual love, the influence of the personal and collective
unconscious-as well as his love for the harsh and beautiful landscape of
Cornwall. Selected by Mr. Thomas from five previous volumes, these poems
confirm his reputation as a writer of ranging and fertile imagination.
Note: Cuốn bảnh nhất của D.M. Thomas, Khách Sạn Trắng,
Gấu có, nhưng chưa kịp đọc, Cô Út đã đem cho
bịnh viện, luôn cả cuốn tiểu sử Solz. Nhưng “Hoang Tưởng| thì
có đọc, và, văn của D.M Thomas, quả là đầy chất sex,
như ông viết về mình, trong bài Tựa cho cuốn thơ…
‘mọi bài thơ của tôi thì đều là về yêu
và chết. “Sex and the dead”, nói như Yeats, chỉ có chúng,
là hai đề tài xứng đáng trong trò chuyện nghiêm
túc của lũ đực rựa. Sex, lẽ sĩ nhiên bao gồm, include, tất
cả sáng tạo, và chết, bao gồm cái sự biến mất của
riêng nó, its own vanquishing.’
Tuy nhiên, còn 1 đề tài bảnh nhất của ông,
mà ông coi như là 1 đối trọng, counter-part, với mảnh
đất quê nhà của ông – Cornwall – là Nga Xô,
và trong xứ Nga xô đó, cũng có hai nhân
vật đối xứng: Stalin và Pushkin…
Preface
Though the two powers assume many shapes and guises, all my poems
take issue with love and death. 'Sex and the dead', said Yeats, were
the only two subjects worthy of a serious man's conversation, and I'd
go along with that. Sex, of course, includes all creativity, and death
includes its own vanquishing.
Looking back over the poetry of twenty years, I can also see, very
clearly, a primary and secondary emotional landscape: Cornwall, the most
westerly, Celtic outcrop of England, where I was born and grew up; and
Russia, which I have encountered only through its language and literature.
The atmospheric contrasts of the first-wild sea-cliffs and moors, lush
river-valleys-perhaps have a counterpart in the second: Stalin and Pushkin
...
Stone
The first book of a poet should be called Stone
Or Evening, expressing in a single word
The modesty of being part of the earth,
The goodness of evening and stone, beyond the poet.
The second book should have a name blushing
With a great generality, such as My Sister Life,
Shocking in its pride, even more in its modesty:
Exasperated, warm, teasing, observant, tender.
Later books should withdraw into a mysterious
Privacy such as we all make for ourselves:
The White Stag or Plantain. Or include
the name
Of the place at which his book falls open.
There is also the seventh book, perhaps, the seventh,
And called The Seventh Book because it is not published,
The one that a child thinks he could have written,
Made of the firmest stone and clearest leaves,
That a people keep alive by, keep alive.
PROLOGUE
I ASKED A RETIRED KGB COLONEL,
NOW GIVEN THE JOB OF IM-proving Russia's image abroad, what image he would
choose to represent the beginning of the Bolshevik era. We were at a
Helsinki hotel, overlooking the frozen sea. Some mutual friends had said
he knew something about KGB attempts on Solzhenitsyn's life; he was disappointingly
vague on that subject, but enjoyed talking with me about Russian history
and art over a bottle of vodka.
"What image?" he mused, gazing
out through the icy window at the Gulf of Finland. A few weeks before,
a car ferry, the Estonia, had sunk in heavy seas, with a thousand deaths.
It had seemed, we had agreed, an apt image for the end of Communism: a tiny
crack, widening swiftly through a weight of water, capsizing the unbalanced
boat. "I would choose," he replied at last, "a moment described in Nathan
Milstein's autobiography. As a symbolic beginning, you understand. Milstein
was a music student in Petersburg during the First World War. And he writes
that, in 1916, in the winter, he was walking along the Moika Canal. In front
of the Yousoupov Palace he heard agitated voices, and saw people craning
to look over the parapet into the frozen river. So Milstein looked down
too, and saw some of the ice was broken, and there, the water had pink
swirls in it. People around him were shouting, 'Rasputin! Bastard! Serve
him right!' Milstein realized the pinkish swirls were the blood of Rasputin-one
of the most powerful men in the empire. Imagine it: hurrying along a frozen
canal-a day in December like this one, perhaps late for a violin lesson-and
you see Rasputin's blood! ... Well, I've seen lots of blood, even shed quite
a lot of it. ... But anyway, if I were a writer, or maybe a filmmaker,
that's how I'd start: looking down at broken ice and seeing swirls of blood.
Like a dream ... "
Beginning this biography, I see
the old KGB man and the swirl of Rasputin's blood. The single most important
aspect of Solzhenitsyn's life is that he was born a year after the Bolshevik
Revolution. He is "October's twin." Other great Russian writers who suffered
intensely under Communism, but who spent their childhood and youth in
normal bourgeois circumstances under tsarism, can refer to the beginning
of their lives with a lucid definiteness. Anna Akhmatova: "I was born in
the same year [1889] as Charlie A Chaplin, Tolstoy's Kreuzer
Sonata, the Eiffel Tower, and, it seems, T. S. Eliot." (1). Boris Pasternak:
"I was born in 1890 in Moscow, on the 29th of January according to the Old
Calendar, in Lyzhin's house opposite the Seminary in Oruzheiny Street. Surprisingly,
something has remained in my memory of my walks in autumn with my wet-nurse
in the Seminary park-sodden paths heaped with fallen leaves, ponds and
artificial hills, the painted Seminary railings, the noisy games and fights
of the seminarists during their recreation. " (2)
The lighthearted juxtaposition
of Chaplin and Eliot in the former, and the rich sensuous detail in the
latter, have no counterpart in Solzhenitsyn's brief references to his childhood.
No other writer has used his adult life as material to the degree Solzhenitsyn
has done, yet from the very beginnings one finds a kind of Dickensian
fog and murk. Perhaps one consequence of this was that, while he seemed
to develop a very sure sense of identity, he continually explored different
fictional self-portrayals-Nerzhin in The First Circle,
Kostoglotov in Cancer Ward, Vorotyntsev
in August 1914-as if the misty beginnings make him need to
keep looking for himself.
His self-representations are
of the fully grown man-soldier, writer, zek;* not, however,
husband or lover, with rare exceptions; and for any "portrait of the artist
as a young man" or as a child we look in vain. Instead of any clear statement
of where and when he was born, there is a sense of confused, almost mythic,
birth. It could not have been other, for a child born in the turbulence
of 1918, and already fatherless.
It was, after all, the time of
facelessness. In Akhmatova's horrifying image of the Revolution:
As though, in night's terrible
mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear. ... (3)
The human face disappeared, and
also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, "faceless"; literally, one who cannot be seen. The
Bolsheviks gloried in facelessness.
It is inconceivable that Solzhenitsyn could have written, "I was
born in the same year as Nicolae Ceausescu, Kurt Waldheim, and Ella Fitzgerald,
on 11 December 1918, in Kislovodsk. ... "
Out of that violent beginning,
he became the last in a great line of poets and novelists that began with
Pushkin. They were more than writers; they were, since they all lived
under authoritarian or tyrannical regimes, "another government," in Solzhenitsyn's
phrase: cherished by their fellow Russians because they felt a special
responsibility to be truthful.
Solzhenitsyn's long life is unique
and extraordinary. He has embraced almost the totality of his country's terrible
century. Born amid chaos; caught up, as a schoolboy, in the heavily propagandized
excitement of the first Bolshevik years; then a front-line Red Army soldier;
the shock of arrest, for writing imprudent letters criticizing Stalin; the
horror of a Lubyanka interrogation, followed by the camps and "perpetual
exile"; release from it in the milder years of Khrushchev; sudden fame as
the author of One Day in the Life
of Ivan Denisovich, which devastatingly brought what had only been whispered
about into the open; then, losing favor, becoming a dissident of incredible
fearlessness, and enterprise; publication of The Gulag Archipelago,
his exposure of the whole Soviet tyranny from Lenin on; rearrest and enforced
exile from his country-the first Russian to suffer this fate since Trotsky;
quarrels with his hosts in the West; eventual return to a Russia where, for
very different reasons, he found it necessary to be a kind of dissident still.
...
Solzhenitsyn helped to bring
down the greatest tyranny the world has seen, besides educating the West
as to its full horror. No other writer of the twentieth century has had
sue an influence on history.
But his story is not of one century
alone. When Alexander Tvardovsky, editor of the journal Novy
Mir, sent for the unknown writer to discuss the manuscript of Ivan Denisovich, Solzhenitsyn paused beneath Pushkin's statue
in Strastnaya Square, "partly to beg for his support, and partly to promise
that I knew the path I must follow and would not stray from it. It was a
sort of prayer." (4). This is much more than the respectful homage an English
or American novelist might pay to a bust of Shakespeare: Solzhenitsyn saw
Pushkin as his contemporary.
When I was thinking hard and
long about whether to accept an invitation to write this biography, I
had a dream in which I was in the small Cornish town of my childhood. Suddenly
floodwaters rose, and I found myself swept along by them. At first it
was quite exhilarating-even though I can't swim; I expected to round a
corner and see my old school; I could cling on to a wall. But when the
billows swept me round the corner, I saw, in place of the expected road
and school, a flat sea of turbulent water. Fear gripped me.
Along with many other personal
associations, the dream was obviously warning me I might drown .if I entered
this unfamiliar territory: I am a novelist and poet, not a biographer.
I might drown under the horrifying weight of a densely packed life like
Solzhenitsyn's, or under his wrath, since he hates unapproved biographers
as much as he hated the Soviet censors.
Bill I chose to see the dream
in a more positive light. I could see the flood as pointing in the direction
of one of the great seminal works of Russian literature, Pushkin's The Bronze
Horseman (1833). In that great narrative poem, a flood sweeps over
St. Pertersbug and devastates the life of "my poor, poor Yevgeni”, a humble
clerk. Driven mad, Yevgeni shakes his fist at the famous equestrian statue
of Peter the Great, crying, “All rigid, you wonder-worker, just you wait!”
Peter was the egoistical monster who had ordered the creation of a capital
city on marshy Finnish ground. He thought nothing of the thousands of lives
his dream would cost in the construction of it.
But the Russians still have an
admiration for Peter-just as too many of them still admire Stalin and would
like to see him back. Any reference in a literary work of the Bolshevik era
to The Bronze Horseman can immediately be interpreted as a comment on Stalinism.
Russian life and literature is a country, with limitless intercommunications-not
a history. "Russian literature," wrote the scholar and translator Max:
Hayward, is "a single enterprise in which no one writer can be separated
from another. Each one of them is best viewed through the many-sided prism
constituted by all of them taken together. A later generation consciously
takes up the motifs of its predecessors, responds to them, echoes them,
and sometimes consummates them in the light of the intervening historical
experience.?"
This seems to me the only worthwhile
kind of "writers' union"; and to write a life of Solzhenitsyn is inevitably
to write about a century-or perhaps two. I have felt myself to
be a visitor in the "country of Russian literature" since I first inadequately
learned Russian during two years of military service in the 1950s. Being reminded
by the dream of that great fellowship of Russian writers, for whom two
centuries are but a single moment, helped to persuade me to yield to the
flood, for good or ill. Another persuasion was that Solzhenitsyn's life
has been a fantastic and inspiring story; but one so complicated by politics
that it is difficult to see the wood for the plethora of trees. It challenged
me to use my fictive experience to tell a story that is truly stranger than
fiction.
D.M. Thomas
It was, after all, the time of
facelessness. In Akhmatova's horrifying image of the Revolution:
As though, in night's terrible
mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear. ... (3)
The
human face disappeared, and also its divine image. In the classical world
a slave was called aprosopos, "faceless"; literally, one
who cannot be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
It is inconceivable that Solzhenitsyn could have written, "I was
born in the same year as Nicolae Ceausescu, Kurt Waldheim, and Ella Fitzgerald,
on 11 December 1918, in Kislovodsk. ... "
Khi đọc “Gió của 1 thời
khuất mặt”, của LMH, Gấu nhớ tới “Thời Không Mặt” của Anna Akhmatova.
PXA qua nhân vật Quân, trong “Thời gian của Người”,
của Nguyễn Khải, mỗi lần vô Bưng xin ý kiến Bắc Bộ Phủ,
đều phải bịt mặt.
Tên già NN, cởi mặt nạ nhìn mặt Yankee mũi lõ,
kẻ thù ngày nào....
Có thể nói, cuộc chiến Mít, là giữa
lũ quỉ đỏ, không mặt, và lũ Ngụy, chưa từng bao giờ phải
che mặt, hay đeo mặt nạ.
Thời Không Mặt
The human face disappeared and also
its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos,
'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried
in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình
ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô
lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không
thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]
Gió
Từ Thời Khuất Mặt
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|