tình
cờ đọc cái này trên facebook của giáo sư ngô
bảo châu mà thấy buồn đau. sau ngày 30/4/75 người
miền bắc tràn vào miền nam “thu hoặch” biết bao nhiêu
thứ. từ nhà cửa đến con búp bê gãy cổ. trong
khi người miền nam co rúm sợ hãi, tìm mọi cách
“bỏ của chạy lấy người”.
Đây có lẽ là một bức tranh chợ,
của một hoạ sĩ vô danh. Nhưng quả thật tôi rất muốn biết người
đó là ai, và có một dịp gặp mặt. Để hỏi người
ấy về ý nghĩa của bức tranh này.
Sau năm 75, ông ngoại được đi công tác miền Nam. Đi
công tác miền Nam dạo đấy là dịp để thay đổi cơ bản
cuộc sống vật chất. Có người khuân về nhà cái
TV, có người khuân về tủ lạnh.
Không hiểu tại sao đi công tác miền Nam ông
ngoại chỉ mang bức tranh này về. Khi còn bé, tôi
luôn luôn thắc mắc tại sao hoạ sĩ lại vẽ cô gái
giống như một ngọn lửa nhỏ.
NBC
Note: Cái chuyện bỏ của chạy lấy
người, Miền Bắc nhận hàng.... thì bắt buộc phải như vậy
thôi.
Hỏi về 1 bức
tranh?
Sao không hỏi, về số phận không biết bao nhiêu
con người?
Liệu, câu
trả lời cho 1 câu hỏi như thế, nằm ở trong sự khác biệt giữa
Kafka và Borges, khi ông cho rằng, K có cái
cảm quan về tội lỗi, Kafka had the sense of guilty, còn với
Borges, có cái quá tội, beyond guilty.
Đây đúng là 1 vấn nạn lớn:
Bắc Kít không có cái cảm quan tội lỗi, chúng
chưa hề nhỏ 1 giọt nước mắt cho cả 1 miền đất bị chúng làm
nhục: Nhà Ngụy chúng lấy, phân phát cho nhau,
Ngụy, chúng bỏ tù dài dài, vợ Ngụy, chúng
hiếp, con Ngụy chúng cấm đi học...
Cái tay Nobel Toán thực sự thắc mắc về ý nghĩa của
1 bức tranh, và thực sự mong, gặp được tác giả bức tranh, để
hỏi.
Borges thú nhận, tôi không cảm thấy tội lỗi, vì
tôi không tin vào free will.
But I don't believe in free will, I can't feel guilty.
Liệu Bắc
Kít cũng sẽ trả lời như thế, về Cái Ác Bắc Kít?
Lạ, là
cứ như thể Borges đọc ra số phần những người, của cả hai miền, khi viết
cái truyện The Intruder.
Borges ca cẩm hoài, "số dách" của tôi, tôi
không hề nghĩ mình viết ra nổi truyện đó, hà,
hà.
Tuyệt vời hơn nữa, áp dụng truyện này vô xứ
Mít, theo kiểu liên tưởng, THNM mới cực đỉnh!
Thực sự mà
nói, Gấu không tin lũ Bắc Kít, những tên như Nobel Toán, hay "người tù
lương tâm" đọc nổi truyện ngắn The Intruder,
và cách đọc của riêng Gấu, về nó!
Note: GCC
kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader,
mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây, và
sẽ dịch sau.
Steiner viết, Borges
coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng
để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling.
“Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách
lạ thường.
Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng
cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn,
được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng
mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai
cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể,
sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên
bàn
(1)
THE INTRUDER
2 Samuel 1:26
[JLB 98]
They claim (improbably) that
the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen brothers, at
the wake for Cristian, the elder, who died of natural causes at some
point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must certainly
have heard it from someone else, in the course of that long, idle night,
between servings of mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom
I learned it. Years later, they told it to me again in Turdera, where
it had all happened. The second version, considerably more detailed, substantiated
Santiago's, with the usual small variations and departures. I write it
down now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically
the whole temper of life in those days along the banks of the River Plate.
I shall put it down scrupulously; but already I see myself yielding to
the writer's temptation to heighten or amplify some detail or other.
In Turdera, they were referred
to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor remembered
with some astonishment seeing in that house a worn Bible, bound in black,
with Gothic characters; in the end pages, he glimpsed handwritten names
and dates. It was the only book in the house. The recorded misfortunes
of the Nilsens, lost as all will be lost. The old house, now no longer
in existence, was built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could
make out a patio of colored tile, and another with an earth floor. In
any case, very few ever went there; the Nilsens were jealous of their
privacy. In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences
were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling on
Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall, with
red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never
hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood
feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible that
they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder to
shoulder, they tangled with the police. The younger one was said to have
had an altercation with Juan Iberra in which he did not come off worst; which,
according to what we hear, is indeed something. They were cowboys, team drivers,
rustlers, and, at times, cheats. They had a reputation for meanness, except
when drinking and gambling made them expansive. Of their ancestry or where
they came from, nothing was known. They owned a wagon and a yoke of oxen.
Physically, they were quite
distinct from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their
own bad name. This, and other things we do not know, helps to explain how
close they were; to cross one of them meant having two enemies.
The Nilsens were roisterers,
but their amorous escapades had until then been confined to hallways
and houses of ill fame. Hence, there was no lack of local comment when
Cristian brought Juliana Burgos to live with him. True enough, in that
way he got himself a servant; but it is also true that he showered her
with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the poor tenement fiestas,
where the more intimate figures of the tango were forbidden and where
the dancers still kept a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned,
with large wide eyes; one had
only to look at her to make her smile. In a poor neighborhood, where work
and neglect wear out the women, she was not at all bad looking.
At first, Eduardo went about
with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some business or
other; he brought back home with him a girl he had picked up along the
way. After a few days, he threw her out. He grew more sullen; he would
get drunk alone at the local bar, and would have nothing to do with anyone.
He was in love with Cristian's woman. The neighborhood, aware of it possibly
before he was, looked forward with malicious glee to then subterranean
rivalry between the brothers. One night, when he came back late from the
bar at the corner, Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence.
In the patio, the elder brother was waiting for him, all dressed up. The
woman came and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the Farias'.
There's Juliana for you. If you want her, make use of her."
His tone was half-commanding,
half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not know what
to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but not to Juliana, who
was an object to him, mounted, and trotted off, casually.
From that night on, they shared
her. No one knew the details of that sordid conjunction, which outraged
the proprieties of the poor locality. The arrangement worked well for
some weeks, but it could not last. Between them, the brothers never uttered
the name of Juliana, not even to summon her, but they sought out and found
reasons for disagreeing. They argued over the sale of some skins, but
they were really arguing about something else. Cristian would habitually
raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were
growing jealous. In that rough settlement, no man ever let on to others,
or to himself, that a woman would matter, except as something desired or
possessed, but the two of them were in love. For them, that in its way
was a humiliation.
One afternoon, in the Plaza
de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful
"dish" he had fixed up for himself. It was then, I think, that Eduardo
roughed him up. No one, in his presence, was going to make fun of Cristiano
The woman waited on the two
of them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference,
unquestionably for the younger one, who, although he had not rejected
the arrangement, had not sought it out.
One day, they told Juliana to
get two chairs from the first patio, and to keep out of the way, for
they had to talk. Expecting a long discussion, she lay down for her siesta,
but soon they summoned her. They had her pack a bag with all she possessed,
not forgetting the glass rosary and the little crucifix her mother had
left her. Without any explanation, they put her on the wagon, and set
out on a wordless and wearisome journey. It had rained; the roads were
heavy going and it was eleven in the evening when they arrived at Moron.
There they passed her over to the patrona of the house
of prostitution. The deal had already been made; Cristian picked up the
money, and later on he divided it with Eduardo.
In Turdera, the Nilsens, floundering
in the meshes of that outrageous love (which was also something of a
routine), sought to recover their old ways, of men among men. They went
back to their poker games, to fighting, to occasional binges. At times,
perhaps, they felt themselves liberated, but one or other of them would
quite often be away, perhaps genuinely, perhaps not. A little before the
end of the year, the younger one announced that he had business in Buenos
Aires. Cristian went to Moron; in the yard of the house we already know,
he recognized Eduardo's piebald. He entered; the other was inside, waiting
his turn. It seems that Cristian said to him, "If we go on like this,
we'll wear out the horses. It's better that we do something about her."
He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went
off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred his horse
so as not to see them. They returned to what has already been told. The
cruel solution had failed; both had given in to the temptation to dissimulate.
Cain's mark was there, but the bond between the Nilsens was strong-who
knows what trials and dangers they had shared-and they preferred to vent
their furies on others. On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had
brought discord into their lives.
March was almost over and the
heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom to retire
early), Eduardo, coming back from the corner bar, saw Cristian yoking
up the oxen. Cristian said to him, "Come on. We have to leave some hides
off at the Pardos'. I've already loaded them. Let us take advantage of
the cool."
The Pardo place lay, I think,
to the south of them; they took the Camino de las Tropas, and then a
detour. The landscape was spreading out slowly under the night. They
skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away the cigarette he had
lit and said casually, "Now, brother, to work. Later on, the buzzards
will give us a hand. Today I killed her. Let her stay here with all her
finery, and not do us any more harm."
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and
the obligation to forget her.
Favorite stories; insomnia; a changing picture;
Alice in Wonderland; Ulysses; Robert Browning; Henry James and Kafka;
Melville ...
BURGIN: You seem to disapprove of or criticize so much of your
writing. Which of your stories, say, are you fond of?
BORGES: "The South" and that new story I told you about, called
"The Intruder." I think that's my best story. And then "Funes the Memorious"
isn't too bad. Yes, I think that's quite a good story. And perhaps "Death
and the Mariner's Compass" is a good story.
BURGIN: "The Aleph" isn't one of your favourite stories?
BORGES: "The Aleph," yes, and "The Zahir." "The Zahir" is about
an unforgettable twenty-cent coin. I wonder if you remember it.
BURGIN: Of course. I remember.
......
BURGIN:
What about the story "The South"? Now you've said that story is your personal
favorite. Do you still feel that way?
BORGES: But I think I've written a better story called "La intrusa"
("The Intruder") and you'll find that story in the last edition of El
Aleph or of A Personal Anthology. I think that's better than the other.
I think that's the best story I ever wrote.
There's nothing personal about it; it's the story of two hoodlums.
The intruder is the woman who comes into the lives of two brothers who
are hoodlums. It isn't a trick story. Because if you read it as a trick
story, then, of course, you'll find that you know what's going to happen
at the end of the page or so, but it isn't meant to be a trick story.
On the contrary. What I was trying to do was to tell an inevitable story
so that the end shouldn't come as a surprise.
BURGIN: That's sort of like "The South," though. The sense of inevitability
in the story.
BORGES: Yes, yes. But, I think that "La intrusa' is better, because
it's simpler.
BURGIN: When did you write it?
BORGES: I wrote it about a year or so ago, and I dedicated it to
my mother. She thought that the story was a very unpleasant one. She
thought it awful. But when it came to the end there was a moment when
one of the characters had to say something, then my mother found the
words. And if you read the story, there's a fact I would like you
to notice. There are three characters and there is only one character
who speaks. The others, well, the others say things and we're told about
them. But only one of the characters speaks directly, and he's the one
who's the leader of the story. I mean, he's behind all the facts of the
story. He makes the final decision, he works out the whole thing, and in
order to make that plainer, he's the only character whose voice we hear,
throughout the story.
BURGIN: Is it a very short story?
BORGES: Yes, five pages. I think it's the best thing I've done.
Borges, cả đời viết như thế, cuối cùng chỉ chọn 1 truyện
ngắn, và đúng là cái truyện giải quyết cuộc
chiến Mít.
Cái cô gái bị hai thằng đàn ông
giết đó, chính là cái gia tài để lại,
mà cả hai tên khốn kiếp - 1 trong hai tên, đã
giết cô gái - có bổn phận phải quên nàng!
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and
the obligation to forget her.
Cái truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn, Gấu
đọc nó, dưới cái nền của cuộc chiến Mít, và
cứ nghĩ, do THNM.
Không hẳn như thế: Borges viết nó, dưới cái nền
cuộc chiến Nazi của Hitler. Mãi gần đây, Gấu mới nhận ra, sau
khi đọc những bài Borges viết về 1 nền văn hóa, văn học, giáo
dục của hận thù.
Naipaul chửi Borges, suốt đời mê mẩn với cái bất tử. Không
đúng. Sở dĩ, Kafka và Borges có liên hệ Thầy
Trò, chính là do, tưởng hai mà là
một. Kafka viết, dưới cái ám ảnh của thế giới toàn
trị của CS, cũng như Borges, dưới ám ảnh của chế độ Nazi. Trong
cuốn Phỏng vấn chót, Borges có đề cập tới Phép
Lạ Bí Ẩn.
Và Thượng đế làm anh
ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và
nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261
Lời
người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có
một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào
thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta
sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người,
thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình,
mơ Đức Phật trở lại với thế gian này. Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và
xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban
cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện... NQT
đây
là ông bạn già của tui những năm cuối thế kỷ trước.Tui
đã dựng Khúc Hát Đoạn Tình của ông cho khóa 3 Nhà Hát CL
Trần Hữu Trang. M cũng đã thành danh nghiệp diễn
trong vai dì ba Duyên trong vở Ngôi Nhà Không Có Đàn
Ông của Ngọc Linh, Hoa Hạ - Hoa Cát đạo diễn
Sinh nhật của bạn nhưng cũng là
của tôi : Bạn ăn mừng 70, thất thập cổ lai hy, và
cũng đúng 30 năm đã qua, kể từ khi tôi gặp bạn
ở Prague. Bạn tới đó, vài tháng sau cuộc xâm
lăng của Liên Xô, với Julio Cortazar, với Gabriel Marcia
Marquez, để tỏ mối lo âu của bạn, với chúng tôi,
những nhà văn Tiệp.
Vài năm sau đó, tôi định cư ở
Pháp, còn bạn, là vị đại sứ của Mexico.
Chúng ta thuờng gặp nhau, trò chuyện. Chính
trị thì ít, nhưng tiểu thuyết thì nhiều. Đặc
biệt là về cái món tiểu thuyết, cả hai thật gần
gụi với nhau.
Thời kỳ đó, chúng ta đều ngỡ ngàng
về cái sự bà con giữa xứ sở Châu Mỹ La Tinh
lớn lao của bạn, và xứ Trung Âu nhỏ bé của chúng
tôi, hai mảnh đất của thế giới đều mang nặng dấu ấn hồi ức
lịch sử về 1 thời kỳ baroque, và nó làm cho
nhà văn trở nên quá nhạy cảm với sự quyến rũ,
mồi chài của sự tưởng tượng mang tính kỳ quái
dị, thần tiên, ma mị. Và còn 1 điểm chung nữa
: hai phần đất của chúng ta đều đóng 1 vai trò
quyết định trong cuộc tiến hoá của tiểu thuyết thế kỷ 20,
tiểu thuyết hiện đại, hay có thể nói, thời kỳ sau-Proust
: thứ nhất, trong những thập niên 1910, 1920, 1930, nhờ ở nhóm
Nhị Thập Bát Tú, là những tiểu thuyết gia lớn của
phần Âu Châu của tôi : Kafka, Musil, Broch, Gombrowicz…
(chúng tôi ngạc nhiên vì nhận ra 1 điều là
đã dành cho Broch một sự ngưỡng mộ lớn lao hơn nhiều, so
với những đồng bào của ông ngưỡng mộ ông, và cũng
thật khác biệt, so với họ : theo chúng tôi, ông
ta mở ra những khả thể mới mang tính mỹ học của tiểu thuyết ; ông
ta, trước hết, là tác giả của cuốn Những kẻ mộng du)
; rồi thì, trong những năm 1950, 1960, 1970, nhờ ở 1 chòm
Nhị Thập Bát Tú khác, trong phần đất của các
bạn, tiếp tục biến đổi mỹ học của tiểu thuyết : Juan Rulfo, Carpentier,
Sabato, rồi bạn và những bạn bè của bạn.
Hai điều trung thành xác định chúng
ta : trung thành với cuộc cách mạng nghệ thuật hiện
đại của thế kỷ 20 ; và trung thành với tiểu thuyết.
Hai sự trung thành đó chẳng hề tụ hội. Bởi vì
[trường phái] tiền phong (nghệ thuật hiện đại trong ấn bản
ý thức hệ hóa của nó) luôn luôn
xếp xó tiểu thuyết ở bên ngoài chủ nghĩa hiện
đại, coi nó như là đã bị vượt qua, mang tính
qui ước không sao chịu đựng nổi, nghĩa là, miễn bàn.
Nếu, sau này, vào những năm 1950, và 1960, những
đấng tiền phong 'hậu phong' bắt đầu tái sáng tạo và
tuyên xưng chủ nghĩa hiện đại dành cho tiểu thuyết, họ đã
làm điều này, thuần túy theo 1 đường hướng mang
tính phủ định: một cuốn tiểu thuyết không nhân
vật, không tình tiết, không
câu chuyện, không chấm câu, nếu có
thể, thứ tiểu thuyết tự gọi nó, hay để cho mọi người gọi nó
là phản- tiểu thuyết [từ này của Sartre.
GNV].
Kỳ cục: những người sáng tạo ra thơ hiện đại
không có ý làm cái gọi là
phản thơ. Ngược lại,kể từ Baudelaire, chủ nghĩa hiện đại thơ ca cố tới gần, một
cách thật là triệt để, cái yếu tính của
thơ, cái chiều sâu thật đặc trưng của nó. Trong cùng
1 đường hướng như thế, tôi tưởng tượng ra 1 thứ tiểu thuyết
hiện đại không phải như phản-tiểu thuyết nhưng mà
là tiểu thuyết-trùm, hay tổng-tiểu
thuyết, hay tiểu thuyết-vua, an arch-novel.
Cái thứ tiểu thuyết-trùm này,
thì, thứ nhất, xoáy vô điều mà chỉ tiểu thuyết
mới nói, đám khác đi chỗ khác chơi, cho
được việc tiểu thuyết; thứ nhì, nó sẽ làm sống
lại tất cả những khả thể bị lơ là, bị bỏ quên, mà
nghệ thuật này đã tích luỹ được trong bốn thế
kỷ của lịch sử của nó. Hai mươi lăm năm trước đây, tôi
đọc cuốn Terra Nostra của bạn: tôi đọc đúng cái
thứ tiểu thuyết có tên do tôi phịa ra đó:
1 cuốn tiểu thuyết-trùm. Điều này chứng tỏ, quả
có thứ đó, có thể có thứ đó, và
sẽ còn có nữa, nữa.
Thứ hiện đại lớn lao của tiểu thuyết. Cái
mới thật khó khăn, và thật ngỡ ngàng.
Ôm bạn quí của ta,
Milan
Cuốn tiểu thuyết-vua mà Kundera
muốn vinh danh, là cuốn « Thượng Đế Đã Chết
Trong Thành Phố », tức cuốn La Peau [Làn Da]
mà GNV này đã chuyển ngữ, từ những năm trước
1975, của Malaparte, một nhà văn Ý, mà Kundera
coi là 1 tiền khuôn mẫu, pré-modèle, của
nhà văn dấn thân. Một tay ở trong nước tính ‘đi’
lại cuốn này, và GNV có đề nghị, nếu đi, thì
phải đi trọn gói, nghĩa là dịch toàn bộ cuốn truyện,
vì khi GNV dịch, bỏ đi đến 2/3 cuốn sách, theo đề nghị
của ông Nhàn chủ nhà xb Vàng Son.
Có 1 giai thoại về bản dịch này. Khi
GNV dịch xong, ông Nhàn đem trình [chắc thế]
cho tay Khoát, [hay Quát], chủ nhà sách
& nhà xb Sống Mới, chủ đích thực của nhà
xb VS của ông Nhàn. Tay chủ Sống Mới bèn đưa
cho tay Ngọc Linh, tác giả Đôi Mắt Người
Xưa, kiểm tra ; theo ông Nhàn kể lại với Gấu, tay
này mê quá, nhưng tiếc hùi hụi, bản dịch
tuyệt cú mèo, nhưng bỏ đi nhiều quá !
Bạn phải đọc cuốn La Peau, thì mới hiểu được
cái sự tiếc hùi hụi của Ngọc Linh. Cuốn truyện miêu
tả những ngày Yankees mũi lõ giải phóng đất
Ý, và có rất nhiều nét y chang cái
cảnh quân đội Mẽo, những năm có mặt tại Miền Nam ! GNV
không hiểu tại làm sao mà ông Nhàn,
rất ư là cù lần, mà thật là tốt bụng,
lại kiếm ra cuốn này, và đưa Gấu dịch!
The president-elect approaches diplomacy
like a Qing-dynasty emperor, says The Economist’s Washington bureau chief
It says a
lot about the Qing emperors’ worldview that, for much of the time their dynasty
lasted, relations with foreign powers were handled by an Office of Barbarian
Control. Jump to late 2016 and the dawn of the Trump era in America, and
life for the nearly 180 ambassadors resident in Washington, DC is
almost as humiliating.
Before the
election, modern-day envoys spent months talking to foreign-policy experts
signed up with Hillary Clinton’s campaign – a veritable administration-in-waiting,
housed in think-tanks, universities and consulting firms, comprising several
hundred advisers organised into working groups and sub-groups and busy
holding conference calls and sending one another memos. Even the farthest-flung
country had friends within this system: a former National Security Council
director with a passion for the Caucasus, say, who might soon serve as a
principal deputy assistant secretary of state (an actual job title). In
contrast, embassies anxious to know what Republican foreign-policy grandees
were telling Trump faced an unusual hurdle. During 2016 dozens of conservative
thinkers and bigwigs from both Bush presidencies signed “Never Trump” letters
declaring the businessman a terrifying menace to global security – though
since his win, Washington being what it is, some are now pondering whether
they might work for him anyway.
For foreign
envoys, Trump’s victory was as disruptive and confusing as a coup behind
imperial palace walls. Diplomats and news outlets found themselves tracking
down anyone with a sense of the new ruler’s thinking, from business partners
to old friends to anyone in the small band of advisers who accompanied
him on his journey from insurgent to president-elect. Even arranging phone
calls of congratulation to Trump from heads of state and government was
a source of angst. Foreign diplomats have spent days swapping wry tales
of repeat-dialling the Trump Tower in Manhattan, the brass and pink-marble
temple to 1980s style that has become the hard-to-access centre of American
power, like a vertical Forbidden City. Some heads of government were offered
calls with the president-elect at such short notice that they ended up
talking to Trump on their mobile phones.
Soon after
the election, in a street-corner conversation that felt like a cross between
a joke and a bad dream, one diplomat confided that the Australian ambassador
had patched his prime minister through to the president-elect after being
given Trump’s private number by the Australian golfer, Greg Norman – a
story that leaked in the Australian press some days later (it was a “pleasure
and an honour” to help, Norman told reporters). More than one embassy
had invested heavily in ties with Governor Chris Christie of New Jersey,
a garrulous bruiser who backed Trump early and became head of his presidential
transition team. Alas for his foreign friends, Christie was abruptly demoted
after the conviction of two of his allies for abusing their power in New
Jersey.
Britain,
traditionally one of the best-connected allies, had to watch Nigel Farage,
boss of the United Kingdom Independence Party and a vocal admirer of Trump’s
America First nationalism, visit Trump Tower before any minister from the
British government. Trump then tweeted some advice to 10 Downing Street:
that Farage should be made British ambassador to Washington. Others
have it worse. The Washington Post caused a stir
by reporting that scores of foreign diplomats attended a marketing event
a week after the election at Trump’s new hotel in the capital, housed in
a grand old post-office building on Pennsylvania Avenue, having been
tempted by the chance to curry favour with the new president by booking delegations
into his property. “Why wouldn’t I stay at his hotel blocks from the White
House, so I can tell the new president, ‘I love your new hotel!’” an Asian
diplomat told the Post.
Such tales
of frantic sycophancy mask a more serious concern. In cables home, embassies
should now be reporting on the new administration’s priorities in trade,
foreign and security policy, drawing on conversations with an ever-expanding
team of senior players and position papers written by influential
members of Team Trump. This time it is different. Along with other journalists
and diplomats, I have met, interviewed and lunched with people who bear
impressive-sounding advisers’ titles in Trump-world. But when pressed in
private, few dare to claim decisive influence over their boss. Insiders
describe a leader who does not care to read policy memos, preferring to
absorb information in person, ideally by peppering a small group with pointed
questions. A frequent caveat in Trump-world is a nervous phrase like: “Now,
this is just me talking, not Mr Trump.”
In a famous
rebuff, the Qianlong emperor declared himself quite unimpressed by clocks,
telescopes and other gadgets brought by the first British envoy to China,
Lord Macartney. “We possess all things. I set no value on objects strange
or ingenious, and have no use for your country’s manufactures,” the emperor
wrote to King George III. The next American president seems to feel much
the same about ideas from outsiders. Asked in March about his preferred sources
of geopolitical advice, he cheerily answered: “I’m speaking with myself,
number one, because I have a very good brain.” Where that leaves foreign
leaders is anyone’s guess. Barbarians grow “arrogant” if treated too well,
the Qianlong emperor once grumbled. If President Trump proves half as imperious,
allies face a bumpy few years.
David Rennieis The
Economist’s Washington bureau chief and Lexington columnist
Note: Tay này,
vua viết trinh thám, biết mình sắp đi, ung thư
phổi, bèn viết cuốn này. Gấu mua, làm mồi,
viết cuốn của Gấu!
Chắc là sẽ viết về những
ngày ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa,
nơi Gấu tính chọn, để chết, đếch thèm trở về
Đời!
Nơi chốn hạnh phúc, là
nơi chốn để chết!
Khi ông anh của Gấu viết MCNK,
ông biết, mình là con voi già,
trở về cái nghĩa địa voi, tức là Đà
Lạt của ông, để chết.
Nơi chốn hạnh phúc nhất?
Thì đọc thư viết cho đảo
xa thì biết.
Hay đọc mấy bài thơ của ông
gửi cho đảo xa.
Em và anh thuộc loại máu
lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày
em ở Sài Gòn, tuy nói với em là
vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm
mấy bài thơ thì có. Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai
bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không
có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em
nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc
là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão
- có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng
hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi
anh toàn nói bậy không. Lúc nào
anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy
cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh
gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như với những người khác, hay bình
thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi
anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có
lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi
anh ngày nhỏ: không bao giờ anh có được
cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh
mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn
đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những
đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến
cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào
không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã
thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn
đốn vì yêu người.
Phỏng Giái
Nhà Ngụy, chúng
chiếm; Ngụy, chúng tống vô Trại Tù mút
mùa lệ thuỷ;
Vợ Ngụy, chúng hiếp; con Ngụy, cấm
đi học, đứa nào lỡ đi học, cấm vô Đại Học!
Liberation-and Return?
MILAN RICHTER
Only in a dream would
you dare ask your mother
about Commandant Vasil,
who liberated her from Terezín
and from virginity.
"They
gave us freedom, and I and my friend
Zdena gave them love."
She did not say "our bodies"
or less plainly
"the scent of our Jewish hair."
"At the
command centre in Teplice we sorted
the diamonds confiscated from
the Germans.
Lesser gems went by courier to
Moscow;
Vasil kept the finest for himself.
'You are
the most beautiful jewel I have,'
he'd say, smiling, as he stowed
them in the safe.
If I'd hidden away just one
behind my blouse,
believe me, we'd be wealthy
today.
For me
he was a hero of Russian legends;
I found it enough to eat well,
to be sated with his embraces.
By then
I had no one else left in the
world.
That autumn
they ordered him home,
but he never returned to wife
and children.
His own chauffeur murdered
him on the way.
Death liberates. I was again
free and
alone," my mother tells me in this long dream.
"When
your father tracked me down a year later,
resignedly I fell into captivity,
the Babylonian bondage a new
generation
will emerge from. And one day
will be released
to freedom-and death."
Trong
Đường tới nông nô, The Road to Serfdom
[1944-45], Friedrich Hayek viết, chủ nghĩa xã hội, socialism,
và chủ nghĩa quốc gia, nationalism, là hai hiểm
nguy lớn lao nhất đối với văn minh. Nhà kinh tế lớn lao người
Áo chắc chắn phải thêm vào nhận xét
của ông, vào những ngày như thế này,
chủ nghĩa chính thống giáo, religious fundamentalism.
Cái chủ nghĩa xã hội mà
ông nhắc tới ở đây, là chủ nghĩa Mác,
kẻ thù không đội trời chung của dân chủ tự
do, mà chủ nghĩa Mác gọi là một hình
thức bóc lột của tư bản, a form of capitalist exploitation.
Cái thứ xã hội chủ nghĩa này nhắm tiêu
diệt tư hữu mọi phương cách sản xuất, tập thể hoá
đất đai, quốc hữu hóa kỹ nghệ, tập trung và lên
kế hoạch kinh tế, ban hành nền chuyên chính vô
sản như là bước đầu tiến tới xã hội không còn
giai cấp trong tương lai. Chủ nghĩa xã hội mác xít
biến mất cùng với sự tan rã của Liên Xô và
sự chuyển đổi của chủ nghĩa CS Trung Quốc thành một chủ nghĩa
tư bản độc đảng cầm quyền, single-party authoritarian capitalism. Mộ
chí của nó, its epithah, là sự sụp đổ Bức Tường Bá
Linh vào năm 1989.
Không có gì tởm
hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác,
nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng.
Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch sử hiện đại. Quê
hương của một con người, thì cũng chỉ là một mảnh
không gian - có thể một căn phòng khách
sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con
mắt của nhân dân hay sự phiền hà của một chế độ
thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép
một con người, và tác phẩm của người đó. Cây
có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau
khi lương tâm của nó nói: Không!
George Steiner: The Cleric of Treason
Chủ nghĩa quốc gia, ở xứ
Mít, là chủ nghĩa Bắc Kít!
Xã hội chủ nghĩa, qua cái tên
Mác Xít, ở xứ Mít, cũng là chủ nghĩa
Bắc Kít! Cái sự tàn bạo
của nhà nước Bắc Kít… như hiện nay, cho thấy –chúng
không tha, ngay cả người dân bần cùng Bắc Kít
của chúng – nhờ Tẩy cai trị xứ Mít, mà có
cái gọi là Miền Nam trước 1975.
Trong
cuốn "Chữ Đuổi Thần Chết" có 1 giai thoại thật thú
vị liên quan tới Dr Zhivago: Bị sức ép
của nhà nước, Pasternak phải gửi “mail” chính thức
cho nhà xb ở Ý, ra lệnh ngưng in ấn, nhưng bằng 1 account
riêng, ông nhắn, in lẹ lên; trước khi ngỏm, tớ chỉ
mong được nhìn thấy nó!
Xịa,
nhờ Tòa Thánh La Mã, tuồn những ấn bản
Bác Sĩ Zhi Và Gồ, qua
những khách du lịch viếng thăm Rome, Tòa Thánh,
về Nga. Cuốn này, và cuốn của Conquest viết về Đại
Khủng Bố của Xì, đã đóng góp vào
việc xóa sổ Liên Xô.
Bắc Kít, trước 1975, gần như mù tịt
về 1 Miền Nam.
Dấu hiệu mặc khải, với DTH, về 1 thiên đường
Miền Nam, là, bà nghe dân chúng chửi Thiệu như điên!
Và bèn ngồi xuống vệ đường, và
khóc!
Note: Câu của Kafka, I am memory
come alive, Gấu đã từng chôm, khi còn Sài
Gòn, trước 1975, qua bản tiếng Tây, "Je suis une mémoire
devenue vivante d’où l’insomnie", và đặt lên
đầu truyện ngắn Kiếp Khác.
"Cho
dù ở bất cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào,
nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là một cô
hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu, ở nơi đâu
nếu không là trong tiếng nước người..."
"Tiếng Đức cũng
chỉ là nơi nương náu tạm thời, cho qua một đêm,
của những kẻ không nhà. Cũng tốt thôi, nếu nhận
ra điều này. Cũng tốt thôi, nếu làm hòa
với một tri thức như thế, và thuộc trong số những người không
thuộc về nơi chốn nào. Cũng tốt thôi, một kiếp người."
"Nếu phải nghĩ tới một cuốn
sách sẽ viết, thì nó vẫn là về Lò
Thiêu."
Kertesz
đã mất một thời gian bằng những năm tháng ông sống,
trước khi bị tù đầy, tức là 14 năm, để viết cuốn đầu tay.
Một nhà xuất bản do nhà nước quản lý từ chối in, sau
được một nhà sách khiêm tốn [modest] xuất bản năm
1975, nhưng bị đối xử bằng sự im lặng. Tại Thụy Điển, xuất bản lần thứ
nhất, qua bản dịch của Fripress in Maria Ortman's, với tựa đề Steg för
steg (Step by Step, Từng Bước). Thoạt đầu, nó không gây
chú ý, mặc dù, cùng với Đây Có
Phải Một Người của Primo Levi, đây là một tác phẩm văn
chương mãnh liệt nhất đã từng được viết ra về thực tại trại
tập trung.
Sự kiện Kertesz bị đi đầy không có nghĩa, Fateless
[Không Số Kiếp], hay Man Without a Fate, [Người Không Số
Kiếp], như tên sau này của nó, chỉ là một
cuốn tiểu thuyết tự thuật, theo bất cứ một ý nghĩa giản dị nào
của từ này. Ông bỏ đi những gì gọi là giai
thoại (anecdotal), nhất thời (temporal), ngoại lệ, và chỉ giữ
lại tính tầm phào, banality, của câu chuyện
(nếu có thể coi tầm phào là nội dung của nó):
một cách kể, một nghiên cứu có tính phương
pháp về cuộc sống thường nhật của trại tập trung, của cơ cấu toàn
trị.
Ngoài nội dung, đều nói về trại tù, cách
kể của Kertesz thật khác với của Levi: Làm thế nào
một con người, bị bắt, bị dứt ra khỏi cuộc sống bình thường của
mình, dần dần thích nghi với một cuộc sống khác,
mà cuộc sống khác này, sở dĩ nó có,
là để làm giết hại người đó. Nhưng Levi là
một người đã trưởng thành. Koves, nhân vật kể chuyện
ở trong Không Số Kiếp thì mới được 14 tuổi, và thời
gian từ 1944 tới 1945 là một quãng đời quyết định, về mặt
học hỏi, đối với cuộc đời của cậu bé.
Cùng với một nhóm trẻ cùng tuổi, ông
bị bắt trên chuyến xe buýt trong một cuộc bố ráp
tại Budapest
vào năm 1944. Thoạt tiên, chúng bị nhốt một ngày
– một ngày ấm áp, tẻ ngắt - trong một nhà tạm
giam, trong khi viên cảnh sát - trẻ, trông có
vẻ đần độn, bối rối - gọi điện thoại xin thêm chỉ dẫn. Sau đó,
chúng bị giữ vài ngày trong một xuởng gạch cũ, cùng
với vài ngàn người Do Thái. Sau những bàn
bạc với Hội Đồng Do Thái, vài ngàn người này
chấp nhận “đề nghị” [offer], họ sẽ tự nguyện đi làm việc, bởi vì,
như họ được giải thích, rằng sẽ còn nhiều chuyến xe lửa
khác nữa, và nơi đây sẽ không làm sao
chứa nổi. “Nói vậy là hết nói, còn bàn
bạc gì được nữa.”
Khi lực lượng giải phóng tới với Koves, một năm sau đó,
ông nằm trong nhà thương tại khu trại tù Buchenwald, người
độc nhất sống sót trong nhóm bạn của ông. Một thân
hình vàng khè, trơ xương, với bộ mặt nhọn hoắt
của một người già, da đầy những vết mụn nhọn mưng mủ, nhức nhối.
Một giọng văn cố tình móc họng.
Tiểu
thuyết của Kertesz không khó đọc, theo nghĩa kỹ thuật.
Cứ thẳng một lèo, và là một cách kể chi li,
không lạc đề, không bình, bàn, nếu có,
chỉ trong giới hạn nhân vật chính, một cậu bé tuổi
còn non, kinh nghiệm ít ỏi. Giọng nói đó,mạnh
mẽ, tò mò, phải nói là thông minh, mưu
trí. Đây là giọng của một người trẻ tuổi, mà,
ở bất cứ thời điểm mới mẻ nào, chiến đấu, hiểu, làm, và
làm cho được, ở cái mức tối hảo, không phải do ngây
thơ, nhưng làm như vậy thì mới sống sót. Với anh ta,
mọi chuyện cứ thế mở ra, “từng bước từng bước”. Và những phản ứng
thoạt kỳ thuỷ của cậu bé, là ngưỡng mộ một cách khiếp
sợ: [Bạn hãy thử] nghĩ coi, cậu bé đã thông minh,
mưu trí tới cỡ nào, bởi vì chính những mưu mô
khôn khéo như vậy đã dẫn dụ cậu, trong những việc làm
như, làm sao cởi quần áo khi đứng trước vòi tắm, làm
sao nhớ con số ở chỗ treo quần áo, làm sao buộc giây
giầy! Phải có một người nào đó đã nghĩ ra mấy
trò này… Chắc chắn họ đã dùng cùng một
phương pháp như vậy, trong những phòng tắm khác, nơi
mà, như cậu bé được biết, thay vì nước, thì
là hơi độc xả lên những tù nhân. Lại còn
máy khoan ở khu làm việc – Sao mà nó khác
biệt so với thứ khó xài của cảnh sát Hung. Mọi thứ
qua đó, đều trơn tru, ngon lành. Khi tù nhân
tới hồi kiệt lực, gầy lõm tận xương, không còn nhận
ra ai là ai, chuyện xẩy ra đều đặn đến nỗi cậu bé không
nhận ra, ngoại trừ điều này, nếu phải so sánh bề ngoài
chẳng hề suy suyển của đám lính gác, với của tù
nhân, thì rõ mười mươi, hai thứ người này hoàn
toàn khác nhau.
Với một người mắt lúc nào cũng mở to thao láo
vì tò mò, vì ngạc nhiên, muốn biết
như thế, mỗi hoàn cảnh đều là mới tinh khôi, đều là
một “ngay bây giờ” [a now] chẳng cần tới tri thức phản hồi; thứ
tri thức này, chúng ta, những độc giả, thì chẳng thiếu,
nhưng người kể chuyện, tức cậu bé, thì không.
Đúng là một giọng khiêu khích, móc
họng. Kertesz, tác giả, như cố tình bám chặt lấy
nó, với một sự ương ngạnh, bướng bỉnh, lì lợm, và
chính điều này làm cho nó tách bạch
hẳn ra.
Nhưng thách đố lớn lao nhất, tại sao cuốn sách
bị đáp ứng một cách thật là lạnh lùng, khi
vừa xuất bản là một điều khác, tôi [Madeleine Gustafsson]
tin như vậy. Nó nằm ở ngay tựa đề: Không Số Kiếp [Fateless].
Hay, một người không số kiếp [a man without a fate]. Bởi vì,
đây không chỉ về Auschwitz,
về một điều gì đã xẩy ra, mà là triết lý
về cuộc đời. Đứa bé cố biểu tỏ triết lý này, sau
khi từ Budapest
trở về nhà. Mọi chuyện xẩy ra như thế này đều không
thực, đúng như thế, đứa bé nghĩ, nhưng nó tới, nó
xẩy ra: Chúng cứ thế tới, tuần tự, từng bước, từng bước. Chỉ một
khi ngoái nhìn lại, thì mọi chuyện mới trở nên
đã xong xuôi, đã hoàn tất, đã không
thể hiểu được… những điều bạn có thể tóm lược, [và
tạo một khoảng cách với chúng], bằng những từ như “ghê
rợn”, hay “địa ngục”.
Như được ban phát, tuy không được chỉ định sẵn,
cậu bé trải qua số kiếp được cho đó. Và bây
giờ, cậu bắt buộc phải làm một điều gì, với tất cả những
gì đã trải qua. Chẳng thể nói, chúng không
có nghĩa. Chẳng thể hài lòng, với ý nghĩ,
đây chỉ là một lỗi lầm, hay là chấp nhận chúng,
bằng cái dáng vẻ ngây thơ, tuy chua chát.
Nhưng nếu có tự do, là không có số kiếp. Nói
một cách khác, cậu bé nói với những thính
giả mỗi lúc một thêm chán chường, thê lương
của cậu rằng: “Chúng ta, chính chúng ta, là
số kiếp”.
Số kiếp của chúng ta là như vầy đó.
Tới lúc này thì không chỉ Chú
Steiner, mà luôn cả Chú Fleischmann cũng nhẩy bổ
lên. “Sao? Mi nói sao?”, ông chú, mặt đỏ gay,
nói như xỉa xói vào mặt thằng bé. “Chúng
ta bây giờ là những kẻ gây tội, mi muốn nói
vậy hả, trong khi chính chúng ta là nạn nhân?”
Cậu bé cố giải thích, đây không phải
là vấn đề tội, hay lỗi. Đúng ra là người lớn phải
nhận ra, ý nghĩa của tất cả, tự nó, giản dị, trần trụi,
là như vậy.
Như Kerresz viết ở trong nhật ký của ông [his Galley
Diary]: “Không Số Kiếp
là một tác phẩm hãnh diện. Nhờ nó mà
người ta sẽ không tha thứ cho cả cuốn sách, lẫn người viết
nó, là tôi.”
Cây viết là cái mai của tôi.
Nếu
Không Số Kiếp móc
họng, Kinh Cầu Cho Một Đứa Bé Chưa
Ra Đời làm người đọc câm họng.
Đây là một cuốn sách mỏng, một độc thoại
dài, đều đều một giọng, thật tẻ nhạt, bám dính cứng,
một cuốn sách nhỏ, mỏng, theo kiểu của Thomas Bernhard. Dòng
văn lan man, tản mạn, nhưng, với tất cả những rối rắm của nó, thật
rõ ràng. Giọng mời gọi, khiến người đọc, cho dù ngần
ngại tới cỡ nào, vẫn sẵn sàng nhập cuộc. Nếu có điều
gì làm người đọc có thể xả hơi trong chốc lát,
để mà thở, lạ lùng, trớ trêu làm sao, đó
chính là một, và chỉ một mà thôi: nhịp
thở của văn chương. Nhịp thở này ước mong một hiệu ứng – nhưng
rõ ràng là tác giả chẳng hề muốn một hiệu ứng
như vậy, ông ta cưỡng lại mọi kiểu đó, cùng một đường
hướng như ông đã cuỡng lại mọi đào thoát, mọi
hòa giải, mọi ân sủng. Ông ta thì lô-gíc,
khách quan, và không khoan nhượng.
Kaddish là kinh cầu dành cho người chết của dân
Do Thái. Nhưng ở đây, người nói [the speaker] nhắm
tới một đứa trẻ không bao giờ được phép ra đời, một đứa
trẻ mà người nói không thể nào tưởng tượng
được rằng, mình sẽ là cha của nó.
Nói cho cùng, đem một đứa trẻ của mình
vào trong cõi đời này, theo một nghĩa nào
đó, là hàm ý, mình vẫn tiếp tục sống
sau cái chết của mình, nhưng với người nói ở đây,
một viễn tượng như thế là không thể nào chấp nhận nổi.
Đó là bởi vì, theo một cách nào đó,
ông ta đã sống sót cái chết của chính
mình rồi. Đã có lần, một người nào đó,
đào mộ ông ta, [ “in the breezes”, “trong hơi gió
thổi, như Paul Celan đã viết, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết,
Death Fugue], “và rồi… để cái mai, cái thuổng vào
tay ông ta, bỏ mặc ông ta một mình, mi hãy hoàn
tất công việc mà tao đã khởi đầu đó, hãy
cố mà làm cho thật tốt, cho thật khéo, như là
mi có thể làm được.”
Kinh Cầu [Bản tiếng Anh]
Mourner’s Kaddish
May His
illustrious name become increasingly great and holy
In the world that He created according to His will, and
may He establish His kingdom
And may His salvation flourish and the Messiah come soon
In your lifetime and in your days
and in the lifetime of all the house of Israel
Speedily and soon. And say amen
May His
illustrious name be blessed always and forever.
Blessed, praised, glorified, exalted, extolled
Honoured, raised up and acclaimed
be the name of the Holy one blessed be He
beyond every blessing hymn, praise and consolation
that is uttered in the world. And say amen
May abundant
peace from heaven, and good lift
Be upon us and upon all Israel. And say amen
May He
who makes peace in His high places
Make peace upon us and upon all Israel
And say amen
[Cầu
cho Danh Sáng Ngài ngày càng cao cả và
thiêng liêng
Trong thế gian Ngài sáng tạo nhân danh Ngài
Ngài thiếp lập nước của Mình
Cầu cho sự cứu chuộc của Ngài thịnh vượng mãi
và Đấng Cứu Thế sớm tái lâm
Trong cõi kiếp và những tháng ngày
của bạn
và trong cõi kiếp của mọi mái nhà
Israel
Mau mắn tức khắc
Và nói xin được như nguyện
Cầu
cho Danh Sáng Ngài đầy ơn phước mãi mãi
Được ơn phước, ngợi ca, vinh danh
Được xưng tụng, sùng bái
Cầu xin tên của Đấng Thiêng Liêng
Đầy Ơn Phước
Mãi mãi là Ngài
vượt mọi ban phước, xưng tụng, và an ủi
được thốt lên trong thế gian này. Và nói
xin được như nguyện
Cầu
cho nền hòa bình sung túc từ trên trời, và
cuộc sống tốt lành
cho chúng con và cho khắp Israel. Và
nói xin được như nguyện
Cầu xin
Đấng Bề Trên sáng tạo hòa bình trên nơi
cao cả của Ngài
Ban hòa bình cho chúng con và cho
khắp Israel
Và nói xin được như nguyện]
Như vậy,
về mặt thực tiễn, có vẻ như đây là kết luận mang tính
triết học của Không Số Kiếp: sự chọn lựa, là do quan niệm của
một người về sự hiện hữu của mình, như là một sự cố [accident]
ngẫu nhiên, chẳng có nghĩa lý gì hết, một chuỗi
những trùng hợp ‘mà, muốn nói gì thì nói,
cũng vẫn chỉ là một cuộc đời bỏ đi”, hay, [chấp nhận] sống cuộc đời
đó, theo một phương hướng mà mình tự chọn, bất cần biết
bất cứ ý nghĩa gì cuộc đời sẽ đem lại cho mình, và
trong trường hợp này, sự chọn lựa ở đây, là viết. “Cây
viết là cái mai, cái thuổng của tôi,” Kertesz
viết. Viết, như thế, là một cách tiếp tục đào, cố chuyển
cuộc đời của mình thành “một chuỗi những chiếu rọi, thấu hiểu,
một khi mà sự hãnh diện của tôi [my pride], ít
ra là thế, tìm thấy sự hài lòng của nó."
Những chiếu rọi, thấu hiểu [insights] của ông,
là những gì?
Chiếu rọi, thấu hiểu, với Kinh Cầu, là
như thế này:
Trong khi người nói, ở trong cuốn sách sử dụng
quyền năng dẫn dụ để chuyên chở, để nhấn mạnh, với người vợ của
mình, với người đọc, và có lẽ, với chính anh
ta, rằng, chẳng có gì không thể giải thích được,
về Lò Thiêu. Auschwitz
hiện hữu, và đây không phải là sản phẩm của
bất cứ một sức mạnh không thể hiểu được nào hết. Thay vì
vậy, nó hoàn toàn hiểu được, và từ thế gian
này mà ra, “thế gian này là như thế đó,
sự tối ư hiện hữu của nó tất yếu là từ sự kiện này”.
Cái Ác không phải là một tai nạn, hay một lổi
lầm, nhưng là hậu quả của lối suy nghĩ duy lý, rational thinking,
bởi những cá nhân con người. Như một khả hữu, lô gíc
đến mức khiếp đảm, Lò Thiêu cứ thế lượn lờ trong không
gian, trên đầu trên cổ con người [từ bao nhiêu thế kỷ,
từ đời đời, kiếp kiếp, “for a long, long time, centuries”], chờ đúng
lúc là nhập thể [xuất hiện bằng xương bằng thịt, materialize:
duy vật hóa, biến thành sự vật cụ thể]. Đây là
cách mà thế gian hiện tồn, như nó là, đây
là nền văn minh của chúng ta, như là nó là.
Tuy nhiên, điều đòi một sự giải thích, là điều
này, người nói nhấn mạnh, bây giờ, độc giả, hãy
nghe cho thật hết sức kỹ càng [“and now you should listen extra carefully”]:
điều thực sự phi lý, nó cắt ngang cái chuỗi chuyện
thường ngày ở huyện rất ư là máy móc ở trên,
tức cái chuỗi duy lý, thuần lý mà chúng
ra đã nói tới đó, chính là Cái
Tốt, Cái Thiện, chứ không phải Cái Độc, Cái
Ác. Nói rõ hơn: Ác là thuần lý.
Thiện là phi lý. Chính vì Thiện không
thuần lý nên chẳng thể nào có thể giải thích
được. Nó cũng chẳng cần giải thích.
Và người đọc phải “lắng nghe một cách hết sức
cẩn thận”. Đoạn người bạn tù, mặc dù có một cơ
hội [một cơ hội, ở Auschwitz , nó có nghĩa của sự khác
biệt giữa sống và chết], để ‘chớp” khẩu phần của người kể chuyện,cho
chính anh ta, nhưng thay vì vậy, lại liều mạng sống của
mình, cốt sao cho người kể chuyện có lại được khẩu phần
đó [kèm theo chỉ một lời bình phẩm nghe thật dễ
‘nực’: “Rồi sao, còn muốn gì nữa?”]. Đoạn này được
giấu giếm ở trong dòng độc thoại, và người đọc thật dễ dàng
bỏ qua, bởi vì nó được kể theo kiểu chẳng thích thú
gì, đành phải nói ra cho xong chuyện, có thể
nói như vậy. Và điều này cũng chẳng thể nói
lên rằng, cuộc đời này thì tốt, thì thiện.
Tất cả chỉ để nói, rằng, tự do có, rằng, tự do hiện hữu.
Thứ tự do thách thức, kiêu căng, ngạo mạn đó,
là điều mà Kertesz muốn nói tới, ở trong cuốn
tiểu thuyết thứ nhì của ông, Fiasco (1988) [Fiasco: sự
thất bại hoàn toàn và có tính lố bịch.
Bản tiếng Pháp dịch là Sự Từ Chối (Le Refus)]: một tự do
mà bản chất nghịch ngạo của nó, là ước muốn được
ở tù cốt sao được viết; tự nguyện sống một cuộc đời tù túng,
đầy ải, bởi vì đây là giải pháp độc nhất có
thể chấp nhận được, nếu phải “hợp tác” với chế độ toàn trị.
[Độc giả người Việt có thể nhận ra sự chọn lựa của một Nguyễn Chí
Thiện ở đây]. Khi xẩy ra cuộc nổi dậy vào năm 1956, Kertesz,
qua nhân vật hoá thân của mình là Koves,
có cơ hội để rời bỏ xứ sở, nhưng đã chọn ở lại để viết cuốn
tiểu thuyết của ông, “cuốn tiểu thuyết độc nhất khả hữu đối với tôi”,
trong thứ ngôn ngữ độc nhất mà ông biết. Nhưng trước
đó - trước khi ông sẵn sàng cho sự từ chối cuối cùng,
nghĩa là nói không với chế độ, và rồi tình
nguyện ở tù, để viết - ông còn có thì
giờ để thử - và đều thất bại - chọn cho mình một cuộc
sống xã hội, qua những ngành nghề như là ký
giả, thợ kim khí, ngay cả một người gác tù. Nói
rõ hơn, đây là một từ chối hoàn toàn
để trở thành có ích, và đây là
sự cứu rỗi của ông [a total refusal to be useful – which is his salvation].
Fiasco, Sự Từ Chối, là một câu chuyện theo
kiểu Kafka, rất ư là tếu tếu [jovial], trong sự trong sáng
rất ư là thê lương rền rĩ của nó, về chế độ độc
tài Cộng Sản. Nó đuợc miêu tả như là một tiếp
nối không hề đứt đoạn, ngay sau cuộc sống ở trại tù Nazi
chấm dứt. Cũng thế, Kinh Cầu được miêu tả, như là một tiếp
nối của chế độ độc tài của người cha, về một tuổi thơ không
hề có tiếng cười. Cả ba cuốn họp thành một tổng thể hài
hòa, mở ra cả một cõi văn chương mà chúng
ta có thể tạm gọi là cõi văn, với độc nhất chỉ một
đề tài, của Kertesz: kinh nghiệm về chế độ toàn trị. Nhìn
như thế đó, những gì gì Nazi, những gì gì
Cộng Sản, những gì gì Lò Thiêu, là cơn
đau đời đời, không chỉ của một cá nhân mà của
trọn một nền văn minh - nền văn minh của chúng ta – chính
cái đó, nền văn minh của chúng ta đó, đã
làm nên Lò Thiêu, làm cho Lò Thiêu
khả hữu.
Một dòng thơ xuôi trí tuệ
Cùng
lúc viết tiểu thuyết, Kertesz còn viết một thứ thơ xuôi
trí tuệ [inrellectual prose] - một loại sách workbooks
[sách ngành nghề], về viết, đọc, và chết. Một tuyển
tập đầu tiên, viết về quãng đời từ 1961 tới 1991, xuất
bản vào năm 1993, dưới nhan đề Nhật Ký Galley. Cuốn thứ
thì, Tôi, Người Khác [Bản tiếng Anh, I, Another],
xuất bản năm 1997. Cuốn đầu chủ yếu là nói về cuộc đời và
những ý nghĩ của ông trong khi viết bộ ba tiểu thuyết kể
trên. Cuốn thứ nhì chú trọng tới những thay đổi lớn
trong cuộc sống của ông [và của Âu Châu] sau
1989. Ông cũng còn cho xuất bản một vài tuyển tập
tiểu luận, và những bài nói chuyện, nhan đề [bằng
tiếng Đức], như Người Thám Hiểm, Lá Cờ Anh. Khoảnh Khắc
Im Lặng khi Đội Hành Quyết Tái Nạp Đạn, và mới đây
nhất, là Ngôn Ngữ Lưu Vong.
Sự trớ
trêu, ngược ngạo của việc viết, là một đề tài mà
Kertesz lập đi lập lại hoài hoài, và thật khó
mà giản lược vào chỉ một vài từ, nếu muốn giải
thích nó. Bởi vì đây là một sự ngược
ngạo thứ thiệt [a genuine paradox: một nghịch lý đích thực].
Nhưng có thể viện hai trích dẫn, từ những gì ông
viết, để miêu tả nó. Cả hai trích dẫn này
cùng có một giá trị tức thời như nhau.
Trích
dẫn đầu tiên là từ Galley Diary: “Nếu tôi nghĩ về
một cuốn tiểu thuyết, tôi lại nghĩ về Lò Thiêu Auschwitz.
Bất cứ gì tôi nghĩ tới, là luôn về Lò
Thiêu. Ngay cả khi nói về một điều gì có
vẻ như hoàn toàn khác hẳn, vậy mà cũng là
về Lò Thiêu. Tôi là một Đồng Vọng Cho Hồn Thiêng
Lò Thiêu. Lò Thiêu nói qua tôi.
Mọi chuyện khác có vẻ như đều là chuyện ngu đần, đối
với tôi, so với nó.”
Trích
dẫn thứ nhì, là từ bài nói chuyện của ông,
tại hội nghị chuyên đề “Văn Chương Người Chứng” [Witness Literature],
của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, vào tháng Chạp
2001, “Thật không thể không viết về Lò Thiêu,
không thể viết về nó bằng tiếng Đức, và không
thể viết về nó bằng bất cứ một cách nào khác,”
bởi vì, ông tiếp tục, những người nào viết về Lò
Thiêu, cho dù bằng bất cứ ngôn ngữ nào, là
luôn luôn viết bằng một thứ ngôn ngữ ngoại lai, từ lưu
vong, lưu vong ra khỏi quê nhà chẳng hề hiện hữu.
Thứ viết
lách cứng đầu cứng cổ, chẳng hề đầu hàng, cho tới khi tìm
ra con đường của nó trên bức tưòng dựng đứng như vách
đá thô kệch, của cuộc sống trần trụi. Viết, như thế đó,
là tìm cách xoay sở giữa những bất khả. Viết như thế
đó, là một dòng thơ xuôi đầy tính suy tưởng,
cố tìm cách len lỏi, thấm vào lòng người, và
luôn luôn vọng ra từ nó, là nhịp tim đập không
ngừng nghỉ, không đứt đoạn, của người viết, và của người đọc,
sử dụng từ như tấm khiên đau thương, nhưng bắt buộc, nhằm chống lại
“miền đất tan hoang” [the “desolate land”, trích Tôi, Kẻ Khác],
nơi con người không nói, nhưng giết [người].
Nguyên tác tiếng Thụy Điển.
Bản tiếng Anh của Victor Kayfetz có trên
trang e_Nobel của Viện Hàn Lâm Thụy Điển
NQT dịch ra tiếng Việt.
Note: Tay này, vua viết
trinh thám, biết mình sắp đi, ung thư phổi, bèn
viết cuốn này. Gấu mua, làm mồi, viết cuốn của Gấu!
Chắc là sẽ viết về những ngày ở nông trường
cải tạo Đỗ Hòa, nơi Gấu tính chọn, để chết, đếch thèm
trở về Đời!
Nơi chốn hạnh phúc, là nơi chốn để chết!
Khi ông anh của Gấu viết MCNK, ông biết, mình
là con voi già, trở về cái nghĩa địa voi, tức
là Đà Lạt của ông, để chết.
Nơi chốn hạnh phúc nhất?
Thì đọc thư viết cho đảo xa thì biết.
Hay đọc mấy bài thơ của ông gửi cho đảo xa.
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng
không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn,
tuy nói với em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng
làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có.
Lúc nào anh cũng ngóng, biết em không đến,
nhất là hai bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này
không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm
em nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là
có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy
nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao,
mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm
em buồn, hãy cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái
vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh
không làm như với những người khác, hay bình
thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh
có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh
sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày
nhỏ: không bao giờ anh có được cái mà
tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá
sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính,
nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có,
chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose
năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó
anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa
trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn
khốn đốn vì yêu người.
Phỏng Giái
Nhà Ngụy, chúng chiếm; Ngụy, chúng
tống vô Trại Tù mút mùa lệ thuỷ;
Vợ Ngụy, chúng hiếp; con Ngụy, cấm đi học, đứa nào lỡ
đi học, cấm vô Đại Học!
Liberation-and Return?
MILAN RICHTER
Only in a dream would you dare ask
your mother
about
Commandant Vasil,
who liberated
her from Terezín
and from
virginity.
"They gave us
freedom, and I and my friend
Zdena gave them
love."
She did not
say "our bodies" or less plainly
"the scent of
our Jewish hair."
"At the command
centre in Teplice we sorted
the diamonds
confiscated from the Germans.
Lesser gems
went by courier to Moscow;
Vasil kept the
finest for himself.
'You are the
most beautiful jewel I have,'
he'd say, smiling,
as he stowed them in the safe.
If I'd hidden
away just one behind my blouse,
believe me,
we'd be wealthy today.
For me he was
a hero of Russian legends;
I found it enough
to eat well,
to be sated
with his embraces. By then
I had no one
else left in the world.
That autumn
they ordered him home,
but he never
returned to wife and children.
His own chauffeur
murdered him on the way.
Death liberates.
I was again
free and alone,"
my mother tells me in this long dream.
"When your father
tracked me down a year later,
resignedly I
fell into captivity,
the Babylonian
bondage a new generation
will emerge
from. And one day will be released
to freedom-and
death."
Lướt net, gặp bài này,
giới thiệu cuốn sách Tựa của Borges.
Trong, có 1 bài Tựa, Borges viết về 1 cuốn của
ông, nhưng chắc Người phịa ra: Sách của những giấc mộng,
"Le Livre des rêves". Có ghi năm xb: 1975.
Tuyệt.
Giai thoại mở ra bài Tựa mà chẳng thần sầu sao:
Trong 1 tiểu luận của tờ Spectator (Tháng 9, 1712), được
in lại trong cuốn này, Joseph Addision nhận xét, hồn người,
l'âme humaine, khi nằm mơ, rũ bỏ được cái xác, thì
bèn trở thành sân khấu, diễn viên, và
công chúng.
Người ta có thể thêm vô, nó cũng còn
là tác giả của cái ngụ ngôn mà nó
tham dự, elle est aussi l'auteur de la fable à laquelle elle assiste.
Un
jour ou une nuit – entre mes jours et mes nuits, quelle différence
y a-t-il? – je rêvai que, sur le sol de ma prison, il y avait un
grain de sable. Je m’endormis de nouveau, indifférent. Je rêvai
que je m’éveillais et qu’il y avait deux grains de sable. Je me
rendormis et je rêvai que les grains de sable étaient trois.
Ils se multiplièrent ainsi jusqu’à emplir la prison, et
moi, je mourais sous cet hémisphère de sable. Je compris
que j’étais en train de rêver, je me réveillai au
prix d’un grand effort. Me réveiller fut inutile : le sable innombrable
m’étouffait. Quelqu’un me dit : « Tu ne t’es pas
réveillé à la veille, mais à un songe antérieur.
Ce rêve est à l’intérieur d’un autre, et ainsi de
suite à l’infini, qui est le nombre des grains de sable. Le chemin
que tu devras rebrousser est interminable; tu mourras avant de t’être
réveillé réellement. »
Je me sentis
perdu. Le sable me brisait la bouche, mais criai : « Un
sable rêvé ne peut pas me tuer et il n’y a pas de rêves
qui soient dans d’autres rêves. » Une lueur me réveilla.
Cuốn
sách Tựa, tiếng Tây, mua lần qua Paris, thăm Kiệt Tấn, tái
ngộ HPA, cái hẹn cuối thiên niên kỷ, của hai tên
bạn quí, thuộc băng đảng Tiểu Thuyết Mới ngày nào.
Cuốn Italo, mua lâu rồi, sống sót cuộc
phần thư làm từ thiện của Cô Út.
Trong cuốn Sách Tựa, có nhiều cuốn
đếch có, Borges phịa ra chúng, rồi viết lời Tựa.
Thú vị là, nhân đọc Calvino,
"Những cấp bậc của thực tại trong văn chương", "Levels of Reality
of Literature", ông viết, Borges có nhắc tới Đêm
Ả Rập, [tức Ngàn Lẻ Một Đêm], và theo Borges,
đêm thứ 602, là đêm thần kỳ nhất, theo most magical
of all.... Trong bản dịch mà Calvio đang có trong tay,
ông bèn vội kiếm, để thưởng thức: Làm đếch gì
có cái đêm ấy là đêm gì!
Borges, trong lời Tựa của cuốn sách Tựa của
mình, cảnh cáo độc giả, đừng nghĩ tôi viết
cuốn này, trong cái dòng Nhã của Những
Nhã, Cantique des Cantiques, Đêm của Những Đêm....
và, đừng coi Tựa là cái trò áo
thụng vái nhau - cái này thì Mít bị
cực nặng, và Gấu, sở dĩ bị chúng chửi, vì đếch
chịu khen thằng chó nào cả, hà hà - Borges
coi Tựa là 1 dạng phê bình.
Đúng như thế.
Lần Gấu viết bài Tựa cho cuốn Trăng Ơi Thơ
Ấu Mãi, NMG phán, viết thế này, thì đếch tên nào dám viết về cuốn
này nữa.
Còn KT, thì quê quá, phán,
ở Cali này thiếu gì người nhờ xoa đầu, xoa đít,
nâng bi, đội dĩa..., mà phải vời đến 1 tên ở Canada.
Trăng
ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi? Đây
cũng là một vấn nạn mắc mớ đến Cái Ác.
NMG, khi đọc bài viết của Gấu, dùng
làm bài tựa cho tập truyện ngắn của NCK, đã
chú ý đến một đoạn ở trong đó, liên quan
đến tính tình của tác giả của nó, là
NCK, và cùng với NCK, là thứ văn chương giống
như vầng trăng thơ ấu mãi của con người.
*
Khi đọc sơ mấy truyện anh đưa, (Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi],
tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử
đề nghị với anh, với người đọc, một cách viết "kép",
theo kiểu Faulkner, khi viết Những Cây Cọ Dại, The Wild Palms:
hai truyện viết song song, xen kẽ, bề ngoài chẳng có chi
liên hệ.
Ở đây,
có quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng
thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và khi thoát
ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó
có ai còn lành lặn, sau một cuộc chiến như thế.
Sau những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương
của anh, có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế
bên. Anh mang theo vầng trăng qua những trại tù, và
nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh.
Cái cậu học trò này, ngày xưa, chỉ mong
được cô giáo gõ cho vài cái vào
tay, sau này bắt chước Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô
giáo, khi cô nằm trên giường bệnh: "Hãy ngủ
đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường." Cậu học trò,
không có những bước chân sáo, không
đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày mang cơm
cho cô giáo của mình. Cậu có một ông
bố ở trong quân đội, có một bà mẹ phải tần tảo nuôi
con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi
một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một
cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của những bài
toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng? Nếu cậu
không gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có
tìm ra vầng trăng "thề" thơ ấu mãi hay không? Và
cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng bắt nguồn
từ đó?
Nhưng cái hồn của văn chương Miền Nam, mà
Gấu có lần phán ẩu, nằm trong nhạc sến, liệu nó
còn nằm ở trong cái vầng trăng thơ ấu mãi?
* "Đó
là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô
dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt
em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học
tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận
viết về nó, như nó là: đen rợn người ở bên
trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme.
Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé
dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout,
puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme
il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là
những ngày dài, trước, trong, và sau trại
tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu
mãi?
NQT
Christan Bobin, cũng là một phát giác tuyệt
vời của Gấu, tại một thư viện Toronto, ở cái khu dành
riêng cho sách Tiếng Tây của nó. Văn chương
của tay này, thật ứng vào cái câu văn
chương bèn cứ thơ ấu mãi, mà câu trên
là một ví dụ.
Gấu khám phá Christian Bobin, đúng
là cái cuốn Cô Bạn Không Làm
Sao Mà Dám Ao Ước, L'Inespérée,và đúng cái
câu trên.
Bèn bệ ngay cuốn sách về nhà!
Thú vị làm sao, là sau này,
Gấu có một độc giả, rất quí trang Tin Văn, và
cũng rất mê Bobin.
Bà hất hàm hỏi, Gấu mà
cũng đọc Bobin ư, tôi có đủ sách của ông
ta, muốn đọc thì tôi gửi cho mà đọc.
Tks again both of U. NQT
.... Khi ông mang cô
trở về quê cũ thì Fermina lọt vào mắt xanh của
Juvenal Urbino, một ông bác sĩ nổi tiếng, vì ông
là người đã chặn đứng cơn dịch tả đang hoành
hành thành phố ấy. Fermina thẳng thừng từ chối Florentino
bảo rằng chuyện thư từ hẹn hò thời bé bỏng chỉ là
chuyện mơ mộng hão huyền. Bác sĩ Juvenal Urbino đẹp trai
và hào hoa đã chiếm được lòng nàng.
Cuộc hôn nhân hạnh phúc ấy kéo dài đến
hơn năm mươi năm.
Note: Không phải như vậy. Hai người có gặp nhau.
Và vừa nhìn thấy anh chàng, cô gái
vỡ mộng, không phải thằng này!
Cú gặp gỡ là 1 xen đỉnh cao của câu chuyện,
mà tại sao mà lại nhớ nhầm, đến nỗi coi thường cô
gái đến mức như thế này? Quái thật!
Gấu đọc Trăm Năm Cô Đơn,
ở Sài Gòn, bản tiếng Việt. Rồi bỏ nước ra đi, và
dược đọc Tình Yêu Thời Thổ Tả, ở Thư viện của phái
đoàn Pháp, ở Trại tị nạn Thái Lan, của mấy ông
Tây ghé thăm Trại rồi bỏ lại. Mê quá, vì
Gấu cũng có thời làm nghề viết thư mướn, như nhân vật
ở trong truyện.
Sau khi ông con được người yêu cho phép
gặp mặt, bà mẹ biết liền, bởi vì ông con trai
nói không ra tiếng, đêm nằm ngủ gãi sồn
sột, lăn qua lăn lại, đập mình đập mẩy, mất tiêu luôn
khẩu vị. Ghê gớm hơn nữa, trong thời gian chờ đợi người yêu
trả lời thư, tình trạng ông con ngày càng
trở nên nguy kịch: ỉa chẩy, ói mửa… bà mẹ đưa đi
bác sĩ cấp cứu, và sau cùng đành kết luận:
những triệu chứng của tình yêu giống “y chang” những triệu
chứng của bịnh thổ tả!
Cái vụ Gấu đọc Trăm Năm
Cô Đơn, mới ly kỳ rùng rợn, và cũng đã “tự
sướng” trên Tin Văn rồi. “Vấn đề”, là, Gấu chưa từng bao
giờ có ý nghĩ bỏ nước ra đi, 1 lòng 1 dạ với quê
hương mỗi người chỉ có 1, và khi đọc Trăm Năm Cô
Đơn, đúng là dòng văn của thầy Faulkner của Gấu, bèn
viết 1 bài điểm sách thần sầu, và gửi cho tờ Thanh
Niên của Huỳnh Tấn Mẫm, nhưng đó chỉ là “cái
cớ “- thuổng từ của Thầy Phúc, khi viết về Vũ Khắc Khoan – và
tiếp theo bài điểm sách, là lá thư xin việc,
xin Cách Mạng, xin báo Thanh Niên của Trùm
VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm cho tên nhà văn Ngụy ngày
nào 1 chân tà lọt!
Đúng như thế!
Vụ này thi sĩ Đại Hàn Chung Đô Quan rất
rành. Người có đọc lá thư, và khen, qua
Nguyễn Mai, như 1 tác phẩm văn học!
Nhờ bạn
quí ngày nào thường ngồi Quán Chùa
mí nhau, là Mít Butor, Hoàng Ngọc Biên,
trao cho HTM.
Chàng vứt vô thùng rác, chắc thế.
Cái cú mặc khải “không phải thằng này”,
chỉ với BHD, Gấu trúng hai lần. Một lần ở ngã tư Phan
Đình Phùng & Lê Văn Duyệt, nơi sau này
hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Lần thứ nhì
là ở nơi cổng trường Đại Học Khoa Học, Đại Lộ Cộng Hòa,
có thể vì thế, đọc xen đó, trong Tình Yêu
Thời Thổ Tả, cực kỳ nhức nhối. Lần đầu, em mới 11 tuổi, chạy vội ra khỏi
nhà, cũng ngay kế bên, rồi lại vội vàng chạy về nhà.
Thê lương lắm. Sau này, gặp lại trong cái xen tả
Mối Tình Đầu, trong Istanbul, của Pamuk. Lần thứ nhì, em
phán, ta chưa hiểu tình yêu là gì, Gấu,
vừa thê lương, vừa mệt vì chạy đuổi theo nàng, vừa
giận dữ.
Ngã tư Phan Đình
Phùng & Lê Văn Duyệt
Bảo tàng viện của sự
ngây thơ
GCC tỏ tình mí
BHD khi em 11 tuổi tại góc đường này. Khi đó
chỉ có cái cột đèn chỉ đường. Nhà em
kế ngay bên, phía bên trái, bên dưới
cái băng rôn, quá chút nữa. Cái
máy nước công cộng cũng kế ngay đó. Quá
nữa, trên đường PDP, tới ngã tư Cao Thắng & Phan
Đình Phùng. Trường mẫu giáo Aurore gần đó.
Gấu, khi đó đang học trường Quốc Gia Bưu Điện, chiều nào
cũng đạp xe chạy vội tới, đứng trên lan can tiệm sách ABC,
cũng là nhà BHD, để kịp nhìn thấy BHD đón
em trở về, ghé máy nước rửa chân. Ngã tư
này có tiệm chụp hình. (1) Có lần Gấu hộ tống em tới đây
chụp hình để gắn vô học bạ, nhờ vậy, cũng được ăn
theo 1 tấm, sau nhờ họa sĩ Ngọc Dũng đi 1 đường phác họa,
trở thành kho tàng đầu tiên trong đời Gấu!
Và ngã tư trở thành
“lịch sử”: Nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu ngay trước
mắt Gấu, nếu thời gian co dãn, di chuyển hai đầu ngược xuôi.
Trên đường Lê Văn
Duyệt, phía bên trái bức hình, là
khu Chợ Đũi, ngã tư Lê Văn Văn Duyệt & Trần Quí
Cáp, có quán cà phê Tàu,
nơi Gấu vẫn thường ngồi chờ BHD đưa em gái đi học, tại trường
Kiến Thiết, cũng ngay đó.
Ui chao, em chạy vội ra, chỉ
để lắc đầu, rồi lại chạy vội về nhà.
Cảnh này sau lập lại
ở Đại Lộ Cộng Hòa, trước cổng Đại Học Khoa Học Sài
Gòn.
Nhưng phải đến khi đọc Pamuk,
Gấu mới nhớ ra ánh đèn chỉ đường, xanh đỏ, lập lòe
trên khuôn mặt của BHD, in rõ nỗi đau khủng
khiếp của Gấu:
Đứng trước một cái nghĩa
địa nhỏ, trong đêm tối lạnh buốt, cảm thấy những dòng
nước của con vịnh Bosphorus chạy rần rần trong xương tuỷ của cả
hai chúng tôi nàng thầm thì, nàng
yêu tôi biết là bao, và tôi nói
tôi có thể làm bất cứ chuyện gì vì
nàng, và tôi ôm nàng chặt cứng, như
là tôi có thể, với tất cả sức lực, niềm đau, và
hạnh phúc của tôi. Chúng tôi hôn nhau,
một nụ hôn dài, như bất tận, và bất cứ khi nào
tạm ngưng, tôi hé mắt nhìn, và thấy mầu
vàng của ngọn lửa từ phiá bên kia vịnh bập bùng
trên làn da mịn màng của nàng.
Trường Quốc Gia Bưu Điện lúc
đó chưa xây, học nhờ trường Quốc Gia Thương Mại,
kế nhà thờ Phanxicô, đầu đường Phạm Đăng Hưng &
Phan Đình Phùng. Gấu tan học, là đạp xe thẳng
con đường PDP tới ngã tư Lê Văn Duyệt.
Gấu, khoá đầu, khóa đặc biệt, 2, thay
vì 3 năm, điều kiện Tú Tài 2, trong khi khóa
3 năm chỉ cần bằng Trung Học. Hai năm, nhưng với Gấu, còn
1 năm, , nhờ thầy hiệu trưởng Trần Văn Viễn “đặc cách” cho
vô học, chuyện này kể ra rồi.
Ra trường Gấu làm việc ngay tại Trung Ương
Cơ Xưởng VTD, số 11 Phan Đình Phùng, đúng cái
chỗ sau phá đi xây trường
Tuy cũng
có cơ duyên gặp anh Phạm Chí Dũng vài
lần, nhưng tôi không phải bạn của anh. Anh Dũng từng
cho biết đã có thời gian tham gia ban chuyên
án của an ninh về hồ sơ tôi. Hôm rồi, đọc thư ngỏ
của anh gửi ông Phó Bí thư thường trực thành
phố, quả thực, tôi cảm thấy tội nghiệp cho anh, đặc biệt là
ông cụ, ba anh - những người Cộng sản chuyên chính
và cũng từng là quan chức lớn của Đảng.
Tôi có nhiều bạn là Đảng viên
lâu năm. Chơi với họ, tôi biết được điều này:
không ai khô...
Note: Đảng,
chủ nghĩa CS, đến già mới tỉnh.... là toàn
trò nhảm nhí.
Tất cả là
do Cái Ác Bắc Kít, mà tổ sư của nó,
là Cái Ác Á Châu, gây nên.
Gấu Cà Chớn đã lèm bèm hoài
về chuyện này rồi, kể từ cái lúc được đọc bài
viết của Tolstaya khi bà điểm cuốn Đại Khủng Bố của Conquest.
Bà
viết, chủ nghĩa CS không ở trên trời rớt xuống, mà
nằm trong những tầng hoang vắng, từ những đáy sâu của
lịch sử Nga, và cơn gió độc là chủ nghĩa CS là
cái dịp để nó thừa cơ hoành hành. Nếu không
có sự trợ giúp của tất cả 1 lũ Bắc Kít, nó
không thể sống
dai đến như thế.
Có
tên Bắc Kít nào, 1 tên thôi, "thở
than" về 17 năm tù của Thảo Trường?
Những tên như Nguyễn Viện, thì cũng có
thời được vinh dự huởng ân huệ của Đảng vậy?
Nhân dân Nga, dù bị kìm kẹp
đến như thế, vẫn
sống sót, là vì ở trong họ, vẫn còn 1
chút linh hồn, mà cái linh hồn này, là
từ Ky Tô Giáo, Chính Thống Giáo.
Bắc Kít vô phương.
Bắc Kít
còn chết vì cái loa phường.
Mọi hiểu biết của chúng, là từ cái
loa này.
Liên Xô may mắn, còn là do hai
cuốn, 1 của Conquest, 1 của Pasternak, được lén lút
đưa vô nước Nga, và họ biết, ở bên ngoài nước Nga có thế giới. Bắc Kít không có
được cái cơ may trời biển này!
Bà
Applebaum, phán, cả 1 Cựu Lục Địa, thoát Họa Đỏ, là
nhờ hai cuốn sách, 1 của Orwell, và 1 của Koestler.
Nếu thế, Liên Xô thoát Họa Đỏ, là
nhờ cuốn của Conquest, viết về Đại Khủng Bố, và của Pạt, Bác
Sĩ Zhi Và Gồ
Nhớ lại coi,
nhũng ngày đầu sau 30 Tháng Tư, Bắc Kít được
chiêm ngưỡng thiên đường Miền Nam, cái đồi trụy
về văn học của nó, cái phồn vinh giả tạo của nó...
Khi thôn tính Miền Nam, 1 cách
nào đó, Bắc Kít tự giết chính nó,
và cùng với nó, cả 1 nước Mít.
Và
có lẽ phải dùng tới thuật ngữ của Conquest, khi ông
nhìn lại thế kỷ tan hoang vừa qua, trong cuốn sách
của ông [Reflections on a Ravaged Century, by Robert Conquest,
New York W.W. Norton & Company, 317 pages, $26.95] : Mindslaughter.
Làm thịt cái đầu.
Đây chính là chấn thương nặng nề
mà Miền Bắc đã 'cưu mang' khi đánh chiếm Miền
Nam. Con bọ VC là gì nếu không phải là một
thứ sinh vật bị làm thịt mất cái đầu, của con người, và
thay vào đó, của con bọ?
Bởi thế, một nhà phê bình, Michael
Young, khi đọc cuốn của Conquest, đã ban cho ông cái
tên, Đại Phán Quan, Grand Inquisitor.
Tolstaya
viết:
Trong thời Stalin, như tôi biết, xã hội
Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo, bèn
trở thành tàn bạo, bị cái độc, cái ác
ăn tới xương tới tuỷ, và bèn sướng điên lên,
bởi tình cảm, ý nghĩ, rằng, mọi chuyện đều được phép,
và bèn hủy diệt mọi thứ mà nó coi là
“ngoại nhập”: kẻ thù, nhóm, dân tộc thiểu số,
mọi thứ có tí ti khác biệt với nhân dân
chúng ta, cái thường ngày ở xứ Bắc Kít.
Lúc đầu thì thấy đơn giản, và có tí
tếu, hài: lũ trưởng giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà
vạt, đeo kiếng, đọc sách, có vẻ có tí học
vấn…. nhưng dần dần của khôn người khó, kẻ thù cạn
dần, thế là xã hội quay cái ác vào
chính nó, tự huỷ diệt chính nó. Nếu không
có sự trợ giúp phổ thông, đại trà của nhân
dân, Stalin và những tên ăn thịt người đệ tử lâu
la không thể sống dai đến như thế. Thiên tài của
tên đao phủ, vỗ ngực xưng tên, phô trương chính
nó, bằng khả năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ
đám đông, khôn khéo thao túng đường
đi nước bước, biết, ai sẽ là món hors d’oeuvre, ai là
món chính, ai sẽ để lại làm món tráng
miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà
Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu thì không
phải chỉ là tên đao phủ, nhưng mà là tất
cả bầy cừu cùng cộng tác với hắn, đứa thêm mắm,
đứa thêm muối, thêm tí bột ngọt, cho món thịt
của cả lũ.
Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest,
bản nhìn lại, a reassessment, do Oxford University Press xb,
1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn
hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21, với
cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không có
nó, là không có Gấu Cà Chớn. Không
có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như 1 tên
Bắc Kít, nhà quê, may mắn được ra Hà
Nội học, nhờ 1 bà cô là Me Tây, rồi được
di cư vào Nam, rồi được đi tù VC, rồi được qua Thái
Lan... là để được đọc bài viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài
điểm sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái chi
đâu. Có thể nói, cả cái quá khứ của
Gấu ở Miền Bắc, và Miền Bắc - không phải Liên Xô
- xuất hiện, qua bài viết.
Khủng khiếp thật!
Cái vụ đổ hết cho Đảng CS này, của đám
Bắc Kít mồm miệng tên nào cũng sặc mùi chiến
lợi phẩm, tàn dư Mỹ Ngụy, trong có cả mùi kít
Yankee mũi lõ, do bỏ chạy tán loạn, không có
thì giờ thu dọn, làm Gấu nhớ đến chuyện khôi hài
đen thời Nazi: Người Đức cực thù Do Thái, vì Lò
Thiêu!
Y chang lũ Bắc Kít Nguyễn Vịt này.
V/v Cái
loa phường.
Akhmatova, qua Brodsky trích dẫn, phán: Chỉ có
ai ở Nga và nghe đài mỗi ngày, thì mới
có thể hiểu được chủ nghĩa CS nghĩa là gì.
Only someone who lives in Russia and listens to the radio every
day can understand what communism is.
Volkov: Trò chuyện với Joseph Brodsky Nhiều người cho rằng Mẽo leo
thang chiến tranh, khi dội bom Bắc Kít.
Không phải.
Mẽo muốn bỏ chạy. Khi bom nổ trước nhà Ông Lành,
thì Ông Lành phải rét thôi.
Lần Gấu gặp lại ông cậu,
Cậu Toàn, ông kể Bắc Kít rất sợ cái kế
"không thành" của Khổng Minh, được Mẽo áp dụng
vào cuộc chiến Việt Nam, nghĩa là, rất sợ, nếu đem hết
VC chủ lực đánh vô Sài Gòn, để Mẽo, từ Đệ
Thất Hạm Đội, lên máy bay, rồi nhảy xuống Hà Nội,
rồi ăn sáng ở Bờ Hồ, tối ngủ đỡ nhà sàn Bác
Hồ!
Ông nói, “ta” bắt được 1 tên Xịa cao cấp,
uýnh nó, hỏi, liệu xẩy ra chuyện đó, nó
lắc đầu, Mẽo chuồn là chuồn, chán xứ Mít quá
rồi! Chỉ đến khi nhận được “mail” của Cao Bồi, “bạn của cháu”, thì
mới yên tâm, đổ toàn lực luợng vô chiến dịch
cuối cùng!
Cuốn này, Bên Thắng
Nhục, cũng 1 thứ mập mờ đánh lận con đen, y chang thứ lý luận
của lũ VC nằm vùng.
Hòa giải. GCC đã phán rất nhiều lần rồi,
cái gọi là hận thù giữa Mít, chỉ bắt đầu
từ 30 Tháng Tư 1975, không phải trước đó. Ngay cả
trong những ngày chiến tranh cực kỳ khốc liệt, cũng không
có hận thù:
Trong mọi tên Ngụy, chưa nói tới người dân Miền Nam, đều mong
mỏi chiến tranh sẽ kết thúc, người Mỹ sẽ ra đi, người Việt sẽ xúm
nhau hàn gắn đất nước.
Thử nghe bất cứ 1 bản nhạc sến, là thấy liền, cảm liền,
“một mai qua cơn mê”, thí dụ.
Lũ nhơ bẩn này cố tình đổi trắng thay đen.
Đến già mới tỉnh ngộ: Cứt!
Người Nữu Ước, số mới, Jan 16, 2017
Tay này,
Oz, Gấu cực mê, và vấn đề ông ta đặt ra - tương quan
giữa Do Thái và Ả Rập - có gì tương tự Bắc
Kít & Nam Kít, cộng thêm cú Nazi & Do
Thái, Bắc Kít & Ngụy.
Tất
cả quyền lực trên thế gian không thể biến 1 tên thù bạn, thành
yêu thích bạn.
Vấn
đề của Mít bây giờ y chang!
Thảm hơn, có lẽ, lấy cas của Gấu: Tại sao mà mi
thù mi ghê gớm đến như thế, hả tên Gấu Bắc Kít?
Hà, hà!
... Anh Trụ ơi, trong
một bài thơ dịch của anh, Sea cucumber, theo K, dịch là
con hải sâm (trừ phi anh không muốn dùng từ hán
việt nên dùng chữ dưa biển ).
In China, Sea Cucumber is called
Hai Shen, which translates
roughly into Sea Ginseng, and it is unclear whether this refers to
its aphrodisiacal qualities or healthful properties as a tonic for
the kidneys and blood. It has been used in China for thousands of years as
a treatment for Arthritis,
fatigue, Impotence,
constipation, frequent urination
and joint pain, and the herb was listed as a medicinal agent in the
Bencao Congxin of 1757. ( http://www.herbalist.com/wiki.details/86/category/11/start/0/)
Phúc đáp:
Tks
Bài thơ của Szymborka,
Tự Trị, GNV đọc trong Chứng
từ Thơ, chương “Thơ và Sinh Học” của Czeslaw
Milosz.
Szymborka, nữ thi sĩ Ba Lan, Nobel văn chương, điểm tử
huyệt của mấy anh thi sĩ tiền chiến theo Ðảng, suốt đời ăn bánh
vẽ, về già, sắp đi tầu suốt, mới dám thú thực.
Phải đọc hai bài thơ, 1 của Chế Lan Viên,
và 1 của Szymborska, thì mới thú vị.
Sau này anh đọc thơ tôi
nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã
giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay… trước khi
tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên
biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn
thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như
thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có
thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – người có
lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.
Chế Lan Viên
Tự Trị
Gặp nguy hiểm hải sâm tự phân
đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó
ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày
mai
Ở giữa hải sâm, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ
với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là
như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không
vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là
thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ gãy.
Một bên là thịt, và một bên
là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là
tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis
moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay
lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Szymborska. Tưởng nhớ [To the memory of] Halina Poswiatowska]
Autotomy
First published in Poezie, 1970, in the section entitled
"Z nowych wierszy."
"non omnis moriar": "I shall not wholly die.// Horace,
Odes, Book III, Ode XXX, 6 (//Exegi monumentum aere perennius"],
Halina Poswiatowska: the talented author of several volumes
of poetry, who died young (1935-1967).
14. YOU WHO WERE BORN
You who were born this night To tear
us from the Devils might
- TRADITIONAL POLISH CAROL
Whoever considers as normal
the order of things in which the strong triumph, and the weak fail, and life
ends with death, accepts the devil's rule.
So Christianity should not pretend
it looks favorably upon this world, for it sees at the core of it
the sin of desire, or Universal Will, to use the term introduced by
the great philosopher of pessimism, Schopenhauer, who found in Christianity
and Buddhism a common trait: compassion for the inhabitants of earth,
this vale of tears.
Whoever places his trust in
Jesus Christ waits for His coming and the end of this world, when the first
heaven and the first earth pass, and death is no more.
Ðấng sinh ra đêm nay để kéo
chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Ðồng dao Ba Lan
Kẻ nào coi là tự
nhiên, cái trật tự qua đó kẻ mạnh thắng kẻ yếu thua và
đời sống chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của quỉ.
Như vậy Ky tô giáo không thể coi thế
gian này là OK, là bảnh lắm rồi, bởi vì
nó nhìn thấy ở tim đen của thế gian này là
tội thèm, hay Ước muốn Phổ cập, dùng từ của triết gia
lớn về bi quan, Schopenhauer, người nhận ra nét chung của Ky
Tô và Phật giáo: lòng trắc ẩn cho những
con người ở trên thế gian, thung lũng nước mắt này
Bất cứ kẻ nào đặt niềm tin ở Chúa Ky Tô,
kẻ đó đợi sự tới của Người và sự tận cùng của
thế giới này, khi thiên đàng thứ nhất và
trái đất thứ nhất qua đi, và cái chết thì
không còn.
15. RELIGION COMES
Religion comes from our pity
for humans.
They are too weak to live without
divine protection.
Too weak to listen to the screeching
noise of the turning of infernal wheels.
Who among us would accept a
universe in which there was not one voice
Of compassion, pity,
understanding?
To be human is to be completely
alien amid the galaxies.
Which is sufficient reason for
erecting, together with others, the temples of an unimaginable mercy.
Czeslaw Milosz: Second
Space
What makes our century the worse?
Has it, dazed with grief and fear,
Touched the blackest sore of all,
Yet not had strength enough to heal?
Akhmatova
Solomon Volkov: Conversations
with Joseph Brodsky. Rereading Akhmatova's Letters
Cái khốn kiếp của thế
kỷ chúng ta, là cái gì?
Ðau quá, sợ quá?
Ðen như mõm chó?
Hay đếch đủ sức mạnh để hàn gắn vết thương?
III
A chronicler who recites events without distinguishing
between major and minor ones acts in accordance with the following
truth: nothing that has ever happened should be regarded as
lost for history. To be sure, only a redeemed mankind
receives the fullness of its past-which is to say, only for a
redeemed mankind has its past become citable in all its moments.
Each moment
it has lived becomes a citation a l'ordre du jour-and
that day is Judgment Day.
IX
Mein Fliigel ist zum Schwung bereit,
icb kehrte gern zuriick,
denn blieb icb auch lebendige Zeit,
ich hatte wenig Gluck.
-Gerhard Scholem, "Gruss vorn Angelus"
(1)
A Klee painting named "Angelus Novus" shows an angel
looking as though he is about to move away from something he is
fixedly contemplating. His eyes are staring, his mouth is open,
his wings are spread. This is how one pictures the angel of history.
His face 'is turned toward the past. Where we perceive a chain of events,
he sees one single catastrophe which keeps piling wreckage upon wreckage
and hurls it in front of his feet. The angel would like to stay,
awaken the dead, and make whole what has been smashed. But a storm
is blowing from Paradise; it has got caught in his wings with such violence
that the angel can no longer close them. This storm irresistibly propels
him into future to which his back is turned, while the pile of debris before
him grows skyward. This storm is what we call progress.
(1)
My wing is ready for flight,
I would like to turn back.
If I stayed timeless time,
I would have little luck.
Cánh của tớ thì sẵn sàng để bay rùi
Tớ thèm quay lại
Nếu cứ nấn ná ở cõi thời vô thời này
Tớ sẽ chỉ có tí ti may mắn
Walter Benjamin: Thèses on the Philosophy
of History
[in Illuminations]
Only for the sake of the hopeless
ones have we been given hope.
Walter Benjamin: Illuminations
Chỉ vì những kẻ vô hy vọng mà
chúng ta được ban cho hy vọng
Thơ Simic, sau 1977 tẩm chất
“blue” của jazz, ["blue không xanh mà blue đen",
TTT], hay là những nốt nhạc “bent”… Theo năm tháng,
ông cố tìm một nguồn hứng khởi mới, bằng cách
đọc triết, đọc Heidegger (thí dụ Nguồn gốc của nghệ phẩm, “The origin
of the Work of Art”), và Husserl. Chúng ta không
biết ông đọc nhiều, hay ít, Walter Benjamin, nhưng rõ
ràng những bài viết của Benjamin ảnh hưởng lên
thơ Simic, kể từ “White”, tôi phác ra ở đây:
Thứ nhất, chắc chắn Simic đã
ôm lấy câu của Benjamin: “Chúng ta đều là
những đứa trẻ mồ côi của những ý thức hệ”,” "orphans
of ideologies”, và như Benjamin, ông rất ư hồ nghi
về mọi hình thức của chủ nghĩa không tưởng, all forms
of utopian idealism, bao gồm Mạc Xịt. Chính vì lý
do này mà Benjamin đếch chịu được dòng tư tưởng
Hegel thập niên 1930, mặc dù ông là bạn
với, và bị ảnh hưởng bởi, một vài trong số những khuôn
mặt nổi tiếng nhất của nó, bao gồm Theodor Adorno. Cái
sự quá chán “tiến bộ” trong lịch sử, thì được
ông mô tả 1 cách thần sầu, khi ông chiêm
ngưỡng 1 bức họa của Paul Klee, như ông ghi lại trong “Những Luận
đề về Triết học của Lịch sử” [“Theses on the Philosophy of History”]:
A Klee painting named "Angelus
Nevus" shows an angel looking as though he is about to move away
from something he is fixedly contemplating. His eyes are staring,
his mouth is open, his wings are spread. This is how one pictures the
angel of history. His face is turned toward the past. Where we perceive
a chain of events, he sees one single catastrophe which keeps piling
wreckage upon wreckage and hurls it in front of his feet. The angel
would like to stay, awaken the dead, and make whole what has been smashed.
But a storm is blowing from Paradise; it has got caught in his wings
with such violence that the angel can no longer close them. This storm
irresistibly propels him into the future to which his back is turned, while
the pile of debris before him grows skyward. This storm is what we call
progress. (Illuminations 257-58)
Quán
Le domicile est suspendu au cou de
l'homme Comme une punition Alain
Cám ơn anh . Vẫn bình thường . Chỉ
chán chán . Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều
energy , và vẫn chứa chan tình cảm . K
Tks
Như người xưa đánh
rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi
dấu lên mạn thuyền, chàng trở lại quán xưa,
tìm vết hài trên lối cát, và tiếng
cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây....
III
In the last century there was an inn
by the name of "Au Temps Perdu" at Grenoble; I do not know whether
it still exists. In Proust, too, we are guests who enter through
a door underneath a suspended sign that sways in the breeze, a door
behind which eternity and rapture await us.
Walter Benjamin: The Image of Proust
Cuối thế kỷ có 1 cái quán
có cái tên là "Thời Đã Mất" ở Grenoble;
tớ không biết bi giờ còn không...
Bản
Nhạc "Thuyền viễn xứ" của Phạm Duy phổ từ bài thơ của một cô
gái
Bác sĩ Lê Trung Ngân
Tác giả “” nói
đến tập thơ đầu tay của bà mang tựa đề ““, với 22 bài thơ
ký bút hiệu Huyền Chi, do nhà in Sống Chung ấn hành.
Bà kể lại: Sinh năm 1934 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, bà theo
gia đình rời nguyên quán vào Nam khi còn
là một nữ sinh trung học, thoạt đầu ở Đà Lạt với chị, sau
đó về Sài Gòn ở với mẹ, vừa đi học vừa giúp
mẹ trông nom sạp bán vải ở chợ Bến Thành.
Huyền Chi và chồng -
Ảnh: tư liệu gia đình
Lập gia đình năm 1954,
bà theo chồng ra Phan Thiết, mở hiệu sách, dạy Anh ngữ,
rồi làm việc cho cơ quan MAC-V, và sau biến cố 1975 bà
cùng gia đình dời về lại Sài Gòn. Phu quân
của bà, giáo sư Trần Phụng Tường đã tạ thế năm 2010.
Trong 7 người con của ông bà, 4 người hiện ở ViệtNam, 3 người
ở Hoa Kỳ.
Bà kể lại, cùng
với những bài thơ khác trong tập “Cởi Mở“, bài “Thuyền Viễn Xứ” được sáng tác
vào năm 1952, thời gian bà sinh hoạt với một nhóm
văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên
trách mục thơ cho tạp chí Phụ Nữ ở Sài Gòn.
Tình cờ gặp gỡ tại nhà in Sống Chung trên đường Trần
Hưng Đạo, cô nữ sinh 18 tuổi ký tặng một ấn bản của tập thơ
đầu tay còn thơm màu mực mới cho một nhạc sĩ thành
danh, lúc đó đang ở Sài Gòn để sắp xếp công
việc cho gia đình vừa từ Bắc vô Nam. Đó là lần
duy nhất tác giả bài thơ gặp tác giả bản nhạc.
Rồi thời gian tiếp tục trôi
đi… Đất nước lại trải qua thêm một cuộc bể dâu… Những ấn bản
của tập thơ “Cởi Mở” đã bị thất
lạc từ năm 1975 lúc tác giả cùng gia đình di
chuyển về Sài Gòn, và đến bây giờ thì
chính nữ sĩ Huyền Chi cũng không còn nhớ trọn vẹn từng
bài thơ trong đó nữa.
Bà hiện vẫn còn
sống Sài Gòn, còn chồng bà – ông Trần
Phụng Tường mất năm 2010. Trong 7 người con của hai ông bà
có 4 người hiện ở Việt Nam, 3 người ở nước ngoài. Chắc chắn
những người con ở xa quê này cũng sẽ có tâm trạng
như mẹ của mình vào hơn nửa thế kỷ trước, khi: “Chiều nay gửi tới quê xưa. Biết là
bao thương nhớ cho vừa. Trời cao chìm rơi xuống đời. Biết là
bao sầu trên xứ người. Mịt mờ sương khói lên hương.
Lũ thùy dương rủ bóng ven sông. Chiều nay trên
bến muôn phương. Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường…”
GCC đã kể, về lần được nghe bản này,
ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà.
Để được nghe nó, là phải có được cây
đàn Tây Bán Cầm, y hệt bữa nghe Ngày Mai
Đi Nhận Xác Chồng:
Để được nghe nó, thì phải có bữa đại tiệc
thịt chuột, phải có, phải có....
Bởi thế, về già Gấu mới thấu hiểu, phải có 1
Ông Trời, là vậy.
Sau cái Test Kafka, "Thằng Chả" cung phụng Gấu đủ thứ,
chỉ để ra hải ngoại, nhận Gói Quà Lò Thiêu,
từ Steiner!
Thời gian ở Đỗ Hoà, Gấu nghĩ mình không
bao giờ có dịp trở lại thế giới bên ngoài.
V/v bài thơ Thuyền Viễn Xứ.
Theo Gấu, để hiểu từ “viễn xứ”, thì phải biết thêm
1 số dữ kiện liên quan tới từ “Đà Giang”, và nếu
như thế, nó liên quan tới Tản Đà, tới Vũ Hoàng
Chương, tới cái gì gì, nhớ đại khái:
Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ,
Trăng thượng tuần cao sáng ngợp bờ....
Trước giờ, Gấu vẫn nghĩ, tác giả bài thơ phải
là dân cùng quê với Tản Đà, và
phải là 1 người rất rành thơ, và điển cố liên
quan tới thơ, tới sông hồ, tới Tầm Dương, chẳng hạn.
Từ “viễn xứ” kéo theo với nó, từ “lưu vong”,
và đây là cái ý mà Blanchot
viết, khi giải thích, tại làm sao mà St John Perse
đặt tên 1 bài thơ của ông là Lưu Vong
Ly kỳ, rắc rối, nhiêu khê lắm, không có
đơn giản đâu.
Toujours il y eut cette
clameur toujours il y eut cette fureur... Saint-John Perse: Exil
Luôn
luôn tiếng la ó đó Luôn luôn, cơn
giận dữ đó Saint-John Perse: Lưu
Vong
When
Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot says,
"he named the poetic condition as well... The poem is exile and the poet
who belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always
lost to himself, [hors de lui-même], outside, far from home [hors
de son lieu natal]; he belongs to the foreign, the outside which knows
no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin names when
in his madness he sees rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài
thơ của ông, là Lưu Vong, Blanchot giải thích,
đó là ông còn đặt tên cho số phận
thơ… Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình
lưu vong. Anh ta luôn luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài
nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi
không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa,
phân ly, Hiu Quạnh Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn
điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô cùng
của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có
vậy… Gõ Google, ra trang
này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ
Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang Thang Thi Sĩ, Đêm
Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài
thơ của TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi
tù đầy, và lưu vong sau đó, khi đứng trước cơn
la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là
của ông?
Buổi tối, lần Gấu
nghe tay bạn tù cải tạo chơi ghi ta bản Thuyền Viễn Xứ, và
miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này biết
chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô
cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng lại
chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi tận
đáy lòng mình, tưởng đã quên nó
rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng trời
đất mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát
ngày nào, ngoài kia là trùng trùng
lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng
lớp lớp mồ hôi, sức tù đổ xuống, và trên trời
kia, là trăng sáng đang đổ xuống....
Đúng ra phải nói, anh ta moi bản nhạc từ đáy
sông Đà, con sông khốn kiếp ám ảnh hoài
thằng Gấu xứ Đoài mây trắng lắm, bỏ chạy nó, và
bị nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi khi
đời sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế
là con 'vai rớt' Bắc Kỳ làm ngụy!
In his
fear of solitude, he made us.
Fearing eternity, he gave us time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain, but no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are awake.
Charles Simic
Lão Tặc Thiên
Sợ cô đơn, Lão bèn nặn ra lũ chúng
ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho chúng ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của Lão
Lên và xuống hành lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn nàn, nhưng không
Cô bé khóc ư ử
Khi ông bố bò vô giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những tiệm cầm đồ tối thui
Những khách sạn của dân ăn tiền trợ cấp xã
hội, và những khu nhà tập thể
Hai hay ba con rối tã tượi đã mở mắt
Note; Bài này, mới được 1 vị độc giả đi 1 cái
còm thần sầu, nhưng giữ riêng, không post được.
V/v Charles Simic, Gấu nhớ là hồi đầu, đọc, sợ, mãi
sau mới quen được.
Tập thơ mới nhất, toàn những bài ngắn, nhưng
thật là tuyệt vời.
Đúng cái ý của Brodsky, gừng càng
già càng cay.
Đó, đó, lại lăm le mở hé cửa quá khứ.
Bỏ đi tám ơi .
Tại
sao lại hai giờ thiếu mười lăm ? Giờ khắc này đánh dấu
hay biểu hiện một điều gì ? Là lúc các con
rối khác quá mỏi mệt để khóc ? Là lúc
các con rối khác nữa chưa lục đục mang mặt nạ để cười ? Là
khoảnh khắc nhỏ nhoi để sống cho mình trong yên lặng ?
Bữa
trước, có đọc 1 bài thơ về cũng cái giờ này,
hay lắm, nhưng bây giờ quên sạch.
Kiếm thấy rồi,
nhưng mà là 4 giờ sáng!
FOUR A.M.
The hour
between night and day.
The hour between toss and turn.
The hour of thirty-year-olds.
The hour swept clean for roosters' crowing.
The hour when the earth takes back its warm embrace.
The hour of cool drafts from extinguished stars.
The hour of do-we-vanish-too-without-a-trace.
Empty hour.
Hollow. Vain.
Rock bottom of all the other hours.
No one feels fine at four a.m.
If ants feel fine at four a.m.,
we're happy for the ants. And let five a.m. come
if we've got to go on living.
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
Ina cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher Inyour terrifying
absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa Tể
của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây
thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt
sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của
chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của
chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực
của Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống Vài cây
đèn cầy, cháy thật cao Cao hơn cả sự vắng mặt
khủng khiếp của Người Dưới vòm trời phóng
lớn tối thui.
Note: Bài thơ này
cực kỳ… u tối. Chỉ bằng mấy dòng
thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn
giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
THIS TOWN IS ALRIGHT
A little river, then a bridge,
After which a row of white homes
With well-trimmed lawns
And a fat, bowlegged dog
Walking slowly from the curb,
Carrying a paper in his mouth.
Charles Simic
Thành phố này thì OK
Con sông nhỏ - Sông
Hương, rồi cây cầu - Trường Tiền (?)
Sau cây cầu, một dẫy nhà màu trắng
Với những lối cỏ gọn ghẽ
Và một con chó mập, chân vòng kiềng
Nhàn nhã tản bộ từ mép đường
Miệng ngậm tờ giấy.
Hội
An
Có
hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là Hội An, và
Pleiku. Nhiều nơi chưa đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm,
tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà
chưa “đi” Pleiku và Hội An.
Huế cũng
chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê luơng về Huế. Lần bỏ chạy
quê hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo, có
nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe chạy trên 1 con cầu, ngó
xuống, thấy xa xa, 1 anh chạy xích lô, dừng cái xế, chìa
cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao,
nhớ hoài.
Ði, ở đây, có
1 “gia nghĩa”, connotation, thật thú vị, và liên
quan tới 1 nhà thơ, bạn của Gấu từ hồi còn đi học. Anh
học sư phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi trẻ, xa nhà, làm
thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào
trong cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng
đầy nội y của bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh
giường làm kỷ niệm. Một lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái
tầu hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi thăm bướm.
Trong câu chuyện anh có nói cho anh bạn biết, học trò
tao có 1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò
đều ngượng. Anh trưởng tầu vô ý kể lại cho 1 anh bạn, dân
Pleiku. Anh này lại có 1 đứa con gái học ông
thầy, thi sĩ cà chớn.
Thế là ầm lên.
Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Note: Bữa
trước, nhớ là có nhắc tới Manguel, và
bài viết của ông về cuốn The Sign of Four,
cùng khám phá của ông, Sherlock
Holmes, ghiền xì ke.
Nay post thêm bài
viết của Graham Greene, về cuốn này, trong Reflections
Một trong những bài điểm sách
mà Gấu nhớ đời, khi mới vào làng
văn, là bài viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang
VHNT cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, của
quân đội VNCH, thời gian TTT phụ trách,
sau ông chán, thảy
qua thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới
chết, thằng em trai của Gấu cũng tử trận, trước
Mậu Thân chừng 1 năm. Trong đầu toàn
hình ảnh chết chóc, Gấu phán,
bạn chỉ cần sống sót, vì sau đó,
bạn "bèn" đụng 1 trận chiến khác, khủng
khiếp chẳng kém: Văn chương!
Câu phán,
"You
only need to be alive", trong "Borges,
Tám Bó", Borges cho biết, là của
1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu
phán “chỉ cần còn sống”, quả đúng
là 1 cái bad luck cho toàn
1 cõi văn chương Ngụy, trước 1975, không
phải cho "những người đã chết đều có thực",
như Y Uyên, mà cho chính những
kẻ mà chúng cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân
hữu:
Đọc bài viết, rồi đọc còm,
Gấu bỗng nhớ tới một câu chuyện của Borges, có cái
tít như Gấu còn nhớ được, có ý nghĩa như
vầy:
Bữa nay, ăn cơm chiều có món gà gô
này, lại chỉ có một mình... Gấu!
Gấu đọc
truyện, từ hồi còn ở trong nước, sau 1975, trên một tờ báo
Sài Gòn. Ra hải ngoại cứ lâu lâu lại nhớ đến
nó, lại cứ tự bảo mình, bữa nào phải tìm
cho ra nguyên tác, dịch Borges chơi!
Thời gian này, ông bạn nhà thơ Joseph Huỳnh
Văn còn sống, và Gấu tình cờ còn vớ được
một bài thơ của Borges, bản tiếng Tây, bèn dịch chơi,
lại dịch chơi, đưa cho bạn đọc, bạn thú quá, khen rầm trời,
mi học trường Mít mà sao rành tiếng Tây hơn
thằng em tao, Tú tài Tây!
Cũng không nhớ bài thơ ra sao, chỉ đại khái,
đây là một bài thơ viết về hạnh phúc.
Truyện
của Borges là về một ông quan còm, chiều hôm
đó, đến thăm một nhà huyền thuật, nhờ ông bùa
phép, sao cho được cái ghế cao hơn, là chức trưởng
huyện. Đang ngồi nói chuyện, thì người làm bưng
lên món gà gô, và hỏi ông chủ,
dọn cơm hai người, chủ và khách cùng chơi con gà
gô này chăng. Chủ lắc đầu, nói, khoan đã, khoan
đã. Người làm lại bưng con gà gô xuống bếp.
Đúng
lúc đó, thì có người nhà ông
quan còm hối hả chạy đến báo tin, tay trưởng huyện nhậu
say quá, té xuống muơng chết rồi, và mọi người đang
tìm kiếm ông quan còm để ban cho cái chức kế
vị ông vừa ngỏm. Nhà huyền thuật bèn nói, may
quá, vậy khỏi làm bùa phép, nhưng xin ông
cho thằng cháu của tôi cái chức quan còm mà
ông vừa bỏ nhé?
Ông quan còm lắc đầu, chức đó, tôi
dành cho tên đệ tử ruột rồi.
Ông
quan còm về nhà, làm chức trưởng huyện đâu
được hai tuần, thấy bổng lộc ít quá, bèn sai nhân
viên đánh xe yết kiến nhà huyền thuật, xin chức cao
hơn.
Câu
chuyện lập lại y chang, cho tới lúc, ông quan còm
từ giã thế giới ảo giác, trở về với chức quan còm,
thẹn quá, không chờ ăn gà gô, bỏ đi một mách.
Thế là
nhà huyền thuật đành kêu người nhà dọn cơm, lẩm
bẩm, lại chỉ có một mình mình với con gà gô!
Truyện trên, có vẻ như Borges trước
tác để tặng dân Mít chúng ta.
Đại tác phẩm Mít mà viết về anh VC phản
gián, bị đồng bọn VC phản thùng cho ăn bom Mẽo, thì
nỗi đau Mậu Thân Mít "Huệ" làm sao giải tỏa cho
được? Viết về em "đừng đốt, đừng đốt!", thì lại thiếu cái
em "một ngàn giọt lệ", viết về đỉnh cao chói lọi, nhà
tiên tri, ngọn cờ đầu của văn chương viễn tưởng Mít, mà
thiếu cái khúc "đỉnh cao" nhẫn tâm để cho chúng
làm thịt vợ, dẫn mẹ nó đứa con trai đi trao cho thằng khác
nuôi, đổi họ đổi tên cho mất luôn giống Bác,
thì cũng đếch được!
Chán thật!
Chưa có đại tác phẩm mà đã cãi
nhau như mổ bò rồi!
Gấu, chiều nay, lại ăn gà gô một mình,
đọc đỡ đại tác phẩm của mấy anh mũi lõ vậy!
Note:
Cái truyện của Borges, Gấu kiếm ra rồi: ở ngay trong đống sách
của Gấu, thế mới thú. Post ở đây, tính sau.
The Wizard that was Made to Wait
In Santiago
de Compostela, there was once a dean of the cathedral who was greedy
to learn the art of magic. He heard a rumor that a man named Illán,
who lived in the city of Toledo, knew more things respecting this art
than any other man, and he set off to Toledo to find him.
The day the dean arrived, he went directly
to the place where Illan lived and found him at his books, in a room
at the rear of the house. Illan greeted the dean kindly, but begged
that he put off the business of his journey until after they had eaten.
He showed him to a cool apartment and told him he was very glad that
he had come. After dinner, the dean explained the purpose of his journey,
and asked Illan to teach him the occult science. Illan told him that he
had divined that his visitor was a dean, a man of good position and promising
future; he told him, also, however, that he feared that should he teach
him as he asked, the dean would forget him afterward. The dean promised
that he would never forget the kindness shown him by Illan, and said he
would be forever in his debt. When that vow was made, Illan told the dean
that the magic arts could be learned only in a retired place, and he took
him by the hand and led him into an adjoining room, where there was a large
iron ring in the floor. First, however, he instructed his serving-woman
that they would have partridge for dinner, though he told her not to put
them on the fire until he bade her do so. The two men together lifted the
iron ring, and they began to descend a stairway hewn with skill from stone;
so far did they descend these stairs that the dean would have sworn they
had gone beneath the bed of the Tagus. At the foot of the stairway there
was a cell, and then a library, and then a sort of cabinet, or private study,
filled with instruments of magic. They thumbed through the books, and
as they were doing this, two men entered with a letter for the dean. This
letter had been sent him by the bishop, his uncle, and it informed him that
his uncle was taken very ill; if the dean wished to see him alive, the letter
said, he should return home without delay. This news vexed the dean greatly,
in the first instance because of his uncle's illness, but second because
he was obliged to interrupt his studies. He resolved to send his regrets,
and he sent the letter to the bishop. In three days, several men arrived,
dressed in mourning and bringing further letters for the dean, informing
him that his uncle the bishop had died, that a successor was being chosen,
and that it was hoped that by the grace of God he himself would be elected.
These letters also said that he should not trouble himself to come, since
it would be much better if he were elected in absentia.
Ten days later, two very well-turned-out
squires came to where the dean was at his studies; they threw themselves
at his feet, kissed his hand, and addressed him as "bishop."
When Illan saw these things, he went with
great happiness to the new prelate and told him he thanked God that
such good news should make its way to his humble house. Then he asked
that one of his sons be given the vacant deanship. The bishop informed
him that he had reserved that position for his own brother, but that he
was indeed resolved to show Illan's son favor, and that the three of them
should set off together for Santiago at once.
The three men set off for Santiago, where
they were received with great honors. Six months later, the bishop received
messengers from the Pope, who offered him the archbishopric of Tolosa
and left to the bishop himself the choice of his successor. When Illan
learned this news, he reminded the bishop of his old promise and requested
the bishopric for his son. The new archbishop informed Illan that he had
reserved the bishopric for his own uncle, his father's brother, but that
he was indeed resolved to show Illan's son favor, and that they should
set off together for Tolosa at once. Illan had no choice but to agree.
The three men set off for Tolosa, where they were received with
great honors and with masses. Two years later, the archbishop received
messengers from the Pope, who offered him a cardinal's biretta and
left to the archbishop himself the choice of his successor. When Illan
learned this news, he reminded the archbishop of his old promise and
requested the archbishopric for his son. The new cardinal informed Illan
that he had reserved the archbishopric for his own uncle, his mother's
brother, but that he was indeed resolved to show Illan's son favor, and
he insisted that they set out together for Rome at once. Illan had no
choice but to agree.
The three men set out together for Rome,
where they were received with great honors and with masses and processions.
Four years later the Pope died, and our cardinal was unanimously elected
to the Holy See by his brother cardinals. When Illan learned this news,
he kissed the feet of His Holiness, reminded him of his old promise,
and requested that his son be made cardinal in His Holiness' place.
The Pope threatened Illan with imprisonment, telling him that he knew
very well he was a wizard who when he had lived in Toledo had been no
better than a teacher of magic arts. The miserable Illan said he would
return to Spain, then, and begged of the Pope a morsel to eat along the
way. The Pope refused. Then it was that Illan (whose face had become
young again in a most extraordinary way) said in a firm and steady voice:
"Then I shall have to eat those partridges
that I ordered up for tonight's supper."
The serving-woman appeared and Illan told her to put the partridges
on the fire. At those words, the Pope found himself in the cell under
Illan's house in Toledo, a poor dean of the cathedral of Santiago de
Compostela, and so ashamed of his ingratitude that he could find no
words by which to beg Illan's forgiveness. Illan declared that the trial
to which he'd put the dean sufficed; he refused him his portion of the
partridges and went with him to the door, where he wished him a pleasant
journey and sent him off most courteously.
(From the Libro de Patronio by the Infante don Juan Manuel,
who took it in turn from an Arabic volume, The Forty Mornings and
the Forty Nights)
J.L. Borges: A Universal History of Iniquity
Trong cái viết của mình, Borges luôn trộn
cái nghiêm túc cực cao với cái tếu táo cực bảnh
của ông
[In his writing, Borges always combined high serious with a
wicked sense of fun]
[Chúc mi luôn luôn....
Gấu]: Gấu, chiều nay, lại ăn gà gô
một mình, đọc đỡ đại tác phẩm của mấy anh mũi lõ
vậy!
Note: Bữa trước, nhớ là
có nhắc tới Manguel, và bài viết của ông
về cuốn The Sign of Four, cùng khám phá
của ông, Sherlock Holmes, ghiền xì ke.
Nay post thêm bài viết của
Graham Greene, về cuốn này, trong Reflections
Một trong những bài điểm sách mà
Gấu nhớ đời, khi mới vào làng văn,
là bài viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT
cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, của quân
đội VNCH, thời gian TTT phụ trách, sau ông chán, thảy
qua thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới chết,
thằng em trai của Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân
chừng 1 năm. Trong đầu toàn hình ảnh
chết chóc, Gấu phán, bạn chỉ cần sống sót,
vì sau đó, bạn "bèn" đụng 1
trận chiến khác, khủng khiếp chẳng kém:
Văn chương!
Câu phán,
"You
only need to be alive", trong "Borges,
Tám Bó", Borges cho biết, là của
1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu phán
“chỉ cần còn sống”, quả đúng là
1 cái bad luck cho toàn 1 cõi
văn chương Ngụy, trước 1975, không phải cho "những
người đã chết đều có thực", như Y Uyên,
mà cho chính những kẻ mà chúng
cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân hữu:
Nguyễn Tuân thuộc vào văn chương
lớn nhất của toàn bộ thế giới, đọc thật kỹ mấy cái
này: truyện "Chém treo ngành", vài đoạn
trong "Chiếc lư đồng mắt cua", khoảng 10 trang cuối "Một chuyến
đi", chương nhà ga Hàng Cỏ của "Quê hương", nếu
mà đủ khả năng thì sẽ hiểu đấy chính là
những khi NT đạt đến tận giới hạn xa nhất của văn chương đấy
Kẻ nào đi, là có
chuyện để kể... Nhưng người ta chỉ khoái nghe kẻ ở nhà,
sống cuộc đời lương thiện của mình, và rành
rẽ chuyện xóm làng cùng phong tục địa phương.
"When someone goes on a trip, he has something
to tell about", goes the German saying.... But they [people] enjoy
no less listening to the man who has stayed at home, making an
honest living, and who knows the locale tales and traditions.
W. Benjamin: Người kể chuyện.
"Tất cả văn chương lớn đẻ ở miệt vườn"
(Toute grande littérature nait en province)
Note: Giả như NT Nguyễn Tuân thuộc vào
văn chương lớn nhất của toàn bộ thế giới, thì sẽ
theo kiểu cắt nghĩa như trên, và giả như đúng
như thế, thì nó sẽ thuộc vào thời đại khủng
long, khi loài này sắp sửa biến mất:
Tất cả những tuyệt tác của NT là viết
về thế giới này: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua,
Tàn Đèn Dầu Lạc, Mất Quê Hương [tác
phẩm Quê Hương của NT bị thiến mất 1 chữ, ở ngay cái tít của nó].
GCC, là cũng thuộc thế giới đó,
và như con voi già, đang trên đường tới
nghĩa địa voi của thằng chả.
Nhưng, "đi", bảnh nhất, phải là
Lý Phật Sơn, như Phan Lạc Phúc, viết về anh
Ôi, nào đâu…. những
“đồng trụ chiết, giao chỉ diệt”, những “cột trụ
chống Trời”, Les Racines du ciel, những "đống rác" ngất
ngưởng
- lịch sử từ đó bắt đầu, như W Benjamin phán, thứ
lịch sử viết từ đáy - nơi Hàm Nghi, Chợ Cũ, những
chân cầu Calmette, những "Vòm" Nancy, những Hẻm 72,
69, Thị Nghè, những "Quán Đen" Bà Lộc, Tư Cao, Trương Minh Giảng, Những "Ông
Thông", Lư Đồng Mắt Cua, những "Em Xuyến", em người bên
lương hay bên giáo….
Ông biết không, Đà Lạt ngày
xưa là nghĩa địa voi đấy!
Ui chao, lại nhớ, suốt ba tháng hè,
của BHD, sau khi đậu Tú Tài I, được ông bố khắc nghiệt
cho đi Đà Lạt, ở nhà bà con, cái cô Vy
mà gia đình BHD tính "cho" GCC, thay vì BHD,
mỗi sáng thứ Bẩy, là GCC bèn chơi 1 cuốc xe đò,
lên gặp em, chỗ hẹn gặp tất nhiên là Cà Phê
Tùng, cả hai đi tung tăng suốt Đà Lạt, tới trưa Chúa
Nhật, thì Gấu bèn bye bye em, lên xè đo, về
Sài Gòn, để sáng thứ Hai đi làm.
Gấu không tin, có cặp tình nhân
nào, bảnh như cặp GCC & BHD, trong suốt những cuộc tình
của loài người!
Có thể, có những tên có
tiền, nhưng làm sao, suốt ba tháng hè, suốt
một thời trẻ thơ, như thế?
Nhắc đến thời kỳ cấm trại 100% hồi Mậu Thân 1968, tôi
không thể không nhớ tới một người bạn viết đã xuất hiện
tại tòa soạn Tiền Tuyến trong dịp sinh hoạt đặc biệt này. Đó
là Lý Phật Sơn.
Sơn là bạn của Lê
Tất Điều (nhà thơ Cao Tần sau này ở Mỹ). Đầu năm
1968 trong số Xuân Tiền Tuyến, Lê Tất Điều (LTĐ) đưa
tôi bản thảo vở kịch 1 màn. Tôi đọc xong rất thích,
đăng ngay trong số Xuân với lời giới thiệu nồng nhiệt của tòa
soạn. Lý Phật Sơn cho tới lúc đó là một
người viết ít nhưng viết hay. Ông bạn già của tôi,
kịch tác gia Vũ Khắc Khoan (chủ biên Vấn Đề, tác
giả Thành Cát Tư Hãn), một người xưa nay rất khó
mà cũng ngỏ lời khen vở kịch. Một nhà biên kịch
khác Trần Lê Nguyễn (tác giả Bão Thời Đại,
giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ Nhất Cộng Hòa) cũng
hỏi tôi:"Lý Phật Sơn là ai?"
Thật ra cho tới lúc đó tôi chưa
quen biết Lý Phật Sơn.
Một bữa đang vất vả vì vừa phải làm
báo, vừa trực chiến, VC đang tấn công nhiều mặt
trong thành phố, LTĐ đưa đến một người trẻ tuổi (vào
khoảng 30), gầy guộc, mắt sáng đến gặp tôi và
giới thiệu: "Người viết kịch Lý Phật Sơn", (LPS). Tôi
đón tiếp Sơn khá nồng nhiệt và có nhắc
lại nhữõng nhận định của Tiền Tuyến và thân hữu.
Tôi nhớ người trẻ tuổi khi nghe những lời tán thưởng đó
chỉ khẽ cúi đầu và nhếch một nụ cười, không có
cả một lời cám ơn thường lệ. Nụ cười đầy tự tin có
vẻ như muốn nói "tôi viết thì phải hay rồi". LTĐ
sau đó tất tả đi ngay. Họ Lê lúc đó đang
là trưởng nhóm phóng viên nên phải
đi ra Xóm Mới nơi đang có đụng lớn. LPS vội chỉ về phía
trực thăng đang vần vũ trên trời, tiếng 12.7 đang rền rĩ mà
hỏi: "Đi ra đó hả?'. LTĐ gật đầu. LPS liền chạy lại ngồi lên
yên sau của chiếc Lambretta cà khổ của họ Lê. Xe vội
vã phóng đi. LPS khẽ giơ tay về phía tôi
vẫy vẫy ra ý chào tạm biệt.
Từ đó Tiền Tuyến luôn có bài
của phái viên mới Lý Phật Sơn. Ký sự
chiến trường của Sơn viết súc tích và tinh tế.
Cuối tuần khi ký "bông" trả tiền nhuận bút cho
phái viên mới, theo đề nghị của LTĐ, tôi đã
rất "nới tay". LTĐ cho hay là LPS rất "rách", không
nhà, không cửa, không vợ, không con, sống lây
lất nhà bạn hữu hoặc ở trong chùa. Dạo ấy cắm trại 100%
nên LPS "ba cùng" với anh em Tiền Tuyến (cùng ăn,cùng
ngủ, cùng làm). Theo đề nghị của LTĐ, Hà "chưởng
môn" chủ nhiệm Tiền Tuyến cấp cho LPS thẻ nhà báo
"Phái viên TT", huy hiệu Press (có thị thực của
bộ Thông tin) để LPS có thể đi mọi nơi làm phóng
sự hay đi họp báo.
Tiền Tuyến sinh hoạt như một tòa báo
dân sự nhưng dù sao nó vẫn là một
đơn vị QĐ, thời gian này vừa phải thực hiện công tác
chuyên môn (làm báo) vừa phải phục vụ
ứng chiến (tuần tra, phòng thủ khu vực). Tòa báo
vẫn phải có một ông thượng sĩ đại đội điều hành
công việc hằng ngày. Ông thượng sĩ C. kiêm
chánh văn phòng TT là một ông "ách
chi đằng" đi lính từ "đơ dem cù bắp"(deuxième classe,
lính trơn) bây giờ tuổi gần 50, làm đến thượng sĩ
là ông hách phải biết, cầm cân nảy mực cho anh
em hạ sĩ quan và binh sĩ ở đây. Thông thường khi cắm
trại, thượng sĩ C. có sắp xếp 2 cái ghế bố nhà binh
cho Hà chưởng môn và tôi ngủ ở văn phòng
buổi tối, sáng sớm lại dẹp đi. Nhưng ít lâu nay chúng
tôi tối đến kéo sang Tiểu đoàn 50 Chiến tranh Chính
trị vui chơi, ăn nghỉ với 2 ông bạn Vũ Văn An, Lại Thế Cường bên
đó. LPS thấy vậy liền vào văn phòng tòa soạn,
trèo lên ghế bố của tôi mà ngủ. Thượng sĩ
C (TS C.) ngứa mắt lắm nhưng nể Sơn là bạn của tòa báo
nên Thượng sĩ C không dám nói gì. Thường
lệ khi chúng tôi thức dậy buổi sáng TS C. sai "tà
loọc" sửa soạn cho chúng tôi thau nước rửa mặt. Đây
là văn phòng không phải cư xá nên thiếu
thốn mọi tiện nghi. Một buổi sớm, LPS thức dậy, mắt nhắm mắt mở, gọi TS
C. vào mà bảo: "Lấy cho tôi thau nước". TS C. tím
mặt mà không nói được lời nào. Khi chúng
tôi từ TĐ 50 về tòa soạn, TS C. nước mắt nước mũi đầm đìa
nói với chúng tôi: "Xin các ông thầy cho
em đi làm chỗ khác. Ở đây vì nể các
ông thầy mà em bị một thằng nhóc chỉ bằng tuổi thằng
con đầu của em nó làm nhục. Không có mấy ông
thầy em đâu có cho nó vô đây, em tống khứ
nó đi ngay chớ. Đồ vừa trốn quân dịch, vừa nghiện hút
mà làm phách, làm tàng".
Chúng tôi phải xin lỗi và an
ủi ông TS già để ông bỏ qua chuyện đó.
Gặp LTĐ tôi có hỏi việc trốn quân dịch và
nghiện hút của LPS. Họ Lê chỉ cười mà không
trả lời thẳng vào câu hỏi. Cái cười lảng chuyện
ấy gần giống như một lời xác nhận.
Tôi có
nói lại chuyện này với Hà chưởng môn.
Chưởng môn ngẫm nghĩ một lúc rồi mới nói: "Mình
chứa chấp LPS như vậy có thể mang tội 'tán trợ đào
binh' nhưng mà đuổi Sơn đi thì tội. Có tài
có tật. Để xem có lo liệu cho Sơn đi Quang Trung
rồi xin về được không?'. Dạo ấy cuộc tổng tấn công Mậu
Thân đã tàn, phái viên chiến trường
không còn cần thiết nữa. Để cho LPS có việc
làm hằng ngày, TT mở ra mục mới: bình chuyện
Kim Dung. Truyện Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung đang hồi ăn khách.
Báo Saigon dạo ấy thi nhau đăng chuyện Kim Dung dịch từ báo
Hồng Kông sang; đăng sớm hơn báo khác được 1 kỳ
đã là điều hiếm có. TT không đăng sớm hơn
đồng nghiệp được nhưng TT có lời bình truyện Kim Dung
do LPS phụ trách. Sơn đọc khá nhiều, quảng kiến đa văn,
lại dặm thêm mắm muối những chuyện ly kỳ bên bàn đèn
thuốc phiện nên lời bình của Sơn rất được bạn đọc hoan
nghênh. Bình truyện Kim Dung một thời là mục ăn
khách của TT. Ít người bình truyện Kim Dung đọc
nghe sướng tai, sướng miệng bằng LPS. Mới đây nhà văn Hà
thúc Sinh ở Hoa Kỳ nhớ về thời kỳ đó đã gọi LPS
là "vua bình".
Sau thời gian bình truyện Kim Dung trên
TT, LPS rất nổi. Một số báo ở Saigon
có ý muốn kéo LPS về tòa soạn của
mình. Chúng tôi có nghe phong thanh chuyện
đó nhưng vẫn giữ thái độ thản nhiên. Hà
chưởng môn nói với tôi: "Anh em thương mình
thì ở, không thương mình thì đi; tùy
anh em thôi, mình không mời chào mà
cũng không chèo kéo".
Ít lâu sau LPS từ biệt TT mà
đi. Khi đến cũng như khi đi, Sơn không báo trước.
Thời kỳ này Lục mạch Thần kiếm cũng vừa kết thúc. TT
chấm dứt "bình truyện Kim Dung" mà cũng không thấy
LPS bình trên báo nào khác. Hành
tung của con người kỳ sĩ này phi tà, phi chánh,
phiêu hốt giang hồ không biết đâu mà lường
trước được.
Cho đến nay thời kỳ đông vui của tòa
sọan cũ đã trên 30 năm trôi qua. Bản thân
mình cũng như anh em đều nổi trôi theo vận nước.
Tôi là một "anh già" ở xứ Nam bán
cầu xa xôi cách trở, mỗi khi nhớ về quê xưa
bạn cũ lại thấy lòng dạ xốn xang. Mấy năm trước, nhân
nói về tòa soạn cũ, tôi mới hỏi Nhất Giang (NG):
"Không biết bây giờ Lý Phật Sơn ra sao?". NG
như chợt nhớ ra một điều gì mới nói: "Có, có
gặp lại LPS một lần".
NG kể lại: Dạo ấy vào
khoảng đầu năm 1978 thì phải, Saigon
đang khốn khổ vì đánh tư sản. Ai cũng lo bị đuổi
đi kinh tế mới. Một buổi chiều đạp xe qua ngã ba Cao Thắng-
Hồng Thập Tự, chỗ ngang nhà thương Từ Dũ chợt có tiếng
ai gọi: 'Nhất Giang, Nhất Giang'. Dừng lại thấy một ông gầy
gò, rách rưới đang đạp xích lô. Nhìn
kỹ thì ra ông LPS. Ông LPS ngày xưa đã
ốm rồi, bây giờ gầy rạc, áo quần xác sơ, lam lũ,
xuống xe cầm cái nón vải nhà binh cũ mà
quạt quạt. Đôi mắt sáng ngày xưa bây giờ
cũng nhạt nhòa bóng tối. NG mới hỏi:" Sao ông lại
vất vả thế?". LPS vừa ngồi bệt xuống bên đường vừa nói:
"Tôi đạp xích lô đâu phải để mưu sinh. Cậu
chẳng hiểu gì cả. Tôi làm thế là để cho
nó nhục". Nó ở đây là ai? Là cuộc
đời, là xã hội? LPS không nói rõ nhưng
anh cho rằng một kẻ sĩ như LPS mà phải đạp xích lô
(mà vẫn không sống nổi) là một nỗi nhục, không
phải cho anh mà cho xã hội đương thời.
Ít lâu sau có tin về LPS do
Nguyễn Thụy Long, tác giả Loan Mắt Nhung báo cho
anh em hải ngoạibiết rằng: "Lý
Phật Sơn đã chết rồi, chết vì thiếu đủ thứ: thiếu cơm,
thiếu áo, thiếu thuốc. Một buổi chiều, LPS mò
đến một căn gác có bàn đèn thuốc phiện
ở Ngã Ba Ông Tạ, ngồi đó ngửi khói thuốc
rồi đi luôn'.
Đó là dấu chấm hết cho một kỳ sĩ.
Lý Phật Sơn là một ngôi sao lóe sáng
trong đêm, rồi chìm xuống rất mau trong bóng
tối.
Ký Giả Lô Răng
[Trích Việt Luận]
Sau năm 1975, rất nhiều "kẻ sĩ" phải đạp xích
lô, mà vẫn không sống nổi -và tôi không nghĩ, đó
là một nỗi nhục, cho cả hai, kẻ sĩ và xã hội.
Thành thử câu nói của LPS sợ
rằng do phẫn quá mà ra, hoặc còn có
một ý nghĩa nào khác chăng.
Nhưng cái hình ảnh LPS "đi" như trong
bài viết thì thật là tuyệt vời. So với một
chuyến đi, của Tam Ích, của Ngọc Thứ Lang, thì của
LPS là đạt nhất.
"Một buổi chiều, LPS mò đến một căn gác
có bàn đèn thuốc phiện ở Ngã Ba Ông
Tạ, ngồi đó ngửi khói thuốc rồi đi luôn'.
Tam Ích, qua tin tức báo chí
tại Sài Gòn lúc đó, đã chồng
những cuốn sách, rồi từ từ bước lên, và sau
khi đưa cái thủ cấp của mình qua sợi thòng lọng,
bèn đạp đổ đống sách.
Còn Ngọc Thứ Lang, mất ở trong trại Phú
Văn, sau khi phi một bi thuốc lào, và té
vô đống lửa kế bên, và đi luôn.
Cùng một lứa bên trời lận đận, Gấu
cũng đã từng lận đận bên trời như LPS, nhân
cái chết của phe ta, trên Tin Văn, trong những kỳ
tới, Gấu tui sẽ đi vài đường, tạm đặt tên là:
"Để Tưởng
Nhớ Mùi Hương", mượn một cái tít của Mai Thảo.
Ông trưởng môn
trường phái Sáng Tạo, hô hào làm
cách mạng trong văn chương, cũng không phải là
một người chẳng hề biết đến mùi hương!
Graham Greene cũng có những trang
thần sầu về Quán Đen, ở Sài Gòn, và
những tiệm sách cũ, mà, có thể, ông trân
trọng như nhau.
Reflections là những bài
viết ngắn, về đủ thứ, những chuyến đi, những bài điểm sách,
điểm phim, giới thiệu sách. Trong có hai bài
thật thú. Một, về những tiệm bán sách cũ, và
một, tưởng niệm Borges, cũng là kỷ niệm lần Greene gặp Borges.
TV sẽ chuyển ngữ cả hai.
Bài về những tiệm sách cũ làm
Gấu nhớ tới những tiệm sách cũ ở khu Chợ Đũi, cũng một
thiên đường tuổi mới lớn của Gấu cùng với Sài
Gòn. Thời gian quen HPA. Gấu đã kể về chúng trong
một bài viết cũ. Đọc bài viết của Greene còn
làm Gấu nhớ tới cái tiệm sách cũ nằm giữa một
con hẻm giữa hai bức tường, của hai căn nhà trên con phố
Catinat, cũng gần Quán Chùa. Gấu thường ghé
đó, cùng với ông Hưng, AP man. Cũng một trong
những đền thiêng của VNCH, và cũng bị VC ủi sập, cùng
với Givral, Passage Eden, Quán Chùa.
Tôi không biết Freud
giải thích thế nào về chúng, nhưng trong hơn
ba chục năm, những giấc mơ hạnh phúc nhất của tôi, là
về những tiệm bán sách cũ: những tiệm trước đó
tôi chẳng hề biết, hoàn toàn vô danh
đối với tôi, hay những tiệm quen thuộc, cũ xưa mà tôi
đang ghé.
Đó là những tiệm sách quen chẳng
hề hiện hữu; tôi thật ngại ngần và đành phải
đi đến kết luận như vậy.
Đâu đó, không xa Gare du Nord
ở Paris tôi vẫn còn nguyên những kỷ niệm tươi
rói về một tiệm sách ở cuối một con phố dài
chạy mãi lên một đỉnh đồi, một tiệm sách sâu
hun hút, với những quầy, giá sách cao thật cao,
và cao như tôi mà cũng phải dùng tới một
cái thang, để lục lọi những giá sách gần đụng
trần nhà. Trong ít ra là hai lần, tôi đã
lục lọi như vậy, và tôi tin rằng, đã vớ được bản
dịch một cuốn của Apollinaire, nhà xb Fanny Hill, trong một
lần đó.
Nhưng khi chiến tranh chấm dứt tôi cố tìm
tiệm sách cũ trên, vô ích, vô
phương.
Lẽ dĩ nhiên, tiệm có thể biến mất, nhưng
con phố, chính nó, cũng đếch còn. Thế mới quái!
Rồi còn một tiệm sách cũ của London,
nó cứ trăn trở, đi đi lại lại hoài, trong những giấc
mộng của tôi; tôi có thể nhớ ra thật là
rõ ràng mặt tiền của nó, nhưng chịu thua, phía
bên trong tiệm. Nó đứng đâu đó trong khu
đằng sau Charlotte Street trước khi bạn tới Euston Road. Tôi
chưa từng đi vô bên trong tiệm, và bây giờ
thì tôi tin chắc là làm đếch gì có
cái tiệm quỉ quái đó, và tôi luôn
luôn tỉnh giấc mơ với cảm giác, ôi chao, sướng ơi
là sướng nếu mình kiếm thấy nó.
Graham Greene
Ui chao, không lẽ Sài
Gòn, Khu Chợ Đũi, BHD, Quán Chùa..... của
Gấu, thì cũng chỉ như một trong những tiệm sách cũ,
như trên, của Greene?
Nhưng, giả như thế, thì lại càng tuyệt,
tuyệt!
Bởi vì rõ ràng là, khi
dịch Istanbul, Gấu cũng có
cảm giác như vậy, không phải về những con phố của
Istanbul của Pamuk, nhưng mà là của Sài Gòn.
Những đoạn phóng bút, là về Sài Gòn,
về BHD của Gấu, không phải về Istanbul, về BHD của Pamuk!
Một thân hữu nhận ra điều
này, khi viết:
Những mối tình e ấp ,
sót lại những sợi tơ vương vướng đâu đó trong
tâm hồn phần đông trong chúng ta, không
giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan
Hương” của tác giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể lồng
bóng mình và người yêu một thời (và
một đời) của mình gần như vào bất cứ một mối tình
văn chương nào mà anh đọc đến, chỉ cần mối tình
ấy là một mối tình lý tưởng, trong trắng và
mù quáng đến rũ rượi . Đọc truyện tình của anh,
K có cảm tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì
anh cũng sẽ lao vào cuộc tình như thế, không ngần
ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách
hạnh phúc.
Ui chao Gấu Cái đọc đoạn
trên, lắc đầu!
Trở lại
Anh, Greene nhớ Việt Nam
quá và đã mang theo cùng với ông một cái
tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm: cái
tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm
hít ngoài đường Catinat. Tay
chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài
đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày
rời Việt Nam,
tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái
tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa
tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí,
do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày
hạnh phúc.
Lần thăm Việt Nam cuối, chàng [Greene] hít
nhiều hơn lệ thường: thường, nghĩa là ba hoặc bốn bi, nhưng
chỉ riêng trong lần cuối này, ở Sài Gòn,
trong khi chờ đợi một tờ visa khác, tiếu lâm thay,
của Vi Xi, chàng "thuốc" chàng đến bất tri bất giác,
he smoked himself inerte.
Trong những lần trước, thường xuyên là
với những viên chức Tây, chàng hít không
quá hai lần trong một tuần. Lần này, một tuần hít
ba lần, mỗi lần trên mười bi. Ngay cả hít nhiều như
thế cũng chẳng đủ biến chàng thành ghiền. Ghiền, là
phải hít trên trăm bi một ngày.
Mục Đại tiên sinh vào
đọc blog Nhị Linh hoài, ngưỡng mộ thay cái sự
đọc nhiều dù văn phong khô cứng sao ấy, chắc tại viết
blog, điểm sách không "mướt" như bác Gấu Nhà
Văn. Mỗi lần đọc cái link "xem ở kia" là Mục Đại
tiên sinh thở dài, y như người ta quẳng thóc
cho gà ăn thế nhỉ. Nhưng mà "tiên sinh" vẫn cứ
thích anh Trần Vũ viết nhất, hy vọng ảnh đừng có tốn
nhiều thời gian vô mấy cái tạp chí gì đó.
Mình đã nói rồi, viết về mấy đấng nhân
vật lịch sử anh Trần Vũ ăn đứt ông Thiệp. "Lưng Trần" Vũ cũng
thật tuyệt vời, chững chạc, nhân hậu, cảm động quá
đi.
Vị Mạc Đại Tiên
Sinh nhắc tới GNV,
mà lại dùng từ của H/A - "nhân hậu, cảm động" - Từ
"mướt", của K. Tks.
NQT
Note: Bữa trước, nhớ là
có nhắc tới Manguel, và bài viết của ông
về cuốn The Sign of Four, cùng khám phá
của ông, Sherlock Holmes, ghiền xì ke.
Nay post thêm bài viết của Graham
Greene, về cuốn này, trong Reflections
GCC đã kể, về lần được nghe bản này,
ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà.
Để được nghe nó, là phải có được cây
đàn Tây Bán Cầm, y hệt bữa nghe Ngày Mai
Đi Nhận Xác Chồng:
Để được nghe nó, thì phải có bữa đại tiệc
thịt chuột, phải có, phải có....
Bởi thế, về già Gấu mới thấu hiểu, phải có 1
Ông Trời, là vậy.
Sau cái Test Kafka, "Thằng Chả" cung phụng Gấu đủ thứ,
chỉ để ra hải ngoại, nhận Gói Quà Lò Thiêu,
từ Steiner!
Thời gian ở Đỗ Hoà, Gấu nghĩ mình không
bao giờ có dịp trở lại thế giới bên ngoài.
V/v bài thơ Thuyền Viễn Xứ.
Theo Gấu, để hiểu từ “viễn xứ”, thì phải biết thêm
1 số dữ kiện liên quan tới từ “Đà Giang”, và nếu
như thế, nó liên quan tới Tản Đà, tới Vũ Hoàng
Chương, tới cái gì gì, nhớ đại khái:
Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ,
Trăng thượng tuần cao sáng ngợp bờ....
Trước giờ, Gấu vẫn nghĩ, tác giả bài thơ phải
là dân cùng quê với Tản Đà, và
phải là 1 người rất rành thơ, và điển cố liên
quan tới thơ, tới sông hồ, tới Tầm Dương, chẳng hạn.
Từ “viễn xứ” kéo theo với nó, từ “lưu vong”,
và đây là cái ý mà Blanchot
viết, khi giải thích, tại làm sao mà St John Perse
đặt tên 1 bài thơ của ông là Lưu Vong
Ly kỳ, rắc rối, nhiêu khê lắm, không có
đơn giản đâu.
Toujours il y eut cette
clameur toujours il y eut cette fureur... Saint-John Perse: Exil
Luôn
luôn tiếng la ó đó Luôn luôn, cơn
giận dữ đó Saint-John Perse: Lưu
Vong
When
Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot says,
"he named the poetic condition as well... The poem is exile and the poet
who belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always
lost to himself, [hors de lui-même], outside, far from home [hors
de son lieu natal]; he belongs to the foreign, the outside which knows
no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin names when
in his madness he sees rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài
thơ của ông, là Lưu Vong, Blanchot giải thích,
đó là ông còn đặt tên cho số phận
thơ… Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình
lưu vong. Anh ta luôn luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài
nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi
không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa,
phân ly, Hiu Quạnh Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn
điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô cùng
của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có
vậy… Gõ Google, ra trang
này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ
Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang Thang Thi Sĩ, Đêm
Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài
thơ của TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi
tù đầy, và lưu vong sau đó, khi đứng trước cơn
la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là
của ông?
Buổi tối, lần Gấu
nghe tay bạn tù cải tạo chơi ghi ta bản Thuyền Viễn Xứ, và
miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này biết
chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô
cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng lại
chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi tận
đáy lòng mình, tưởng đã quên nó
rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng trời
đất mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát
ngày nào, ngoài kia là trùng trùng
lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng
lớp lớp mồ hôi, sức tù đổ xuống, và trên trời
kia, là trăng sáng đang đổ xuống....
Đúng ra phải nói, anh ta moi bản nhạc từ đáy
sông Đà, con sông khốn kiếp ám ảnh hoài
thằng Gấu xứ Đoài mây trắng lắm, bỏ chạy nó, và
bị nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi khi
đời sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế
là con 'vai rớt' Bắc Kỳ làm ngụy!
Một
trong những bài điểm sách mà
Gấu nhớ đời, khi mới vào làng văn, là
bài viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT cuối
tuần của nhật báo Tiền Tuyến, của quân
đội VNCH, thời gian TTT phụ trách, sau ông chán, thảy
qua thằng em.
Khi
viết, nhân Y Uyên vừa mới chết, thằng
em trai của Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân
chừng 1 năm. Trong đầu toàn hình ảnh
chết chóc, Gấu phán, bạn chỉ cần sống sót,
vì sau đó, bạn "bèn" đụng 1 trận
chiến khác, khủng khiếp chẳng kém: Văn chương!
Câu phán, "You only need to be alive", trong
"Borges, Tám Bó", Borges cho biết,
là của 1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu phán
“chỉ cần còn sống”, quả đúng là
1 cái bad luck cho toàn 1 cõi văn
chương Ngụy, trước 1975, không phải cho "những người
đã chết đều có thực", như Y Uyên, mà
cho chính những kẻ mà chúng cần "to be
alive"
Đúng
cái ý vị thân hữu:
Nguyễn Tuân thuộc vào văn chương lớn nhất của toàn
bộ thế giới, đọc thật kỹ mấy cái này: truyện "Chém
treo ngành", vài đoạn trong "Chiếc lư đồng mắt cua", khoảng
10 trang cuối "Một chuyến đi", chương nhà ga Hàng Cỏ của
"Quê hương", nếu mà đủ khả năng thì sẽ hiểu đấy chính
là những khi NT đạt đến tận giới hạn xa nhất của văn chương đấy
Kẻ nào đi, là có
chuyện để kể... Nhưng người ta chỉ khoái nghe kẻ ở nhà,
sống cuộc đời lương thiện của mình, và rành rẽ
chuyện xóm làng cùng phong tục địa phương.
"When someone goes on a trip, he has something to tell about",
goes the German saying.... But they [people] enjoy no less listening
to the man who has stayed at home, making an honest living, and who knows
the locale tales and traditions.
W. Benjamin: Người kể chuyện.
"Tất cả văn chương lớn đẻ ở miệt vườn"
(Toute grande littérature nait en province)
Note: Giả như NT Nguyễn Tuân thuộc vào
văn chương lớn nhất của toàn bộ thế giới, thì sẽ theo
kiểu cắt nghĩa như trên, và giả như đúng như thế,
thì nó sẽ thuộc vào thời đại khủng long, khi loài
này sắp sửa biến mất: Tất cả những tuyệt tác của NT là
viết về thế giới này: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Tàn Đèn
Dầu Lạc, Mất Quê Hương [tác phẩm Quê Hương của NT bị
thiến mất 1 chữ, ở ngay
cái tít của nó]
GCC, là cũng thuộc thế giới đó, và như con
voi già, đang trên đường tới nghĩa địa voi của nó
Diodorus Siculus tells the
story of a god, broken and scattered abroad. What man of us has
never felt, walking through the twilight or writing down a date
from his past, that he has lost something infinite?
Mankind has lost a face, an irretrievable
face, and all have longed to be that pilgrim — imagined in the
Empyrean, beneath the Rose — who in Rome sees the Veronica and
murmurs in faith, “Lord Jesus, my God, true God, is this then what
Thy face was like?”
Beside a road there is a stone face and an
inscription that says, “The True Portrait of the Holy Face
of the God of Jaen.” If we truly knew what it was like, the key
to the parables would be ours and we would know whether the son
of the carpenter was also the Son of God.
Paul saw it as a light that struck him to
the ground; John, as the sun when it shines in all its strength;
Teresa de Jesus saw it many times, bathed in tranquil light, yet
she was never sure of the color of His eyes.
We lost those features, as one may lose a
magic number made up of the usual ciphers, as one loses an image
in a kaleidoscope, forever. We may see them and know them not.
The profile of a Jew in the subway is perhaps the profile of Christ;
perhaps the hands that give us our change at a ticket window duplicate
the ones some soldier nailed one day to the cross.
Perhaps a feature of the crucified face lurks
in every mirror; perhaps the face died, was erased, so that
God may be all of us.
Who knows but that tonight we may see it
in the labyrinth of dreams, and tomorrow not know we saw it.
[From Dreamtigers, by Jorge Luis Borges,
translated by Mildred Boyer]
PARADISO XXXI, 108
Diodorus Siculus narrates the story of a
dismembered and sundered god, who, as he walks in the twilight
or traces a date in his past, never senses that something infinite
has been lost.
Mankind has lost a face,
an irretrievable face, and every- one would like to be that
pilgrim (dreamed of in the empyrean, under the Rose) who sees
Veronica's handker- chief in Rome and murmurs with faith:
Jesus Christ, My Lord, True God, this, then, was Your Face?
There is a stone face
on a certain road and an inscription which reads: The true
Portrait of the Holy Face of the God of Jaén. If we really knew the likeness,
we would have the key to the parables and would know if the
son of the carpenter was also the Son of God.
Paul saw it in the guise
of a light which hurled him to the ground; John, as the sun
shining in full force; Teresa of Jesus, oftentimes, as if bathed
in a tranquil light, but she was never able to specify the color of
the eyes.
We lost those features,
in the way a magical number may be lost, a number made up
of customary figures; in the same way as an image in a kaleidoscope
is lost forever. We may see them, and not know it. The profile of
a Jew in the subway may be that of Christ; the hands which give us
some coins at a change-window may recall those which some soldiers
once nailed to the Cross.
Perhaps some feature of
the Crucified Face lurks in every mirror; perhaps the Face
died, was effaced, so that God might become everyone.
Who knows whether we may
not see it tonight in the labyrinths of dreams and remember
nothing tomorrow.
- Translated by ANTHONY KERRIGAN
Diodorus Siculus kể câu
chuyện, một vị thần tàn phế, mảnh miểng bỏ vãi
tứ lung tung, lang thang trong hoàng hôn chập choạng,
hay mầy mò tìm một ngày tháng dĩ vãng,
không hề cảm nhận ra, rằng thì là, một điều gì
đó, thiên thu biền biệt, vĩnh viễn mất đi.
Nhân loại mất mẹ
mất bộ mặt của nó. Một bộ mặt đếch làm sao lấy
lại được, và mọi người thì đều giống y chang vị
lữ hành đó ( kẻ được mơ ước bởi Empyrean, dưới BHD).
Tên khốn đó,
có lần làm 1 chuyến thăm viếng La Mã, và
nhìn thấy cái khăn tay của BHD, và thế là
la toáng lên: Ôi Chúa Ky Tô.
Chúa Đích Thực, Cái này – cái
khăn tay của BHD, tất nhiên – là Khuôn Mặt Của
Người ư?
Có một bộ mặt bằng
đá nơi ven đường nào đó, với dòng chữ: Đây
là bộ mặt thực sự của Chúa. Giả như chúng
ta biết sự giống như thiệt, chúng ta có được chìa
khoá mở ra những ẩn dụ, và biết được người con
trai của ông thợ mộc cũng là Con của Chúa.
The human face disappeared and also
its divine image. In the classical world a slave was called
aprosopos, 'faceless'; litteraly,
one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình
ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa,
kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos,
'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS
hãnh diện trong "không mặt".]
Nói cho cùng, đó
là thời "không mặt". Như một hình ảnh
khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:
As though, in
night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear
[Như thể, trong
tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh
của mình
Và ráng sức biến mất]
D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.
Mục Đại tiên sinh vào
đọc blog Nhị Linh hoài, ngưỡng mộ thay cái sự đọc nhiều
dù văn phong khô cứng sao ấy, chắc tại viết blog, điểm
sách không "mướt" như bác Gấu Nhà Văn. Mỗi
lần đọc cái link "xem ở kia" là Mục Đại tiên sinh
thở dài, y như người ta quẳng thóc cho gà ăn thế
nhỉ. Nhưng mà "tiên sinh" vẫn cứ thích anh Trần Vũ
viết nhất, hy vọng ảnh đừng có tốn nhiều thời gian vô mấy
cái tạp chí gì đó. Mình đã
nói rồi, viết về mấy đấng nhân vật lịch sử anh Trần Vũ
ăn đứt ông Thiệp. "Lưng Trần" Vũ cũng thật tuyệt vời, chững chạc,
nhân hậu, cảm động quá đi.
Vị Mạc Đại Tiên
Sinh nhắc tới GNV,
mà lại dùng từ của H/A - "nhân hậu, cảm động" - Từ
"mướt", của K. Tks. NQT
Note:
Bữa trước, nhớ là có nhắc tới Manguel, và bài
viết của ông về cuốn The Sign of Four, cùng khám
phá của ông, Sherlock Holmes, ghiền xì ke.
Nay post thêm bài viết của Graham Greene, về
cuốn này, trong
Reflections
Một trong những bài
điểm sách mà Gấu nhớ đời, khi mới
vào làng văn, là bài viết về
cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy
Ngựa Hoang, của Trần Hoài Thư, khi giữ mục Điểm Sách
cho trang VHNT cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến,
của quân đội VNCH, thời gian TTT phụ trách,
sau ông
chán, thảy qua thằng em.
Khi viết, nhân
Y Uyên vừa mới chết, thằng em trai của Gấu cũng
tử trận, trước Mậu Thân chừng 1 năm. Trong đầu toàn
hình ảnh chết chóc, Gấu phán,
bạn chỉ cần sống sót, vì sau đó, bạn
"bèn" đụng 1 trận chiến khác, khủng khiếp
chẳng kém: Văn chương!
Câu phán, "You only need to be alive", trong
"Borges, Tám Bó", Borges cho biết,
là của 1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có
thể nói, câu phán “chỉ cần còn
sống”, quả đúng là 1 cái bad luck
cho toàn 1 cõi văn chương Ngụy, trước 1975,
không phải cho "những người đã chết đều có
thực", như Y Uyên, mà cho chính những kẻ
mà chúng cần "to be alive"
Đúng cái
ý vị thân hữu:
Since then, at an uncertain hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale is told
This heart within me burns. (1)
Coleridge, The Rime of the Ancient Mariner.
Tháng
Tám 1941, Zweig và vợ tới Brésil, ở Rio vài
tuần lễ, sau đó về ở ẩn tại Pétropolis, trên những
triền cao ngó xuống Rio, từ 17 Tháng Chín. Tại
đây, ông viết Người Chơi Cờ (Le Joueur d’échecs),
Montaigne, Thế Giới Hôm Qua. Tinh thần ông ngày
càng suy sụp. Cuộc chiến khốc liệt, và nhất là cuộc
tấn công Trân Châu Cảng làm ông càng
thêm bi quan. 1941, trong khi
tham dự lễ hội tại Rio, được tin Singapour thất thủ, choáng
váng, Zweig và vợ trở về Petropolis thu xếp hậu sự,
rồi cùng tự tử, vào ngày 23 tháng Hai,
1942.
Những độc giả say mê Võ Phiến, những
tác phẩm đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm
Cuối Năm, Thác Đổ Sau Nhà... chắc chắn là
nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân vật của Võ
Phiến, đều như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ,
và khi đã hoàn hồn, có vẻ như nhờm tởm thế
nhân: cô gái trong Thác Đổ Sau Nhà,
sau gặp lại người tình của một đêm, đã ngạc nhiên
không thể tưởng tượng được tại sao mình lại đã có
lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần
đến như thế! (Vì không có văn bản trong tay, tôi
viết lại theo trí nhớ, ở đây là những cảm giác
còn giữ được, khi đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không
hiểu đọc lại, những chi tiết có đúng, và cảm nghĩ
có thay đổi hay không).
Những nhân vật tiểu thuyết hiện đại đều bước
ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập
lại, với những nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ
Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông
đã đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu
1945, Bình Định, và một Võ Phiến bị cầm tù
giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác
gì ông B. (không hiểu khi bị bắt trong vụ chống
đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt
vàng những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù
lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có
một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái
trong một căn lều, giữa rừng, cách biệt với thế giới loài
người, có một cái gì thật quen thuộc với đối thủ
của ông B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô
học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là kẻ thù nào
cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh
mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai
ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật
câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan.Bởi vì
nhà vô địch là một người không thể viết một câu
cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô
văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào
kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng
tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch với ông
B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ được dồn nén
vào trong một ván cờ!
Hãy so sánh với sự thất bại của hầu hết những
nhân vật của Võ Phiến, trước cuộc đời: những ông
Ba Đồng Thời, Bốn Thôi...
Mấy bữa nay, dân mê đá banh, được thưởng
thức cú sút thần sầu của cầu thủ Pháp Giroud,
của Arsenal, và báo chí Tây Phương gọi,
đây là cú “bò cạp”.
Nhảm!
Đúng là đòn Thần Long Bãi Vĩ,
rồng thần quẫy đuôi,
1 trong Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất
Công của Kim Dung
"Và
cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ
học, là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là
của những gì phân tích được”(Đỗ Long Vân). Đây là
một khẳng định rất dễ gây tranh luận, vì nó đối
nghịch với quan niệm “thông thường”, khi cho rằng thơ là
để “cảm nhận”: Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương
khói đó, đâu phải là để… phân tích!
Nên nhớ, cơ cấu luận là từ toán học
mà ra. Người ta không thể nói về nó mà
không khởi từ toán học, theo tính cách lịch
sử cũng như lô gíc của vấn đề. Lévi-Strauss chẳng
hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của ông
từ môn đại số đại cương (algèbre générale).
Cho nên, từ định lý “cái nên
thơ… của những gì phân tích được”, chúng
ta có thể có được một hệ luận, là: “Cái gì
có thể phân tích được, là thơ.”
[Trích Vô
Kỵ giữa chúng ta]
Ta có
mệnh đề: Nếu f(a) = f(b) suy ra: a = b Thì mệnh
đề tương đương của nó là:
Nếu a khác b suy ra f(a) khác f(b).
Em xin nêu 1 ví
dụ:
Cái gì đẹp thì
lạ nhưng cái gì lạ thường không đẹp.
Tương tự câu - muốn tiến lên CNXH cần có
con người XHCN
sẽ đưa đến hậu quả là:
Nếu (VN) không có
con người XHCN thì (VN) không có CNXH
Thực tế đã cho thấy không bao giờ có
con người XHCN nên CS đã bị tổ trác trên
toàn thế giới.
Kính anh. Nếu có điều chỉ giáo xin
anh cứ mạnh tay.
SCD
Vậy hệ luận mà anh nêu
trên sẽ viết là: Cái gì không
thể phân tích được không phải là thơ [GCC tô đậm]
Phúc đáp.
Bài viết bên lề
tác phẩm Vô Kỵ giữa
chúng ta của DLV, thực sự mà nói, chỉ là
bản nháp. Đọc 1 khúc, thì lại viết 1 khúc,
thế rồi nhân có dịp, bèn in, chưa có dịp
hoàn chỉnh.
Bài viết này đã từng được 1 website
về chưởng Kim Dung type và post, và Gấu đã có
mail, cho biết tình trạng như trên, và mấy vị chủ
trương website cho biết, cứ post đã, sau có bản hoàn
chỉnh, sẽ lại post tiếp!
Hà, hà!
Và cái câu
phán của mấy vị này, cũng có thể dùng
để nói về.. cơ cấu luận: Có 1 cái gì đó
chưa hoàn chỉnh về lý thuyết văn học này.
Tuy nhiên, 1 định luật toán học có
phần đảo, phần thuận, phải đúng cả hai, thì mới coi
là định lý được. Những góc vuông thì
đều bằng nhau, nhưng những góc bằng nhau đâu “nhất thiết,
bắt buộc” phải là… góc vuông!
Hệ luận mà bạn đưa ra,
theo tôi, giống như thế, “những góc bằng nhau thì
đều là góc vuông”
Chủ nghĩa CS thì cũng y chang: Mít sẽ xây
cái nhà to tổ bố, sau cuộc chiến Mít, nhưng nhà
đâu chẳng thấy, mà hầu hết dân Mít thì
đều mất nhà!
Thân
NQT
Thư tín
Monday, October 22, 2012 9:27
PM
Chào bác, là
một độc giả của Tin văn tôi muốn góp ý về một
cách dịch trong bài này
Câu sau:
She believed that contradiction "experienced right to the
depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross."
Bác dịch là:
Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm
những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người
là một cõi xé lòng, và, đây
là Thập Giá”.
Theo tôi nên dịch:
Bà tin rằng, mâu thuẫn "được nghiệm ra ở tận
những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, chính là
cõi xé lòng, là Thập Giá”.
Phúc đáp:
Câu của TV không sát nguyên tác,
so với câu của bạn.
Tks, many Tks
NQT
Tuyệt.
Đọc kỹ đến như thế thì quả là đại vạn hạnh
cho TV!
Note:
To QTT: Bài
này, tôi dịch, lâu rồi. Khi bạn hỏi, đọc lại, nhớ
ra liền, là, ngay khi dịch xong câu văn, tôi đã
nhìn ra độ lệch, so với nguyên tác, nhưng thú
thực, câu văn dịch đọc nhịp nhàng hơn, và tôi
muốn giữ, không dịch lại.
Nhưng bạn, đọc, mà nhận ra độ lệch, cũng thật là
thú vị.
Tks again.
Take care
NQT
Đầu năm gõ Tin
Văn, ra cái mẩu trên.
Thêm giai thoại sau đây, của Borges, trong 1
bài giảng, trong cuốn Thầy Borges, về Stevenson.
But speaking about Stevenson, I have forgotten
something very important, which is Stevenson's poetry. There are
many nostalgic poems, and there is a short poem called "Requiem."
This poem, if translated literally, would not be very impressive.
The sense of the poem is more in its intonation.The literal meaning is not very impressive, as is
the case with all good poems.
Nghĩa của bài thơ thì ở cái
giọng, cái âm điệu của nó.
Nghĩa đen thì chẳng ghê gớm, ấn tượng chi, như
tất cả những bài thơ hay!
Tuyệt!
It reads like this:
Under the wide and starry sky,
Dig the grave and let me lie.
Glad did I live and gladly die,
And I laid me down with a will.
This be the verse you grave for me; Here he lies where he longed to be;
Home is the sailor, home from sea,
And the hunter home from the hill.
Bajo el vasto y estrellado cielo,
Cavad la tumba y dejadme yacer ahi.
Viv í con alegmía y muero con alegría,
Y me he acostado a descansar con ganas .
Sea éste el verso que ustedes graben
para mi:
Aquí yace donde quería yacer;
Ha vuelto el marinero, ha vuelto del mar,
Y el cazador ha vuelto de la colina.
In English the lines vibrate like a
sword, the sharp sounds predominate from the very first line, with
the triple alliteration at the end of the last line. It is not written
in the Scottish dialect, but one can hear the Scottish music. Then
there are, in Stevenson's work, love poems, poems dedicated to his wife.
There is one in which he compares God to a craftsman
and says that He has made her to suit him like a sword. Then,
he has poems about friendship, poems about landscapes, poems in which he
describes the Pacific Ocean, and others in which he describes Edinburgh.
Those poems are more pathetic because he writes about Edinburgh, about Scotland
and its Highlands, knowing that he will never return there, that he is
condemned to die in the Pacific.
Bạn có nghĩ, độ lệch của câu dịch của Gấu, hợp
với Gấu, như.... cây gươm?
Xạo tổ cha!
Võ
Phiến phán, không có thơ dịch, là đúng
như vậy.
Thơ dịch là thứ thơ mà dịch giả đợp hết thịt,
thí cho độc giả cục xương!
Ông cũng không tin có thứ thơ trí
tuệ!
Một trong những bài điểm sách
mà Gấu nhớ đời, khi mới vào làng văn,
là bài viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT cuối tuần của
nhật báo Tiền Tuyến, của quân đội VNCH, thời gian
TTT phụ trách, sau ông chán, thảy
qua thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới
chết, thằng em trai của Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân
chừng 1 năm. Trong đầu toàn hình ảnh chết chóc,
Gấu phán, bạn chỉ cần sống sót, vì sau
đó, bạn "bèn" đụng 1 trận chiến khác, khủng
khiếp chẳng kém: Văn chương!
Câu phán, "You only need to be alive", trong
"Borges, Tám Bó", Borges cho biết, là
của 1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu
phán “chỉ cần còn sống”, quả đúng là
1 cái bad luck cho toàn 1 cõi văn chương
Ngụy, trước 1975, không phải cho "những người đã
chết đều có thực", như Y Uyên, mà cho chính
những kẻ mà chúng cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân
hữu:
Walter
Benjamin mở ra bài viết của ông: Đọc được
nhiều, nhưng biết về ông - Walser - chẳng bao nhiêu.
Làm biếng viết, và viết, thì cũng
khó định nghĩa, khó nắm bắt.
Tin Văn
sẽ post bài viết của Walter Benjamin và,
cùng bài viết của Sebald, chúng
ta sẽ làm 1 cú tribute, gửi tới nhà
văn, từ giã thế giới này, ở lề đường, sau
khi trốn ra khỏi nhà thương tâm thần.
(1)
Vưỡn giọng nhỏ? Sebald giải thích, "clairvoyant
of the small".
Was Walser a great writer? If one is reluctant
to call him great, said Canetti, that is only because nothing
could be more alien to him than greatness. In a late poem Walser
wrote:
I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much,
and
To say nothing, just about nothing.
Walser, nhà văn nhớn?
Nếu có người nào đó,
gọi ông ta là nhà văn nhớn, 1 cách
ngần ngại, thì đó là vì cái
từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser, như Canetti viết.
Như trong 1 bài thơ muộn của mình,
Walser viết:
Tớ đếch muốn thằng chó nào
như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm về tớ,
hoặc mong muốn là tớ
Một mình tớ, chỉ độc nhất tớ, chịu khốn
khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm đủ thứ,
và
Đếch nói gì, về bất cứ
cái gì
[Dịch hơi bị THNM. Nhưng quái
làm sao, lại nhớ tới lời chúc SN/GCC của K!]
Walser được hiểu như là 1 cái
link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,”
Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì
đúng là Kafka [như được hậu thế hiểu], qua lăng kính
của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những người
đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này
thuổng Walser [một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi
những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig.
Benjamin, và Kafka; đúng ra, Walser, trong
đời của mình, được biết nhiều hơn, so với Kafka, hay Benjamin.
W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur
Solitaire,” offers the following biographical information
concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere was he
able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions.
He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece
of furniture, and as far as clothes are concerned, at most one
good suit and one less so…. He did not, I believe, even own the
books that he had written.” Sebald goes on to ask, “How is one to understand
an author who was so beset by shadows … who created humorous sketches
from pure despair, who almost always wrote the same thing and yet
never repeated himself, whose prose has the tendency to dissolve upon
reading, so that only a few hours la
ter one can barely remember the ephemeral
figures, events and things of which it spoke.”
BBT Tribute
Nhớ, lần HC vừa nằm xuống, thay vì ai điếu,
Gấu đi 1 đường cà khịa, và được K. nhắc nhở, chờ
ít bữa không được sao?
Chờ ít bữa, mất mẹ hứng, làm sao
viết?
Trường hợp nhà biếm gia số 1 Mít
vừa mới mất, khi sinh thời ông đi, không chỉ 1, mà
tới 2, ai điếu về NQT.
Nhưng thay vì NQT/GCC thì là
1 vị sĩ quan cùng tên, bạn của ông.
Có điều, ông cố tình nhập nhằng
đến nỗi bạn bè của Gấu phải phôn, hỏi ông.
Và chăng cũng chuyện
nhỏ, chẳng đáng nhắc tới, và những gì cần
nhắc, Gấu đã viết rồi, ngay từ khi ông còn sống.
Tuy nhiên, nhân ông mất, và
nhân đọc bài viết trên tờ Harper's về lần
Steiner, thì cũng 1 biếm gia, được gặp cha đẻ ra bom nguyên
tử, để xin việc làm, và xém 1 chút bị
đá ra khỏi văn phòng, bèn post ra đây,
thay cho lời ai điếu BBT, của TV.
Vụ này, sự thực, Steiner đã kể ra
rồi, trong lần trả lời phỏng vấn của tờ The Paris Review, trên
TV có giới thiệu.
[Reminiscence]
DESTROYER OF WORDS
From an interview with the philosopher
George Steiner that was conducted in 2014 by Laure Adler, a journalist.
The interview appears in A Long Saturday, which will be published
in March by the University of Chicago Press. Steiner is the author
of more than two dozen books. Translated from the French by Teresa
Lavender Fagan.
The Economist sent me across
the Atlantic to cover the debate on American atomic power: was
the United States going to share its nuclear knowledge with Europe?
Under Eisenhower, the Americans decided they wouldn't. It wasn't
a given; there was still hope that there would be true collaboration.
So I went to Princeton, a wonderful, unreal little town, to interview].
Robert Oppenheimer, the father of the atomic bomb. He had a pathological
hatred of journalists, but said, "I'll give you ten minutes." Oppenheimer
had set our meeting for noon. He didn't come. So I had lunch with George
Kennan, the diplomat of diplomats; Erwin Panofsky, the leading art historian
at the time; and Harold Cherniss, the great Hellenist and Plato specialist.
Afterward, while I was waiting for the taxi that was
to pick me up a half hour later, Cherniss invited me to his office, and
as we were talking, Oppenheimer came in and sat behind us. It was the
ideal trap: if the people you're talking to can't see you, they feel
paralyzed, and you become master of the situation. Oppenheimer was a
genius at this sort of theatrical maneuvering. He was a man who inspired
spine-chilling fear; it's quite difficult to describe. I once heard
him say to a young physicist, "You are so young and you have already
done so little!" After comments like that, you could only hang yourself.
Cherniss was showing me a passage
from Plato that he was editing, which included a lacuna; he was
trying to fill it in. When Oppenheimer asked me what I would do with
that passage, I began stammering. Then he added, ''A great text should
have some empty space." I said to myself, "Hey, you've nothing to
lose, your taxi will be here in fifteen minutes." And so I replied,
"That's a pompous cliché. First, your statement is a quote
from Mallarrné, Second, it's the type of paradox you can play
with ad infinitum. But when you're trying to prepare an edition of
Plato for the common mortal, it's better that the empty spaces be filled."
Oppenheimer responded superbly: "No, in philosophy especially it is
the implicit that stimulates argument." He was enjoying our exchange
immensely, he whom no one ever dared to contradict. We had a real discussion
on the subject. Then Oppenheimer's secretary ran in and announced, "Mr.
Steiner's taxi is about to leave!" I was going on to Washington for my
reporting assignment. At the door this extraordinary man asked me,
as one might speak to a dog,
"You're married?"
"Yes."
"You have children?"
"No."
"Great. That will make it easier
to find lodging."
That's how he invited me to the
Institute for Advanced Study at Princeton, as the first young
humanist.
Note: Sự thực, đọc
những người viết, thứ Bắc Kỳ di cư, như Kiều Phong, Thương Sinh, Công
Tử Hà Đông, BBT... luôn cả Gấu trong đó,
thì Gấu nhớ tới cái còm của O., 1 trong 2 vị được
coi như "hộ pháp" cho TV ngay từ lúc mới có
được ít lâu. Không có hai vị này, Tin
Văn chắc là đầy lỗi, sạn, thì chỉ nhắc tới thứ vụn vặn
đó, trước, cái còn lại, cái "hồn nhân
hậu" của trang viết, chưa nói tới, để viết sau, nếu chưa chết.
Trong cả 1 lũ viết như thế, đều có chung
1 văn phong, cực kỳ độc, đểu, mất dậy.... Bắc Kỳ xỏ lá ba
que.
Những người khác, trong đó, không
nói, riêng Gấu, Gấu rất tởm, và cả 1 đời,
cố tìm cách "wash" theo cái nghĩa mà
Milosz đã viết ra rồi .
To Wash
At the end of his life, a poet
thinks: I have plunged into so many of the obsessions and
stupid ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub
and scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because
of that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps
the Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.
Một nhà thơ của thế kỷ
20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá,
bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông
thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết,
và ông ngộ ra, số phận của ông là như
vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế
đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó,
và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.
Người ta đã nói
nhiều về những tội ác của chế độ cộng sản. Ít ai
cho biết, tôi đã tởm chế độ đó đến mức như thế
nào. Câu chuyện sau đây là của nhà
văn, nhà thơ lưu vong người Balan, Czeslaw Milosz, Nobel văn
chương 1980, trong tác phẩm Milosz's ABC's.
Disgust
Józef Czapski là
người kể cho tôi [Milosz] câu chuyện sau đây,
xẩy ra trong thời kỳ Cách Mạng Nga.
Tại một tiệm ăn ở một ga xe lửa, có một
thực khách, qua cách ăn mặc, dáng điệu,
cho thấy đây là người thuộc tàn dư chế độ,
tức tầng lớp trí thức thời tiền 1975. Ông ta
đang ngồi ăn tối ở... Quán Chùa. Sự hiện diện,
cách ăn mặc, ăn nói theo kiểu tàn dư chế độ như
thế của ông khiến một đám vệ binh đỏ [chữ của Milosz:
đám du đãng] trong tiệm ăn để ý. Chúng
kéo tới bàn ông, và bắt đầu diễu cợt,
xỉ vả, bầy đủ trò khốn kiếp. Ông tàn dư chế độ
cố coi như không, vẫn thản nhiên từ tốn ngồi ăn. Tới mức
chúng nhổ nước miếng vào dĩa xúp. Ông
tàn dư không tìm cách chống cự, hay là
tự bảo vệ lấy thân, và cũng chẳng có ý
định xua đuổi đám khốn kiếp. Chuyện cứ thế xẩy ra trong một
khoảng thời gian....
Bất thình lình,
ông tàn dư bèn đứng dậy, rút khẩu súng
lục từ trong túi ra, và đưa ngay mõm súng
vào trong mõm mình, và đoàng
một phát.
Hiển nhiên, mức tởm lợm
tràn quá ly. Chẳng nghi ngờ chi, ông ta
là một thứ người mảnh mai, được giáo dục, dậy dỗ,
và trưởng thành trong một môi trường mà
một con người như thế dư sức sống, và sống thật là đầy
đủ cái phần đời của mình mà Thượng Đế cho phép,
nghĩa là được bảo vệ để tránh xa khỏi thực tại tàn
bạo được tầng lớp hạ lưu chấp nhận như là lẽ đương nhiên
ở đời.
Nếu không, Thượng Đế đâu
có đẩy ông ta vào thế gian này?
Cám ơn
01/31/13 at 10:32 PM
Mấy bữa nay bác viết hay
ghê – hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
08/30/12 at 9:11 PM
Khong sao!
Subject: Re: Tham
Sorry
NQT
Thì ông chồng tôi
cũng bắc kỳ vậy… đoạn bác viết về Sến-Ngô
Bảo Châu, bác khinh không chừa một ai ngoài
Bắc!
Tôi là Bắc Kỳ mà.
All My Best Wishes to U and Family
NQT
Trời ơi, sao bác miệt
thị người Bắc dữ vậy, bác thù tới tận xương
tủy, bác làm tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách
Sáng Thế (Cựu Ước) ông Abraham mặc cả với Chúa,
nếu tìm ra được một người tốt trong thành phố
Sodome-Gomorrhe thì xin Chúa tha cho thành phố
khỏi bị hủy – nhưng không tìm ra được một ai...
nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng
mạn» quá, cứ mong chờ có một cú
ngoạn mục của các nhân tài.
Nhờ làm trang
TV mà quen được
hai vị [O & K], quả là không uổng quãng đời lưu
vong!
López Lecube:
Khi nào ông thực sự cảm thấy bronca?
Borges: Từ đó nặng quá!
LOPEZ LECUBE: When precisely do you feel that bronca?
(1)
BORGES: No, bronca is too strong a word.
LOPEZ LECUBE: You never feel bronca?
BORGES: I don't know, bronca is lunfardo
for anger isn't it? I don't know, no, not anger, sometimes I feel
deflated, but that's natural, and at my age ... old age is a form
of deflation too, but why be angry about it? It's no one's fault.
(1) A slang word for "frustration" or "anger."
Bài thơ nào của ông mà ông
cực khoái? Tại sao? Bài bảnh về ông?...
Borges: Tớ đếch khoái thơ của tớ về tớ. Tớ khoái
bài sonnet của tớ về Spinoza. Tớ viết hai sonnets về ông
ta, có 1 dòng như vầy, Một người đàn ông
sáng tạo ra Chúa ở trong bóng tối, người đàn
ông đó, là Spinoza, who engenders God, his God, made
of an infinite substance whose tributes will be infinite.
Nếu bi giờ chúng ta đang ở thư viện của ông,
bài thơ nào ông muốn tôi đọc cho ông
nghe?
Bài của Robert Frost
trưa qua viết được một đoạn cho tiểu
thuyết mới (tạm đặt tên là ‘mía’. mía cũng
là tên của nhân vật xưng tôi). trước khi bắt
tay vào viết tiểu thuyết mía, tôi tự nhủ là
hãy giảm bớt tính/tình dục (mấy cuốn tiểu thuyết
trước tôi cũng tự nhủ như vậy), nhưng trưa nay đọc lại đoạn viết
về món ‘hàu của tháng giêng” viết trưa qua
tôi lại thấy thấm đẫm, nồng nàn da thịt. nó làm
tôi nhớ tới cuốn sách x...
Vấn đề không hẳn đúng
như cả hai vị Thế Uyên & TV đặt ra.
Viết về sex rất khó, theo GCC. Viết không tới
là nó biến thành dơ, tục.
Khó hơn viết về tình yêu, bởi vì
viết về sex, là độc giả không chỉ mê bướm mà
còn mê cái đầu của người nữ nữa, vẫn theo Gấu.
Và, [lại] thuổng Brodsky. Có cái gọi
là đạo hạnh, rất cần nó, khi viết về sex, và
cái này nằm ở trong nội lực của nhà văn.
Vị Thế Uyên này, ngay từ trước 1975, Gấu đọc,
là đã không chịu nổi. Và, rõ ràng
là, sau 1975, đi tù VC ông ta thuộc bài
lắm, viết tự kiểm thuộc loại tổ sư.
Ông ta và bà con của ông ta, là
Duy Lam, đi 1 đường viết chung 1 tập truyện ngắn, chôm mẹ cái
tít của TTT, “nỗi chết không rời”.
Cứ tỉnh bơ như người Hà Nội.
Vị TV này, do Gấu được kết bạn FB, và nhờ thế,
có đọc lai rai, và có ý nghĩ, văn của bà
không chỉ về tính dục.
Có cái gì sai ở đây, như trường
hợp “nhà có cửa khóa trái”: Do được ngài
tiên chỉ khen, thế là hỏng luôn cả 1 đời văn!
http://harpers.org/
Tờ Harper’s số mới 200 th issue, Jan
2017, Tin Văn đã chôm bài viết về Modiano,
nhà văn trẻ kiếm tiếng nói của mình. Nay đi
thêm vài đường,
nhân dịp đầu năm dương lịch. Cái hồi nhớ của Steiner, cái
essay về nhà văn sao hay tự làm thịt mình,
và cái truyện ngắn của Isaac Bashevis Singer, Cửa
sổ nhìn ra thế giới.
Tay này, bị Bà Huệ, Gió O, tố,
nhờ Mafia Do Thái mà được Nobel văn chương.
Không chỉ Bà Huệ, mà Milosz cũng
tố, ưa xài đòn sex quá, và, quả có
1 chiến dịch bên lề hành lang nhằm ảnh hưởng lên
Uỷ Ban Nobel. Tuy nhiên, ông là 1 trong những
tác giả đầu tiên Gấu làm quen, khi ra được hải
ngoại. Ông viết nhiều, có nhiều truyện thần sầu, Linda
Lê cũng đã từng giới thiệu. Đầu năm đi 1 đường truyện
ngắn, chắc cũng “có ní”.
UN DYBBUK AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Singer và thế thân của ông
Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris chào
mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện cổ gần gũi với
"những bậc thầy vô ngã, vô tên của quá
khứ, những nhà văn lớn lao giống như tất cả mọi người, và
chẳng giống một người nào, bởi vì họ biến thành
những con người nói bằng bụng, thay vì bằng miệng, và
những nhân vật đa dạng, những hộp cộng hưởng, cho mọi thứ tiếng
tơ đồng, của cõi sống."
Như con quỉ cuối cùng, trong một truyện ngụ
ngôn của mình, sống bằng cách gậm nhấm một
cuốn sách cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát,
bằng một thứ ngôn ngữ Mường Mán], Singer là một
meshugah, một tên khùng, sống sót bằng cách,
rút ra từ những huyền thoại Do Thái, và những
kỷ niệm về một thế giới đã qua, lý do hiện hữu của mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm 1935, khi đó
ông 31 tuổi, ông viết bằng tiếng yiddish, và
cộng tác trong việc dịch chúng qua tiếng Anh. Ông
muốn viết bằng một ngôn ngữ chết, mà sự biến mất của
nó báo hiệu sự suy tàn của nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là một
thứ dybbuk, một bóng ma, nhìn, và không
ai nhìn thấy được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong, không
phải theo kiểu Do Thái, mà là một thứ lưu
vong đụng tới con người, và nhất là, con người-nhà
văn đương thời", Claudio Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra, bằng một nỗi buồn nhuốm
mầu thần bí, tính sống động, và cơn chao đảo,
của một thế giới chìm xuồng.
retour aux classiques
par Linda Lê
UN DYBBUK AMOUREUX
Isaac Bashevis Singer et son
alter ego
Dans L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris saluait
en Isaac Bashevis Singer un conteur proche de ces “grands écrivains
impersonnels et anonymes du passé, qui ressemblent à
tout le monde et à personne parce qu'ils se font les ventriloques
indifférents des vies et des personnages les plus divers, et
les caisses de résonance impartiales de toutes les cordes du
vivre”. À la manière du dernier démon d’une de
ses paraboles, qui se nourrit en rongeant un vieux livre de contes
yiddish, Singer était un meshugah, un fou qui survivait en tirant
des légendes juives et des souvenirs du monde d'hier sa raison
d'être.
Exilé aux Etats- Unis en 1935- il avait 31 ans
-, il composait ses textes en yiddish, et collaborait à leur
traduction en anglais. Il déclarait avoir conscience d'écrire
dans une langue morte, dont la disparition annonce le déclin
des arts. L'écrivain yiddish pour lui est une sorte de dybbuk,
de spectre, qui voit mais n’est pas vu. Auteur prolifique, “poète
de l'exil, pas seulement des Juifs mais de l'exil existentiel qui touche
l'homme et surtout l'écrivain contemporain”, disait encore
Claudio Magris, Singer s'est attaché à dépeindre,
avec une mélancolie teintée de mysticisme, la vitalité
et le chaos d'un univers qui a sombré.
Le jeune Arele Greidinger, le narrateur de Shosha et
l'alter ego romanesque de Singer, affirme sans ambages que le
monde est un abattoir et un bordel. Fils de rabbin, tout comme Singer
lui-même, et tout comme ce dernier lecteur de Weininger et
de Spinoza, Arele se fraye un chemin dans la Varsovie de l'entre-deux-guerres:
it écrit une pièce ou l'héroine tombe amoureuse
de son dybbuk - on reconnait là l'ébauche de ce qui sera
La Corne du belier de Singer. Une actrice américaine et un ancien
charpentier qui a fait fortune se proposent de le lancer. L'aventure
tourne court avant même d'être sur les rails. Loin de ce microcosme,
qui prend de plus en plus conscience de la menace hitlerienne et se
tourne vers Staline avant d'ouvrir les yeux sur la terreur qui règne
au paradis bolchevique, Shosha, une femme enfant, un peu retardée,
répresente l'innocence perdue. Arele poursuit son rêve,
refuse de partir pour New York, et choisit de s'installer auprès
de cette étrange créature, à peine capable de comprendre
ce qu'il écrit.
Fourmillant de personnages qui traversent la scène
comme des evadés impatients de tout connaitre avant l'effondrement
de ce à quoi ils ont cru, ce roman, qui développe un
chapitre d'un livre autobiographique de Singer, Un jour de plaisir,
est autant un chant d'amour qu'un kaddish pour les morts auxquels Singer
offre un tombeau de papier.
Shosha
Isaac Bashevis Singer
Trad. de l'anglais par Marie-Pierre Bay et Jacqueline
Chnéour Ed. Stock, 380 p.,19 €.
Le Magazine Littéraire, Mai, 2007
Some writers begin to write
with talent, quickly earn a reputation among readers and critics,
and then are suddenly silenced forever. We had two such men at the Yiddish
Writers’ Club in Warsaw. One, Menahem Roshbom, had managed, before
he was thirty, to publish three novels. The other, Zimmel Hesheles,
had at the age of twenty-three written one long poem. Both got enthusiastic
reviews in the Yiddish press. But then, as the saying goes, their
literary wombs closed up and never opened again.
Roshbom was already in his fifties and Hesheles in
his late forties when I became a member of the Writers’ Club. Both
were considered good chess players. I often saw them playing together.
Menahem Roshbom was always humming a tune, swaying, grimacing, and
trying to pluck out the remaining few hairs from his salt-and-pepper
goatee. He would raise his thumb and forefinger as if to move a piece,
and then pull them back as if they had been singed. It was said that he
was a better player than Hesheles, but toward the end of the game he inevitably
lost his patience. Menahem Roshbom was a chain-smoker. His fingers and
nails were stained yellow, and he suffered from a chronic cough. It was
said that he smoked even while asleep. He was tall, emaciated, wrinkled,
stooped. After he stopped writing fiction, he had taken to journalism
and had become the head feuilletonist at one of the two Warsaw Yiddish
newspapers. Although he was sick and it was said that he was consumptive,
he carried on with women, mainly actresses from the Yiddish theater.
He had in his lifetime divorced three wives, and the children of all
his three wives came to him for money. His steady mistress was the wife
of a Yiddish actor. It was never determined why her husband allowed her
to be with Roshbom. I often heard it said that Roshbom deplored being too
clever, too cynical. Frequently in his conversations, and even in his
articles, he belittled the value of literature and the delusions of immortality.
He had never allowed himself to be honored at a banquet. If someone called
him a writer, Roshbom responded: “Maybe at one time . . . ”
What is a self
but that which fights the cold?
Xứ Bắc Kít
Gấu đọc Tô Hoài
rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước
Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần
rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói,
là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại
trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực,
nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái
nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là
cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Ui chao, liệu ba thứ chiến lợi phẩm,
"Bắc Kít nhận hàng", mang bad luck đến, cho, không
chỉ xứ Bắc Kít?
Đọc, thì Gấu lại nhớ đến 1 câu chuyện
khoa học giả tưởng, hình như do Đặng Trần Huân dịch,
giới thiệu.
Giống người chinh phục 1 hành tinh. Đến 1 phát,
là chém, là giết, là hiếp, vô
tư, thoải mái.
Chẳng phải đợi 30 năm, mà đâu chỉ vài
ngày, là xong.
Bữa đó, sáng ngủ dậy, đếch tên
nào thèm dậy.
Hoá ra ở hành tinh này, chết,
là 1 thứ Devil's bad luck!
Milosz viết về vụ Singer đợp
Nobel: Không xứng so với Chaim Grade.
GRADE, Chaim. The
Nobel Prize for Isaac Bashevis Singer was cause for violent controversies
among Yiddish-speaking New York Jews. Grade was of much better background
than Singer; in America, it's best to come from Wilno, worse to come
from Warsaw, and worst of all from Galicia. Above all, however, in the
opinion of the majority of the disputants, he was a much better writer
than Singer, but little translated into English, which is why the members
of the Swedish Academy had no access to his writings. Singer gained
fame, according to this opinion, by dishonest means.Obsessively
concerned with sex, he created his own world of Polish Jews which had nothing
in common with reality-erotic, fantastic, filled with apparitions, spirits,
and dybbuks, as if that had been the quotidian reality of Jewish towns.
Grade was a real writer, faithful to the reality he described, and he
deserved the Nobel Prize.
Wilno was an important center
of Jewish culture-not just a local center, but on a world scale.
Yiddish was the dominant language there, and literature in that language
had its main support in Wilno, along with New York, as the number of
peridicals and books published there demonstrates. The city was better
off before World War I, when it belonged to Russia and profited from its
position as a key railroad junction and trading center. This came to
an end when the city was transferred to little Poland, although in terms
of culture, the interwar period was a time of blossoming. Something of
the vitality of past years, especially 1905-1914, also continued. Political
parties that had been founded in tsarist Russia were still active, with
their prime concern the needs of workers and a socialist revolution-most
important of all, the Bund, a separate Jewish socialist party, which wanted
to be a movement of Yiddish-speaking workers. It was a counterpart of sorts
to the Polish Socialist Party, which, however, since it was considered
to be exclusively Polish, had relatively few adherents in the city. It would
not be accurate to link the creation of the Jewish Historical Institute
with the Bund, and yet in its aim of preserving the cultural heritage
of the cities and small towns where Yiddish was used in daily life, one
can detect the spirit of the Bund. The Communists were rivals of the Bund
and grew stronger with the years; in 1939, they apparently had a majority
of followers. Both these parties, in turn, were at war with the Zionists
and the Orthodox.
This Jewish Wilno recognized
the attractiveness of Russian culture, but was separated from Soviet
Russia by the state border. The border was quite close, however, and
this produced a phenomenon peculiar to Wilno. Many young people, dreaming
of taking part in the "building of socialism," crossed the eastern
border without appropriate documents, enthusiastically ensuring their
near and dear ones that they would write from there. No one ever heard
from any of them again. They were sent straight to the Gulag.
Chaim Grade belonged to the group
of young poets called Yung Vilne. In addition to Abraham Sutzkever, I remember
the name Kaczerginski. The attitude of this group toward the older generation,
somewhat like Zagary's, inclined us to make an alliance with them. We were
exactly the same age, and their "Young Wilno" used to come to our readings.
The poet Grade was a descendant
of an officer in Napoleon's army named Grade, who, wounded, and nursed
back to health by a Jewish family in Wilno, married into it and converted
to Judaism. Chaim's mother, who was very poor, was a street peddler
whose entire stock fit into a basket. Grade devoted many moving pages
of his oeuvre to that pious, hardworking, good woman. She appears against
the background of a milieu which followed all the religious customs,
and whose common characteristic was extreme poverty.
Chaim's youth in Wilno did not
pass without political and personal conflicts. His father, Rabbi
Shlomo Mordechai, an addvocate of Hebrew and a Zionist, who held strong
convictions and was not much inclined to compromise, engaged in heated
arguments with the conservative rabbis. He raised his son to be a pious
Jew. Chaim's later history shows that he remained faithful to Judaism,
in contrast to the emancipated Singer. As a poet, Chaim quickly achieved
recognition and local fame, but he was distinguished from the majority
of young people who read Marx and sang revolutionary songs. The Communists'
attempts at attracting him to their side were not successful, and Grade
became the object of violent attacks. Worse yet, he fell in love with Frumme-Liebe,
who was also the daughter of a rabbi and from a family of Zionists who
emigrated to Palestine. His Communist colleagues tried in vain to interfere
with their marriage.
These details can be found in
his four-hundred-page novel memoir called, in English translation,
My Mother'sSabbath Days.
There he tells in detail about his wartime experiences, beginning
with the entry of Soviet troops into the city. His friends' enthusiasm
contrasted with the stony sadness of the crowd at the mass in the Wilno
cathedral, where he went out of compassion. The chaos of the German invasion
in June 1941 separated him from his beloved wife. They were supposed
to meet a couple of days later, but he never saw her again. She died,
as did his mother, in the Wilno ghetto. A wave of fleeing refugees carried
him to the East. After many peripatetic (once, they wanted to shoot him
as a German spy) he made his way to Tashkent. After the war, he emigrated
to New York. He always writes about the Russians with love and respect.
He insists that he never encountered any signs of anti-Semitism in Russia.
His colleagues from the Yung
Vilne group, Sutzkever and Kaczerginski, were in the ghetto and then
joined the Soviet partisan troops. Sutzkever wound up in Israel, where
he edited the only quarterly devoted to poetry in the dying language
of Yiddish, Di Goldene Keyt (The Golden Chain).
In America, the poet Chaim Grade
developed into a prose writer, and like Singer, who attempted to
recover the vanished world of the Jewish towns of Poland, he immersed
himself in the past, writing about the shtetls of Lithuania and Belorussia.
Singer engaged in fantasy and offended many of his readers; Grade was
attentive to the accuracy of the details he recorded and has been compared
with Balzac or Dickens. His main theme appears to be the life of the
religious community, which he knows well, especially the problems of
families in which the wife works to earn money and the husband pores
over holy books. One collection of novellas is even called Rabbis and Wives.
I became interested in Grade
thanks to my contact with his second wife, his widow. After his death
in 1982 (he was seventy-two years old), she began energetically promoting
his work and collaborating with his English translators.
Nhà
văn Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn,
để làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình
đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn
cung tần mỹ nữ, và hàng lô con cháu.
Chẳng muốn bỏ đứa nào!
Ông
sinh năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ năm 1935, và một thời gian
làm ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward,
tại New York City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi
như nhà văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất
của "trường" văn chương Iddish. Vĩ đại hơn, ông là nhà
văn Iddish đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch ra
tiếng Anh, rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một trong
số những dịch giả truyện của mình, với ông, tiếng Anh còn
là ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông thú nhận,
ông viết bằng tiếng Iddhish, vì đây là "tử ngữ',
và truyện của ông là để cho những người đã
chết, đọc.
Trong Nhà
Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan
đã tiên đoán, văn tài của ông
sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau. Có thể mượn
nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít: tùy
bút của Nguyễn Tuân quả đã "không thể
vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, đã "di
truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn
ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn,
Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết. Ở đó,
chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông
đẩy tới tột cùng, biến thành lòng nhân
hậu.
Một trong những bài điểm sách mà
Gấu nhớ đời, khi mới vào làng văn, là bài
viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT cuối tuần của nhật
báo Tiền Tuyến, của quân đội VNCH, thời gian TTT phụ
trách, sau ông chán, thảy
qua thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới chết, thằng
em trai của Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân chừng 1 năm.
Trong đầu toàn hình ảnh chết chóc, Gấu phán,
bạn chỉ cần sống sót, vì sau đó, bạn "bèn"
đụng 1 trận chiến khác, khủng khiếp chẳng kém: Văn
chương!
Câu phán, "You only need to be alive", trong
"Borges, Tám Bó", Borges cho biết, là của 1
bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu phán
“chỉ cần còn sống”, quả đúng là 1 cái
bad luck cho toàn 1 cõi văn chương Ngụy, trước 1975,
không phải cho "những người đã chết đều có thực",
như Y Uyên, mà cho chính những kẻ mà chúng
cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân hữu:
Hardy
never said much about writing or the difficulties of it, or the
moral difficulties of it. Kafka said that a writer was doing the
devil's work, writing a wholly inadequate response to the brutishness
of the world, and Hardy increasingly felt this. It's not that it's
an immoral activity or an amoral one; it's just that the act of creation
is something to which the ordinary standards of human behavior do not
apply. Hardy never liked to be touched. He always walked in the road
to avoid brushing against people, and servants were told never to help
him on with his coat and just to drop the shawl around his shoulders and
not tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle for life
- and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue with
the moon.
Hardy chẳng hề lầu bầu về viết, hay những khó
khăn về viết, hay khó khăn đạo đức của nó. Kafka
phán nhà văn làm, việc của quỉ, viết trọn một
phúc đáp không thoả đáng về tính
thú vật của thế giới, và Hardy càng ngày
càng cảm thấy đúng như thế. Nó không phải
là 1 hành động đạo đức, hay không đạo đức, mà
cái hành động sáng tạo có 1 điều gì
mà lũ chó, hay phường mắt trắng dã, không
hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái ai đụng vô ông
ta. Cây viết là vũ khí của ông ta, trong
cuộc chiến đấu với đời – và quả có cuộc chiến đấu đó
thực.
Christmas: 1924
'Peace upon earth!' was said. We sing
it,
And pay a million priests to bring
it.
After two thousand years of mass
We've got as far as poison-gas.
Hardy had given up writing novels in 1896 after the hostile
reception of Jude the Obscure, a copy of which, it's particularly worth
noting today, was burned publicly by a bishop. He had written poetry
all his life and now devoted himself exclusively to it. I suspect that
it was what Virginia Woolf called the 'architecting' of novels that no
longer appealed to him. Poetry has it over the novel in that it uses fewer
words. You can do more with less. He did, though, write one huge poem -
The Dynasts, about the Napoleonic wars. Some of it is windy and sprawling,
but Hardy was nothing if not down to earth (it's part of his fascination
with graves). Here is a section about the night before Waterloo, but not
about the common soldiers as Shakespeare might have done it, but the common
creatures, disturbed by the preparations for the coming battle.
Đọc bài viết, rồi đọc còm,
Gấu bỗng nhớ tới một câu chuyện của Borges, có cái
tít như Gấu còn nhớ được, có ý nghĩa như
vầy:
Bữa nay, ăn cơm chiều có món gà gô
này, lại chỉ có một mình... Gấu!
Gấu đọc truyện, từ hồi còn ở trong nước,
sau 1975, trên một tờ báo Sài Gòn. Ra
hải ngoại cứ lâu lâu lại nhớ đến nó, lại cứ tự
bảo mình, bữa nào phải tìm cho ra nguyên
tác, dịch Borges chơi!
Thời gian này, ông bạn nhà thơ Joseph
Huỳnh Văn còn sống, và Gấu tình cờ còn
vớ được một bài thơ của Borges, bản tiếng Tây, bèn
dịch chơi, lại dịch chơi, đưa cho bạn đọc, bạn thú quá,
khen rầm trời, mi học trường Mít mà sao rành
tiếng Tây hơn thằng em tao, Tú tài Tây!
Cũng không nhớ bài thơ ra sao, chỉ đại khái,
đây là một bài thơ viết về hạnh phúc.
Truyện của Borges là về một ông quan
còm, chiều hôm đó, đến thăm một nhà huyền
thuật, nhờ ông bùa phép, sao cho được cái
ghế cao hơn, là chức trưởng huyện. Đang ngồi nói chuyện,
thì người làm bưng lên món gà gô,
và hỏi ông chủ, dọn cơm hai người, chủ và khách
cùng chơi con gà gô này chăng. Chủ lắc đầu,
nói, khoan đã, khoan đã. Người làm lại bưng
con gà gô xuống bếp.
Đúng lúc đó, thì có
người nhà ông quan còm hối hả chạy đến báo
tin, tay trưởng huyện nhậu say quá, té xuống muơng chết
rồi, và mọi người đang tìm kiếm ông quan còm
để ban cho cái chức kế vị ông vừa ngỏm. Nhà huyền
thuật bèn nói, may quá, vậy khỏi làm bùa
phép, nhưng xin ông cho thằng cháu của tôi
cái chức quan còm mà ông vừa bỏ nhé?
Ông quan còm lắc đầu, chức đó, tôi
dành cho tên đệ tử ruột rồi.
Ông quan còm về nhà, làm
chức trưởng huyện đâu được hai tuần, thấy bổng lộc ít
quá, bèn sai nhân viên đánh xe yết
kiến nhà huyền thuật, xin chức cao hơn.
Câu chuyện lập lại y chang, cho tới lúc,
ông quan còm từ giã thế giới ảo giác,
trở về với chức quan còm, thẹn quá, không chờ ăn
gà gô, bỏ đi một mách.
Thế là nhà huyền thuật đành
kêu người nhà dọn cơm, lẩm bẩm, lại chỉ có một
mình mình với con gà gô!
Truyện trên, có vẻ như Borges trước
tác để tặng dân Mít chúng ta.
Đại tác phẩm Mít mà viết về anh VC
phản gián, bị đồng bọn VC phản thùng cho ăn bom Mẽo,
thì nỗi đau Mậu Thân Mít "Huệ" làm sao giải
tỏa cho được? Viết về em "đừng đốt, đừng đốt!", thì lại thiếu cái
em "một ngàn giọt lệ", viết về đỉnh cao chói lọi, nhà
tiên tri, ngọn cờ đầu của văn chương viễn tưởng Mít, mà
thiếu cái khúc "đỉnh cao" nhẫn tâm để cho chúng
làm thịt vợ, dẫn mẹ nó đứa con trai đi trao cho thằng khác
nuôi, đổi họ đổi tên cho mất luôn giống Bác, thì
cũng đếch được!
Chán thật!
Chưa có đại tác phẩm mà đã cãi
nhau như mổ bò rồi!
Gấu, chiều nay, lại ăn gà gô một mình,
đọc đỡ đại tác phẩm của mấy anh mũi lõ vậy!
*
Phải nói rằng Việt Nam chưa có một đại tác
phẩm nào – trong tiểu thuyết cũng như phim ảnh – có
thể sánh với nỗi trầm kha thống khổ và dai dẳng của một
dân tộc bất hạnh.
NKTA
Ra điều
kiện như anh ký quèn này, ‘tác phẩm lớn
của Mít phải xứng đáng với nỗi trầm kha của dân Mít’,
là ‘hỏng cẳng’, bởi vì có quá nhiều nỗi
thống khổ của dân Mít, chính chúng choảng
lẫn nhau, khổ thế.
Giả như chúng không choảng lẫn nhau, thì
vẫn hỏng cẳng. Bởi vì tác phẩm lớn có khi không
cần nói tới cái nỗi thống khổ, mà nói về
cái nhà ‘dởm’, to lớn đàng hoàng hơn trước,
mà dân Mít không thể biến thành thực,
hay nói về một số phận những kẻ không còn là
Mít nữa, nhưng bố mẹ của chúng ngày nào
là Mít…. Ui chao, khó quá, cứ như đụng vô
nan đề ‘nhà văn không là nhà đại phê
bình, không là nhà thầy giáo tiến
sĩ, không là nhà chính trị về nước hai lần
đều bị chúng đếch cho về!’
Hà, hà!
Nói rằng VN chưa có đại tác phẩm, e
cũng sai.
Bởi vì, có thể coi, một số tác phẩm,
tuy không đại, nhưng cũng tàm tàm được. Thí
dụ, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện dài Nỗi Buồn
Chiến Tranh của Bảo Ninh, hoặc những truyện ngắn của TTT, truyện dài
Bếp Lửa, cũng của ông…
Không thể so chúng với những Chiến Tranh và
Hòa Bình, tất nhiên. Bởi vì những đại
tác phẩm như thế, chúng ta chưa từng nghĩ tới, và
có khi, cũng chẳng cần nghĩ tới!
*
Nói đến đại tác phẩm mà bỏ qua Bóng
đêm thì quả là nhảm, đại nhảm!
Nhờ nó mà Âu Châu không
bị nhuộm đỏ!
Nó
cho thấy, một tác phẩm văn học phải là một tác
phẩm chính trị, phải cưu mang trong nó niềm quan hoài
tới số mệnh của con người, tương lai của nhân loại, trong cái
thế đứng đương thời của tác giả, và có thể, của
độc giả, khi đọc nó.
Lạ, là hai cuốn
tiểu thuyết, một, của TTT, Bếp Lửa, và một, của Bảo Ninh,
Nỗi Buồn Chiến Tranh, chúng như kế tiếp nhau, nói về
xứ Bắc Kít, Hà Nội, và những đứa con của nó,
và những cuộc phiêu lưu của chúng. Điều này giải
thích tại sao TTT mê Malraux: nhân vật Tâm,
trong BL, vẽ ra cuộc
Note: Truyện gà gô, có
trong cuốn trên. GCC sẽ scan và post liền.
Bài thơ Hạnh Phúc, có trên Tin
Văn, thủng thẳng lục hầu quí vị độc giả TV.
Lần đầu, dịch, còn Xề Gòn, là từ bản tiếng Tây. Khoe & tặng
Joseph Huỳnh Văn, bạn cảm động lắm, vẫn còn nhớ!
Happiness
Whoever embraces a woman is
Adam. The woman is Eve. Everything happens for
the first time. I saw something white in
the sky. They tell me it is the moon, but what can I do with a word
and a mythology. Trees frighten me a little.
They are so beautiful. The calm animals come closer
so that I may tell them their names. The books in the library
have no letters. They spring forth when I open them. Leafing through the atlas
I project the shape of Sumatra. Whoever lights a match
in the dark is inventing fire. Inside the mirror an Other
waits in ambush. Whoever looks at the ocean
sees England. Whoever utters a line of
Liliencron has entered into battle. I have dreamed Carthage
and the legions that destroyed Carthage. I have dreamed the sword
and the scale. Praised be the love wherein
there is no possessor and no possessed, but both surrender. Praised be the nightmare,
which reveals to us that we have the power to create hell. Whoever goes down to a
river goes down to the Ganges. Whoever looks at an hourglass
sees the dissolution of an empire. Whoever plays with a dagger
foretells the death of Caesar. Whoever dreams is every
human being. In the desert I saw the
young Sphinx, which has just been sculpted. There is nothing else so
ancient under the sun. Everything happens for
the first time, but in a way that is eternal. Whoever reads my words
is inventing them.
Hạnh Phúc
Bất cứ 1 tên đực rựa nào
ôm một em, thì hắn ta là Adam.
Em là Eve.
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu tiên, thoạt kỳ thuỷ.
Tớ nhìn một cái gì trắng trên
bầu trời.
Họ biểu tớ đó là mặt trăng, nhưng tớ làm
gì với một từ và môn thần thoại học
Những cái cây làm tớ sợ tí tí.
Chúng mới đẹp làm sao.
Những con thú tới gần hơn, và tớ có
thể nói cho chúng biết, tên của chúng
Những cuốn sách ở trong thư viện không có
chữ.
Khi tớ mở, thì chúng mới nhẩy bổ ra.
Đảo qua bàn thờ, tớ phóng chiếu hình
dáng của Sumatra.
Bất cứ kẻ nào bật que diêm trong đêm,
kẻ đó phát minh ra lửa.
Bên trong tấm gương, một tên Gấu Khác
rình rập.
Bất cứ kẻ nào nhìn biển, kẻ đó thấy
Ăng Lê.
Bất cứ kẻ nào bật lên một tiếng, Ngụy, kẻ đó
gây ra cuộc chiến Mít!
[Hà, hà, dịch loạn quá, trúng
tùm lum tà la!]
Tớ mơ thấy Sài Gòn, và những binh đoàn
VC Bắc Kít tàn phá Sài Gòn
Hãy tấn phong Tình Yêu, một khi mà
chẳng có kẻ thắng cũng như người bại, nhưng cả hai đều đầu
hàng.
Hãy tấn phong ác mộng, nó bật mí
cho chúng ta, rằng chúng ta làm đếch gì
có quyền năng để xây lên Hỏa Ngục Đỏ.
Bất cứ kẻ nào xuống 1 con sông, là sông
đó, Mekong, và
tên đó, Gấu!
Bất cứ kẻ nào nhìn cái đồng hồ cát,
là kẻ đó nhìn thấy đế quốc VC đang trên
đà hủy diệt.
Bất cứ kẻ nào chơi với dao, là kẻ đó
tiên tri cái chết của Xê Da.
Bất cứ kẻ nào mơ, thì kẻ đó là
mọi con người
Ở sa mạc, tớ nhìn thấy con Nhân Sư: Vừa mới
được khắc, tạc!
Chẳng có cái chó gì là
“xưa rồi Diễm ơi” ở dưới ánh mặt trời!
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu, nhưng, theo đường hướng được
gọi là thiên thu, vĩnh viễn
Bất cứ vị độc giả nào đang đọc TV, là đang
viết những dòng này.
Có hai nhà văn
nữ mà tôi đọc dồn dập trong một đoạn đời đọc và
đời sống của mình. Người thứ nhất là Patricia Highsmith.
Người thứ hai là Alice Munro.
Gần chục tác phẩm của
Patricia Highsmith tôi đọc trong hai năm, từ sáu giờ
rưỡi đến bảy giờ rưỡi sáng. Hàng ngày con trai
tôi tập võ buổi sáng từ sáu giờ đến bảy giờ
ở sân vận động gần nhà. Tôi đánh thức con,
đưa đi, về chuẩn bị bữa sáng và trong khi chờ chàng
võ sĩ hoàn thành nghi thức mở đầu một ngày
rồi tắm rửa, ăn sáng và nhảy chân sáo đến
trường, tôi có thời gian cho vài chục trang tiểu
thuyết. Tôi thường kể lại những tình tiết vừa đọc và
nêu thắc mắc. Chàng thường bình luận, mẹ đừng lo,
sáng mai vào giờ này chúng ta sẽ khôn
hơn. Cuối tuần và những ngày dưới 5 độ âm, thầy trò
nhà Thiếu Lâm nghỉ, sách của Patricia Highsmith dừng
theo. Rồi dừng hẳn, khi chàng trai vẫn quá bé bỏng
của tôi nhất định thấy mình đủ lớn để không cần mẹ
tháp tùng.
Tác giả/tác phẩm
ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt.
Như… Sến,em gặp ông già rậm
râu là mê liền, năm em 13 tuổi!
Trong nhật ký, em coi Dos, là "Thầy", và
coi Tội Ác là
1 cuốn tiểu thuyết suspense, trinh thám nghẹt thở.
Thomas Mann phán, Tội Ác là
một trong những cuốn tiểu thuyết trinh thám lớn lao nhất của
mọi thời.
Cuốn trứ danh của Pat, Những kẻ lạ trên tàu,
Strangers on a Train, là
từ Tội Ác mà ra. Em
phán: "Tôi có ý nghĩ của riêng tôi
về nghệ thuật, và nó như vầy: điều mà hầu hết
mọi người coi là kỳ quặc, thiếu tính phổ cập, fantastic,
lacking in universality, thì tôi coi là cực yếu tính,
the utmost essence, của sự thực."
Tzvetan Todorov, khi viết về sự quái dị trong văn
chương, đã cho thấy, bằng cách nào tiểu thuyết
trinh thám hiện đại đã thay thế truyện ma quỉ của quá
khứ, và những nhận định của ông áp dụng rất OK
với tiểu thuyết của Pat: “căn cước gẫy vụn, bể nát, những biên
giới giữa cá nhân và môi trường chung quanh
bị phá vỡ, sự mù mờ, lấp lửng giữa thực tại bên ngoài
và ý thức bên trong”, đó là những yếu
tố thiết yếu làm nền cho những đề tài quái dị.
GCC biết đến Patricia Highsmith
qua phim Plein Soleil, Alain Delon đóng vai
Mr. Ripley. Thời còn Sài Gòn. Còn đi học,
hoặc mới đi làm.
Sau đó, mò coi truyện.
Mua Eleven, do đọc bài giới thiệu
của Grahm Greene.
Truyện trinh thám của
PH, theo GCC "khủng" hơn hết, so với các tác giả khác,
đúng như Greene viết, bà tạo ra 1 thế giới của riêng
bà, mỗi lần chúng ta mò vô, là một
lần thấy ơn ớn.
Trong cuốn tiểu sử của bà, Cái bóng xinh đẹp, Beautiful
shadow, người viết trích dẫn 1 câu trong nhật
ký của bà, và là 1 câu trích
dẫn Kierkegaard:
Mỗi cá nhân con người thì có
nhiều cái bóng tạo thành những nếp gấp, tất cả
những cái bóng đó thì giống người đó,
và thi thoảng, có 1 cái bèn chiếm luôn
chỗ của người đó.
Nguyên văn câu tiếng Anh, khác 1 tí,
so với câu của GCC:
"The individual has manifold shadows, all of which resemble
him, and from time to time have equal claim to be the man himself."
Kierkegaard, quoted in Highsmith’s 1949 journal
Miss Highsmith
is a crime novelist whose books one can reread many times. There are
very few of whom one can say that. She is a writer who has created
a world of her own - a world claustrophobic and irrational which we enter
each time with a sense of personal danger, with the head half turned over
the shoulder, even with a certain reluctance, for these are cruel pleasures
we are going to experience, until somewhere about the third chapter the
frontier is closed behind us, we cannot retreat, we are doomed to live
till the story's end with another of her long series of wanted men.
GG
Foreword by Grallam Greene
Miss Highsmith is a crime novelist
whose books one can reread many times. There are very few of whom
one can say that. She is a writer who has created a world of her own
- a world claustrophobic and irrational which we enter each time with
a sense of personal danger, with the head half turned over the shoulder,
even with a certain reluctance, for these are cruel pleasures we are going
to experience, until somewhere about the third chapter the frontier is
closed behind us, we cannot retreat, we are doomed to live till the story's
end with another of her long series of wanted men.
It makes the tension worse that we are never sure whether
even the worst of them, like the talented Mr Ripley, won't get away
with it or that the relatively innocent won't suffer like the blunderer
Walter on the relatively guilty escape altogether like Sydney Bartleby
in A. Suspension of Mercy. This is a world without moral endings. It has
nothing in common with the heroic world of her peers, Hammett and Chandler,
and her detectives (sometimes monsters of cruelty like the American Lieutenant
Corby of The Blunderer or dull sympathetic rational characters like the
British Inspector Brockway) have nothing in common with the romantic and
disillusioned private eyes who will always, we know, triumph finally over
evil and see that justice is done, even though they may have to send a mistress
to the chair.
Nothing is certain when we have crossed this
frontier. It is not the world as we once believed
we knew it, but it is frighteningly more real to us than the house
next door. Actions arc sudden and impromptu and the motives sometimes
so inexplicable that we simply have to accept them on trust. I believe
because it is impossible. Her characters are irrational, and they
leap to life in their very lack of reason; suddenly we realize how
unbelievably rational most fictional characters are as they lead their
lives from A to Z, like commuters always taking the same train. The motives
of these characters are never inexplicable because they are so drearily
obvious. The characters are as Hat as a mathematical symbol. We accepted
them as real once, but when we look back at them from Miss Highsmith's
side of the frontier, we realize that our world was not really as rational
as all that. Suddenly with a sense of fear we think, 'Perhaps I really
belong here,' and going out into
the familiar street we pass with a shiver of apprehension the offices
of the American Express, the centre, for so many of Miss Highsmith's
dubious men, of their rootless European experience, where letters are
to be picked up (though the name on the envelope is probably false) and
travellers' cheques are to be cashed (with a forged signature) .
Miss Highsmith's short stories do not let us down, though
we may be able sometimes to brush them off more easily because of their
brevity. We haven't lived with them long enough to be totally absorbed.
Miss Highsmith is the poet of apprehension rather than fear. Fear
after a time, as we all learned in the blitz, is narcotic, it can lull
one by fatigue into sleep, but apprehension nags at the nerves gently
and inescapably. We have to learn to live with it. Miss Highsmith's finest
novel to my mind is The Tremor of Forgery,
and if I were to be asked what it is about I would reply, 'Apprehension'.
In her short stories Miss Highsmith has naturally to adopt
a different method. She is after the quick kill rather than the slow
encirclement of the reader, and how admirably and with what field-craft
she hunts us down. Some of these stories were written twenty years
ago, before her first novel, Strangers on a Train, but we have no sense that she
is learning her craft by false starts, by trial and error. 'The Heroine',
published nearly a quarter of a century ago, is as much a study
of apprehension as her last novel. We can feel how dangerous (and
irrational) the young nurse is from her first interview. We want to
cry to the parents, 'Get rid of her before it's too late'.
My own favourite in this collection is the story 'When
the Fleet Was In at Mobile' with the moving horror of its close here
is Miss Highsmith at her claustrophobic best. 'The Terrapin', a late
Highsmith, is a cruel story of childhood which can bear comparison
with Saki's masterpiece, 'Sredni Vashtar', and for pure physical horror,
which is an emotion rarely evoked by Miss Highsmith, 'The Snail-Watcher'
would be hard to beat.
Mr Knoppert has the same attitude to his snails as Miss
Highsmith to human beings. He watches them with the same emotionless
curiosity as Miss Highsmith watches the talented Mr Ripley:
Mr Knoppert had wandered into the kitchen
one evening for a bite of something before dinner, and had happened
to notice that a couple of snails in the china bowl on the draining
board were behaving very oddly. Standing more or less on their tails,
they were weaving before each other for all the world like a pair of snakes
hypnotized by a flute player. A moment later, their faces came together
in a kiss of voluptuous intensity. Mr Knoppert bent closer and studied
them from all angles. Something else was happening: a protuberance like
an ear was appearing on the right side of the head of both snails. His instinct
told him that he was watching a sexual activity of some sort.
Trong
lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng,
ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước
ban cho nhiệm vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ,
ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki,
nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài.
Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc
cách mạng Nga.
"Hình
ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra
Vịnh Phần Lan.
Vài
tuần trước đó, con tầu phà Estonia đã
chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó
hàng ngàn người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế
chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù.
Cả hai cùng đồng ý, đó là hình
ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Nhưng hình ảnh khởi đầu?
Sự cứu rỗi
cuối cùng Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga là
cái chết của Rasputin, qua bình chọn
của tay cựu mật vụ KGB. (1) Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng
Mùa Thu, của dân Mít, có lần Gấu đề nghị,
là cái chết của Đỗ Đức Phin, dưới tay nhà thơ,
nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao. Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ sau
đó. Liệu
hình ảnh 'đám mây khói' bay lên
kia, tiên tri cái chết của… VC?
Trong quá
khứ một đời người, đã từng đam mê mớ chữ, và
đã từng đọc đi đọc lại Chùa Đàn, Gấu cứ
tiếc hùi hụi, giá mà đừng có Mưỡu Cuối.
Cứ kể như là Trời Đất từ nay xa cách mãi, Cô
Tơ chỉ còn một việc cầu kinh giải oan, cho chỉ một tri âm
tri kỷ là Bá Nhỡ; Lãnh Út đi làm
cách mạng, làm tên khủng bố, và cứ thế
biệt tích giang hồ, chẳng ai thèm nhớ tới nữa; còn
cái anh chàng kể chuyện, nhân vật xưng tôi,
cứ lo việc kể chuyện, và độc giả của anh cứ tiếp tục đọc, hoặc
tiếp tục bắt chước anh ta, và viết, và - "Những người khác
có thể làm thành một cuốn sách" (Gide), chỉ
cần một câu văn là mở ra cả một cuốn tiểu thuyết - "bạn đọc
thân mến của tôi ơi", bạn có thể trở thành một
trong những độc giả-tác giả, bởi vì câu văn mở đầu
Chùa Đàn quả là một câu văn tiên tri, mở
ra trước tiên là những trại tù ở miền bắc, và
sau đó, nền văn học ở hải ngoại:
“Bị phát vãng lên đường ngược,
ở một tỉnh phía tây Bắc Bộ vào những năm
khủng bố [cải tạo]..."
Chỉ tới mãi sau này,"cùng
với cả nước", Gấu mới hiểu được sự thừa thãi "có
ích" của mưỡu cuối, của những "cần kíp lắm rồi, hãy
vứt ngay cái mõ, hãy không kịp để cho
mớ tóc mọc lại...".
Nhà thơ Auden đã có lần viết
về chuyện thơ ca bị dùng làm trò phù
thuỷ, "mắc mớ gì tới thi sĩ, ông ta/bà ta làm
sao ngăn cấm được chuyện đó". Áp dụng nhận xét
trên vào trường hợp Nguyễn Tuân, vào Mưỡu
Cuối mới thấy, lịch sử "cà chớn", "đểu giả" thật: bởi vì,
cứ giả sử như Cô Tơ phụ tình tri kỷ Bá Nhỡ, nhập
thế trở lại, cầm lại cây đàn ma quái (chủ nghĩa
Cộng Sản?), và, hát bài Nối Vòng Tay Lớn,
rồi sau đó, xuống thuyền vượt biển, thì... tếu thật!
Còn nhớ, một lần, bên ly cà
phê sữa, cái bánh croissant, nhâm nhi
một buổi sáng Sài Gòn tại Quán Chùa,
nhân nói tới Nguyễn Tuân, và những tác
giả như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... ông anh nhà thơ gật
gù cảm khái, tôi nhớ đại khái, như vầy:
mấy ông ấy đã có thời may mắn "gặp" Nguyễn Tuân.
Sơ Dạ Hương
Nhớ, hình như Vũ Hạnh có truyện Bút
Máu, kể câu chuyện 1 nhà thơ, vị trí
giống như Nguyễn Tuân, sau 1954 ở xứ Bắc Kít. Nhân
dân bị Đảng kìm kẹp quá bèn làm
sớ dâng lên Thượng Đế, Ngài bèn phái
Thiên Sứ Sến xuống điều tra. Thấy chỗ nào cũng khắc
thơ văn Nguyễn Tuân, bèn dùng Ipad ghi lại, đem
về trình. Đọc, Người phán, thơ văn bảnh như thế này,
ca ngợi chế độ như thế này, làm sao lại nói là
kìm kẹp được. Một chế độ kìm kẹp không thể có
1 nhà văn nhà thơ như NT!
Đấy, là tội ác của NT sau 1954.
Một mình ông ta, và cây
ba tong, biện minh cho cả 1 Cái Ác Bắc Kít!
Moi, je traine le fardeau de la
faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội
ác và hình phạt, Par-delà le crime
et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái
Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Tolstaya viết:
Trong thời Stalin, như tôi biết, xã
hội Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo,
bèn trở thành tàn bạo, bị cái độc,
cái ác ăn tới xương tới tuỷ, và bèn
sướng điên lên, bởi tình cảm, ý nghĩ,
rằng, mọi chuyện đều được phép, và bèn hủy diệt
mọi thứ mà nó coi là “ngoại nhập”: kẻ thù,
nhóm, dân tộc thiểu số, mọi thứ có tí
ti khác biệt với nhân dân chúng ta, cái
thường ngày ở xứ Bắc Kít. Lúc đầu thì thấy
đơn giản, và có tí tếu, hài: lũ trưởng
giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà vạt, đeo kiếng, đọc sách,
có vẻ có tí học vấn…. nhưng dần dần của khôn
người khó, kẻ thù cạn dần, thế là xã hội
quay cái ác vào chính nó, tự huỷ
diệt chính nó. Nếu không có sự trợ giúp
phổ thông, đại trà của nhân dân, Stalin và
những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không thể sống
dai đến như thế. Thiên tài của tên đao phủ, vỗ ngực
xưng tên, phô trương chính nó, bằng khả năng
cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám đông,
khôn khéo thao túng đường đi nước bước, biết, ai sẽ
là món hors d’oeuvre, ai là món chính,
ai sẽ để lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà
Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu thì không
phải chỉ là tên đao phủ, nhưng mà là
tất cả bầy cừu cùng cộng tác với hắn, đứa thêm
mắm, đứa thêm muối, thêm tí bột ngọt, cho món
thịt của cả lũ.
Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest, bản nhìn
lại, a reassessment, do Oxford University Press xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn
hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21,
với cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không
có nó, là không có Gấu Cà
Chớn. Không có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như
1 tên Bắc Kít, nhà quê, may mắn được
ra Hà Nội học, nhờ 1 bà cô là Me Tây,
rồi được di cư vào Nam, rồi được đi tù VC, rồi được
qua Thái Lan... là để được đọc bài viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài
điểm sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái
chi đâu. Có thể nói, cả cái quá
khứ của Gấu ở Miền Bắc, và Miền Bắc - không phải Liên
Xô - xuất hiện, qua bài viết.
Khủng khiếp thật!
Có 1 thằng, như GCC, 1 mình nó
gánh cả gánh nặng Cái Ác Bắc Kít,
thì có 1 vì như NT, 1 mình ta, với
cây ba tong, đủ biện minh cho Cái Ác Bắc Kít!
Những lời Tolstaya
phán, trên đây, và sau đây, về dân
Nga, áp dụng y chang vào xứ Bắc Kít:
Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình
cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ
được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ
Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên
trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải
do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ
những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga,
dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau.
Chính cái phần Á-châu man rợ
đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không
có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không
thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời
đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Vẹm từ lúc ra đời, cho đến tận bây giờ, quả
đúng là hiện thân của Cái Ác Bắc
Kít.
Chúng giết sạch những ai dám chống lại chúng,
kể từ Một Mùa Thu năm qua Cách Mạng tiến ra, 1945!
Tôi thích Nguyễn Tuân
từ ngày đọc Chữ người tử tù. Tôi yêu
lối văn như khắc của anh mà các nhà
văn Tự lực văn đoàn không viết được. Tôi
tập viết theo lối văn ấy trong bài Người bạn mùa
hè đăng trên báo Bạn đường số mùa
hè năm 1942 với bút danh Ngọc Phan. Dĩ nhiên
một cậu bé 15 - 16 tuổi chỉ có thể viết kiểu kỹ
thuật về mấy chú chuồn chuồn chú hay đuổi bắt các
buổi trưa hè.
Note: Qua Blog NL, Gấu biết bài
viết này. Bệ về, tính sau.
Nguyễn Tuân, 1 cách
nào đó, là Thầy của Gấu Cà Chớn,
như những gì viết về ông trên Tin Văn cho
thấy.
Cái đoạn Gấu viết về NT mà
thực sự về Gấu, nhớ là, Nguyễn Mộng Giác quá
mê, và thú thực, ông sáng
tác bằng [phong cách viết, thuổng chữ của Phan Ngọc]
Tạp Ghi. Tôi không viết được như thế.
NMG cực bảnh ở chỗ này. Hơn hẳn mấy đấng bạn
quí của Gấu. Chưa đấng nào mở miệng khen
Gấu, dù nửa lời.
Thời gian Gấu viết cho NMG, nổi quá, đến nỗi NMG viết
trong Thư Tòa Soạn,
đếch thèm xin quảng cáo nữa. Còn NXH thì
ra lệnh mày không được viết cho thằng Giác
nữa. Người nghĩ Gấu viết chùa, như cho Văn! [Mấy cái
này, là lập lại nhũng gì đã viết
trên Tin Văn, từ khi NXH còn sống. NQT]
Với "Chữ Người Tử Tù",
Gấu còn viết thêm 1 đoạn kết khác cho
nó, y chang cái tay làm phim Quái
Đản, đưa ra 1 cái kết thần sầu cho cái truyện ngắn
về anh chàng cụt tai "hôi chi".
Cái tay Phan Ngọc này, nếu
đọc bài viết này về Nguyễn Tuân thôi,
mà lại đọc loáng thoáng, thì Gấu
suy ra, không phải 1 tay viết sáng tác, [cũng
như Nhị Linh, Gấu không tin bạn này sau trở thành
nhà văn được, ba cái “tiện bút” khó
mà thành văn chương!]
Nói thẳng ra, Nguyễn Tuân
là thầy dạy viết văn. Chứng cớ ư, hằng hà:
Mai Thảo, Vũ Khắc khoan đều trở thành nhà văn,
nhờ có 1 lần trong đời được gặp Nguyễn Tuân, và
sau đó, viết hoài còn hoài.
Đây là Thanh Tâm
Tuyền nói với Gấu, 1 lần ở Quán Chùa,
khi hai anh em lèm bèm về Mai Thảo. Ông
anh phán, "thẳng
chả" độc thân, và những tên độc thân
thường có quái tật, dị hợm, rất khó chịu– nhớ đại khái, trong cuộc
sống thường ngày, nhưng Mai Thảo. không.
Trúc Chi cũng học trò
Nguyễn Tuân.
Cái gì đặc Nguyễn Tuân?
Bắc Kít đặc.
Những câu văn khủng khiếp của
NT là những câu rất ư bình thường,
đọc, mà chỉ thấy những “khắc, khắc” là chỉ từ
“thua đến bị thương”, từ bị thương đến "lâm tử, lâm
chung" - từ này cũng mới thuổng của 1 tay dịch Simic, trên
trang Gió O, hình như vậy.
Bốn mươi ba năm cầm bút
của anh sau cách mạng là bốn mươi ba năm tin yêu.
Các nhà văn Liên Xô đã nói
đúng anh là "bậc thầy của ngôn từ nghệ thuật",
một bậc thầy của thế kỷ này. Văn học cách mạng Việt
Nam có quyền tự hào đã tạo nên được Nguyễn
Tuân. Sự nghiệp ấy, ngay hôm nay, ta đã biết nó
là bất tử.
Phan Ngọc
Note: Viết về NT như thế này, là
làm nhục ông. Vậy mà NL khen được, quái
đản thật. NT, đời của ông từ lúc VC chiếm được
Xứ Bắc Kít, là kể như hết, bỏ đi. Gấu đã viết
về ông như thế rồi. Đây không phải vấn đề chiến
tuyến. NQT
Trong Nhà
Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc
Phan đã tiên đoán, văn tài của
ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau. Có
thể mượn nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít:
tùy bút của Nguyễn Tuân quả đã "không
thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, đã
"di truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn
ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn,
Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết. Ở đó,
chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của
ông đẩy tới tột cùng, biến thành lòng
nhân hậu.
Cảnh Huấn
Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang
nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác
mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như
thế này phải tìm đất khác để mà tụ lại): chẳng
đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh,
ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực. Khó
mà thấy cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn
Tuân, ở trong những
trang tùy bút tuyệt vời như Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn...
kể cả sau này, trong những bài ký thời chống Mỹ cứu
nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống)
nhiều, tài hoa, lòng nhân hậu của ông càng
hao mòn dần...
[Note: Đọc lại,
câu văn trên bị ngược nghĩa, đúng ra như
vầy: Khó mà thấy cõi lõng nhân
hậu đó, của NT, chỉ có ở trong....
nhất là sau này, trong.... Sorry, NQT]
Chữ người
tử tù: lý tưởng một đời người, ý nghĩa của chữ. Trên
đỉnh non Tản: hiện thực huyền ảo. Non Tản: Cái
nôi, chốn hành hương, cội rễ nhà trời,
nơi trời Việt, đất Việt gặp gỡ...
Cá
nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải
nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé"
đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia
đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người
bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ
giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên
ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé
đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những
trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái
Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình
(chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một
chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo,
ném theo mãi, xuống lòng huyệt...
Nhận xét
của họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân,
không ngờ đầy chất tiên tri. Những bài
viết của ông sau này, là ký, không
còn là tuỳ bút.
Với tuỳ bút,
cái "tôi" rất quan trọng. Cá nhân
người viết, khi đọc "Những essays hay nhất trong năm của
Mỹ", The Best American Essays, thấy chúng rất giống
thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất hồi tưởng,
và nhất là ở tấm lòng của người viết, khi
chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập Những bài
essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ, có một đặc biệt:
mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một tác
giả làm "guest editor", thường là những khuôn
mặt "đang lên": Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag...
Gần đây nhất là Jamica Kincaid (1995), Geoffrey C. Ward
(1996).
Tuyển tập
1997, với Ian Frazier lo việc in ấn và viết lời giới thiệu, có
bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We
Are All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng
ta được biết, bà là một nhà văn, và nghệ sĩ
trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt Nam, lớn lên
tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía tây
Massachusetts. Đã từng đoạt giải thưởng 1997 Bridge Residency của
Headlands Center for the Arts. Văn xuôi và thơ của bà
đã xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper's Magazine,
và Muae. Tác phẩm trình diễn: "Red Fiery Summer"
và "the bodies between us". Hiện đang viết cuốn sách
với nhan đề nêu trên, sẽ do Knopf xb.
Đọc Gã
Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, chúng
ta sẽ thấy hậu quả của cuộc chiến đè nặng lên
những nhân vật trong truyện, và thật khó
mà nghĩ rằng, nó đã chấm dứt, không
phải với chúng ta, mà với những thế hệ tiếp theo.
Câu chuyện bắt đầu bằng một tấm hình đen trắng:
Việt Nam là một tấm hình đen trắng, chụp ông
bà tôi ngồi trên những chiếc ghế tre... Khi nhìn
bức hình ông bà tôi, ở những năm cuối
đời của họ, tôi cứ muờng tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu
cho cái gì, và ở đâu, tôi không
biết, nhưng luôn luôn là một sự khởi đầu...
Ký ức của bà mẹ truyền lại cho người con (nhân
vật xưng tôi): Mẹ tôi có nghe một câu
chuyện về một cô gái bị chết vì bom na-pan,
khi xuống bãi dúng chân vào nước cho mát.
Người ta kiếm thấy cô nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Chất
lân tinh của trái bom trùm lên thân
thể cô, khiến nó lập lòe như một ngọn đèn...
Trên
nói tiên tri, đối với cả thể văn tùy
bút, lẫn con người Nguyễn Tuân. Một cách
nào đó, khi ông phải "từ chối" tác
phẩm (Những tác phẩm viết trước cách mạng như
Tàn Đèn Dầu lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt
Cua, hoặc sau đó, như Phở chẳng hạn), tôi
nghĩ, có thể ông tin rằng, tuy ông bị ở lại,
nhưng thể văn tuỳ bút, và con người Nguyễn Tuân
ở trong đó, đã "vượt thoát". Đã sống sót,
ở một số nhà văn sau ông. Thí dụ như Vũ Khắc
Khoan, Mai Thảo... Có điều, cả Nguyễn Tuân lẫn Vũ Ngọc
Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút lại trở thành
một địch thủ lợi hại của thơ ca và giả tưởng, như trong bài
Tựa của Robert Atwan, cho Tuyển tập 1997 kể trên: "Sự thay đổi
của thể essay ngày hôm nay làm cho thi ca và
giả tưởng trở thành tù đọng: essay là một dạng
văn chương năng động nhất hiện nay của chúng ta. Nào là
essays kể (narrative), như của Lê Thị Diễm Thuý, rất gần
gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic) giống như thơ xuôi.
Rồi phê bình văn chương mang dạng tự thuật. Thể văn báo
chí mang giọng bi kịch, cộng thêm ẩn dụ, suy tưởng, với
một liều lượng rất nặng tay, những thông tin. Một vài
nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"!
Trong bài
Giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay là một hành
động (Thì "đi" không phải là một hành
động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn Tuân, Vũ khắc
Khoan, tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên kia đời
sống vang vọng qua). Ông định nghĩa thêm: Một bài
essay là một người đang nói. Câu này
thật đúng với tuỳ bút Nguyễn Tuân. Đây
là sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa
tùy bút và ký. Có thể nói
khinh bạc là tuỳ bút Nguyễn Tuân. Với ký,
con người biến mất, chỉ còn "chúng ta", một khối
vô danh đáng ghét, đáng sợ.
Có
thể có người "bắt bẻ"; trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết, luôn
luôn vẫn thấy, vẫn nghe người nói; nhưng
người ở đây chỉ là giả tưởng, cái tôi
trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một tôi đeo mặt
nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc", như
chất khinh bạc, ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi
nào quá chán cái tôi khinh
bạc, ông viết về những người đã chết...
Cả cuộc đời của NT, cái
gọi là "phong
cách NT - nên nhớ tác phẩm NT/Gấu mê
nhất, của chính ông, là "Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua" nhe - là
1 “chửi bố” cái xã hội Miền Bắc, sau khi bị Vẹm
làm thịt. (1)
Đúng như thế. Ông là
1 người chống lại cả 1 tập thể “chúng tôi, chúng
ta”, tập thể, tem phiếu, “cá mè 1 lứa” của Bắc
Kít sau khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít-
thời điểm “19 Tháng Chạp” cái con mẹ gì, như
NL phán -
Những lời vinh danh NT, phải là của
Milosz, khi viết về Joseph Brodsky, và của Brodsky,
khi viết về Mandelstam. Gấu không đủ sức viết những dòng
xưng tụng như vậy được: Notes About Brodsky
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky
chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa,
và hẳn là vì lý do này, ông
tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của
thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái
giống người, khám phá ra quá khứ như là
một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu
vô mê cung, chúng ta khám phá ra
cái gì sống sót quá khứ là kết
quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng
cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác
tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là
thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho
vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn
hoài hoài.
TTT chẳng đã được hưởng ké
lời vinh danh này, khi bạn tù vinh danh ông,
khi phổ nhạc bài thơ ông viết về bà vợ của
ông, như 1 bài viết trên Tin Văn, cái
gì gì 30 Tháng Tư đọc thơ TTT?
(1) Có 1 xứ Bắc
Kít bị cái Ác Bắc Kít thiêu
huỷ, xứ Bắc Kít mà Herbert định nghĩa, sau đây:
"Nhà
là nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts
from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt
của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ [Eliot]
cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta
phải trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, "cổ điển của chính
thời đại của chúng ta" (the great poet of the classic of our
own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert.
Với Herbert,
đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là
Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa
Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng
giềng man rợ, không phải cứ có được một vài
tính cách quí báu nào đó,
là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế này:
Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa
man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời
khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông
xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn
thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó,
được gọi là Cổ Điển.
Như
vậy, với chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng chỉ là
một cái hắt hơi của lịch sử. Không phải viết từ những
đối nghịch chính trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó,
mà trở nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm
cho được, cái gọi là nhà, liệu có đúng
như Eliot nói đó không: Nhà là nơi
một người bắt đầu. Hay nhà là nơi cứ thế
sống sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời này
qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu
buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất
cứ mọi tổn thất...
Nhân nhắc tới Mandestam,
những dòng thơ sau đây, ông viết về nước Nga
của ông, mượn hoa tiến Phật, xưng tụng NT, cũng đặng:
My country conversed with me,
Spoiled me, scolded, didn't listen.
She only noticed me when,
Grown-up, I became an eye-witness.
Then suddenly, like a lens, she set me on fire
With a beam from the Admiralty spire.
(part 6 of 312) May-June 1935
Xứ sở của ta nói với ta,
Nuông chiều ta, gắt gỏng với ta, không
nghe ta nói.
Nó chỉ để ý đến ta khi,
Trưởng thành, ta trở thành một
chứng nhân bằng mắt.
Và thế là bất thình lình,
như thấu kính hội tụ
Nó chiếu vào ta, và làm
bật cháy
Với ngọn lửa từ Ngọn Đỉnh Trời
NT cũng đã từng sử dụng hình
ảnh thanh tẩy, bằng lửa, như trong bài thơ của M.
Trong quá khứ một đời người, đã
từng đam mê mớ chữ, và đã từng đọc đi đọc
lại Chùa Đàn, Gấu cứ tiếc hùi hụi, giá
mà đừng có Mưỡu Cuối. Cứ kể như là Trời Đất từ
nay xa cách mãi, Cô Tơ chỉ còn một việc
cầu kinh giải oan, cho chỉ một tri âm tri kỷ là Bá
Nhỡ; Lãnh Út đi làm cách mạng, làm
tên khủng bố, và cứ thế biệt tích giang hồ, chẳng
ai thèm nhớ tới nữa; còn cái anh chàng
kể chuyện, nhân vật xưng tôi, cứ lo việc kể chuyện, và
độc giả của anh cứ tiếp tục đọc, hoặc tiếp tục bắt chước anh ta,
và viết, và - "Những người khác có thể
làm thành một cuốn sách" (Gide), chỉ cần một
câu văn là mở ra cả một cuốn tiểu thuyết - "bạn đọc thân
mến của tôi ơi", bạn có thể trở thành một trong
những độc giả-tác giả, bởi vì câu văn mở đầu Chùa
Đàn quả là một câu văn tiên tri, mở ra trước
tiên là những trại tù ở miền bắc, và sau
đó, nền văn học ở hải ngoại:
"Bị phát vãng lên đường
ngược, ở một tỉnh phía tây Bắc Bộ vào những
năm khủng bố [cải tạo]..."
Chỉ tới mãi sau này,"cùng
với cả nước", Gấu mới hiểu được sự thừa thãi "có
ích" của mưỡu cuối, của những "cần kíp lắm rồi,
hãy vứt ngay cái mõ, hãy không
kịp để cho mớ tóc mọc lại...".
Nhà thơ Auden đã có lần
viết về chuyện thơ ca bị dùng làm trò phù
thuỷ, "mắc mớ gì tới thi sĩ, ông ta/bà ta làm
sao ngăn cấm được chuyện đó". Áp dụng nhận xét
trên vào trường hợp Nguyễn Tuân, vào
Mưỡu Cuối mới thấy, lịch sử "cà chớn", "đểu giả" thật: bởi
vì, cứ giả sử như Cô Tơ phụ tình tri kỷ Bá
Nhỡ, nhập thế trở lại, cầm lại cây đàn ma quái
(chủ nghĩa Cộng Sản?), và, hát bài Nối Vòng
Tay Lớn, rồi sau đó, xuống thuyền vượt biển, thì... tếu
thật!
Còn nhớ, một lần, bên ly cà
phê sữa, cái bánh croissant, nhâm
nhi một buổi sáng Sài Gòn tại Quán
Chùa, nhân nói tới Nguyễn Tuân, và
những tác giả như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... ông anh
nhà thơ gật gù cảm khái, tôi nhớ đại khái,
như vầy: mấy ông ấy đã có thời may mắn "gặp"
Nguyễn Tuân.
Sơ Dạ Hương
Nhớ, hình như Vũ Hạnh có truyện Bút
Máu, kể câu chuyện 1 nhà thơ, vị trí
giống như Nguyễn Tuân, sau 1954 ở xứ Bắc Kít. Nhân
dân bị Đảng kìm kẹp quá bèn làm
sớ dâng lên Thượng Đế, Ngài bèn phái
Thiên Sứ Sến xuống điều tra. Thấy chỗ nào cũng khắc thơ văn
Nguyễn Tuân, bèn dùng Ipad ghi lại, đem về trình.
Đọc, Người phán, thơ văn bảnh như thế này,
ca ngợi chế độ như thế này, làm sao lại nói là
kìm kẹp được. Một chế độ kìm kẹp không thể có
1 nhà văn nhà thơ như NT!
Đấy, là tội ác của NT sau 1954.
Một mình ông ta, và cây ba
tong, biện
minh cho cả 1 Cái Ác Bắc Kít!
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác
và hình phạt, Par-delà
le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác
Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Tolstaya viết:
Trong thời Stalin, như tôi biết, xã hội
Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo, bèn
trở thành tàn bạo, bị cái độc, cái ác
ăn tới xương tới tuỷ, và bèn sướng điên lên,
bởi tình cảm, ý nghĩ, rằng, mọi chuyện đều được phép,
và bèn hủy diệt mọi thứ mà nó coi là
“ngoại nhập”: kẻ thù, nhóm, dân tộc thiểu số, mọi
thứ có tí ti khác biệt với nhân dân
chúng ta, cái thường ngày ở xứ Bắc Kít. Lúc
đầu thì thấy đơn giản, và có tí tếu, hài:
lũ trưởng giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà vạt, đeo kiếng,
đọc sách, có vẻ có tí học vấn…. nhưng dần
dần của khôn người khó, kẻ thù cạn dần, thế là
xã hội quay cái ác vào chính nó,
tự huỷ diệt chính nó. Nếu không có sự trợ
giúp phổ thông, đại trà của nhân dân,
Stalin và những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không
thể sống dai đến như thế. Thiên tài của tên đao
phủ, vỗ ngực xưng tên, phô trương chính nó,
bằng khả năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám
đông, khôn khéo thao túng đường đi nước bước,
biết, ai sẽ là món hors d’oeuvre, ai là món
chính, ai sẽ để lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà
Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu thì không
phải chỉ là tên đao phủ, nhưng mà là tất
cả bầy cừu cùng cộng tác với hắn, đứa thêm mắm,
đứa thêm muối, thêm tí bột ngọt, cho món
thịt của cả lũ.
Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest, bản nhìn lại,
a reassessment, do Oxford University Press xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn
hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21, với
cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không có
nó, là không có Gấu Cà Chớn. Không
có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như 1 tên
Bắc Kít, nhà quê, may mắn được ra Hà
Nội học, nhờ 1 bà cô là Me Tây, rồi được
di cư vào Nam, rồi được đi tù VC, rồi được qua Thái
Lan... là để được đọc bài viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài điểm
sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái chi đâu.
Có thể nói, cả cái quá khứ của Gấu ở
Miền Bắc, và Miền Bắc - không phải Liên Xô
- xuất hiện, qua bài viết.
Khủng khiếp thật!
Có 1 thằng, như GCC, 1 mình nó gánh
cả gánh nặng Cái Ác Bắc Kít, thì
có 1 vì như NT, 1 mình ta, với cây ba tong,
đủ biện minh cho Cái Ác Bắc Kít!
Mục Đại tiên
sinh vào đọc blog Nhị Linh hoài, ngưỡng
mộ thay cái sự đọc nhiều dù văn phong khô
cứng sao ấy, chắc tại viết blog, điểm sách không
"mướt" như bác Gấu Nhà Văn. Mỗi lần đọc cái
link "xem ở kia" là Mục Đại tiên sinh thở dài,
y như người ta quẳng thóc cho gà ăn thế nhỉ. Nhưng
mà "tiên sinh" vẫn cứ thích anh Trần Vũ viết
nhất, hy vọng ảnh đừng có tốn nhiều thời gian vô mấy
cái tạp chí gì đó. Mình đã
nói rồi, viết về mấy đấng nhân vật lịch sử anh Trần Vũ
ăn đứt ông Thiệp. "Lưng Trần" Vũ cũng thật tuyệt vời, chững chạc,
nhân hậu, cảm động quá đi.
nói khô và ướt
tức là còn chưa gọi là biết đọc rồi, bàn Trần
Vũ làm gì, sốt ruột thế
à, mà hiểu nhầm thế nào
về chỗ Mạc Đại í chứ haha
biết ngay đọc bài Phan Ngọc
nhiều người sẽ nghĩ thế, không biết được ý bỏ
lời, trình đọc chỉ mới là đến là là
ngọn cỏ, đập đầu vào tường đi
Vị
Mạc Đại Tiên Sinh nhắc tới GNV, mà lại dùng
từ của H/A - "nhân hậu, cảm động" - Từ "mướt", của K. Tks. NQT
Essays 1978-1995
A Note on Kafka's 'Trial'
The thought that there is anything
fresh to be said of Franz Kafka's The Trial is implausible.
For three reasons.
This short
novel has passed into far more than classical literary
status. It is a part of the immediacy of recognition and of
reference throughout our century. Countless are those who have
not read it, who may not even have seen stage, film or television
versions, but who are familiar with its main outline and situations.
Scarcely published at his early death, known to a narrow circle
of Prague and Vienna acquaintances, Kafka bas become an adjective.
In more than one hundred languages, the epithet 'Kafkaesque'
attaches to the central images, to the constants of inhumanity and
absurdity in our times. The letter K is his as S is not Shakespeare's
or D Dante's it is in analogy with Dante and Shakespeare that W.
H. Auden placed Franz Kafka as the shaping mirror of our new dark
ages). In this osmosis out of an almost esoteric source, out of one
virtually buried alive - the theme of one of his last parables - in
this diffusion of the Kafkaesque into so many recesses of our private
and public existence, The Trial plays a commanding role. The arrest of
Joseph K., the opaque tribunals, his literally bestial death, are the
alphabet of our totalitarian politics.The lunatic logic of the bureaucracy
which the novel sets out is that of our professions, litigations,
visas, fiscalities, even in the lighter greys of liberalism.
The secondary
literature is cancerous. It multiplies daily in the academy,
in belles-lettres and literary journalism. It is parasitic
on every element (one is tempted to say 'every paragraph') of
this inexhaustible text. As do very great works in language,
in the arts or in music, Kafka's fiction invites decipherment,
and makes of this invitation a trap. However acute the critic,
whatever his systematic strengths - be they Marxist, psychoanalytic,
structuralist or in some traditional vein - the readings offered
fall almost risibly short,
Preface to the Everyman Library
edition, 1992.
Trong tập này, Tin Văn
đã giới thiệu bài viết Tuyệt Bi. Nay đi
thêm 1 đường, về Kafka: The arrest of Joseph K., the opaque
tribunals, his literally bestial death, are the alphabet of
our totalitarian politics. Vụ bắt Joseph K, những tòa án
lù tà mù, cái chết như 1 con chó
của Joseph K. là "a bờ xờ" - đọc theo kiểu Thủ Tướng Vẹm
- của chính trị toàn trị của chúng ta!
In July, after the coup in Turkey,
during the escalating Trump campaign, I read Orhan
Pamuk’s “A Strangeness in My Mind.” Despite being
a six-hundred-and-twenty-four-page novel about
a man who sells boza—a low-alcohol fermented wheat drink of
waning popularity in the Balkans and the Middle East—this
novel is of gripping relevance to anyone who wants to understand
either the sociopolitical landscape of Turkey or sociopolitical
landscapes more generally. Pamuk did six years of field research,
talking to street venders, electricity-bill collectors, and
the builders and residents of Istanbul’s many shantytowns—a population
that has typically voted for Recep Tayyip Erdoğan, the increasingly
authoritarian populist who has been the head of state since
2003—and then wove the information he collected into the individual
experience of this one street vender, a dreamer type who suffers
from a condition that he calls “a strangeness in his head.”
The book pumped me up about the possibilities of the novel—the
way that it can do a kind of work that social analysis and even
history, with its limited access to private life and unspoken
desires, can’t: namely, tracing the relationship between large-scale
historical change and the thoughts and feelings that fill a given
person’s head at any given moment. I found it as head-exploding as
“War and Peace,” and more comforting. It gave me a window onto a part
of human experience, and a part of Istanbul’s geography, that I thought
I didn’t and couldn’t understand.
For readers with
a particular interest in Turkish politics, or a more
general curiosity about polarized democratic societies with
authoritarian patriarchal rulers, I also recommend “Turkey:
The Insane and the Melancholy,” a passionate nonfiction
work by Ece Temelkuran, one of many Turkish journalists who
have lost their jobs for criticizing the current government.
Now that I think back about how movingly Temelkuran writes about
the difficulties faced by women in today’s Turkey, it occurs to
me that Pamuk’s “Strangeness” is also very strong on this subject.
I’m thinking about one character in particular, a night-club
singer, who remarks, “I could write a book about all the men
I’ve known, and then I would also end up on trial for insulting
Turkishness.” Insulting the Turkish nation, formerly insulting Turkishness,
is a punishable crime according to Article 301 of the Turkish
penal code, which was used to bring charges against Pamuk himself,
in 2005.
Làm cho UPI, dần dần trong tôi
nẩy sinh một tình cảm quái gở. Mỗi lần có
một phóng viên, nhiếp ảnh viên mới, là
tôi tự hỏi, tay này chịu được bao lâu? Lần nhiếp
ảnh viên người Nhật, tên Mine, mới tới Sài-gòn,
tôi lắc đầu tự nhủ thầm, đúng là tên tiền
định! Chân ướt chân ráo, anh đã được "đãi
ngộ": đang ở một đồn binh Mỹ, một chiếc C.130 bay ngang, bị ngay pháo
bên dưới cắt thành hai mảnh. Hai năm qua đi, hết hạn, anh
trở về Tokyo. Tưởng là thoát, không ngờ anh phải
qua Việt Nam, thế hai tuần, cho một đồng nghiệp đi phép. Anh bị
chết cháy, trong thiết vận xa M.113, khi trúng mìn.
Then
there was the time
I tried to learn to swim
in a deep lake,
but once in,
shot straight
to the floor,
out of sight, out of mind,
a good hour or more.
Nice & cold down there
as I went looking for fish
with my nose-tip,
but then I fell for her
hook, line & sinker
and that sweet little stinker
snared me like a common thief,
she whom I held so dear
to heart, causing me
all this untold pain & grief.
Not smart on my part.
Had she only died
some time before,
she who still poses
such a threat,
which I realized
as I rode toward Hungary,
still in love, still alone
still accident-prone.
The weather rainy
all the way there,
me learning a few words
of Magyar, chill
to the tongue,
drinking my fill
of the Tauggel waterfall
that plunges down
from the high cliffs,
into which, a fool,
I splashed & nearly
drowned,
escaping by a hair,
wet to the bone.
I’d bet any precious stone,
however well-buffed,
however well-cut,
that no man in a hundred
could survive such
dumb, headlong
dives into love.
Tại sao nỗi cô đơn
của tôi
Bài hát của
tôi
Giấc mơ của tôi
Trì hoãn
Lâu như thế?
Khuyên
Nè bồ tèo,
nghe nè
Sinh dữ
Tử lành
Hãy có tí
ti tình yêu
Ở giữa
Harlem
Chuyện gì xẩy ra
cho giấc mơ bị trì hoãn?
Liệu nó khô
queo dưới nắng gắt như lửa?
Hay mưng mủ như nỗi đau
Rồi bỏ chạy?
Hay thối rữa như đồ ăn
thiu
Hay tráng tí
đường
Như cục kẹo?
Có khi nào
nó trũng xuống
Như chở nặng quá? Mà,
có khi nào
Nó nổ cái
đùng?
WINTER MOON
How thin and sharp is the moon tonight!
How thin and sharp and ghostly white
Is the slim curved crook of the moon tonight!
Trăng Đông
Mỏng làm sao, sắc làm
sao, trăng đông lạnh đêm nay
Mỏng làm sao, sắc làm sao, trắng
ma quái làm sao
Vành trăng gầy đêm nay
SUICIDE'S NOTE
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss.
Mẩu giấy để lại trước khi trầm minh
Mặt sông lạnh/lặng lẽ
Xin tớ 1 cú hôn
VAGABONDS
We are the desperate
Who do not care,
The hungry
Who have nowhere
To eat,
No place to sleep,
The tearless
Who cannot
Weep.
Lũ Ma Cà Bông
Chúng tớ là 1 lũ tuyệt
vọng
Đếch ke đói
Không nơi
Ăn
Ngủ
Không giọt nước mắt
Không thể sụt sùi
Langston Hughes
Compass
Every single thing becomes
a word
in a language that Someone
or Something, night and day,
writes down in a never-ending
scribble,
which is the history of
the world, embracing
Rome, Carthage, you, me,
everyone,
my life, which I do not
understand, this anguish
of being enigma, accident,
and puzzle,
and all the discordant languages
of Babel.
Behind each name lies that
which has no name.
Today I felt its nameless
shadow tremble
in the blue clarity of the
compass needle,
whose rule extends as far
as the far seas,
something like a clock glimpsed
in a dream
or a bird that stirs suddenly
in its sleep.
-A.R.
J.L. Borges
UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont mots. Quelqu'un
- mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit : cette
incessante graphie
Inextricable et qui ne signifie
Rien, c'est l'histoire humaine.
En ce convoi
Passent Carthage et Rome,
et moi, lui, toi,
Mon désespoir d'être
cryptographie,
Hasard, rébus - mon
impensable vie,
Cette Babel qui s'écartèle en moi.
Mais par-delà la
parole ou le nombre
Un reste attend. Je sens
planer son ombre
Sur cet acier léger,
lucide et bleu
Qui cherche un point où
l'océan fait trêve ;
Presque une montre entr'apercue
en rêve,
Presque un oiseau qui dort
et tremble un peu.
La bàn
Mọi vật đơn trở thành
một từ
Trong một ngôn ngữ
mà Ai Đó, hay Điều Đó, ngày
đêm
Viết xuống một bản văn chẳng
bao giờ chấm dứt
Gọi là lịch sử thế
giới, ôm trong nó
La Mã, Carthage,
bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không làm
sao hiểu nổi, cơn nhức nhối,
Là niềm bí
ẩn, tai nạn, và thai đố
Và tất cả những ngôn
ngữ chẳng thứ nào chịu được thứ nào
của Babel
Sau mỗi tên, nằm,
mỗi không tên
Bữa nay Gấu cảm thấy cái
bóng không tên của nó run
rẩy
Trong cái sáng
sủa màu xanh của cây kim của cái
la bàn
Luật của nó thì
vươn xa thật xa như những biển xa
Một điều gì như cái
đồng hồ thấp thoáng trong giấc mơ
Hay một hải âu bất
thình lình run run trong giấc ngủ của
nàng
Tôi thích Nguyễn Tuân từ ngày
đọc Chữ người tử tù. Tôi yêu lối văn như khắc
của anh mà các nhà văn Tự lực văn đoàn
không viết được. Tôi tập viết theo lối văn ấy trong bài
Người bạn mùa hè đăng trên báo Bạn đường
số mùa hè năm 1942 với bút danh Ngọc Phan.
Dĩ nhiên một cậu bé 15 - 16 tuổi chỉ có thể
viết kiểu kỹ thuật về mấy chú chuồn chuồn chú hay đuổi
bắt các buổi trưa hè.
Note: Qua Blog NL, Gấu biết bài viết này.
Bệ về, tính sau.
Nguyễn Tuân, 1 cách nào
đó, là Thầy của Gấu Cà Chớn, như những gì
viết về ông trên Tin Văn cho thấy.
Cái đoạn Gấu viết về NT mà thực sự
về Gấu, nhớ là, Nguyễn Mộng Giác quá mê,
và thú thực, ông sáng tác bằng
[phong cách viết, thuổng chữ của Phan Ngọc] Tạp Ghi. Tôi
không viết được như thế.
NMG cực bảnh ở chỗ này. Hơn hẳn mấy đấng bạn
quí của Gấu.
Chưa đấng nào
mở miệng khen Gấu, dù nửa lời. Thời gian Gấu viết cho NMG,
nổi quá, đến nỗi NMG viết trong Thư Tòa Soạn, đếch thèm xin quảng cáo
nũa. Còn NXH thì ra lệnh mày không được
viết cho thằng Giác nữa. Người nghĩ Gấu viết chùa,
như cho Văn! [Mấy cái này, là lập lại nhũng gì
đã viết trên Tin Văn, từ khi NXH còn sống. NQT]
Với "Chữ Người Tử Tù",
Gấu còn viết thêm 1 đoạn kết khác cho nó,
y chang cái tay làm phim Quái Đản, đưa ra 1 cái
kết thần sầu cho cái truyện ngắn về anh chàng cụt tai "hôi chi".
Cái tay Phan Ngọc này, nếu
đọc bài viết này về Nguyễn Tuân thôi,
mà lại đọc loáng thoáng, thì Gấu suy ra,
không phải 1 tay viết sáng tác, [cũng như Nhị
Linh, Gấu không tin bạn này sau trở thành nhà
văn được, ba cái “tiện bút” khó mà thành
văn chương!]
Nói thẳng ra, Nguyễn Tuân là
thầy dạy viết văn. Chứng cớ ư, hằng hà: Mai Thảo, Vũ Khắc
khoan đều trở thành nhà văn, nhờ có 1 lần
trong đời được gặp Nguyễn Tuân, và sau đó, viết
hoài còn hoài.
Đây là Thanh Tâm Tuyền nói
với Gấu, 1 lần ở Quán Chùa, khi hai anh em lèm
bèm về Mai Thảo. Ông anh phán, "thẳng chả" độc thân, và
những tên độc thân thường có quái tật,
dị hợm, rất khó chịu– nhớ đại khái, trong cuộc
sống thường ngày, nhưng Mai Thảo. không.
Trúc Chi cũng học trò Nguyễn Tuân.
Cái gì đặc Nguyễn Tuân?
Bắc Kít đặc.
Những câu văn khủng khiếp của NT là
những câu rất ư bình thường, đọc, mà chỉ
thấy những “khắc, khắc” là chỉ từ “thua đến bị thương”, từ
bị thương đến "lâm tử, lâm chung" - từ này cũng
mới thuổng của 1 tay dịch Simic, trên trang Gió O, hình
như vậy.
Mục Đại tiên
sinh vào đọc blog Nhị Linh hoài, ngưỡng mộ thay cái
sự đọc nhiều dù văn phong khô cứng sao ấy, chắc tại
viết blog, điểm sách không "mướt" như bác Gấu
Nhà Văn. Mỗi lần đọc cái link "xem ở kia" là
Mục Đại tiên sinh thở dài, y như người ta quẳng thóc
cho gà ăn thế nhỉ. Nhưng mà "tiên sinh" vẫn cứ
thích anh Trần Vũ viết nhất, hy vọng ảnh đừng có tốn nhiều
thời gian vô mấy cái tạp chí gì đó.
Mình đã nói rồi, viết về mấy đấng nhân vật
lịch sử anh Trần Vũ ăn đứt ông Thiệp. "Lưng Trần" Vũ cũng thật tuyệt
vời, chững chạc, nhân hậu, cảm động quá đi.
nói khô và ướt tức
là còn chưa gọi là biết đọc rồi, bàn Trần Vũ
làm gì, sốt ruột thế
à, mà hiểu nhầm thế nào về chỗ
Mạc Đại í chứ haha
biết ngay đọc bài Phan Ngọc nhiều người sẽ
nghĩ thế, không biết được ý bỏ lời, trình đọc
chỉ mới là đến là là ngọn cỏ, đập đầu vào
tường đi
Vị Mạc
Đại Tiên Sinh nhắc
tới GNV, mà lại dùng từ của H/A - "nhân hậu, cảm động"
- Tks. NQT
Essays 1978-1995
A Note on Kafka's 'Trial'
The thought that there is anything fresh to
be said of Franz Kafka's The Trial is implausible. For three
reasons.
This short novel has passed
into far more than classical literary status. It is a part of
the immediacy of recognition and of reference throughout our century.
Countless are those who have not read it, who may not even have
seen stage, film or television versions, but who are familiar
with its main outline and situations. Scarcely published at his early
death, known to a narrow circle of Prague and Vienna acquaintances,
Kafka bas become an adjective. In more than one hundred languages,
the epithet 'Kafkaesque' attaches to the central images, to the constants
of inhumanity and absurdity in our times. The letter K is his as S
is not Shakespeare's or D Dante's it is in analogy with Dante and Shakespeare
that W. H. Auden placed Franz Kafka as the shaping mirror of our new
dark ages). In this osmosis out of an almost esoteric source, out of
one virtually buried alive - the theme of one of his last parables -
in this diffusion of the Kafkaesque into so many recesses of our private
and public existence, The Trial plays a commanding role. The arrest of
Joseph K., the opaque tribunals, his literally bestial death, are the
alphabet of our totalitarian politics.The lunatic logic of the bureaucracy
which the novel sets out is that of our professions, litigations, visas,
fiscalities, even in the lighter greys of liberalism.
The secondary literature
is cancerous. It multiplies daily in the academy, in belles-lettres
and literary journalism. It is parasitic on every element (one is
tempted to say 'every paragraph') of this inexhaustible text. As
do very great works in language, in the arts or in music, Kafka's
fiction invites decipherment, and makes of this invitation a trap.
However acute the critic, whatever his systematic strengths - be they
Marxist, psychoanalytic, structuralist or in some traditional vein
- the readings offered fall almost risibly short,
Preface to the Everyman Library edition, 1992.
Trong tập này, Tin Văn đã giới
thiệu bài viết Tuyệt Bi. Nay đi thêm 1 đường, về
Kafka: The arrest of Joseph K., the opaque tribunals, his literally
bestial death, are the alphabet of our totalitarian politics. Vụ
bắt Joseph K, những tòa án lù tà mù,
cái chết như 1 con chó của Joseph K. là "a bờ
xờ" - đọc theo kiểu Thủ Tướng Vẹm - của chính trị toàn
trị của chúng ta!
In July, after the coup in Turkey,
during the escalating Trump campaign, I read Orhan Pamuk’s
“A Strangeness in My Mind.” Despite being a six-hundred-and-twenty-four-page
novel about a man who sells boza—a low-alcohol fermented
wheat drink of waning popularity in the Balkans and the Middle
East—this novel is of gripping relevance to anyone who wants
to understand either the sociopolitical landscape of Turkey or sociopolitical
landscapes more generally. Pamuk did six years of field research,
talking to street venders, electricity-bill collectors, and the
builders and residents of Istanbul’s many shantytowns—a population
that has typically voted for Recep Tayyip Erdoğan, the increasingly
authoritarian populist who has been the head of state since 2003—and
then wove the information he collected into the individual experience
of this one street vender, a dreamer type who suffers from a condition
that he calls “a strangeness in his head.” The book pumped me
up about the possibilities of the novel—the way that it can do
a kind of work that social analysis and even history, with its limited
access to private life and unspoken desires, can’t: namely, tracing
the relationship between large-scale historical change and the thoughts
and feelings that fill a given person’s head at any given moment. I
found it as head-exploding as “War and Peace,” and more comforting.
It gave me a window onto a part of human experience, and a part of Istanbul’s
geography, that I thought I didn’t and couldn’t understand.
For readers with a particular
interest in Turkish politics, or a more general curiosity
about polarized democratic societies with authoritarian patriarchal
rulers, I also recommend “Turkey: The Insane and the Melancholy,”
a passionate nonfiction work by Ece Temelkuran, one of many
Turkish journalists who have lost their jobs for criticizing
the current government. Now that I think back about how movingly
Temelkuran writes about the difficulties faced by women in today’s
Turkey, it occurs to me that Pamuk’s “Strangeness” is also very
strong on this subject. I’m thinking about one character in particular,
a night-club singer, who remarks, “I could write a book about all
the men I’ve known, and then I would also end up on trial for insulting
Turkishness.” Insulting the Turkish nation, formerly insulting
Turkishness, is a punishable crime according to Article 301 of the
Turkish penal code, which was used to bring charges against Pamuk
himself, in 2005.
Ultime Auberge [Quán
Tận]: Di chúc văn học của Kertesz, "cuốn tiểu thuyết về cái
chết của tôi, được viết bởi 1 hồn ma".
Cũng một mô phỏng thơ Paul Celan, như
1 cuốn trước đó, tuy có tí khác
(1): Sữa đen của buổi sáng sớm, "le
lait noir du petit jour".
Thấy bài điểm sách này,
trên 1 số báo Triết của Tẩy, viết về đề tài
"Địa ngục là những kẻ khác", bèn quơ luôn! (1)
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú "rụng rời
chân tay, lỡ chuyến tàu", tôi nghĩ, nguồn
của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần
Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi
ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus des
nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn
thơ Celan. (2)
Sau này, biết, tôi
lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté
en exergue]….
Một
trong những cuốn tiểu thuyết của ông có tên
là Những kẻ tìm dấu vết, Les
Chercheurs de traces. Liệu bây giờ còn những
người tìm dấu vết, so, comparable, với những nhân vật
của ông?
Một
câu hỏi tuyệt. Còn chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông
khuyên họ, sao?
Tôi
mới vớ được 1 cuốn tiểu thuyết mà nữ tác giả
sống ở Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà
chính trị được nhiều người biết, connu. Trong bốn chục
năm, bà ta không biết gốc mình là Do
Thái, tuy ngửi ra có 1 cái gì đó
bị giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait].
Thế rồi 1 bữa có người bất thình lình hỏi bà,
"Thế
nào sống sót có cực không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà
sống sót như thế nào?]
Sống
sót cái gì chứ?
Thì
Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông
bô bà bô, ngỏ lời trách móc,
tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao?
Để ý làm gì cái quá khứ thê
lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói,
bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có
1 điều gì đó, liên quan tới cái
vụ Bắc Kít rất thèm được là… Ngụy,
ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy,
và đã từng viết ra điều này, trong 1
truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà con cùng
đọc.
Hà,
hà!
Cái
vụ, đám khốn Mít, ở Mẽo, thí dụ, bò
về, không liên quan gì tới lưu vong, theo
GCC.
Chúng đếch phải là nhà
văn nhà thơ mẹ gì ở hải ngoại, nhưng 1 khi bò
về, có tí đô la, thế là 1 lũ đói
khát vồ lấy, “lưu vong kép” đây rồi!
Tởm
thực!
GCC
Khi
cuốn Bóng Đêm Giữa Ban Ngày nổi cộm ở hải ngoại,
cũng là lúc Gấu mới ra ngoài này. Biết,
cái tít, là từ Koestler, nhưng thấy chẳng đáng
nói, vì cũng 1 thứ chiến lợi phẩm, khi Bắc Kít chiếm
được Miền Nam. Chỉ đến khi 1 tay dịch giả trên talawas, dịch cuốn
này, là Vòng Tròn Ma Thuật, theo
cái tên đầu tiên của nó, và
phán, đúng ra phải gọi là Bóng Đêm
Giữa Ban Ngày, nhưng cái tít này là
của... VTH mất rồi, chỉ đến lúc đó,
Gấu mới chõ miệng vô.
Khi chõ miệng vô, là
cũng mong VTH lên tiếng, như Kertesz lên tiếng!
Cái tít "VTH
vs Koestler" này, chỉ liên can đến cái vụ ông
Yankee mũi tẹt VTH cầm nhầm cái tít cuốn sách
của Koestler.
Có thể ông không thực tình
có cái ý đó. Nhưng khi viết xong
cuốn của ông, thì chợt bật ra cái tít
và cùng với nó, những ngày đầu vô
Nam săn lùng chiến lợi phẩm, nhanh tay lẹ chân tóm
được cuốn Đêm giữa ban ngày, nội dung cuốn sách
sao giống trường hợp của ta thế. Cũng một đời cung cúc, tận tụy,
hy sinh cho Đảng, mà cuối cùng lại đi tù vì
tội chống Đảng!
Quái một cái, là không
lẽ một dịch giả như Phạm Minh Ngọc không lẽ không
biết đến vụ việc này, mà lại "vừa đánh trống
vừa ăn cướp", khi phán:
Người dịch cho rằng sẽ rất hợp lý nếu
chuyển ngữ tên tác phẩm này thành
Đêm giữa ban ngày nếu như trước đó chưa
có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng
tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Đấy là ông viết. Còn trong
bụng, ông nghĩ: Tay mũi lõ này ăn cắp
cái tít của "bạn ta", là VTH!
Người ta, trong có cả
Solzhenitsyn, đã từng chê Kinh Cầu, “Một bài
thơ hay, lẽ dĩ nhiên Đẹp. Rổn rảng. Nhưng nói
cho cùng, cả nước đau khổ, hàng chục triệu con
người, và bài thơ thì là về một
trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa
con trai… Tôi nói với bà, bổn phận của 1 nhà
thơ Nga là viết về những đau khổ của nước Nga, vượt lên
khỏi nỗi đau cá nhân, và nói về nỗi đau
của cả nước…Bà im lặng, suy nghĩ. Có thể bà không
thích tôi nói như thế. Bà quen được thổi.
Nhưng, đúng là 1 nhà thơ lớn.”
Trong cuốn Anna Akhmatova, Nhà thơ,
nhà tiên tri, 600 trang, “Best Reading of 1994”,
theo tờ London Thời Báo, “Best Book of 1994”, theo Publishers
Weekly, chương "Khủng Bố Lớn, The Great Terror: 1930-1939", có
1 đoạn viết về cú hồi sinh, lại làm được thơ, tiếp
liền sau thời gian câm lặng, vì…sắp hàng chờ gửi thùng quà
cho đứa con trai bị bắt. Anatoly Naiman, thư ký văn học, thời
kỳ chót đời của bà, viết về Kinh Cầu:
The hero of this poetry is the
people. Not a larger or smaller plurality of individuals
called "the people" for political, nationalist, or other ideological
reasons, but the whole people, every single one of whom participates
in what is happening on one side or the other. ... What differentiates
it from, and thus contrasts it to, even ideal Soviet poetry is
the fact that it is personal, thus as profoundly personal. ... The
personal attitude is not the rejection of anything; it is an affirmation
which is manifest in every word of Requiem. This is what makes
Requiem not Soviet poetry, but simply poetry: it could be personal
only if it dealt with individuals, their loves, their moods, and
their selves in accordance with the officially sanctioned formula of
"joys and sorrows.”
Nhân vật của bài
thơ này là nhân dân. Không
phải lớn hay nhỏ, những nhóm cá nhân được
gọi là “nhân dân” vì những lý
do chính trị, quốc gia, hay những lý do ý thức
hệ khác, mà là trọn nhân dân,
mọi cá nhân đơn độc tham dự vô chuyện gì
đang xẩy ra ở bên này hoặc ở bên kia… Điều làm
cho nó khác đi, hoặc tương phản với nó, ngay
cả với cái thứ thơ lý tưởng của nhà nước Xô
Viết, là sự kiện này, nó thì riêng
tư, rất đỗi riêng tư, một cách rất đỗi sâu đậm.
Một thái độ riêng tư cá
nhân như thế không có nghĩa là vứt
bỏ bất cứ cái chi chi, nó là xác
quyết bật ra từ mọi con chữ của Kinh Cầu. Đó là điều
làm cho nó là 1 bài thơ, giản dị như
thế, đếch phải thứ thơ nhà nước Xô Viết. Nó
chỉ có thể riêng tư như thế, vì nó “deal”
với những cá nhân con người, tình yêu,
cung cách sống, bản ngã của họ, “niềm vui và nỗi
buồn” của họ, bị nhà nước cấm đoán.
2. The classics
are those books which constitute a treasured experience for those who have
read and loved them; but they remain just as rich an experience for those
who reserve the chance to read them for when they are in the best condition
to enjoy them.
For the fact is that the reading
we do when young can often be of little value because we
are impatient, cannot concentrate, lack expertise in how to
read, or because we lack experience of life. This youthful reading
can be (perhaps at the same time) literally formative in that
it gives a form or shape to our future experiences, providing
them with models, ways of dealing with them, terms of comparison,
schemes for categorizing them, scales of value, paradigms of beauty:
all things which continue to operate in us even when we remember
little or nothing about the book we read when young. When we reread the
book in our maturity, we then rediscover these constants which by now
form part of our inner mechanisms though we have forgotten where
they came from. There is a particular potency in the work which can
be forgotten in itself but which leaves its seed behind in us. The definition
which we can now give is this:
Italo Calvino : Why
Read The Classics?
Đọc, bèn nhớ đến cái
thú dím thật kỹ một miếng thịt, ở đáy
bát cơm, chờ đến chót mới nhâm nhi, thưởng
thức, khi còn là 1 đứa nhỏ ở xứ Bắc Kít;
hay chính bát cơm, sau khi chơi một vài bát
ngô, những ngày tản cư lên Phú Thọ,
được ông Bác nuôi, trước khi về Tề, rồi về Hà
Nội học…
Ngô, ở đây là
thứ ngô cứng như đá, mỗi lần nấu lên, là
phải bỏ vôi vô, rồi đun sôi thật lâu,
cho nó vỡ ra, rồi
bỏ vô nước, lọc đi lọc lại, cho hết mùi vôi….
Nhưng, chính quãng
đời cuối, khi ra được hải ngoại, khi sống thực – sống lại
nó, vào lúc đẹp nhất của đời mỉnh - cuộc
tình, cuộc đời mình, thời còn trẻ ở Xề Gòn
- mới đúng cái nghĩa, tại sao đọc cổ điển, của Calvino:
Cổ điển là những cuốn
sách tạo thành kinh nghiệm, tích luỹ
được như là 1 kho tàng với những người đã
đọc, và yêu chúng.
Nhưng chúng đúng là
1 kinh nghiệm, cực giầu có, đối với những ai chưa từng
đọc, nhưng vẫn dành cho chúng 1 cơ hội đẹp nhất của
đời mình, khi nào thấy mình xứng đáng,
thì mới dám lôi chúng ra để mà
đọc!
[Dịch thoáng, theo cái kiểu
dịch thế nào lợi nhất, đối với người dịch!]
Thứ ngô đá này,
ở Miền Nam, sau GCC gặp lại, khi đi tù VC.
TTT gọi là “bánh
đá”. Ai đã đi tù VC thì biết
nó.
Sinh nhật trong tù
Vợ con không ở gần
Bạn bè xa tất cả
Cùng đôi bạn tù thân
Uống trà ăn “bánh đá”
Trời có mấy độ xuân
Đất bao nhiêu miền lạ
Chưa ngấy tiệc trần gian
Hồn rung xanh búp lá
…. chỉ nghĩ tới
mình và những bài thơ đã làm,
đang làm, và sẽ làm thôi.
Đấy đúng là giấc
mơ những ngày đầu mới ra hải ngoại của Gấu: Làm
1 gã bán bảo hiểm nhân thọ, đi chào
hàng, trong túi, như sư phụ - lúc nào
cũng thủ, 1 cuốn Thánh Kinh, và 1 cuốn Shakespeare
– lúc nào cũng thủ 1 cuốn Faulkner, cho tới 1 bữa vô
1 thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner. Và
sau đó là cả 1 giấc “đại mộng”, lại xông vào
giang hồ, cố làm rạng ra Cái Ác Bắc Kít,
như… Steiner, cố cảnh tỉnh về một Lò Thiêu…
Hà, hà! Lớn lối quá!
Sự thực đơn giản hơn nhiều: Gấu không
thể gạt ra khỏi cái đầu… Cái
Đói Bắc Kít, qua hình ảnh 1 con ốc nhồi
nằm dưới 1 cánh bèo!
Không làm sao tưởng tượng
ra được Cô Hồng Con của Gấu, gục xuống bờ ao ngay ngoài
cổng nhà cô, khi bị cả cái xứ Bắc Kít
bỏ mặc cho chết, vì đói, vì bịnh thương
hàn, vì khát.
Đâu khác gì
Anne Frank?
Có thể Anne Frank đã
được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944,
trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke"
(mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào
phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và
tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát,
có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa
vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong
vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết
đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã
có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và
phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù
nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều
người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười,
hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một
hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới
một đống rẻ rách. (1)
Lời chúc SN của K còn
ẩn tàng trong nó, 1 cảnh báo, buông
dao... đồ tể xuống đi, để làm… thi sĩ!
Tuyệt!
Tks. Many Tks.
Gấu không thể ngờ, có ngày
làm được thơ, nhưng có ngày “dịch được thơ” mới sướng
mê tơi. “Lão Tặc Thiên” [Tạ Tốn phán], quả là
quá thương Gấu, cho Gấu “dịch được thơ”, mà, theo 1 nghĩa thật
tuyệt vời, sướng hơn làm thơ rất nhiều!
Ui chao, nghĩ ra được 1 lời chúc
GCC, như thế, thì quá cả tri kỷ. Bởi vì
phải sống thế nào, đau thế nào, cuộc chiến Mít,
thì mới nghĩ ra 1 lời chúc rất ư là vị kỷ
như thế: Chỉ nghĩ tới mình!
- Vous écrivez des
poèmes et vous ne les publiez pas. Mais dans les
deux ou trois poèmes qui ont paru, on voit que la
mort n'est pas, pour vous, la fin de tout, qu'il y a quelque
chose après.
Alterman a écrit : 'Il
n'y a pas de maison sans morst ni de mort qui oublie sa
maison.'"
Ông làm thơ nhưng
không in. Nhưng trong mấy bài lỡ có
đó, có vẻ như cái chết, với ông,
không phải là chết tận chết tiệt. Rằng có
một điều gì, sau đó.
Alterman viết: "Chẳng có
nấm nhà nào không có những
người đã ra đi, và chẳng có người nào
đã ra đi quên nấm nhà của mình."
Amos Oz
Người xa vắng biết đâu nấm
nhà buồn.
Phạm Duy: Trở về mái nhà.
Xưa
Thảo Trần lại là dân
miệt vườn thứ thiệt, sinh quán Cai Lậy, Mỹ Tho, và
là bà xã của NQT. Đây tuy là
tập truyện đầu tiên của bà, nhưng đã mang
đầy sức mạnh riêng tư, trong một dòng văn cũng rất
là Nam Bộ trong kiểu rất là Sài Gòn.
Phan Tấn Hải đọc NDSCVPN
Thú thật, hách,
phách, lối, và hỗn như Gấu, không
viết nổi một câu bảnh, và đúng, và
thật galant, như trên, về Gấu Cái.
Cám ơn bạn hiền PTH.
*
Ôi chao, Gấu lại nhớ, một
lần Gấu Cái than, anh coi những người đàn
bà khác, như trời, như thánh nữ, tại
sao lại lấy một người 'xấu' như tui?
Và Gấu, cà cuống
chết đến đít vẫn còn cay, đã trả lời,
có thể, anh thiếu, và cần ba cái xấu,
của em!
The past beats inside me like
a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác phẩm 'nghệ thuật' nào
[của Gấu] thì cũng như vết sẹo [ở trên
tay cô bạn],
và quá khứ những
ngày ở Sài Gòn là trái
tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn
hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ...
vết sẹo!
John Banville
Về vết sẹo này, của cô
bạn, tuy có thật, nhưng Gấu chỉ có thể
tưởng tượng khi nằm mơ, vì chưa từng được chính
mắt nhìn thấy.
Gấu cũng đã có kể,
cái lần Gấu Cái giận điên người, vì
thằng chồng nằm mơ, cầm tay vợ, lại tưởng cầm tay người khác,
đến khi sờ không thấy, bỗng bật lên lời, vết sẹo đâu
rồi, và tỉnh giấc, và biết trong đời mình
đã gây nên một mối đại thương tâm.
Ôi chao, có thằng
chồng nào khốn nạn như thế chăng, mặt dầy như thế
chăng?
*
Cái thằng cha học trò
nghèo, tương tư người đẹp đến liệt giường liệt
chiếu, trước khi đi tầu suốt, chỉ mong được hửi tay người
đẹp một lần, kiếp sau, được thoả nguyện, thằng cha đó
chính là... Gấu.
Cái chuyện được cầm tay
người đẹp đó, cũng không thể nào thực
hiện được, nếu không có sự tiếp tay của con
quỉ chiến tranh.
Gấu đã từng tả cái
lần đầu được cầm tay người đẹp trước khi từ giã
Sài Gòn, lừng lững khốc liệt bước vô Trung
Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ.
Ba muơi năm sau, gặp lại, để giải
thích cái lý do chỉ được cầm tay,
cố cưỡng là mang họa, người xưa giản dị nói:
-You are not available !
Cô bạn, và
mối tình của Gấu, khi ra hải ngoại, bao nhiêu
năm sau, được hâm nóng ở xứ lạnh, và
còn được 1 đấng nhà văn đưa vô tiểu thuyết,
lấy ngay tên của Gấu, cho nhân vật của ông.
Thằng Gấu này, mê vợ bạn, cực kỳ khốn nạn. Ngay cả
1 ông bạn của Gấu, quen ở xứ lạnh, mà Gấu có
nhắc tới, trong 1 bài viết về thơ, cũng bực. Tuy nhiên,
không phải như vậy. Khi Gấu quen cô bạn, thì
chưa có ông chồng. Cô là thiếu nữ, mới lớn. Trong
5 năm trời, chỉ có cầm tay, và 1 lần hôn
trộm, mớ tóc sau gáy, cũng đã kể ra rồi. Lần ông chồng biết,
hỏi vợ, tại sao không nói, trước khi lấy nhau,
bà nói, giữa tôi và anh ấy chẳng
có chuyện gì, làm sao nói. Mấy
hôm sau, một buổi tối, ông xách chai rượu tới
nhà, cả hai uống cạn, cả cuộc rượu, là nói
về cô. Về nhà, say mèm, ông chồng gục trên
vai vợ, phán, thằng khốn đó thương em nhiều, hơn cả
anh.
Nó thương em thực, không
có tí mùi vị gì của cõi
đời này.
Chẳng là, đám quen biết,
kể cả đệ tử của ông, vì ông là
trùm bảo hiểm, dưới tay hàng chục nhân
viên, ai cũng biết, ông lấy vợ có tí
tính toán. Bà vợ con địa chủ, chủ mấy cơ sở
say lúa, xưởng gỗ, tháng tháng đóng
hai thuế, vừa VC vừa Ngụy.
Giả như cô mồ côi, nghèo,
chắc là Gấu lấy cô rồi, đá Gấu Cái
văng ra ngoài đường rồi, cũng nên!
Chính cô cũng nói,
ta chưa từng gặp 1 tên nào đạo đức [ngu ngốc,
"cái gì gì", mi được hết rồi, còn
muốn gì nữa, mà nếu mi muốn, ta cũng cho luôn,
chắc thế!] như mi. Quen biết bao nhiêu năm rồi, đóng
vai “bảo vệ” bướm, như trong truyền thuyết Tàu chôn
của, chôn theo trinh nữ, chỉ dám “chiêm ngưỡng
và kính trọng”, đến khi bướm có chủ, bèn
đau quá, tính lao xe xuống sông Sài Gòn,
nơi cầu Phan Thanh Giản. Vụ này, cũng đã báo
cáo trên Tin Văn rồi, trong 1 bài viết, có
chôm hai câu thơ của Du Tử Lê:
Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ
cuối đường
Ui chao, Gấu có biết bao nhiêu
là mối tình, mà chỉ có tiếng
mà không có miếng.
Cũng nhờ Sài Gòn, và
Xóm.
Ăn bánh trả tiền!
Độc nhất 1 lần không trả tiền,
đành đem cả cuộc đời ra trả!
Đúng ra không hẳn như vậy.
Gấu Cái đúng là người Gấu chọn. Chính
Bả cũng còn không tin. Gấu cả 1 đời mồ côi,
sống nhục, sống nhã, ăn chầu ăn chực, ăn miếng ăn thừa, nhà bà con, ông
bác, ông ngoại… ở nơi xứ Bắc Kít, vào
Nam, khi kiếm được tiền, chỉ mong
có được 1 người bạn đời cũng cơ cực, cũng nhục nhã
như mình.....
Có những câu văn, thơ,
được viết ra, không phải để được đọc liền tù
tì, mà là để đợi một độc giả độc nhất,
độc giả độc, độc giả xịn, độc giả tri âm tri kỷ của nó.
Tao chỉ đợi mày, tao còn
sống đây, là vì mày...
Tao đây nè, đọc, đọc đi
để tao hoàn tất cái đời của tao.
Hoàn tất theo nghĩa, trở thành
bình thường như mọi câu văn câu thơ khác.
Cho đến một lúc nào đó,
lại thức giấc và lại đợi.
Hai câu thơ trên của Du
Tử Lê, là như thế đối với Hai Lúa.
Ghê gớm hơn nữa, nó liên
quan đến một nơi chốn, của Sài Gòn.
Cũng cái cảm giác như
thế, Hai Lúa nghe, lần đầu tiên trong đời,
bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, tại trại
cải tạo Duyên Hải, khi cuộc chiến kết thúc đã
từ đời thưở nào, chẳng còn ai đi "lượm" xác
chồng...
Bản nhạc vừa cất lên một cái
là thằng Hai Lúa rùng mình,
toát mồ hôi, chân tay bủn rủn, nó
đây rồi, nó là của mình, không
của ai khác, ông nhạc sĩ sáng tác
ra cho riêng thằng Hai Lúa này. Mấy người
khác chỉ nghe ké, thưởng thức ké, đau khổ
ké....
Viết tới đây, bỗng Hai Lúa
nhớ đến một ý của Benjamin. Ông này
nói, có những cuốn sách nằm ngủ ở trong
thư viện, để cho bụi đắp đầy mình, chờ có khi hàng
ngàn năm, độc giả của nó khật khừ tới, và
đánh thức nó dậy...
Have you ever seen the
rain?
Lần đầu nghe câu hát này,
Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại có
một lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm
hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó,
đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.
Câu hát trọn vẹn của nó
đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy
mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên
má em, bữa hai đứa mình đứng trú mưa,
tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp hát,
kế bên Nhà Thương Đô Thành... (1).
Làm sao em nhìn thấy được!
Và bây giờ, sau bao nhiêu
năm, làm sao em nhớ được!
Chỉ có một mình anh nhớ,
cho cả anh và em.
Và cũng chẳng ai thèm
nhìn, thèm để ý, trừ cái thằng
ngố đứng sững như trời trồng, buổi sáng bữa đó.
Đâu có thua gì Barbara,
của Prévert.
Cũng có một cuộc chiến chó
đẻ, rình rập.
Cũng cố vội vàng, hạnh phúc.
Đoạn mới viết đó, là để
trả lời cái mail của Du Tử Lê, khi Hai Lúa
hỏi, trọn bài thơ trong có hai câu trên
nó ra làm sao. Anh kiếm cả buổi, nhớ cả buổi, không
làm sao kiếm được, nhớ ra được, thế rồi anh chậc chậc, mày
đâu cần cả bài thơ? Cần làm quái gì?
Hai câu là đủ rồi, cha
nội!
(1) Rạp Vĩnh Lợi, nhớ ra rồi. Còn
Lê Lợi là rạp chiếu phim thường trực, ở sau
chợ Sài Gòn, gần trường Văn Khoa cũ, nơi có
lần Hai Lúa rủ em đi coi movie, hết ghế, chật cứng người,
phải đứng coi ngay gần cửa, chưa đầy phút, em đã
đi ra, nói, có một thằng khốn nạn đứng phía
sau em.
Note: Bài viết này, là
cũng là về cô bạn, lần ngắm mưa nơi phố Lê
Lợi
Hồi mới ra trường Bưu Điện, 1960
hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện,
số 11 Phan Đình Phùng.
Từ phía cổng cơ xuởng
trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên
phải, building số 5, của đám Tây ở. Bưu Điện mướn
tầng trên cùng, đặt mấy đài VTĐ. Quá
nữa, là số 3, Đài phát thanh Sài
Gòn. Ra trường Bưu Điện, Gấu làm việc tại Cơ Xuởng
số 11. Hai năm sau, qua số 5 làm việc tại Đài Liên
Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là nơi viết Những ngày ở Sài Gòn,
sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng
Mỹ Cảnh.
[Biết rồi khổ lắm nói
mãi].
Khi đó, chưa có
trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc Gia
Thương Mại, ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan
Xi Cô cũng ngay đầu đường.
Phiá bên trái cổng
cơ xuởng, là khu nhà của các ông
lớn Bưu Điện, đa số là sếp, và thầy của Gấu.
Phía bên kia đường, là con đường Phan Kế Bính,
chạy song song với Phạm Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan
Đình Phùng, làm thành hai ngã
ba. Cả hai đều là hai con dốc ngắn đổ xuống đường Phan Thanh
Giản. Thư viện Văn Hoá Bình Dân nằm trên
đường Phan Kế Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn
viên thư viện.
Đó là nơi cô
bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực
tại Đài, cũng gần đó, đang trực, kêu đệ
tử coi Đài, xách xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ
ra về, rồi xách xe Honda cứ thế chạy miết xuống tới tận
cầu Sài Gòn.
Từ số 11, quẹo trái tới đường
Đinh Tiên Hoàng, quẹo phải tới quán Con Ve Sầu, La Cigale, chủ Tây,
vừa là nhà hàng ăn, vừa có sàn
nhẩy, lâu lâu, Gấu có ghé, đôi
khi, những lần trực đêm.
Khu này là giang
sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi vậy cho tiện.
Ui chao, chỉ đến khi ra được hải ngoại,
một bữa tình cờ đọc hai câu thơ của DTL:
Em đi áo lụa mềm lưng
phố,
Có động lòng thương kẻ
cuối đường
Toàn cảnh trên đột
nhiên sống lại, rõ mồn một.
Khủng khiếp đến nỗi, Gấu có cảm
tưởng, hai câu thơ, là từ con dốc ngắn bò
ra!
Mẩu văn sau đây, 1
cô Bắc Kít, lên net kiếm tài liệu
về Camus, vớ được, bèn đem về FB, nhờ vậy Gấu được
hân hạnh quen, không chỉ cô mà cả 1
băng, bạn của cô.
Một cuốn tập, mà em đã có
lần đòi lại. Anh đã mượn cho một người học sau
em, để theo kịp lớp học. Anh cố tình giữ lại cuốn tập,
không hiểu tại sao.
Bây giờ anh mới hiểu: anh giữ nó,
để nhớ lại tương lai, thay vì tưởng tượng ra nó.
Anh biết trước, những giờ phút cô đơn nơi xứ người,
và cuốn tập sẽ giúp anh tưởng tượng ra em. Anh
tưởng tượng có em, khi nhìn những chữ viết. Những
lỗi chính tả, văn phạm.... làm sao sửa được, như hạnh
phúc mà chúng ta ăn cắp của cuộc đời, khi
ngồi bên nhau.
Nhớ, hay tưởng tượng, đều chỉ là
những từ để chỉ sự thiếu vắng, mất mát. Anh đâu
còn có em ở kế bên, như những ngày
nào ở trong Trại Cấm Sikiew, ở trại transit Panat Nikhom
chờ gặp phái đoàn, chờ nhận, chờ ngày đi....
Erich Maria Remarque là nhà
văn có số lượng người đọc nhiều nhất trong thế kỷ 20.
Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh là tác
phẩm trác tuyệt, người lính qua văn chương của E.M.
Remarque là biểu tượng của sự mất mát, tang hoang,
mất niềm tin, cô đơn cùng cực. Trong giao thông
hào ở tuyến đầu hay ngồi tàu hoả về phép tận
hậu phương. Đúng như Trần Vũ nhận xét, tiểu thuyết
của ông tựa một cái kính vạn hoa luôn
có sự biến hoá mỗi lần đọc lại và tôi ngờ
rằng cái hấp lực ấy đã tạo ra một phiên bản khác,
phủ chụp xuống Bảo Ninh khi viết cuốn Nỗi buồn chiến tranh. Tôi
cũng cả tin, nếu Trần Vũ viết về đề tài chiến tranh, tôi
nghĩ Trần Vũ sẽ đẩy lùi Bảo Ninh vào bóng tối.
Hoàng
Đại Dương viết:
Tôi
bất chợt tìm thấy Trần Vũ có nét lãng
mạng như tướng Patton, tuy sinh sau Đệ Nhị Thế Chiến, anh vẫn
còn hơi thở của cuộc chiến tranh này!
Note: Cái sự so sánh Bảo
Ninh với Remarque, và đánh giá ông
này hơn ông kia, theo Gấu hơi bị nhảm.
Một trong những lý do, là,
hai cuộc chiến mà hai tác giả đụng phải khác
nhau.
Trên
Tin Văn cũng đã đề cập tới cả ba, nghĩa là,
với cả cuốn Người Mỹ
Trầm Lặng của Graham Greene:
Chuyện mấy anh Mẽo hay nhắc tới Greene
khi viết về Ẩn, và Ẩn, khi thú nhận, mình
học từ ông thầy Xịa cách luyện chó để trị
cảnh sát, tất cả đều có nguyên nhân
sâu xa của chúng.
Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc Đời Greene, của ông, có
đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào,
trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng
nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là
cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng."
Trong truyện ngắn, gần như là một
thứ tự truyện, Cõi
Khác, Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy
anh Mẽo này mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến
tranh Việt Nam có vóc dáng "Mặt Trận Miền
Tây Vẫn Yên Tĩnh" của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn" như
thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường
tra vấn mình, và sau cùng, nhân
đọc một số tác giả, trong số đó, có Steiner,
Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau
Đệ NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt Trận Miền
Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm
dứt thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của
ông. (1)
Đây là điều những nhà
phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc "Nỗi
Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh, và coi nó cao
hơn "Mặt Trận Miền Tây". Cao hơn không phải là
do Bảo Ninh có tài hơn, mà là, chiến
tranh, con người, ở trong "Nỗi Buồn Chiến Tranh" khác với
chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong "Mặt Trận Miền
Tây."
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần
của Greene, là phải viết "Người Mỹ Trầm Lặng". Những
so sánh nhắc nhở tới ông, là vì ai
cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất,
và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp
cuốn "Thời Gian Của Người" của Nguyễn Khải. Nó thất bại,
là do muốn hay hơn cả "Người Mỹ Trầm Lặng", theo nghĩa,
lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả
con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người,
như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái
phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà
văn Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như
Khải], khi ông tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn
giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.
Nhân vật Quân [hoá
thân của Ẩn,] trong "Thời Gian Của Người" "thánh
thiện quá" [theo nghĩa "thép đã tôi
thế đấy"], nhà văn như Nguyễn Khải, một lòng một
dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng của Đảng, thành
thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói. [Những
tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].
Một cách nào đó,
cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" có một vị thế [position,status],
của cuốn "Bóng Đêm Giữa Ban Ngày" của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ
án của thế kỷ. (1)
Không giống như "Mặt Trận Miền Tây
Vẫn Yên Tĩnh", đây là một cuốn tiểu thuyết
không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện
viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là
một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới
thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in lại trong bản dịch
tiếng Anh của Nỗi Buồn] (2)
Nhưng phải là Ngụy
cơ, thì mới thấy sự khác biệt giữa 1 Bảo Ninh,
và 1, Trần Vũ, giả như anh chơi một cuốn tiểu thuyết về
cuộc chiến Mít.
Cái vị thế của Trần Vũ, sẽ là
của 1 số tác giả mà Ian Buruma đề cập tới và
quan tâm, như trong lời giới thiệu về ông, trong cuốn
"Ác Kịch". Tất cả những tác giả này, thì
đều quan tâm, dính [affected] tới phát xít,
và những hậu quả khủng khiếp của nó, và
tất cả đều nhìn vào vực thẳm và làm ra
nghệ thuật từ điều họ nhìn thấy, all “looked into the abyss and
made art of what they saw”.
Bảo Ninh không làm
sao ở được vào 1 vị thế như thế, để viết. Trước mắt
anh chỉ có vinh quang, làm gì có
vực thẳm.
Chỉ 1 khi anh dám phán, tao
tởm cuộc chiến đó, thì may ra! NQT
Trong lời giới thiệu "Ác
Kịch", Ian Buruma viết:
The question of how a civilized,
highly educated people, like the Germans in the 1930s, could
follow a murderous demagogue into an abyss of moral depravity
will never let go of me. But I am well aware that those Germans
who followed Hitler were not unique. There are no eternal good guys
or bad guys. Nor do I do take the easy cynical view that there is an
evil Nazi in all of us, waiting to get out. I am convinced, however,
that many people, if given the opportunity to wield absolute power
over other human beings, will abuse it. Unlimited authority, often
cloaked in the moralism of a great cause, leads invariably to the torture
chamber. A way to deal with our fearful fascination with power and
cruelty and death is to act it out vicariously, in art. Hence the
title of this book. This is not to say that all great art or drama has
to deal with these sinister themes. But the art and drama that interest
me most reveal something of what lies beneath the varnish of what we
call civilized behavior. Which is one reason, I suppose, why I love
the German art of the 1920s. My favorite artists of that time, such
as Max Beckmann, George Grosz, or Ernst Ludwig Kirchner, witnessed the
barbarism of which man is capable with their own eyes, in the trenches
and field hospitals of World War I and later in the streets of Berlin,
a capital made skittish by the horrors of war, poverty, crime, and moral
collapse. They looked into the abyss and made art of what they saw.
Theo GCC, giả như Trần Vũ viết
về cuộc chiến Mít, thì sẽ ở trong 1 tâm
trạng như thế.
Chúng ta đã thấy
bàng bạc điều này, khi anh viết về Ác
Quán Mãn Doanh, HPNT: Nhìn vào tên
Đại Ác, vào vực thẳm Mậu Thân, mà
ra nghệ thuật!
Gấu chưa hề thích, bất cứ
một cái gì từ Mr. TV [Không phải Mr. Tin Văn].
Anh ta cường điệu quá. Đây là cú viết
đầu tiên của anh ta, không cường điệu, và quá
bảnh.
Trường hợp TV làm Gấu nhớ đến một
xen trong Thạch Kiếm.
Tay kiếm sĩ này
bị kẻ thù săn đuổi, được một em kỹ nữ chứa chấp. Thấy mặt
mày kiếm sĩ căng thẳng quá, em kỹ nữ mới đi một đường
truyền dậy bí kíp đánh đàn, và
em nói, y chang bí kíp đấu kiếm.
"Căng quá, thì giống thế
này này”, và em cầm kiếm đi một đường
đứt hết dây đàn.
Đại khái vậy.
Một tay kiếm sư trong phim Scaramouche
mà Gấu coi từ hồi nhỏ cũng phán,
cầm kiếm như cầm.... chim.
Chặt quá, nó nghẹt thở, chết.
Lỏng quá, nó bay mất.
Từ trước giờ TV cầm chim chặt quá,
chết mẹ mất chim. (1)
Bây giờ mới biết cầm!
NQT
(1) Cái tay cầm lỏng quá,
theo Gấu, là me-xừ Đỗ KH.
Còn một tay nữa, cầm chim cũng chặt
quá, mặt mày hầm hầm, như sắp O.K. Corral tới nơi, thấy ớn, là
PNH.
Đố bạn biết là ai?
NQT
Note: Bài viết của TV link broken,
mất tiêu luôn. Sorry
V/v Đỗ KH: Quả đúng như Gấu viết,
từ hổi nảo hồi nào. Tay này bi giờ hư rồi.
Uổng quá.
Uổng cả cái cú ông
Trùm Tân Hình Thức trao tạp chí
Thơ cho anh ta. NQT
Đỗ KH là nhà
văn Mít hải ngoại đầu tiên Gấu đọc, ngày
mới ra hải ngoại, và mê lắm, và nghĩ thầm,
tay này có thể kế tiếp mình, trong khi đi
tù VC, mở ra 1 cách viết mới cho văn học Mít.
Gấu đã từng viết như thế, trong 1, trong những bài viết
đầu tiên khi ra được hải ngoại, và, tất nhiên còn
ai trồng khoai xứ này, bài viết đó là
về ông anh của Gấu.
Có thể nói, đại khái,
có ba tên nhà văn, về mặt văn phong, muốn
đổi hẳn cách viết của Mít.
TTT, GCC và người thứ ba, Gấu hoài
vọng là bạn Khờ!
Cái gì làm bạn Khờ lựa
chọn thứ văn chương mì ăn liền, thay vì thứ đúng ra, anh phải viết, mà nó
mới đúng, là của anh?
Bao nhiêu năm nhìn
lại, tôi nhìn ra thất bại của bản thân, khi
tìm cách thay đổi văn mạch cũ của văn chương Việt Nam.
Sự thất bại không phải vì dòng văn chương mới
mẻ đó không thích hợp với quan niệm thưởng ngoạn
của đa số độc giả, mà là: Tôi quá bị ám
ảnh bởi vấn đề kỹ thuật. Một cách nào đó, tôi
đã không lãnh hội được bài học của Kafka, khi
ông cho rằng, kỹ thuật chính là hữu thể (être)
của văn chương. Rõ ràng, câu văn bị kỹ thuật non nớt,
sự vụng về, tham vọng làm mới văn chương... tàn phá,
trở thành vụn nát. Nhưng lối viết đó không phải
là một thất bại. Theo tôi, trong cuốn "Cây gậy làm
mưa", Đỗ KH. cũng đã thử nghiệm một lối viết mới "na ná"
như vậy, và hơn thế nữa, tác giả đưa luôn những mạch
văn "ngoại lai", những ngôn ngữ " quốc tế"... vào trong văn
mạch Việt Nam.
Kinh nghiệm đọc Bếp Lửa của
GCC, thú vị thay, tương tự của Adam Zajajewski, khi khám
phá ra Rilke.
Có điều với Gấu, giả như không
đọc Bếp Lửa, đúng vào lúc mới lớn, thì
không thể có Gấu Nhà Văn!
Đó cũng là điều TTT, viết về bạn
mình, là Mai Thảo, khi kể lại lần gặp gỡ đầu tiên, sau khi đăng bài
Đêm Giã Từ Hà Nội.
MT phán:
Giả như anh không đọc ra tôi, có
lẽ tôi bỏ cái việc viết lách, làm
1 tên gì khác.
Vậy mà khi viết về TTT, tưởng chết rồi, chàng
lầm bạn chàng với tên thợ sắp chữ!
Who,
if I cried out, would hear me among the Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can
still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.
Ai, nếu
tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả nếu
một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong hiện
hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng
là gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê
rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu đựng,
và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi
hủy diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng
sợ.
Rilke
For me, the happy owner of the
elegant slim book bought long ago, the Elegies represented
just the beginning of a long road leading to a better acquaintance
with Rilke's entire oeuvre. The fiery invocation that starts
“The First Elegy” - once again: "Who, if I cried out, would hear
me among the Angels' / Orders? And even if one of them pressed me
/ suddenly to his heart: 1'd be consumed / in his more potent being.
For beauty is nothing / but the beginning of terror, which we can still
barely endure" -had become for me a living proof that poetry hadn't
lost its bewitching powers. At this early stage I didn't know Czeslaw
Milosz's poetry; it was successfully banned by the Communist state
from the schools, libraries, and bookstores-and from me. One of the
first contemporary poets I read and tried to understand was Tadeusz
Rozewicz, who then lived in the same city in which I grew up (Gliwice)
and, at least hypothetically, might have witnessed the rapturous
moment that followed my purchase of the Duino Elegies translated
by Jastrun, might have seen a strangely immobile boy standing in the
middle of a side- walk, in the very center of the city, in its main
street, at the hour of the local promenade when the sun was going down
and the gray industrial city became crimson for fifteen minutes or so.
Rozewicz's poems were born out of the ashes of the other war, World
War II, and were themselves like a city of ashes. Rozewicz avoided metaphors
in his poetry, considering any surplus of imagination an insult to
the memory of the last war victims, a threat to the moral veracity of
his poems; they were supposed to be quasi-reports from the great catastrophe.
His early poems, written before Adorno uttered his famous dictum that
after Auschwitz poetry's competence was limited-literally, he said,
"It is barbaric to write poetry after Auschwitz"-were already imbued
with the spirit of limitation and caution.
Adam
Zagajewski: Introduction
Với tôi
người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh,
mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường
dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác
phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai,
nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống
động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào
lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC
Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà
sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi.
Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà
tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà
tôi sinh trưởng, (Gliwice), và,
có thể chứng
kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút
thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được
Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình
ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi
con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân
của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và
cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành
1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui
chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên
Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra
bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài
Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến
khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những
bài thơ, thì như là một thành phố của tro
than.Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ
của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là
1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót,
một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ
ông: Chúng được coi như là những bản báo
cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai
họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết
trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là
ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”,
thì đã hàm ngụ trong chúng, câu
của Adorno rồi.
Tuyệt!
NQT
Note: Có 1 sự trùng hợp
ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không
chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn,
khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được
nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon
trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở
điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro
than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán
xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không
có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn,
và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây
giờ?
Cái gì làm bạn
Khờ chọn văn chương mì ăn liền, thay vì thứ văn chương đúng
ra, là của anh?
Gấu nghĩ, bạn Khờ, bằng 1 trực giác nào
đó, nhận ra, anh không xứng với nó.
Anh, có được những ngày là
lính Ngụy, dù là lính kiểng, thì
lại thiếu 1 ngày tù VC.
Đây là cảm giác, của cả TTT,
khi quyết định không viết nữa, và theo Gấu, nó
phát xuất từ cái cảm giác của Primo Levi,
khi ông cứ ca cẩm, và nhiều lần, tức giận, vặc lại
cả Đấng Chí Tôn, tại sao tao, hử?
THE SURVIVOR
to B. V.
Dopo di
allora, ad ora incerta, Since then, at an
uncertain hour, That agony returns:
And till my ghastly
tale is told, This heart within
me burns.
Once again
he sees his companions' faces
Livid in the first faint
light,
Gray with cement dust,
Nebulous in the mist,
Tinged with death in
their uneasy sleep.
At night, under the heavy
burden
Of their dreams, their
jaws move,
Chewing a nonexistent
turnip.
"Stand back, leave me
alone, submerged people,
Go away. I haven't dispossessed
anyone,
Haven't usurped anyone's
bread.
No one died in my place.
No one.
Go back into your mist.
It's not my fault if
I live and breathe,
Eat, drink, sleep and
put on clothes."
Kẻ sống sót
to B. V.
Dopo
di allora, ad ora incerta,
Kể từ đó,
đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối
đó trở lại,
Và cho
tới khi câu chuyện thê lương của tôi
được kể
Trái
tim này trong tôi bỏng rát.
Một lần nữa, anh ta
nhìn thấy những khuôn mặt của bạn đường
Tái
nghét trong tia sáng đầu tiên
nhợt nhạt
Xám
xịt với bụi xi măng
Âm u
trong sương mù
Tẩm mùi
chết trong giấc khó ngủ của họ
Đêm,
dưới sức nặng của những giấc mơ
Hàm
của họ chuyển động
Nhai một mẩu
củ cải
đếch có, đếch hiện hữu
“Lùi
lại, hãy để cho ta yên thân, lũ người
ngập ngụa.
Đi chỗ khác
chơi
Ta đếch có
tước đoạt, chiếm hữu của bất cứ một ai
Không
cướp bánh mì
Không
ai chết ở chỗ của ta. Không ai
Hãy
trở lại khối sương mù của lũ mi
Đâu có
phải lỗi của ta, nếu còn sống, và
thở,
Ăn ngủ đụ ị,
và mặc quần áo”
"And this time you're going to Stockholm."
Và lần này,
là Stockholm
PRIMO LEVI THE SURVIVOR'S
SUICIDE
by James Atlas
JANUARY 1988
In the spring of 1987, Primo
Levi's literary reputation had never been higher. All over
the world, translators were preparing his work for publication.
There were even rumors that he might win a Nobel. "You'd better
get ready to travel again," Levi's publisher teased him over
the phone on Friday, April 10. "And this time you're going to
Stockholm." Around ten o'clock the next morning, Iolanda
Gasperi, the concierge of Levi's building, at 75 Corso Re Umberto
in Turin, rang the bell of his fourth-floor flat and handed him
the mail. "Dr. Levi had a tired look," she recalled, "but that
was nothing unusual. He was gentle. He took the mail, a few newspapers
and some advertising brochures, and greeted me cordially." A few
minutes later, she heard a loud thud in the stairwell and rushed
out of her lodge. ''A poor man was lying crushed on the floor.
The blood hid his face. I looked at him and-my God, that man!-I
recognized him right away. It was Dr. Levi." Lucia Morpurgo, Levi's
wife of forty years, had been out shopping. Her arms were full
of groceries as she pushed open the glass door. The concierge tried
to hold her back, but she flung herself down beside her husband and
tried to lift his head. Their son, Renzo, had also heard the commotion
and hurried down the wide staircase. They were joined by Francesco
Quaglia, a dentist who had known Levi since high school and had an office
in the building. Levi's wife embraced him. "Era demoralizato," she
said tearfully. "He was demoralized. You knew it, too, didn't you?"
TONI MORRISON LAUREATE OF DREAMS
by John Leonard
DECEMBER 2003
"Watch out for her," Denver
told her ghostly sister about their mother in Beloved:
"she can give you dreams." Giving us dreams has been Toni Morrison's
business from the beginning, from Not Doctor Street and No Mercy
Hospital and maple-syrup men with long-distance eyes to blind slaves,
baby ghosts, black Medeas, and convent women shot like deer. Love,
her new book from Knopf, is more such brilliant blues, in the echo
chamber of a seashell. Mermaids sing of a beach resort on the Middle
Atlantic coast where black people used to go to dance; of the glad-
handed owner, "an ordinary man ripped, like the rest of us, by wrath
and love," who traded favors with the local white pols to keep his hotel
open from the Great Depression through the civil-rights era, even as
he was enjoying too many women not at all wisely, including a child bride
he married when she was only 11 years old; and of those antiphonal voices
who were left behind in the haunted present to hate one another, dispute
his will, and construe the meaning of his poisoned-foxglove passing. But
like every other stealthy Morrison novel, Love has closets
and cellars, bolt-holes and trapdoors and card tricks. More than "just
another story to scare wicked females and correct unruly children," it
is also a Greco-Freudian fairy tale about winged hands and webbed feet,
bestiality and incest. Yet again, she gives us dreams.
Note:
Bài viết này, thật tuyệt. James Wood phân
biệt sự khác biệt giữa Kafka, và Levi:
Levi sometimes said that he felt a larger shame—shame
at being a human being, since human beings invented the world
of the concentration camp. But if this is a theory of general
shame it is not a theory of original sin. One of the happiest qualities
of Levi’s writing is its freedom from religious temptation. He did
not like the darkness of Kafka’s vision, and, in a remarkable sentence
of dismissal, gets to the heart of a certain theological malaise in
Kafka: “He fears punishment, and at the same time desires it . . . a
sickness within Kafka himself.” Goodness, for Levi, was palpable and
comprehensible, but evil was palpable and incomprehensible.
That was the healthiness within himself.
On the morning of April 11, 1987, this healthily
humane man, age sixty-seven, walked out of his fourth-floor
apartment and either fell or threw himself over the bannister
of the building’s staircase. The act, if suicide, appeared to
undo the suture of his survival. Some people were outraged; others
refused to see it as suicide. The implication, not quite spoken,
was uncomfortably close to dismay that the Nazis had won after all.
“Primo Levi died at Auschwitz forty years later,” Elie Wiesel said.
Yet Levi was a survivor who committed suicide, not a suicide who failed
to survive. He himself had seemed to argue against such morbidity,
in his chapter on Jean Améry in “The Drowned and the Saved.” Améry,
who killed himself at the age of sixty-five, said that in Auschwitz
he thought a great deal about dying; rather tartly, Levi replied that
in the camp he was too busy for such perturbation. “The business of
living is the best defense against death, and not only in the camps.”
Chính cái "bi zi
nét" ăn ngủ đụ, ị mặc quần áo.... nói gọn
nhẹ, living, này,
giải thích thái độ sống, và chọn thứ văn
chương mì ăn liền
của bạn Khờ!
Sorry abt that
NQT
Hóa ra câu phán
của Camus, Gấu đọc hồi mới lớn, tiếng Tẩy ăn đong, là
ở trong “Énigme” [Bí ẩn]: Tớ lớn lên cùng
với những người cùng tuổi, cùng tiếng trống Đệ
Nhất Thế Chiến, và lịch sử của chúng tớ, từ đó,
không ngừng chỉ là, sát nhân, bất công,
hay bạo lực.
Vậy mà tìm hoài!
16.5: SN [chắc là dởm]
Bác Hồ. Gấu tới Bangkok đúng ngày này,
cc 1990. Khi điền lý lịch UNHCR, Gấu đẩy lui lên,
hai hay ba ngày, cho khỏi xui, vì, những ngày
như thế đó, VC biến đau thương thành hành
động, dâng xác chết Mỹ Ngụy làm quà
SN Bác!
Chắc là dởm, vì
đó là ngày Sainteny tới Bắc Kít,
tính hoà đàm. Hồ bèn phịa, SN tớ,
để nhân dân kết hoa chào mừng!
Trước
1975, Gấu có một cái hình, độc nhất,
đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất,
như sau đây. Không thể ngờ, chúng trở thành
những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh lọc,
được nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị
nạn chính trị, thay vì di dân kinh tế. Nhờ vậy
mà sau đó, được phái đoàn Canada
chấp nhận.
Trích Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên
tập, xb trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi 1938,
theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937
Theo Gấu đoán, sau khi gieo quẻ
mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG,
là do nỗi buồn lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu
từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh chạy về xin đầu thú
đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”,
‘chết trong tâm hồn’. Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại
WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát
chết, những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó
thù mấy thằng khốn nạn VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến tranh
bằng cách đẩy thằng khác vô thế chỗ mình,
mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một nỗi
“chết trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một
anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài
viết, bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái
sự về châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.
Gấu này đã từng về "bắt
tay với VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được
cảnh cáo, thời tiết không đẹp như ngày
anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn
tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù
chủ nghĩa CS, chưa từng thù một ông VC nào,
trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng
tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng
tởm Gấu muời. Hẳn thế!
Anh vẫn chưa viết một chữ nào.
Cái máy chữ đặt trên chiếc bàn
con ngay kế sau lưng bám bụi, cùng với cái
cassette còn lắp cuốn băng Vivaldi nghe từ hôm
bị đụng đầu. Hơn tháng không nghe nhạc, tại mải
nghe những lóc cóc trong đầu mình, nghe
những cơn gió lửa và tuyết thổi qua thân mình.
Thật là tơi tả.
Anh chưa biết là quyển tiểu thuyết
sẽ viết ở ngôi thứ mấy. Cũng chưa biết gọi nó
là cái gì. Có hai cái tên
có thể tạm dùng được thì bị hư rồi. "Ung
thư" thì đã viết đăng tùm lum, đã
đưa cho nxb An Tiêm lấy tiền tiêu mà vẫn chưa
chịu cho in. Bây giờ mà đặt tên ấy nhất định
là ông sư Thanh Tuệ sẽ đòi in và mình
chẳng có đồng xu bản quyền nào nữa. Tên thứ
hai là "Nỗi chết không rời" - hồi đi Thủ Đức trích
đăng ở Bách Khoa đã dùng - sau bị ông
Trần Phong Giao lấy xài ngang xương cho một tập truyện của
2 anh em ông Duy Lam mất. Bí ngay từ cái tên.
Nhưng thôi cứ gác đó chưa vội gì.
Truyện anh định viết là một truyện
tình. Truyện tình của hai kẻ không chỉ
sống riêng với nhau trong một thế giới. Họ đều là
những kẻ chịu chằng chịt những ràng buộc với xung quanh
và mối tình chẳng bao giờ là của riêng
họ. Họ sống với nhiều người, sống với hư tưởng bao trùm
cả một đời. Và tình yêu sẽ như thế nào
trong hoàn cảnh ấy? Anh đang chiêm nghiệm. Câu
truyện tình của anh mang đầy những tham vọng. Nó sẽ
cho người ta thấy những con người, một xã hội và một
lịch sử nào đó. Tấn thảm kịch của hai người cũng là
tấn thảm kịch của VN mấy chục năm trở lại đây. (1)
Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans
rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a
qu'une solitude à offrir.
Trong một đêm anh
đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của
Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu
là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của
Bachelard - philosophe già, tóc trắng xóa,
tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có
ý lấy đoạn này để cho Mắt Bão. Em thích
không ? (1)
Note: "Quảng diễn", không
phải "quãng diễn". TTT viết lộn.
Mắt Bão, từ này của Gấu.
Đã trình với ông anh, nhưng chắc là
thấy thằng em lậm Cô Ba quá, viết gì nổi,
ông anh bèn dùng luôn.
Em thíck không?
Không biết Em có thích
không, nhưng Gấu thì không thích!
Hà, hà!
Bây giờ, Gấu mới đọc được Thư
gửi Đảo Xa, và bèn được sống lại cả 1 quãng
[dấu "ngã"] đời còn Sài Gòn.
Tại sao ông không tự sướng khi mô
tả ông, một thiên tài?
Chẳng có lý do gì
để tôi tự sướng 1 cách nhảm nhí như
thế.
Thiên tài gì
cái thứ chôm chĩa, kể cả, dịch dọt, cái
viết của người khác.
Phải làm ra mây của
mình, gió của mình, đừng mượn của
Đất Trời, như Mai Thảo phán chứ! (1)
Nhân nhắc tới Mai Thảo và
nhân trong nước đang tưởng niệm ông trên
trang Văn Vịt!
Ui chao bèn nhớ liền Vàng
Anh, cũng 1... Sagan của... VC, như bạn quí của
Gấu, HPA, đã từng thổi!
Nhìn cái bình tro
cốt thân phụ, một đại công thần của Vương Quốc
Quỉ Đỏ VC, em than, chỉ có thế này thôi
ư!
Điều đáng nói là
nhân vật của Vàng Anh, khi tỉnh táo cũng
như lúc điên rồ, họ không hề đánh
mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng bế tắc. Họ thường là
nạn nhân trong những cuộc chơi liều lĩnh, táo bạo,
mặc dù họ vẫn sáng suốt. Có lẽ họ nhẫn tâm
với chính họ hơn là với cuộc sống. Họ làm những
trang văn của Vàng Anh trở nên thơ và xúc
động hơn trong cái không khí âm u, xám
xịt của chúng. Họ đáng yêu hơn những nhân
vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng
tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn chán, sự nổi loạn không
đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng
sã, mù quáng một cách vô duyên
cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một
nơi nào khác. (1)
Phan Thị Vàng Anh, theo
tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn
chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một
trong những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng
ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn
xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực
của những con người quanh "cô bé". Cô bé
đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo
kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan. Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp,
người ta chào đón nó như một loài
chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí,
để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế
độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương
cũng đã nhận ra điều này với bao nhiêu tác
phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã
giữ riêng cho họ, một người tình. Nhưng xã hội Tây
Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những
năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang
được mùa. Có còn hơn không.
Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người
ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái
độ đạo đức-phi đạo đức như vậy. Cũng cần phải phân biệt,
phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách
nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên
ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả trong nước
có một cô bé õng ẹo, giữa một đám
đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô.
Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã
nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm
chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm
với chính họ hơn là với cuộc sống".
[Vàng Anh là con gái nhà
thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô
là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết,
trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu,
nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc
cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi
chính mình, "Chỉ có thế thôi à""] (2)
Aimez-vous.... Vàng Anh?
Mai Thảo đã từng dịch
Sagan, “Aimez-vous Brahms?” [Paris, Julliard, 1959]
Thú, là văn Sagan có
gì giống… MT, nếu
đọc cái tít bài viết trong số báo ML về
em, “Sagan, ou le non-style”: Thật khó mà định
nghĩa cách viết của tác giả, thứ văn của quyến rũ, mê
hoặc, sa langue a du charme: Mai Thảo chẳng thế ư? Mấy em chẳng
quá mê MT ư?
+++++++++
Date:
Tue, 5 Apr 2005 13:44:01 -0700 (PDT)
From:
Subject:
Hỏi thăm
Không biết bắt đầu từ khi nào
mà người viết thư nầy thấy mình điên quá
chừng. Điên vì nhìn chung quanh không
thấy ai giống mình cả. Người nào cũng sống rất
điều độ, ăn uống điều độ, ngủ ngáy điều độ, nói năng
điều độ, làm việc điều độ. Còn mình thì
chỉ dành một ngày ba bốn tiếng để ngủ, còn
thì bao nhiêu thì giờ ngồi trên máy
mà đọc. Ngồi trên máy mà tưởng mình
đang ngồi giữa thư viện bao la, sách cao chất ngất, thơ thẩn
bay như bươm bướm, chữ nghĩa muôn màu nhấp nháy
hoa cả mắt, không biết nên giở cuốn nào trước,
cuốn nào sau, nên đọc sách nghiên cứu, sách
phê bình, truyện ngắn, truyện dài, điểm sách,
tin tức, thời sự.....Đang sợ mình bị bệnh nghiền Internet,
nhưng biết chắc mình không phải vậy. Nhiều người nghiền
vào Internet chỉ để "chat", tìm một đối tượng để tâm
sự. Còn mình thì nhảy từ site này sang
site khác. Nội vào trang Tin Văn, đọc cho hết chắc
cũng mất hết mấy tiếng đồng hồ. Đó là chưa kể từ một
dữ kiện được nhắc đến trong một bài, một câu nào
đó, để thấu đáo, lại search lung tung cả ra xem thử dữ
kiện ấy mang phần hành, ý nghĩa gì trong đoạn mình
vừa đọc. Một câu hỏi chợt loé lên trong đầu lúc
đang đọc say sưa, quên cả giờ phải đi làm (nói chi
đế chuyện quên cả ăn, ngủ) là mình đọc để làm
gì? Để biết? Biết để làm gì? Những chuyện như các
ông nhà văn lưu vong Nga hay các nước Đông
Âu muốn ở lại đất nước tạm dung hay trở về nguyên quán
mà chôn thì có liên quan gì đến
đời sống hiện tại của một người tị nạn mô nà. Có nên
đặt những câu hỏi như thế mỗi lần đọc một bài phỏng vấn những
nhà văn xa lạ không? Ngày xưa, trong thời chiến, anh
đọc để trốn, để tìm một nơi an toàn cho mình. Bây
giờ anh đọc để làm gì? Chỉ để thoả mãn sự đòi
hỏi của tri thức? Sự đòi hỏi ấy càng ngày càng
tham lam. Người ta nói rằng, cứ ba mươi giây là có
một cuốn sách được in ra. Làm sao mà đọc cho xuể.
Nghĩ rằng, trong sự đọc sách, hẳn cũng phải có một qui luật
nào đó mình phải tuân theo, không phải
như hồi còn bé, thấy đâu vơ đó, hay như hồi
còn đi học, chỉ đọc những cuốn xoay quanh môn học của mình
cộng thêm vài ba cuốn giải trí hoặc mở mang kiến thức
vừa đủ để đừng tan loãng trong đám đông. Internet
mở ra một chân trời mới, bao la quá khiến mình ngợp
lúc quay trở lại với văn chương sau mấy chục năm chạy theo cơm áo
và bổn phận, đọc toàn sách mua được trong các
quầy sách hạn chế trong thành phố đang ở.
Site của anh là một trong những
site mà người viết thư này hay vào. Tuy
không quen, không biết anh, người viết cũng đánh
bạo mà xin anh cho vài câu trả lời dùm
: Làm cách nào mà anh đọc nhiều, viết
thật nhiều, maintain cái site của anh, giữ mối liên
lạc bằng hữu và người thân, mà không
thức trắng đêm, ngày này sang ngày khác
vậy???
Cám ơn anh,
Viết cho anh như thả lá trong dòng
suối, không biết có người vớt hay trôi
tuốt ra biển cũng không chừng.
Phúc
đáp,
Rất
vui, và rất mừng, khi đọc thư bạn.
Mạn phép đăng, vì nghĩ có
liên quan đến một số vấn đề có thể cùng
thảo luận trên Tin Văn
Tôi hiện đang hàn huyên
với bạn cũ Sài Gòn, từ hồi còn đi học,
ở Tiểu Sài Gòn.
Khi về, sẽ có thư trang trọng hơn.
Tôi nhìn thấy Pleiku
lần đầu tiên vào một buổi chiều trên
đảo Bidong. Tôi ở trong dãy
nhà gỗ trải dài trên đồi khu F. Căn nhà
đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió lùa
vì hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà
này có chừng ba hay bốn dãy, lâu quá
tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao
nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi nhìn
thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng
cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy biển
mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái
nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn
thấy dãy nhà phía dưới.
Phố núi cao phố núi
mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp
thật buồn. . .Tiếng nhạc vọng từ dãy
nhà bên dưới, có một người đàn
bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette.
Khói củi ướt nhóm trong lò
bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước
biển mù mù như sương.
Bất giác lại nhớ
đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc.
Bà nói, trong
bài viết của cháu, được ông nhắc tới, có 1 câu,
cháu rất thích, và cháu không hề nghĩ,
có người tìm thấy nó, vậy mà ông tìm
đúng câu đó, để mà lọc ra.
Bông
hoa thứ ba,
Từ cuốn tiểu sử của Kafka, "Những năm
đốn ngộ":
CHAPTER SIX
Kafka Encounters His Readers
The only place to eat your fill
is at your own table.
-Eastern European Jewish proverb
Dear Sir,
You have made me unhappy.
I bought your "Metamorphosis"
as a present for my cousin, but she doesn't know what to make
of the story.
My cousin gave it to
her mother, who doesn't know what to make of it either.
Her mother gave the
book to my other cousin, and she doesn't know what to make
of it either.
Now they've written
to me. They want me to explain the story to them because I am
the one with a doctorate in the family. But I am baffled.
Sir! I spent months
fighting it out with the Russians in the trenches without flinching,
but if my reputation among my cousins went to hell, I would
not be able to bear it.
Only you can help me.
You have to, because you are the one who landed me in this
situation. So please tell me what my cousin ought to make of
"The Metamorphosis."
OSVALDO FERRARI. Today we will
talk about beauty. But before we do so, we will transcribe
your views about the place of art and literature in our times
as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature
... should try and free themselves from time. Often, I have
been told that art depends on politics or on history. I think
that's untrue. It escapes, in some way, from the organized causality
of history. Whether art happens or doesn't, either depend on the
artist.
FERRARI. Another matter not usually talked
or thought about, apart from the spiritual life, is beauty.
It's odd that, these days, artists or writers do not talk about
what is supposedly always their inspiration or objective, that
is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn
out but not the concept- because what purpose does art have
other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not beautiful
though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing,
your poems, your stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly
art'- sounds horrible, doesn't it? But there have been so
many literary movements with horrible names. In Mexico, for
example, there was a literary movement frighteningly called Stridentism.
It finally shut up, which was the best thing it could do. To
aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that
movement against the great poet Ramon Lopez Velarde. I remember
his first book-without any hint of beauty, it was called 'Inner
Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs)
To possess inner scaffolding? I remember one line of a poem, if
it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed suicide
in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my forgetfulness
is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect
much from the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think
he was the Mexican ambassador there and that had made him forget not
only literature but his literature. But he has remained in the histories
of literature, which collects everything, as the founder of the Stridentist
movement (both laugh). Wanting to be strident-one of
the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty,
I would like to consult you about something that has caught
my attention. Plato said that of all the archetypal and supernatural
entities, the only visible one on earth the only manifest one,
is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other
things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that
the beauty of a poem has to appeal to our ears and the beauty
of a sculpture has to pass through touch and sight. But these
are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if
beauty reaches us through forms which could be verbal or sensual or,
as in the case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts
aspire to the condition of music. I think that is because form and
content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story, perhaps
even give it away, or that of a novel, but one cannot tell the story
of a melody, however straightforward it may be. Stevenson said, though
I think he was mistaken, that a literary character is nothing but
a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary
that we perceive it as more than a string of words. We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that
a character is only a string of words, then that character
has not been well created. For example, reading a novel, we must
believe that its characters live beyond what the author tells us
about them. If we think about any character in a novel or a play,
we have to think that this character, in the moment that we see him,
sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we don't,
then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky
that caught my eye as much as one by Plato. About beauty,
he said, 'In beauty, God and the devil fight and the battlefield
is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by
Ibsen, 'That life is a battle with the devil in the grottoes
and caverns of the brain and that poetry is the fact of celebrating
the final judgment about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty
to a destiny, a mission. And among us, Murena has said that
he considers beauty capable of transmitting an other-worldly
truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we
do not receive it as a revelation beyond what's given by our
senses, then it's useless. I believe that feeling is common.
I have noticed that people are constantly capable of uttering
poetic phrases they do not appreciate. For example, my mother
commented on the death of a very young cousin to our cook from
Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary,
'But Senora, in order to die, you only need to be alive.' You only
need to be alive! She was unaware that she had uttered a memorable
sentence. I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do
not require any other conditions to die, that's the sole one. I think
people are always uttering memorable phrases without realizing it.
Perhaps the artist's role is to gather such phrases and retain them.
George Bernard Shaw says that all his clever expressions are the ones
he had casually overheard. But that could be another clever feature of
Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case,
a great coordinator of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a
secretary for so many masters that perhaps what matters is
to be a secretary and not the inventor of the sayings.
FERRARI. An individual memory of a collective.
BORGES. Yes, exactly that.
Bạn chỉ cần còn sống,
và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc
chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém: Văn
Chương.
Note: Mới tậu. Đi liền cú, Borges
lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch
Trước Pháp Luật:
Kafka Could Be Part of Human
Memory Kafka có thể
[có, là] phần hồi ức lịch sử
"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì
cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít: Chúng
ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp
Lửa", thí dụ vậy,
Ferrari hỏi Borges, nghe người ta nói
là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử
của thời chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka,
Borges bèn trả lời, thì đúng như thế, nhưng
quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng
ta!
Ui chao em của GCC, HA, trách Gấu,
mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết,
thì mất liêu luôn, sao không chịu in
ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn cả hồi ức Mít!
Hà, hà!
FERRARI. But we are told that
we cannot make a faithful interpretation of our times without
Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important
than our times....
Sáng ra,
đọc được mấy stt hay của các nhà văn. Xin một
cái đã.
Ký ức nạn nhân trong cách
hiểu này có khi còn đau đớn hơn những ký
ức nạn nhân dưới những hình thức khác, vì
nó tự thân, vì nó không thể
tự xoá.
Cảm ơn anh @Lại Nguyên Ân
Note: Cái
stt này, 1 cách nào, lọt vào cái "context"
của GCC, khi viết về "hồi ức Mit"
Từ từ tính!
Cái chuyện GCC hay nhắc tới ông
anh, hay nói thẳng ra, gần như dưới mắt GCC, chỉ có
ông anh của Gấu, đã từng bị chúng chửi hơn
1 lần.
Đúng như thế, và đây
là vấn đề thuộc về đạo hạnh, nhiều hơn là về
văn tài
Phải 10 năm ông anh đi xa,
thì Gấu mới hiểu ra sự kiện đơn giản trên, khi nhớ lại
bài viết của Nathalie Sarraute về Dos, đọc từ hồi mới lớn, và có nhắc tới
nó, khi viết về Hồi ký viết dưới hầm, bản dịch của
Thạch Chương
Ném mẩu thuốc cuối cùng
xuống lòng sông
Mà lòng mình phơi trên
kè đá
Cảnh này thì lại
giống phía bên kia Thủ Thiêm, xa xa là
cầu Calmette.
Gấu có quả nhiều kỷ niệm ở bến đò
này (1)
(1)
1965, Gấu, trong
khi nằm chờ mổ lần thứ nhì, tại nhà thương Grall,
không biết làm gì, bèn đọc Lefèbvre.
Nhờ ông anh vợ hụt mua giùm, tận bên Tây.
Một lần, cô em, Bông Hồng Đen,
thương tình, ghé thăm, trên đường từ nhà,
đường Gia Long, Ngã Sáu Sài Gòn, em
đi ngang Chợ Bến Thành, qua Lê Lợi, ghé tiệm
sách nói trên, mua cho Gấu cuốn Un Beau Matin d'Été,
của James Hadley Chase, tiểu thuyết đen, série noire, hay
thriller, hay polar như bây giờ thường gọi.
Cô hỏi, đọc chưa, Gấu ngu quá,
nói, đọc rồi.
Cô nói, em cũng đoán
là anh đọc rồi.
Lần này, mua, là mong gặp lại
cuốn kia.
Gặp lại, một buổi sáng đẹp, mùa
hè.
Nơi có cái
xà lan, là bến đò đi thăm nuôi tù cải tạo
Ðỗ Hòa.
Kế bên Ngân Ðình Tửu
Gia, là nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, nơi Gấu ăn
mìn VC.
Bên kia sông, Thủ Thiêm,
là nơi Gấu bị tóm, tống đi Ðỗ Hòa.
Note: Từ đắt nhất, là từ “lắc”, trong
"mai xa lắc'
Câu thơ Da
em mềm như mây chiều trong Gấu nghe hát, thành ra:
Nên em buồn như mây chiều trôi
Đến lúc coi lại, thì trong,
chứ không trôi.
Lại thắc mắc, mây trời trong thì
làm sao mà buồn?
Đến giờ thì mới biết, nó là: Da em mềm như mây trời
trong!
Foucault viết, vào thời hoàng kim
của nghệ thuật, con người ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên
của sự vật: Tại sao trời mưa? (1), thí dụ vậy. Đó
là thời kỳ Barthes gọi là ‘nhà văn không
văn chương’, cứ viết ra chữ là thành văn rồi.
Văn chương sau này, theo Foucault, bắt đầu
bằng cơn điên cuồng gọi tên sự vật, với sự tiếp tay
của con quỉ tương tự, le démon de l’analogie, của những từ
"như, hình như, có vẻ…."
Hình như là tình yêu!
(1) Truyện đầu tiên, tôi
chẳng còn nhớ nổi tên, đăng trên tuần báo
Mã Thượng, trang văn học nghệ thuật cuối tuần, do nhóm
chúng tôi chủ trương, khi đó đều còn học
trung học, có Huỳnh Phan Anh, Dương Trần Thảo, tức Dương Văn
Ba, sau làm dân biểu, làm báo Tin Sáng,
và tôi. Chính trên trang báo này,
Huỳnh Phan Anh và Dương Trần Thảo đã cho đăng lá
thư gửi nhóm Sáng Tạo, tranh luận về "nghệ thuật hôm
nay" (bạn đọc có thể đọc bài viết này trên
trang Tin Văn do Nguyễn Quốc Trụ phụ trách). Lúc đó,
nhóm chúng tôi chủ trương nghệ thuật hôm
nay là nghệ thuật mô tả cuộc sống như nó là,
gợi ý từ cụm từ "Tel Quel" của Pháp. Truyện ngắn đầu tay
của tôi, lạ lùng thay, lại rất hợp với chủ trương của nhóm
(Tôi còn nhớ, HPA gật gù, đúng là
"tel quel" thật!). Câu chuyện một anh chàng chủ nhật khơi
khơi đi ra đường, rồi khơi khơi ghé nhà em, nhìn
em nhặt rau, rửa chén, rồi phơi phới ra về. Ra ngoài
đường, trời mưa, và anh chàng băn khoăn hỏi trời, hỏi
đất, hỏi người qua đường, hà cớ chi mà trời mưa?
Nhật ký Tin Văn
Về tới
Tân Sơn Nhất, chìa cái này ra, không
hiểu có bị đuổi không?
Đam mê văn chương
đồng nghĩa với nhọc nhằn vất vả. Chiêm nghiệm lại điều ấy
thật chẳng sai chút nào. Đọc rất nhiều, viết rất nhiều
mà chẳng được bao nhiêu. Đã có lúc
tôi có ý định tạo cho mình một phong cách,
một lối đi riêng rẽ nhưng rồi rốt cuộc cũng chẳng tìm
thấy gì. Văn chương là khu rừng rậm rạp đầy bí hiểm,
mỗi người tự chui vào và tự tìm đường bò
đi. Ở đấy chẳng biết dựa vào ai, chẳng có ai giúp
đỡ. Và may thay tôi đã tìm được cho mình
một cây gậy chống cho đỡ vấp ngã mỗi khi bị say chếnh
choáng trên cõi đời này. Cây gậy ấy
chính là quê hương, Tổ quốc, là hướng tâm
về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Lá bùa
hộ mệnh đó là kim chỉ nam xuyên suốt qua những
sáng tác của tôi. Sống giữa thế giới
mênh mông của trời đất và lòng người, thênh
thang thế mà nhiều khi vẫn thấy cô quạnh. Nơi đất khách
quê người ngồi nhâm nhi ly cà phê, thả hồn qua
làn thuốc để cố tình kéo quá khứ về hiện tại
và tôi bỗng thấy thương quá chính mình
và những số phận trần gian. Những lúc như thế tôi lại
ngồi vào bàn viết, viết tất cả những gì chợt đến, đuổi
theo những gì đột ngột trôi đi. Những khuôn mặt thân
thương bạn bè, người thân trở thành nhân vật,
bờ tre gốc lúa, cánh diều hóa thành những vần
thơ. Hình như thời gian càng trôi đi bao nhiêu
thì ký ức của người xa xứ càng khắc khoải. Từ nửa vòng
trái đất tôi cảm thấy mình công bằng hơn khi đánh
giá một vấn đề.
Note: Tối
qua, nhớ Sài Gòn quá, Gấu dạo net, gặp Những Ngày Sài Gòn ở
Thư Viện Úc, trên. Thú quá.
Không ngờ cuốn sách nhỏ bé của
Gấu kiếm ra cái thế giới của nó ở xứ Kanguru! (1)
Va, petit livre, et choisis ton monde.
Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ
bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.
Mẩu quảng
cáo trên một số Văn, một anh bạn văn trong nước gửi cho
(1)
(1) Chú đã tìm
lại được mấy cái này chưa, đều trên báo
Văn.
Có cái quảng cáo "Những ngày
ở Sài Gòn" trên Văn số 161, chuyên đề
"Thi sĩ Quách Tấn", 1970.
Truyện "Kiếp khác" trên Văn số 135,
1969, "tuyển tập văn mới".
Tks. NQT
Mình
gọi đó là “liệu pháp đường xa” mỗi khi cần
phải chống sốc vì phải đi về giữa hai môi trường sống,
hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi…
mỏng. Nên hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi
bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm lạnh người đời mình
thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán
ăn bên đường, cùng với được mất đắng cay sau những ngày
rời tổ. Có quá nhiều thứ phải bỏ lại, và mình
cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe
chạy thì chậm rãi, nhà cũng xa vừa vặn để mình
trở lại là mình (hoặc gần giống mình). Thôi
thì chân chất, ừ thì quê mùa… miền Tây
mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải
Sài Gòn Hà Nội, đây là một thế giới khác
rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh
mì ở bến xe đem về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng
tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường, nhiều người ngồi chồm hổm
chờ ngoài sân không dám ghé mông
ngồi vào ghế, sợ thức ăn đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây
mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay nắn hai
túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài
cái kim tây. Có lần mình ngồi cạnh một bà
già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo,
cắn lóc cóc.
Những người miền Tây quăn queo lam lũ thật
thà này, bolero này, dầu gió này
mình không bao giờ gặp trên những chuyến bay.
Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham
xe đò có bạn bè cười, mình chống chế bằng
một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người
thì không xa lạ với tôi. Nhưng
trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại
là sến cho rồi, có sao đâu…
NNT
Gấu đọc câu gạch dưới ở trên
rồi, nhưng không nhớ của ai, bây giờ mới kiếm ra, khi
đọc Errata, của Steiner: Nothing
human is alien to me: Nihil alienum. Của nhà viết
kịch La Mã Terence (190-158 BC).
Cô Tư, sến, boléro, dầu gió,
kịch La Mã, mới ghê!
Trong Errata, cùng khúc đó,
Steiner đưa ra một ý nghĩa thật tuyệt vời cho từ ‘stranger’,
kẻ xa lạ, mà có thể đây mới là ẩn dụ
của cái tít cuốn truyện của Camus. (1)
(1)....
There is a fundamental implication to the legends,
numerous in the Bible, but also in Greek and other mythologies,
of the stranger at the door, of the visitor who knocks at the gate
at sundown after his or her journey. In fables, this knock is often
that of a concealed god or divine emissary testing our welcome. I would
want to think of these visitors as the truly human beings we must try
to become if we are to survive at all.
It may be that the Jew in the Diaspora survives in
order to be a guest - so terribly unwelcome still at so many shut
doors. Intrusion may be our calling, so as to suggest to our fellow
men and women at large that all human beings must learn how to live
as each other's 'guests-in-life'. There is no society, no region, no
city, no village not worth improving. By the same token, there is none
not worth leaving when injustice or barbarism take charge. Morality
must always have its bags packed. This has been the universalist precept
of the prophets, of Isaiah, Deutero-Isaiah and Jeremiah in their ancient
quarrel with the kings and priests of the fixed nation, of the fortress-state.
Today, this polemic underlies the tensions between Israel and the Diaspora. Though the thought must, like
the ritual name of God, be unspeakable, the greater verity is that
Judaism would survive the ruin of the state of Israel. It
would do so if its 'election' is indeed one of wandering, of the teaching
of welcome among men, without which we shall extinguish ourselves on
this minor planet. Concepts, ideas, which exceed in strength any weapons,
any imperium, need no passports. It is hatred and
fear which issue or deny visas. I have felt more or less at home
- the Jew is often a polyglot almost unawares - wherever I have been
allowed a table to work at. Nihil alienum, said the
Roman playwright. 'Nothing human is alien to me.' Or to put it another
way: what other human presence can be stranger to myself than, at times,
I am?
Steiner: Errata,
p. 56
*
Những gì thuộc về con người...
From:
Sent: April 5, 2010 12:59:48 AM
To:
…. Cô Tư lên tiếng cho đồng quê
Nam Bộ đang bị công nghiệp hoá bức tử, chứ cổ là
con nhà cách mạng thứ thiệt, thì Scarlett với
Melanie cái nỗi gì?
Câu được gạch dưới của cổ là chỉ lặp
lại lời một người khác trong một blog, và cũng là
câu mà "bác" Marx và cách mạng
hay trích dẫn, học sinh sau 75 biết ráo, khổ cho Gấu
phải truy lục.
Tôi thấy Gấu quá đau đáu với
Miền Nam
xưa mà thành ra lẩm ca lẩm cẩm như vậy.
Tôi cũng thích văn của cổ bất luận cổ
là ai, thuộc nhóm nào.
Với tôi, văn chương có những vô
thức sáng tạo, có con người thuần tuý bên
ngoài chính trị. Đó là lý do tôi
thích GNV, ông cứ lèm bèm những v/đ chính
trị, nhưng bên trong ông lại có một con người
thuần túy của văn chương, rất nhân hậu và cảm động.
Kính,
Một độc giả.
Phúc
đáp: Rất
nhân hậu và cảm động!
Đa tạ, muôn vàn đa tạ.
Kính
GNV
Kiệt
nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở
về. Một Chủ Nhật Khác
Kundera viết: L’Iliade hoàn
tất từ lâu, trước khi thành Troie ngã gục,
nó hoàn tất vào cái lúc mà
cuộc chiến còn chưa ngã ngũ, và con ngựa gỗ
thần kỳ chưa nẩy ra ở trong đầu Ulysse. Và đây là
đòi hỏi mỹ học của nhà thơ sử thi lớn lao đầu tiên
của nhân loại: Mi đừng bao giờ để trùng hợp thời của những
số phần cá nhân với thời của những biến động lịch sử.
Bài thơ sử thi lớn lao đầu tiên của nhân loại mang
nhịp điệu của thời của những số phận cá nhân. L'Iliade
s'achève longtemps avant la chute de Troie, au moment où
la guerre est encore indécise et où le fameux cheval
en bois n'existe même pas dans la tête d'Ulysse. Car
tel était le commandement esthétique stipulé
par le premier grand poète épique: tu ne laisseras jamais
coïncider le temps des destins individuels avec le temps des événements
historiques. Le premier grand poème épique fut rythmé
sur le temps des destins individuels.
Kundera: Une rencontre
Câu
thơ “Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới”, là cũng nằm trong dòng suy nghĩ của Kundera,
trên.
Bếp
Lửa kết thúc bằng cái cảnh Tâm xuống Cảng gặp Ngọc, bạn
mình, thì bạn đã đi rồi. [Hắn đi thật rồi, như ông
Chính đã chết, Đại đã đi]. Và
sau đó, là cái "email" của Tâm [Anh
yêu quê hương vô cùng và anh yêu
em vô cùng] (1) gửi cho Thanh, như vậy là Tâm
cũng đã đi rồi.
Cái “email” này nằm trong dòng
suy nghĩ của Lukacs, "con đường tận cùng, cuộc hành
trình bắt đầu", le chemin est fini, le voyage est commencé;
ý thức tiểu thuyết gia vượt ý thức nhân vật, để
tìm lại đời sống thực
Họ chỉ
trở về qua nhân vật Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác.
Câu thơ là nỗi nhớ quê hương, “ôm
em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới”,
của đám Miền Nam
lưu vong, nhớ thiên đường Tara
(1) của họ
Mô
phỏng Kundera:
Một Chủ Nhật Khác "hoàn tất từ lâu",
từ lúc manh nha khởi đầu cuộc chiến lần thứ nhì, với
bối cảnh là Hà Nội:
Bếp Lửa miêu tả không khí Hà-nội
trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng,
chia lìa hoặc cái chết. TTT
Nói
một cách khác, Bếp Lửa và Một Chủ Nhật Khác
bổ túc cho nhau. Đây là lý do tại sao
TTT không cho xb Ung Thư:
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung
Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là
chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của
nỗi chết [l'existence de notre acceptation entre la vanité
et la tièdeur de mort]. Cuốn sách chẳng bao giờ được in
ra... TTT
*
(1) Chỉ có ngoại là
nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái
chòi sát bên căn nhà đổ nát cho
ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người
con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi nơi, kẻ theo
quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình ngoại,
già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi muốn
khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên
có hai hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn
thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu cháu lang
thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều,
hàng chục thứ dây leo chằng chịt, quấn quít trên
cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy trong
đám dây leo đó có những sợi mầu vàng.
Đây là loại dây leo không rễ, bám
vào cây nào thì cây đó sẽ khô
héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây
tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà ngoại,
lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa đã
lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị
bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng của ngoại
cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn mấy
cây ổi sống dai, xanh um, trái chín vàng ối
rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày xưa
tôi và dì út thay phiên nhau hành
nó, không ngày nào mà hai dì
cháu không trèo cây, hay lấy gậy chọc trái.
Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy gốc...
Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không
còn những âm thanh ríu rít như ngày
xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở
về gặp lại vườn cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới
khi nghe tiếng ngoại đánh thức...
... tôi rất thích
truyện ngắn cuả Thảo Trần.
Giọng kể cuả bà thanh thản mà gây
buồn da diết, đúng là viết mà như không
viết!
Đoạn "Tara" mà
tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì
nó rất tự nhiên. (2)
Tks
TT/NQT
* (2)
Gấu đã có kinh nghiệm
này rồi. Lần mê văn Nguyễn Ngọc Tư, thổi lấy thổi
để, mang cả ông thầy Faulkner ra, cả thầy lẫn trò xúm
lại thổi, một nữ tác giả mail, hỏi, truyện của NNT hay, nhưng
truyện của Thảo Trần mà không hay sao. Cùng cái
air Nam Bộ, bà Thảo Trần nhà ông có khi
còn bảnh hơn, ở một số điểm nào đó.
Gấu mail cám ơn, và nói thực,
bà Thảo Trần không cho phép Gấu nịnh bà
‘công khai’ như thế.
Để người khác đánh giá, thì
hay hơn.
Quả đúng như thế. Khi tập truyện
ngắn được xb, có hơn một bạn văn thực tình khen ngợi. Ông
nhà văn Nhật Tiến sửa lưng Gấu, ông tài năng thế nào
thì thiên hạ biết rồi, tại sao không để cho bà
xã một mình một cõi.
Ấy là vì tập truyện ngắn còn
kèm thêm mấy cái ‘ký’ của Gấu.
Rồi ông Thảo Trường cũng bực, bà Thảo
Trần “viết mà như không viết”, vậy mà ông
còn giả đò nhún nhường, để cho bà “tập”
viết ư? Nguồn
Note:
Em này đang rấr ăn khách. Gần
như báo nào cũng bài của Em, hoặc, viết về Em.
GCC biết đến Em, là lần đọc bài
của Em viết về Graham Greene. Mê quá là
mê.
Thú nữa, là 1 đấng NVVC dịch
bài viết, và Gấu nhặt ra được 1 cục sạn to tổ
bố!
Tin Văn sẽ giới thiệu bản tiếng Việt.
Đọc loáng thoáng, đây là bài diễn từ
cảm ơn khi nhận giải thưởng văn học the 2016 Welt Literature Prize.
Và hình như là để trả
lời câu hỏi hắc búa, trước đọc bà thấy
lạc quan, sao giờ chán chường. Thua hả?
An essay is an act of imagination. It still
takes quite as much art as fiction.
Suffering from 'novel nausea', Zadie Smith
wonders if the essay lives up to its promise. Tiểu
luận là hành động của tưởng tượng. Đâu
thua gì giả tưởng. Đau nhức vì ‘buồn nôn tiểu
thuyết’, Zadie Smith mơ mòng tự hỏi, liệu tiểu luận
bảnh như là lời hứa, của chính nó?
Bà này viết essay cũng thật tuyệt
cú mèo. Gấu mê hơn nhiều, so với giả tưởng.
Cũng vậy, với Coetzee.
Bài essay đầu tiên của bà
làm Gấu choáng, viết về Greene.
Bài mới đây, về Kafka.
Note: Mấy cái
mới viết, về Home, sơ
ý delete hết. Folder Sách & Báo
mới cũng bị trục trặc.
Sorry
I quit life as from an inn, not
as from a house
Marcus Tullius Cicero, 44 BC
Tớ rời bỏ cuộc đời, như quán trọ,
không phải nhà
At the worst, a house unkept
cannot be so distressing as a life unlived
Rose Macaulay, 1925
Nhà không giữ được thì
cũng tệ như đời quên sống!
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Ui
chao, bao thơ Gấu thì đều là về cô bạn, về cuộc
đời bỏ lỡ!
In Wales no one begs. Everyone's home is
open to all, for the Welsh generosity and hospitality are
the greatest of all virtues. When you travel, there is no question
of your asking for accommodation or of their offering it; you
just march into a house and hand over your weapons to the person
in charge. They give you water so that you may wash your feet, and
that means that you are a guest. With these people, the offering of
water in which to wash one's feet is an invitation to stay. If you
refuse the offer, it means that you have only dropped in for refreshment
during the early part of the day and do not propose to stay the night.
Guests who arrive early
in the day are entertained until nightfall by girls who play
to them on the harp. In every house there are young women just
waiting to play for you, and there is certainly no lack of harps.
Here are two things worth remembering: the Irish are the most jealous
people on earth, but the Welsh do not seem to know what jealousy
is; and in every Welsh court or family, the menfolk consider playing on
the harp to be the greatest of all accomplishments. When night falls
and no more guests are expected, the evening meal is prepared. In
a Welsh house there are no tables, no tablecloths, and no napkins.
Everyone behaves quite naturally, with no attempt whatsoever at etiquette.
You sit down in threes, not in pairs as elsewhere, and they put the
food in front of you, all together, on a single large trencher resting
on rushes and green grass.
The whole family waits
upon the guests, and the host and hostess stand there making
sure that everything is being attended to. If there is a shortage
of anything, it will be they who go without. Finally, the time
comes to retire to rest. Alongside one of the walls is placed a communal
bed, stuffed with rushes, and not all that many of them. For sale
overing there is a stiff, harsh sheet. They all go to bed together.
Gerald of Wales, from
The Description of Wales.
The son of a Norman knight, Gerald studied
at a Benedictine abbey before leaving in 1165 to spend several
years in Paris. After his return, he received a position as
archdeacon; it came with a small residence in the Welsh village
of Llanddew. He was not promoted for fourteen years. “ I occupy a
tiny dwelling house, » he wrote. "I pass my time in a sort of
happy-go-lucky mediocrity. This house gives me pleasure, and it is
conducive to thoughts of the next world. »
Note: Đọc, thì bèn nghĩ tới
những ngày mới tới xứ Nam Kít.
Nơi không ai ăn xin. Nhà nào
cũng mở cửa rộng cho tất cả, vì dân ở đây,
với họ, rộng lượng và hiếu khách là những
đức hạnh lớn lao nhất của tất cả đức hạnh
What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì
cơ chứ? Pourquoi des poètes en temps
de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger
"... and what are poets for in a
destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài điếu "Bánh mì
và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu
đứng: The time of the world's night is the destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time?
How is his poetry related to the destitution of the time? How
deeply does it reach into the abyss? Where does the poet go, assuming
he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ
của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ
của ông móc nối với sự điêu đứng của thời gian?
Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm?
Nhà thơ đi đâu, giả dụ như có một nơi chốn nhà
thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời
gian mà chúng ta còn thuộc về nó.
Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy
sinh của Đấng Ky Tô Christ đánh dấu bắt đầu và
chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the gods. Đêm
xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united
three' - Herakles, Dionysos, và Christ - rời bỏ thế gian,
buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm tối
của nó. Đêm thế gian trải dài bóng tối của
nó. Đây là thời thần linh trễ hẹn [The era is
defined by the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần linh,
default of god. Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh
nghiệm không có nghĩa chối bỏ liên hệ giữa thần và
người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần linh có nghĩa,
chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật
thành một mối, và bằng một mối thâu gom như thế,
lịch sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi cùng
với nó.
* “Hồi Võ Phiến sang chơi Paris
và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet,
có bận tôi hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền
là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến
đã đáp không do dự: là một nhà
văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét của Võ Phiến, theo tôi,
sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn
đặc biệt về ông, Gấu này đã phán, nay
xin ghi lại ở đây:
1. Một vài ý nghĩ nho nhỏ về thơ Thanh
Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu thuyết, truyện, truyện ngắn vốn
dễ đọc hơn thơ, kịch, cho nên, đối với số đông độc giả,
Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn xuôi
hơn là thơ. Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu
tâm tới vấn để văn chương, những tập Tôi không
còn cô độc, Liên đêm mặt trời tìm
thấy đã định nghĩa thế nào là thơ, thơ tự
do, thơ TTT.
* Pourquoi des poètes en temps
de détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như
thơ của một số thi sĩ khác cùng thời với ông,
một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi
trên của Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường quan niệm thơ,
từ ngàn xưa, vẫn chỉ là những gì phù
du, thơ chỉ có trong một thời bình. Cớ sao lại có thi sĩ, trong
một thời đại nhiễu nhương như thế này?
Ngay từ những ngày 1973, khi
chưa chấm dứt cuộc chiến, Gấu này đã nhìn
ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng,
đúng như Heidegger coi Rilke là thi sĩ của thời điêu
đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có
nghĩa là: hát, chú tâm đến dấu chân
để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì
thế, vào thời gian của đêm tối, thi sĩ nói điều
thiêng. Chính vì thế, trong ngôn ngữ của
Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de détresse,
c'est alors : chantant, être attentif à la trace des
dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de la nuit du monde,
le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans
la langue de Holderlin, la nuit du monde est la « nuit sacrée
». Pourquoi des poètes en temps
de détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part d'Exil, Le
Huu Khoa coi Trịnh Công Sơn là chim thiêng hót
lời mệnh bạc
[Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante le
destin tragique]
*
Holderlin phán: Ở nơi nào có nguy nàn, Ở đó có cứu rỗi Mais où est le péril,
là Croit aussi ce qui sauve
Holderlin, IV, 190
Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà
thơ tiền chiến, đúng là "coi thường" ông, theo
Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm
đen chia cách ông với những nhà thơ mà
ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng
thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và
của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy
Yên, nhạc Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời
điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của
Đặng Tiến, TTT không có truyền nhân, Gấu đã
trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông
làm thơ khi viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông,
phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà
văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói
với ông ta, ông thấy làm thơ dễ hơn là
viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng
chỉ Một Chủ Nhật Khác đúng là
một cuốn tiểu thuyết.
Không biết có
phải vẫn là cái điếm canh trên đê đầu làng
khi Gấu còn bé tí,
Như cái lô cốt
"Đồng Trụ Chiết Giao Chỉ Diệt"?
[Dịch kiểu THNM: Gấu mà ngỏm là
giống Mít tiệt]
Cái làng của Gấu, khi
ra đi, Gấu mang theo cùng với mình, toàn là những
hình ảnh tuyệt vời về nó. Trước hết, là cái
bãi cát bên sông, phía bên
kia là Việt Trì, nơi ông via Gấu làm
hiệu trưởng trường tiểu học, nhiệm sở cuối cùng trước khi
ông bị một ông học trò cho đi mò tôm,
bằng cách lùa Thầy vô bẫy: Mời thầy dự tiệc
tất niên, tối 30 Tết. Bởi vì Thầy đã
cho học trò nghỉ học trước đó, và Thầy
thì cũng đã rời Việt Trì, qua sông,
về làng quê ăn Tết. Thế là chúng bèn
gửi cái thiệp mời cho bà cụ, do tham phiên
chợ Tết ngày 30, ở nán lại. Bà cụ về đưa
cái thiệp mời cho ông chồng, và ông
chồng tất tả qua sông, dự tiệc! Sau này, bà
nội Gấu bèn đổ cho con dâu cái tội giết chồng,
sao mày ngu thế, tại sao không xé cái
thư đi mà lại đưa cho thằng chồng mày. Gấu nhớ, có
lần, bà cụ cầm chổi nện cho bà mẹ Gấu một trận tơi
bời. Suốt tuổi thơ, Gấu cứ băn khoăn tự hỏi chính mình,
giá mà mẹ mình xé bỏ, hay đốt bỏ
cái thư, không hiểu sự tình sẽ ra sao, chắc
là số phận gia đình hoàn toàn đổi khác. Lần về Bắc, vào năm
2000, Gấu có đi gặp một bà cô, con ông
chú làm trùm VC vùng quê Gấu.
Bà cô cho biết thêm nhiều chi tiết liên
quan tới cái chết của ông via, Gấu mới vỡ ra, là,
không thể nào tránh được. Cái bẫy giăng
ra ‘bảnh’ quá, con mồi vô phương thoát ra khỏi! Nói rõ hơn,
chính con mồi tự động chui vô bẫy! Y chang thằng con sau này,
cũng bị gài bẫy, và cũng cứ vô tư chui vô! Ông cụ Gấu chết vì
cái bẫy 'yêu nước' do ông học trò
giăng ra, y chang cả nước sau này bị bẫy "Đường ra trận
mùa này đẹp lắm"! Ông con cũng bị bẫy,
nhưng là bẫy tình! Bị chính Gấu Cái
gài, và tự động chui vô! * “My homeland was a feeling,
and that feeling was mortally wounded…What we swore to uphold
no longer exists… There was a world for which it was worth living
and dying. That world is dead”. Sándor Márai:
The Candles Burn Down Quê Bắc của tớ là
một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm
trọng… Điều mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng
được, thì đếch còn nữa… Có một cõi
Bắc Kít thật đáng sống, đáng chết vì
nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi.
NQT
Một trong những hình ảnh
khủng khiếp một cách tuyệt vời, hay tuyệt vời một cách
khủng khiếp, là về bãi cát ven sông
làng Gấu, nó liên quan đến những phiên
chợ chính ở Việt Trì bên kia sông.
Với người dân trong làng, đó là dịp
để họ mang mớ rau, mớ tôm, mớ cá, con gà,
con vịt... qua sông, bán kiếm tí tiền, và
mua những vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Xế trưa, chiều, về, bãi
cát dài, nóng bỏng, vai gánh nặng,
chân trần, người đàn bà mang theo một tầu lá
chuối, và chạy thật nhanh trên mặt cát,
tới khi bỏng không thể chịu được nữa, ném tầu lá
chuối xuống mặt cát, và đứng lên trên
đó, thở. Những ngày về Hà
Nội, được bà cô cho ăn học, được thưởng thức những
món ăn tuyệt vời, vì tuyệt vời và vì
ăn lần thứ nhất trong đời, nào chiếc bánh mì
đũa, nào thịt nguội hun khói, nào mứt
[confiture], Gấu quên hẳn làng của Gấu, chỉ đến khi
vào Nam, khi đi làm, sống cuộc đời một gã công
chức bậc trung, kèm thêm job phụ, nhân viên
UPI, cái làng của Gấu bắt đầu hành Gấu, và
mãi đến năm 2000, trở về, Gấu mới có dịp thanh toán
quá khứ. Có thể nói,
những mối tình với bất cứ một cô gái Bắc, có
thực, như BHD, hay tưởng tượng, rất nhiều đều là tưởng
tượng, có thể nói, gặp bất cứ một cô gái
Bắc nào mà đều muốn mê, muốn yêu, chỉ
để được gặp lại hình ảnh tuyệt vời thê lương kia,
có thể biểu hiện khác đi, nhưng “yếu tính”,
“bản chất” thì đúng như vậy!
Note: Bài viết, mới kiếm thấy,
tuyệt lắm. Cái từ đuổi Thần Chết chạy vãi linh
hồn:
She called poetry, "our holy
trade", "the Word that causes death's defeat."
Như
bạn thân của Bà, Osip Mandelstam, nhận xét:
“Thơ chỉ được kính trọng, ở xứ sở này, nơi dân chúng
bị giết vì nó”
"Poetry is respected only in this country
- people are killed for it". Trong 1 bài thơ đề tặng Osip,
bà viết về sự ngần ngại chấp nhận vai trò “chứng
nhân” của mình, nhưng lương tâm của bà
không buông tha:
... earthly time is something it doesn’t
know;
For it, the three dimensions are unreal.
Thời gian của đời có điều gi
không hiểu
Với nó, ba chiều thì không
thực
Let them all speak for me
mention me when they pray
Every year on the eve of
my burial day
Để lũ Bắc Kít lèm bèm
về Gấu Cà Chớn
Nhắc đến Gấu khi chúng cầu nguyện
Mỗi năm vào cái buổi Eve
của cuộc hạ huyệt Gấu!
Ta mang cái gánh nặng Cái
Ác Bắc Kít
Đâu phải chúng!
BATYUSHKOV
Like a flaneur with a magic cane,
tender Batyushkov lives at my place-
wanders down Zamostie lanes,
sniffs a rose, sings Zafna's praise.
Not for a moment believing that
we
could be separated, I bowed to him:
I shake his brightly gloved cold hand
in an envious delirium.
He smiled at me. "Thank you,"
I said,
so shy I could not find the words:
no one commands such curves of sound,
never was there such speech of waves.
With oblique words he made us
feel
the wealth and torments that we share-
the buzz of verse-making, brotherhood's bell
and the harmonies of pouring tears.
And the mourner of Tasso answered
me:
"I am not yet used to eulogy;
I only cooled my tongue by chance
on the grape-flesh of poetry."
All right, raise your eyebrows
in surprise,
city dweller and city dweller's friend-
like blood samples, from glass to glass
keep pouring your eternal dreams.
June 18, 1932
-Osip Mandelstam
(Translated from the Russian by Peter France)
Translator's note: Konstantin
Batyushkov (1787-1855) was a key figure in the emergence of
modern Russian poetry; the harmony of his verse was much admired
by Pushkin. In 1821 he succumbed to incurable mental illness.
NYRB, May 8 2014
Bác Nguyễn
Như gã
tản bộ với cây ba toong thần kỳ
Bác Nguyễn dễ mến sống ở chỗ Gấu - nhà
Cậu Toàn, Phố Cổ -
Lang thang xuống Bờ Hồ, theo những Hàng
Lụa, Hàng Buồm, Hàng Bạc
Ngửi ngửi một bông
hồng, đi một đường thổi, “Hà Nội ta đánh Mẽo giỏi”
Không
một khoảnh khắc nghi ngờ, Mẽo sẽ cút Ngụy sẽ nhào,
Cũng chẳng thể hồ nghi, một tên chăn
trâu học lớp Một sẽ ngồi lên đầu dân Mít
Hà, hà!
Gấu cúi đầu chào sư phụ của mình
Gấu bắt tay, là cái bao tay lạnh
như Hà Lội lạnh
Run run như thần tử diện long nhan
Bác
Nguyễn mỉm cười, Gấu đó ư, trẻ quá nhỉ!
[Thuổng MT khi gặp Thầy Kuốc lần đầu]
Gấu bẽn lẽn không làm sao kiếm
ra lời Ngoài Bác Nguyễn
ra,
Ai có thể điều khiển được những lọn
âm
Những đợn sóng lời
Bằng những từ nghiêng nghiêng
Như những giọt mưa chứa cơn gió nhẹ
trong nó
Bác Nguyễn làm cho chúng
ta cảm thấy
Sự giầu có và những khắc khoải
mà chúng ta chia sẻ -
Thì thầm như thơ, bạn quí như
Oanh vàng, Khánh bạc
Vãi lệ hài hòa
Và người than khóc
Tasso trả lời Gấu:
“Ta không quen với cái trò
thổi ống đu đủ; cái gì gì, đâu phải
đời Mít nào cũng có được?
Ta chỉ uốn nhẹ cái lưỡi cho đầm cái
ngọt ngào mới mẻ của thơ"
OK. Hãy dựng cặp lông
mi lên trong kinh ngạc
Cư dân Hà Lội và bạn của
cư dân Hà Lội –
Như mẫu máu, từ ly này tới ly
khác,
Hãy cứ vô tư tiếp tục rót
những giấc mộng đời đời của mi
Gấu ơi là Gấu!
Tháng Sáu 18, 1932
Osip Mandelstam
Ghi chú của người dịch:
Konstantin Batyushkov là nhà thơ
chủ chốt của nền thi ca hiện đại Nga.
Pushkin rất mê tính hài
hòa trong thơ của ông. Mất năm 1821, vì 1
chứng nan y.
Cô bạn, là cái
cô có cái sẹo ở cổ tay, khi ra hải ngoại
những ngày đầu, làm công việc factory nặng nhọc
gì đó, gân tay bị dãn, phải giải phẫu,
Gấu chỉ nghe Gấu Cái kể, thế là cứ tơ tưởng hoài,
đêm nằm mơ, cầm tay vợ, lại tưởng tay cô bạn, lần tìm
cái sẹo không thấy, bật thành tiếng, ơ cái
sẹo đâu rồi, Gấu Cái giật mình, hiểu ra, bật cười,
đau xót mà bật cười. Mi đúng là Bắc Kít
khốn nạn, cái gì gì "đồng sàng dị mộng". Còn
1 cô bạn nữa, cũng dân Cai Lậy, cũng bạn thời tiểu học Đốc
Binh Kiều, khi nghe giai thoại năm năm trời không... dám
hôn, đừng nói chi chuyện khác, đã bĩu môi,
làm sao biết chuyện ma ăn cỗ, nhưng nghe chuyện cái sẹo thì
lại rất ư là hài lòng, tui mà gặp 1 người thương
tui như vậy, thì cũng thấy mát cả lòng cả dạ, thấy
cũng không uổng một đời má hồng, nhan sắc, đành phải
cám ơn ông Trời 1 tiếng, cám ơn ông, ông
cho tôi ra đời có… bướm thay vì… súng!
Hà, hà!
Mary is a gripping tale of youth,
first love, and nostalgia-Nabokov's first novel. In
a Berlin rooming house filled with an assortment of seriocomic
Russian émigrés, Lev Ganin, a vigorous young officer
poised between his past and his future, relives his first love
affair. His memories of Mary are suffused with the
freshness of youth and the idyllic ambience of pre-revolutionary
Russia. In stark contrast is the decidedly unappealing boarder
living in the room next to Ganin's, who, he discovers, is Mary's
husband, temporarily separated from her by the Revolution but expecting
her imminent arrival from Russia (1)
Gấu chưa đọc Mary, mà theo như những dòng
trên, là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nabokov.
Một anh Nga, sống lưu vong tại Berlin, nhớ lại mối tình
đầu, khi còn trẻ, thời tiền cách mạng. Tình
cờ tiếu lâm, là cái tay ở phòng kế bên,
lại là anh chồng, do cách mạng lạc mất vợ, và
đang chờ vợ từ Nga tới để xum họp….
Gấu tự hỏi, tại làm sao
TTT lại chọn truyện này để dịch, khi đang chờ đi Mẽo,
theo diện cựu sĩ quan VNCH.
Cũng vậy, là cuốn Một Chủ Nhật Khác: Làm sao
mà ông có thể tưởng tượng ra cảnh, 1 anh Mít Miền
Nam, nhờ đi du học, thoát cuộc chiến, lại trở về để chết lãng
nhách, do bị 1 tên sĩ quan "khùng" cùng
đơn vị, lầm là… VC?
Tác giả Ký Ức Sơ Sài viết:
Ngoài những tác
phẩm văn xuôi đã in, Thanh Tâm Tuyền còn
cho đăng trên bán nguyệt san Văn thời Trần Phong Giao hai truyện
dài: Ung Thư và
Đêm Xóm
Lách Mịt Mùng.Ung Thư được độc giả hâm mộ
tới nỗi tác giả đau bệnh nghỉ một kỳ, Trần Phong Giao phải chụp
lại (hay thời đó phải làm bản kẽm?) thư viết tay xin nghỉ
của tác giả rồi in lên báo để độc giả tin! Cả hai
tác phẩm đều bị anh bỏ dở, tuy Ung
Thư được đăng nhiều kỳ hơn. Theo tôi, Ung Thưthể hiện xác thực nhất thiên tài Thanh
Tâm Tuyền. Đọc Ung Thư,
ai rồi cũng phải tin vào khả năng diễn đạt kỳ diệu của
ngôn từ tiếng Việt. Thanh Tâm Tuyền mới mẻ với Bếp Lửa từ thuở đôi mươi, cùng
với thời gian, anh càng ngày càng mới mẻ.
Tôi tiếc chẳng còn giữ được tờ Văn, chỉ kiếm được một
số, xin ghi ra đây một đoạn bất kỳ trong truyện Ung Thư:
“Lân đến đón Ngọc đi phố. Người
đàn ông gầy gò, khuôn mặt bội bạc, nước
da xanh mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh lẹn,
đôi môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng
mảy may nào giống cái hình ảnh mơ mộng của
Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn thỉu trống
gió và nắng triền miên như cơn buồn bã
hiu quạnh trong tiếng động quen tai nối liền ngày tháng.”
NAK
V/v Ung Thư, như chúng ta biết, TTT
đã viết xong xuôi đàng hoàng, nhưng
quyết định không cho xb. Nếu nó đúng như Nguyễn
Anh Khiêm, tác giả Ký Ức Sơ Sài,
nhận xét, thì tại làm sao tác giả lại quyết
định vờ tác phẩm bảnh như thế?
Hà, hà!
(30) Vladimir Nabokov, Tình
một thuở [Mary], Từ Trí dịch, Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 1989. Tiếc
rằng, chúng tôi không biết chính xác được
thời điểm Thanh Tâm Tuyền dịch cuốn này, [Từ Trí là
bút danh của Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi
xin cảm ơn Cao Việt Dũng về chỉ dẫn này], để có
thể tìm biết được những dấu vết của Nabokov đã xuất
hiện từ lúc nào trong sự nghiệp sáng tạo của
nhà văn. Dấu vết tiếp nhận Nabokov ở đô thị miền Nam
đã thấy trong sáng tác của Võ Hồng in
trên tạp chí Văn, xin xem:
Võ Hồng, Con suối mùa xuân, S.: tạp chí
Văn: Giai phẩm Xuân Ất Tỵ, [s.26+27,
ra ngày 15/1/1965], tr.43-59. Trên số này, Thanh
Tâm Tuyền cũng cho in truyện ngắn đề tặng Trần Ngọc Chất: Cuộc
gặp gỡ, tr.93-109.
Blog NL
Theo Nguyễn [Anh] Khiêm, Ký Ức
Sơ Sài, thì Từ Trí, là tên hai ông
con trai của TTT. Và nhân vật chính trong
Cát Lầy cũng tên Trí. Trí
còn là tên của cái tay làm thịt
hụt Diệm, [hình như ở Ban Mê Thuật, lần Diệm đi kinh
lý, khi mới lên ngôi. Gấu có hỏi TTT,
khi đặt tên Trí cho
nhân vật trong Cát Lầy,
anh có nghĩ đến tên Trí làm thịt hụt Diệm
không, ông
gật đầu].
Người môi giới dịch & in & xb cuốn
Mary, giữa TTT và Đào Hiếu,
là NAK, Ký Ức Sơ
Sài. Cuốn của NAK, cũng do Đào Hiếu xb. Chất
lượng in, giấy in, tệ, 2012. Cuốn dịch Nabokov, theo NAK, cũng quá
tệ.
Cuốn sách,
theo Gấu, còn là 1 họa phẩm. Phải như vậy. Cuốn
Istanbul của GCC, bìa bảnh hơn bản
tiếng Anh, cũng đã cực đẹp.
15.
Tôi được gặp anh Thanh Tâm Tuyền
tại nhà anh Tô Thùy Yên lần đầu đâu
khoảng năm 85,86. Lối dẫn vào nhà Tô thi hào
có ngõ trúc mát rượi, hàng rào
chè tàu quanh co, buổi chiều tối dế gáy rộn
vang. Chắc là quê nhà ghi dấu trong thơ anh không
ít, mỗi lúc qua đây không quên được
những câu thơ của anh như:
Cây yên,
cỏ lặng, trăng thiu ngủ.
Giường cũ, nằm nghe tiếng dế khuya.
(Lão Trượng)
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ,
Bên hè có tiếng dế ca
ran.
Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu,
Mọc lại cho ta buổi xế tàn.
(Hề ta trở lại gian nhà cỏ)
Khắc khoải chim kêu mùa xóa
giải,
Hành nhân về bên giếng
quê nhà.
Ngõ trúc chiều ngát cơm
gạo mới.
Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa.
(Chim kêu bãi quạnh)
Gò vấp hồi đó
còn sót chút nét quê giống hệt xóm
làng vùng đất cát pha dọc sông Thu bồn ngoài
Quảng, chắc vì vậy mà Bùi Giáng hay lang thang
ăn đường ngủ chợ vùng này hẳn để đỡ nhớ về “cố quận”. Bữa đó
có anh Nguyễn Xuân Thiệp, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Thanh Châu…Tôi
ngồi im dựa cột nghe mấy anh nói về cuốn Antimémoire
của Malraux, Thanh Tâm Tuyền còn đọc bản dịch của
anh bài thơ Aux Arbres của Yves Bonnefoy, nghe đã
lắm.
Mấy bữa sau, anh kêu tôi xuống
nhà anh uống café sáng, ăn mỗi người nửa mẩu
bánh mì Kinh đô mềm, hơi ngọt. Anh chép
cho tôi bản dịch bài thơ Aux Arbres, mấy bài
dịch thơ Emily Dickinson, bài lục bát Trú Mưa Trên
Phố Hòa Hưng mênh mang một niềm u uẩn.Thời gian dài
về sau, cứ bốn năm bữa tôi tới anh uống café sáng
một lần, coi bộ anh thích thứ bánh mì đó
dùng với café nóng. Hạng tôi chẳng phải
bạn anh trước kia nhưng chắc vì đi tù về, bằng hữu tan
lạc, trong quạnh vắng anh cũng cần người chuyện trò văn thơ chữ
nghĩa tàm tạm cho qua tháng ngày tẻ nhạt. Đề cập
tới Phan Khôi, tôi thấy anh chỉ chú ý tới con
người học giả, con người phản kháng thời cuộc mà ít
quan tâm tới con người văn nghệ củacụ,
tôi đưa anh mượn cuốn Chương Dân Thi Thoại có lời
đề tặng cùng chữ ký của cụ Phan tặng ông dượng tôi.
Vài bữa sau, anh đạp xe lên nhà tôi ở Phú
nhuận, nói chuyện nhiều về quyển sách mỏng nọ. Anh
bảo đọc cuốn đó thú vị không ngờ. Anh có
vẻ đồng ý rằng tài thơ của Phan Khôi chưa chắc
kém gì Tản Đà nhưng hồi đó cái
bóng Tản Đà quá lớn nên Phan Khôi né.(Chính
cụ có lần nói thẳng hãy dang ra cho Tản Đà
tiên sinh đi mà!). Anh phục lối diễn đạt bằng một
thứ tiếng Việt mới mẻ vượt thời đại khi Phan Khôi dịch thơ
Tàu, cười thích thú khi biết cụ còn
dịch cả thơ Tây nữa. Tôi nói với anh chính
cụ Phan dịch mấy chương thi ca cổ Do Thái không chỗ chê
như Châm Ngôn, Thi Thiên, Nhã Ca… trong
Kinh Thánh của Hội Tin Lành. Anh đặc biệt thích
hai bài bát cú Phan Khôi dịch từ cuốn
Tùy Viên Thi Thoại. Tôi xin chép luôn
ra đây, độc giả nào chưa có dịp, xin đọc cho vui.
Cùng Vợ Nhà Ngắm Hoa Mẫu Đơn
Dưới hoa người về, con cái reo,
Vợ già đem rượu thách thơ nghèo.
Nói rằng hôm trước hoa vừa nở,
So với năm kia nhánh lại nhiều.
Hương sắc ban đêm nhìn vẫn đẹp,
Gió mưa cơn sáng chịu làm
sao!
Phải chi về sớm ba ngày trước,
Hàm tiếu coi còn thích
biết bao!
Chúc Thọ Vợ Nhà
Vất vả vườn quê hai chục thu,
Ra tay rau cháo đỡ đần nhau.
Ngày không giờ rảnh hòng
soi kiếng,
Năm mất mùa luôn đến bạc đầu.
Én liệng cửa ngoài hơi biển
lạnh,
Nhà như xuồng nhỏ bóng khe chao.
Chúc mình mà tớ không
mua rượu,
Vẫn cứ chìa tay: mẹ nó nào!
Theo lời cụ, hai bài này cụ
phải dịch năm đêm trường và làm xong thì
phát ngán vì thấy vô ích nhưng
anh có cảm tưởng cụ dịch dễ dàng, mạch thơ trôi
tuồn tuột, lời tự nhiên mà mượt mà nữa. Anh chú
ý lối tính thời gian chính xác: Ông
chồng về muộn một ngày sau khi hoa mãn khai nên
bà vợ mới nói phải chi về sớm ba ngày trước thì
được chiêm ngưỡng hoa hàm tiếu! Anh còn nói
câu phá đề, thơ thật là thơ, chữ người hết sức tôn
kính mà vẫn đầy thân ái. Bài thứ
hai mới kỳ thú. Toàn bài giọng điệu bình
dị, tình cảm thiết tha, chữ nghĩa thuần Nôm đơn giản. Hai
câu thực thì tận cùng…hiện thực, cặp luận tân
kỳ và đầy ảnh tượng…Đọc mà cảm phục Phan Khôi mới
mẻ và tinh tế, cũng như thấy người xưa sao thanh cao quá
đỗi!
Quả thật Thanh Tâm Tuyền cuối thập niên
80 khác nhiều thời trai trẻ. Anh tỏ ý tiếc nhóm
Sáng Tạo đã làm cụ Nhất Linh buồn, cảm thông
Nhất Linh ngán ngẩm chính trị nên trốn vào
vẻ đẹp văn chương vĩnh cửu cũng có lý của cụ. Khi
anh xuất cảnh qua Mỹ, tôi tặng anh luôn cuốn thi thoại
đó. Chẳng là lúc còn ở nhà tôi
hay biếu anh bơ đậu phộng tôi học được cách làm
từ mấy ông bà giáo sĩ Hội Ngữ Học nên trong
mấy bức thư gửi cho tôi lúc anh mới qua, anh nói
có hai điều khiến nhớ đến tôi, ấy là mỗi lúc
đi siêu thị Mỹ thấy bán đầy bơ đậu phộng và mỗi
lần mởngăn kéo nhìn
thấy cuốn Chương Dân Thi Thoại.
Trước vụ Thiên An Môn hơn năm,
Thanh Tâm Tuyền kể với tôi vừa đọc cuốn truyện tình
đầu tay tuyệt vời của Nabokov, tên tiếng Anh là Mary.
Tôi nói:
- Hay là anh dịch đi, tôi nhờ
ông bạn Đào Hiếu đang làm nhà xuất bản
in cho anh, kiếm tí tiền còm cho vui!
Chỉ mấy tuần sau anh đem bản dịch viết tay
tới tôi, tựa sách là Tình Một Thuở, anh
nói đó là một đoản ngữ trong thơ Hồ Dzếnh, tên
dịch giả ghi Từ Trí, theo tôi biết đó là
tên hai con trai của anh. Tôi giao liền cho Đào
Hiếu nhưng gần Tết năm 89 sách mới phát hành. Giấy
đen thui, tối om như mọi cuốn sách lúc đó, hình
bìa cũng in màu nhưng ai đó chép lại một
bức tranh của Chagall cứng ngắt, vụng về, xấu tệ. Thanh Tâm Tuyền
nhìn bìa sách, lật qua đọc lời nói đầu thấy
sai mấy lỗi chính tả, anh cười méo xẹo! Sau it hôm,
người ta nhờ tôi chuyển cho anh tiền thù lao, nhớ đâu
vài ba trăm ngàn gì đó, nay tôi không
thể hình dung giá trị số tiền trong thời điểm đó
thế nào, nhưng hình như anh thấy thế cũng đuợc rồi! Tết
năm đó anh chạy xe đạp lên nhà, mang cho tôi
hai chiếc bánh chưng. Ra giêng gặp lại, anh bảo:
- Này, ăn có được không
đó? Mấy đứa nhỏ quên bỏ muối mất!
Tôi ngạc nhiên là cho tới
giờ này, những nhà phê bình văn học
vẫn chỉ nói về thơ của tác giả này mà
chưa một ai đề cập tới văn xuôi của anh cho tới nơi tới chốn.
Cụ Nguyễn Hiến Lê thì chỉ đề cập tới ý nghĩa các
tác phẩm của anh chứ không nhắc tới văn chương trong hồi
ký của cụ.Tôi vốn không đủ sở học để có thể
phân tích rốt ráo cái hay, nhất là
cái mới trong văn xuôi của anh. Chỉ là độc giả bình
thường, đọc thì cảm nhận được vẻ đẹp, lối văn tân kỳ, ngôn
từ mới mẻ cùng nhạc điệu và nhịp điệu tinh tế, nghĩ văn
xuôi đó chính là thơ trá hình.
(Nhiều trang tùy bút của Nguyễn Tuân tiền chiến
cũng có đặc điểm này nhưng theo một cách khác).
Biên giới giữa thơ và văn xuôi của Thanh Tâm
Tuyền thật mờ nhạt. so sánh với bút pháp các
nhà khác thì thấy rõ nhưng chỉ ra cho minh
bạch thì quả gian nan. Không những anh mới lạ trong sáng
tác, ngay như trong dịch thuật, đặc điểm tân kỳ cũng vô
cùng nổi trội. Xin độc giả đọc đoạn anh dịch Nabokov tả chàng
người Nga lưu vong kiếm sống trên một đô thị Tây
phương:
“Không có việc gì bị coi
là hèn kém đối với anh; hơn một lần anh đã
mang bán luôn cả hình bóng riêng
của mình, như nhiều kẻ trên đời này cũng thường
làm. Nói cách khác, anh từng lặn lội
ra vùng ngoại thành làm chân tài
tử chầu rìa của một cuốn phim xi-nê trong một phân
cảnh, dàn dựng tại một nhà kho chứa thóc, ở đấy
ánh sáng réo sôi phát tiếng kêu
rít bí hiểm từ những mặt đèn khổng lồ rọi nhắm,
giống như họng đại bác, chỉa vào đám đông
chầu rìa, thiêu đốt như hỏa ngục. Một thác lửa
bắn vãi thứ ánh sáng sát sinh, soi hiện
lớp sáp môi trát trên những gương mặt chết trân,
rồi phụt tắt ngấm sau tiếng khóa cách – nhưng một hồi sau
trong những bầu đèn pha lê chế tạo công phu vẫn còn
lóe vầng hoàng hôn đỏ ngầu hấp hối – lấp đi mối hổ ngươi
của đời người. Việc thu hình hoàn tất và hình
bóng của đám nhân quần lúc nhúc được
tung hê khắp thế giới.”(Tình Một Thuở,trang 18,nhà
xuất bản Đồng nai,1989)
Những câu văn dài, khó
phân tích theo cấu trúc chủ – vị. (Có
lẽ theo đề – thuyết cua Cao Xuân Hạo thì dễ hơn). Hầu
như tất cả giá trị miêu tả chỉ nằm ở phần phụ bổ ngữ
và định ngữ. Câu dài nhưng đọc vẫn thấy gọn, cô
đọng và hàm súc. Nghe như mâu thuẫn nhưng
quả đúng như vậy.
Và đây là vài đoạn
khác trích trong chương III của cuốn Tình
Một Thuở:
“Đêm ấy, giống như mọi đêm, một
ông lão gầy gò, đội mũ dạ lưỡi trai nặng nhọc
lê bước bên lề vỉa hè đại lộ hun hút vắng
vẻ, khua đầu gậy quăn queo trên mặt nhựa như mò kiếm đầu
mẩu thuốc lá, tiền, nút chai hay giấy lộn và
xì gà liệng bỏ. Chốc chốc, rú rống như hóa
dại, một chiếc xe hơi lao vút qua, hay có sự tình
nào đó diễn xảy mà thường chẳng khách
bộ hành nào của đêm phố thị để mắt thấy: một đóm
sao, nhanh hơn ý nghĩ, lặng thinh hơn cả một ngấn lệ, băng rớt.
Rạng rỡ, nô nức hơn những đóm sao dòng chữ bật cháy
sáng từng chữ một liên tiếp nhau trên nóc nhà
cao tối, diễu một hàng dài rồi vụt biến bay cùng
lúc trong bóng đêm.”…
“ Và rồi trênnhững đường phố ấy, bấy giờ hoang vắng như
biển im mướt, vào giấc khuya về sáng lúc những
quán bia sau cùng đã đóng cửa, một
kẻ sinh trưởng ở đất Nga, bỏ ngủ, đầu trần, trên mình
chỉ khoác chiếc áo mưa cũ dạo bước trong cơn ngây
tỉnh táo; vào giấc khuya về sáng, trên
những đường phố hoang vu ấy chập chờn qua những thế giới lạ lẫm với
nhau đến kỳ cùng; bấy giờ không còn phải là
một dân chơi trác táng nữa, không còn
phải là một người đàn bà nữa hay không còn
đơn thuần chỉ là một khách qua đường nữa, mà mỗi
con người là một cõi sống biệt lập, mỗi con người là
một tổng thể những kỳ diệu cùng quỷ quái. Năm cỗ xe ngựa
đậu trên đại lộ dài bên nhà vệ sinh công
cọng hình trông giống cỗ trống cái khổng lồ; năm
cõi thiêm thiếp, trùm ấm, xám xịt trong đồng
phục mã phu; và năm cõi khác đứng trên
vó chồn mỏi lim dim mơ màng chỉ nghe quanh quẩn tiếng dòng
thóc tuôn chảy rào rào êm ru từ bao
đựng xuống máng ăn.
Chính trong những lúc như bấy
giờ mọi sự vật trở nên huyền hoặc, sâu kín khôn
dò, lúc đời sống hiện dạng kinh dị nhưng cái
chết lại còn kinh dị gấp bội. Và bây giờ khi
người ta lang thang vơ vẩn phơi phới xuyên qua những quãng
đêm của phố phường; ngửng trông ánh đèn
sáng qua màn lệ mỏng, kiếm tìm ở đó kỷ niệm
lộng lẫy chói chang của hạnh phúc ngày qua – một
dung mạo mỹ miều đột hiện về sau bao năm quên lãng hờ hững
– thình lình trên bước mê mải mù quáng
người ta bị cầm chân đứng lại bởi một kẻ qua đường lịch sự hỏi thăm
lối về phố này phố nọ, hỏi bằng giọng thường tình nhưng
là một giọng nói người ta sẽ chẳng bao giờ nghe thấy lần
nữa.”
Những câu văn dài thích
hợp với kiểu độc thoại nội tâm, khó xác định
chủ ngữ, nối nhau dìu dặt, một thứ poésie en prose không
thể chối cãi. Thanh Tâm Tuyền đã chuyển ý
của Nabokov sang văn xuôi Việt ngữ bằng ngôn từ đầy hình
ảnh và nhạc điệu đẹp đẽ của thi ca.
Tất nhiên muốn nói gì
về văn xuôi Thanh Tâm Tuyền thì phải nhận xét
phần sáng tác chứ không phải dịch thuật. Chẳng
qua nhắc tới một kỷ niệm với anh liên quan tới dịch thuật nên
tôi dài dòng một chút, hơn nữa cuốn sách
này cũng đang hiếm vì in đã lâu và
chắc it người giữ, dù không ký tên thật
nhưng dẫu sao cũng là công lao của thủ lãnh thơ
tự do của miền Nam và tiên phong làm mới câu
văn xuôi tiếng Việt nên tôi mạnh dạn nhắc tới.
Ngoài những tác phẩm văn xuôi
đã in, Thanh Tâm Tuyền còn cho đăng trên
bán nguyệt san Văn thời Trần Phong Giao hai truyện dài:
Ung Thư và Đêm Xóm Lách Mịt Mùng.
Ung Thư được độc giả hâm mộ tới nỗi tác giả đau bệnh
nghỉ một kỳ, Trần Phong Giao phải chụp lại (hay thời đó phải
làm bản kẽm?) thư viết tay xin nghỉ của tác giả rồi in
lên báo để độc giả tin! Cả hai tác phẩm đều bị
anh bỏ dở, tuy Ung Thư được đăng nhiều kỳ hơn. Theo tôi, Ung Thưthể hiện xác thực nhất thiên tài
Thanh Tâm Tuyền. Đọc Ung Thư, ai rồi cũng phải tin vào
khả năng diễn đạt kỳ diệu của ngôn từ tiếng Việt. Thanh Tâm
Tuyền mới mẻ với Bếp Lửa từ thuở đôi mươi, cùng với thời
gian, anh càng ngày càng mới mẻ. Tôi tiếc
chẳng còn giữ được tờ Văn, chỉ kiếm được một số, xin ghi ra đây
một đoạn bất kỳ trong truyện Ung Thư:
“Lân đến đón Ngọc đi phố. Người
đàn ông gầy gò, khuôn mặt bội bạc, nước
da xanh mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh lẹn,
đôi môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng
mảy may nào giống cái hình ảnh mơ mộng của
Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn thỉu trống
gió và nắng triền miên như cơn buồn bã
hiu quạnh trong tiếng động quen tai nối liền ngày tháng.”
Thử đặt đoạn văn này cạnh một đoạn
tả người nào đó của các tác giả Tự Lực
Văn Đoàn, ta có thể thấy được khoảng cách cũ
mới. Có lần đọc câu này, tới nay tôi chưa
quên: “Trời mùa thu lao đao với những cơn heo may tẩm
lạnh”. Không biết có phải không quên chỉ
tại chữ lao đao và chữ tẩm lạnh không nữa.(Cũng xin ghi chú, đoạn văn trên
là nhận xét của người bạn gái của Ngọc cùng
đi buôn chuyến hằng ngày trên xe lửa, phần phụ
cuối đoạn văn là cảm tưởng của người bạn này?)
Thanh Tâm Tuyền còn có
những đoản văn xuất sắc in rải rác trên báo
Vấn Đề của Vũ Khắc Khoan, báo Thời Tập của Viên Linh…nay,
đau xót thay, hẳn đà tuyệt tích.*
Thế hệ thanh niên, sinh viên VN
bây giờ không biết Thanh Tâm Tuyền, Tô
Thùy Yên là ai. Một bà giảng viênnào đó còn
bảo Tự Lực Văn Đoàn là tên một đoàn cải
lương. Thế thì thôi!
Biết bao giờ đất nước có tự do, con
quái vật chính trị ngừng nhai xương văn học. Các
nhà phê bình, nhà biên khảo hiểu
được lẽ công bình, còn chút lương thiện
cùng trách nhiệm, thôi cố tình chôn
vùi danh tính những con người hiếm hoi vốn xứng đáng
là tinh hoa, ưu tú nhất của văn học nghệ thuật nước nhà!
* Một đoạn văn ngắn của TTT trong cuốn Tạp
Ghi:
Không biết ai đã bày trò
cho bọn trẻ nhỏ lấy cái dọc đu đủ nhúng một đầu
vô nước xà-bông để thổi thành những
chiếc bong bóng.
Những quả tròn đủ sắc cầu vồng rung
rinh trên đầu ống rồi bay bổng lên không trung
trong một vài giây trước khi vỡ tan không còn
một dấu tích nào. Em bé chơi trò ấy thích
thú vì cái vẻ rực rỡ giản dị của những chiếc
bóng nối nhau bay lên, tan vỡ êm đềm trong bóng
nắng ngoài sân. Đó là trò chơi mùa
hè. Trời thường cao và nhẹ gió nhưng những chiếc
bong bóng mỏng manh chẳng bao giờ bay cao. Em nhỏ ngây
thơ cố công thổi cho thật khéo, giữ bóng trên
đầu ống cho nó phồng to bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Trái cầu lớn có thể vỡ trước khi bay nhưng nếu nó
bay được lên thì chính đó là niềm
vui sướng của trò chơi. Trẻ nhỏ đùa với những chiếc bóng.
Chúng không chơi một mình, chúng reo hò
cùng nhau và đuổi theo những chiếc bóng bay, quơ
tay đập vỡ nếu chiếc nào dai dẳng hoài – của đứa khác
va của chính mình.
Trẻ con chơi đùa hồn nhiên nhưng
bọn người lớn nhìn để thấy trong trò chơi cái
ý nghĩa ngậm ngùi: bong bóng xà bong,
niềm vui của đứa trẻ – hạnh phúc của đời người -mong manh, dễ vỡ biết
bao! Sự rực rỡ, sự huyền ảo của bảy sắc cầu vồng chỉ la những sự thật
thoáng chốc.
Đây là cái
cổng trường Gia Long, phía bên hông, [đường
Trương Định, băng qua vườn Tao Đàn], GCC đưa đón
BHD, đúng thời gian đó, 1966...
"Khi em đi vô cổng trường,
rồi anh đừng có đứng lại lâu vì em sẽ biết
anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm cười nhìn anh…”
…. vội vàng chạy vô cổng trường rồi
lại vội vàng chạy ra: nàng quên không
dặn chàng trưa nay đừng đón nàng, vì
nàng sẽ về chung với Lan Anh, bạn nàng...
Ui chao, nhìn cái
hình, cảm khái chi đâu. Nhìn vách
tường, với ba tờ quảng cáo… thì lại nhớ cái
thông báo của Ban Giám Hiệu, cấm cái
trò đưa đón như trường hợp cặp Gấu & BHD!
Chỉ đến khi có thông
báo, thì Gấu mới thả Em cách cổng trường
khá xa....
Bạo Miệng [Strong Opinions]
Ông viết cả lố tác phẩm, nhưng
người đời cứ gọi Nabokov là "người của Lolita", ông có
bực không? Không. Lolita là
1 cục cưng của tôi, Lolita est ma favorite toute particulière.
Cuốn sách khó viết nhất trong những cuốn của tôi
- nó đề cập tới 1 đề tài thật lạ lùng, si
étranger, cách thật xa cuộc đời tình cảm
của tôi, si éloignée de ma vie affective, mà
tôi thật thích thú gọi tới mọi cội nguồn "kết
hợp", để biến nó thành hiện thực.
Ông có ngạc nhiên về sự thành
công khủng khiếp của cuốn sách khi nó xuất
hiện?
Tôi ngạc nhiên về chuyện nó
xuất hiện, giản dị có vậy [J’ai été surpris
qu’il paraisse, tout simplement]
Lolita, có… thực không? [Et
Lolita: a-t-elle existé?]
Không, Lolita không có khuôn
mẫu [modèle]. Nàng sinh ra từ trí tưởng
của tôi [mon esprit]. Nàng chưa từng hiện hữu… nàng
là một trái cây từ trí tưởng tượng
của tôi, un fruit de mon imagination.
The National Library I had known during my adolescence was a
different one. It stood on Mexico Street in the colonial neighbourhood
of Montserrat. The building was an elegant 19th-century palazzo
originally built to house the state lottery but almost immediately
converted into a library. Borges had kept his office there when
he was appointed director in 1955, when ‘God’s irony’, he said,
had granted him in a single stroke ‘the books and the night’. Borges
was the fourth blind director of the library, a curse I’m intent on
avoiding. It was to this building, during the 1960s, that I used to
go to meet Borges after school and walk him back to his flat, where
I would read stories by Kipling, Henry James and Robert Louis Stevenson
to him. After he became blind, Borges decided not to write anything
except verse, which he could compose in his head and then dictate. But
some ten years later he went back on his resolution and decided to try
his hand again at a few new stories. Before starting, Borges wanted to
study how the great masters had gone about writing their own. The result
was two of his best collections, Doctor Brodie’s Report
and The Book of Sand.
Vampire in Love is a selection of his short fiction,
published in English for the first time. Born in Barcelona in 1948, Vila-Matas
grew up under Franco’s dictatorship and began his career as a journalist.
Possibly as a result, or possibly for other reasons entirely, he has wilfully
obscured details of his life, and advised members of the press to ‘reinvent
the whole thing entirely’. His erudite, hybrid works demolish the boundaries
between fiction and reality, novel and essay: in Bartleby & Co. (2000;
translated into English in 2004), a literary addict compiles
a mock taxonomy of writers who failed to write; in Never
Any End to Paris (2003; translated 2011), a
‘poor, young man’ goes to Paris and writes a novel that seems to
kill anyone who reads it; in Montano’s Malady (2002;
translated 2007), the protagonist confuses events from fiction
with his own memories and ends up thinking he has ‘taken possession
of the soul of Robert Walser’.
In the opening story of Vampire in Love, ‘A Permanent
Home’, the narrator is summoned to his father’s deathbed.
He goes there hoping for a climactic revelation, when all his
uncertainties will be resolved. Yet his father just unfurls
a series of more and more preposterous stories, until the narrator
perceives that ‘quite astonishingly for someone on the verge of
dying – my father … was continuing ceaselessly to invent’. Outraged
at first, gradually he understands:
My father, who had once believed in many, many things only to
end up distrusting all of them, was leaving me with a
unique, definitive faith: that of believing in a fiction
that one knows to be fiction, aware that this is all that
exists, and that the exquisite truth consists in knowing that
it is a fiction and that, nevertheless, one should believe in
it.
Clearly, this is something of a paradox. In Vila-Matas’s work, general reality is coercive and deeply
weird; the only possible salvation lies in the ‘exquisite
truth’ of fiction. Furthermore, he suggests, why would you
permit others to tell you what is ‘real’, when they are all as
mortal and doomed as you? In the darkly funny ‘Rosa Schwarzer Comes
Back to Life’, a museum worker turns fifty and asks herself, ‘What
is the point of my life?’ The question is so wildly unanswerable
that Rosa finds herself drinking with a madman in a local bar and
contemplating suicide. ‘Sea Swell’ is an improbable literary anecdote
in the manner of Never Any End to Paris, in which
a feckless narrator attends a Parisian party with Marguerite Duras
and Sonia Orwell. This elegant literary soiree is comically debauched;
the narrator is high on amphetamines and his manic-depressive friend,
Andrés, drinks all the Beaujolais and throws himself into the
Seine.
In this anti-realist landscape, everything echoes something else.
As the narrator of Bartleby & Co. says, ‘Nowadays
we have no option but to repeat.’ After the aesthetic revolutions
of the early 20th century, writers and artists are stuck in
tribute-modernism, with ‘only a few, insignificant details
waiting to be explored’. For Vila-Matas’s personae/narrators,
writing is a form of passionate vampirism – hence the title.
This might all seem like one postmodernism too far, yet Vila-Matas
conveys agonising depths of solitude and longing in his work as
well. The title story describes the mournful inner world of Ferrato,
who slightly resembles a vampire and has been abused and jeered
at for so long that he has ‘grown tired of being good’. Another story,
‘Greetings from Dante’, features a woman whose child refuses to
speak, until at the age of ten he starts shrieking like a ‘stupid,
utterly unfeeling bat’. But – as with Mansfield’s ‘Miss Brill’ – it
is uncertain whether the cries emanate from the son or his desperate
mother. ‘Invented Memories’, which reminds us of Montano’s
Malady,is narrated by a man ‘with scarcely
any biography. Until I decided to invent one for myself.’ He adds:
literature is like a message in a bottle … because literature
needs a recipient too; and so, just as we know that someone,
some unknown person, will read our shipwrecked sailor’s
message, we also know that someone will read our literary writings:
someone who is not so much the intended recipient as an accomplice,
insofar as he or she is the one who will give meaning to our writing
… And that is precisely what is so strange and fascinating about
literature, the fact that it is not a static organism, but something
that mutates with every reading, something that is constantly
changing.
This may be Vila-Matas’s philosophy too, but we will never know
precisely when his narratorial personae represent him
and when they do not – which is the beautiful and salutary
point. The narrator’s final provocation evokes a rich counterfactual tradition of high ironists,
including Kafka, Woolf, Borges and Bolaño: that fiction
is the only reality because ‘life itself doesn’t actually exist’.
Note:
Bài viết này thật thú.
Ở trong nước đọc Calvino qua giả tưởng. Hình
như chưa có ai giới thiệu một Calvino tiểu luận gia, nhà
phê bình. Gấu tình cờ vớ số báo cũ,
rồi để lạc mất, bữa nay mò ra được.
Post đoạn chót bài viết, thay cho
câu trả lời Đài Sử, ông con trai thi sĩ của
ông anh nhà thơ:
Tớ không nhớ tớ buồn
("Je ne me souviens pas d'être triste")
những dẫn nhập không số
- buồn chán
là những lúc cảm thấy bất lực với chữ
nghĩa. bất lực trong văn chương. có loại viagra cho sự
bất lực này không ông?
- tại sao ông
(phải) viết?
- những gì
buộc ông phải ngồi xuống và bắt đầu?
- ông có
lời khuyên nên viết gì.không
nên viết gì cho đám nhỏ?
- là một
nhà văn lưu vong nổi tiếng theo ông đó
là niềm tự hào.kiêu hãnh hay
ngược lại?
- cái
mới hay cái lấp lánh sau cùng trong
văn chương, ông chọn cái nào nếu không
được chọn cả hai?
- thành
phố nơi ông định cư hơn 20 năm. có bùi
ngùi sài gòn hay man mác hà
nội hay những cánh cửa (trong ông) đã
khóa trái?
một chiều. một
phố
chiều. vơi trên.
phố
hàng xe.
vội vã. bỏ
lại. những con
đường
những cửa tiệm.
bắt đầu đóng. cửa
tôi. một
mình cuối. con phố
chuyến. xe bus
thưa. khách
người ta. vội
vã. quay lưng bỏ. lại im vắng
nắng rơi. rụng
những hình. dáng phôi phai
mây bấp
bênh. ngã vấp vào. những cao
ốc
rong ruổi. đi đâu. thành phố
lạ tiếng. nói
chiều. rơi vỡ
toang ngày. cũ
xa mù.
khơi. dậy ký ức
mong manh. tiếng
cười đi. qua
đôi tình
nhân thật. trẻ
ngu ngơ môi
hôn. đẫm tay ghì
chiều rũ trên.
những chiếc subway. rời bến
dừng lại tôi.
quán xưa còn. ly nào
màu tần
ngẩn. như đôi mắt
xoáy xoay.
cuối trời. làm mưa
rơi đầy.
những chơi vơi
nét người
cũ. nhạt xa. vời
chiều. tan vào
bóng. tôi
kéo. đêm
chậm. về
hàng cây
nào. tàn phai
lời cuối. đừng.
đừng vội.
khi đèn.
phố còn. thao thức
cảm nhận những.
giọt nước
ướt. mềm trên
da. thịt
gió về.
vấn quanh hương. xưa
chiều. cạn trong
ly. rượu
vị quá
khứ. cay
đêm. một
mình. vây kín
người đâu?
Đài Sử
Tks.
TT/NQT
(1)
Silence for Calvino is not
merely the unspoken, it is what might have been spoken but wasn't,
or it is what lurks beneath speech and gives it its secret, driven
meaning. Similarly, the invisible is not merely the reverse of the
visible, it is what haunts the visible like a threat, like an endless
reminder of its limitations. Predictably enough, Calvino finds this
structure of hints and elisions in Stendhal and Henry James; but he
also finds it in Hemingway ("on one side ... the formal execution of
the task, and on the other something unknown, nothingness") and Pavese
("Each one of Pavese's novels revolves around a hidden theme, something
unsaid which is the real thing he wants to say") and even Tolstoy: "What
counts in Tolstoy is what is not visible, not articulated, what could
exist but does not." With this phrase we are
close to Calvino's idea of memory as the link between what, we
do and what we wanted to do. But Calvino's deepest dedication,
I think, is to an intricate respect both for what happened and for
what might have happened, whether we wanted it to or not, and whether
we caused it or not. This is what the openness of Mercutio's eyes means.
Calvino also quotes a sentence from Stendhal which expresses this respect
perfectly, and it is a sign of the delicacy of the idea that neither
of Calvino's translators gets it quite right.'
Stendhal, Calvino says, "is
so refractory to anguish" that even desperate conditions don't
produce despair in him or in his characters. Fabrizio del Dongo,
in The Charterhouse of Parma, has feared prison for most of his young
life, and now finds himself locked up inside a tower, and yet isn't
sad. Well, not just that: he doesn't remember to be sad. He says to
himself, "Je ne me souviens pas d'être triste." McLaughlin
renders this as "I have forgotten that I should be sad," and Creagh
gives it as "I don't remember being sad." But there is no obligation
to be sad here, and no question of remembering past occasions. Fabrice
simply recognizes that the objective and subjective conditions for
sadness exist, but he is too busy being happy to pay attention to them.
Or rather, he pays attention to them now, but only obliquely. He remembers
he's not remembering them. Will he continue to remember them, and be-
come sad? Most people would, including, probably, Calvino. But Fabrice
won't. He is Mercutio's twin, the one who knows how to close his eyes-until
the next time he fails to remember. +
Một vị thân hữu, Dã
Viên, cũng nhận ra điều này, khi viết, mừng cho GCC
"mãi vui", vì.... kiếp trước mi đúng là
con điả!
HAPPY
78TH BIRTHDAY.
Today at 6:01 PM
CHÚC LUÔN
KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH
HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN
NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ
ỨC
CHÚC LUÔN
QUÊN ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG
TRÍ VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN
AN ĐỂ HƯỞNG HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI
THÂN YÊU ĐANG HIỆN DIỆN
K
Đa tạ.
GCC
hãy thêm
củi vào lò
đốt cho cháy
hết những tháng năm này
để mùa đông
dài thật dài
và chén
đắng cay tưởng không bao giờ cạn
và chén đắng cay tưởng không
bao giờ cạn:
Tuyệt!
Tks
NQT
Nhớ là Kundera
có nhận xét, cái gì gì,
"chúng ta có một đời để sống", nhảm. Một đời
thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời,
nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn
cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài
đời Gấu đã từng trải qua. Luôn cả 1 tiền kiếp
của GCC.
Trong những cuộc
đời như thế, khủng nhất là cuộc đời dởm, chẳng
có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….
Ui chao, Vargas
Llosa cũng phán như thế, và không
chỉ phán, mà còn đi cả 1 cuốn tiểu thuyết
về nó, và ông coi đó là giấc
mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái Nhĩ Lan.
Each one
of us is, successively, not one but many. And these
successive personalities that emerge one from the other tend
to present the strangest, most astonishing contrasts among
themselves.
-Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt”
is a moral tale. It is about the choice between denial
or denunciation in the face of evil, and the fine line between
activism and fanaticism. That makes an old story strikingly
contemporary.
“Giấc mơ của
tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện
đạo đức. Đó là về sự chọn lựa giữa nói
“Không” với cái Cái Ác Bắc Kít
– hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ như 1 bà
nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm
– và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt vời, như sợi
sữa, trong 1 bức danh họa, (2) giữa hành động và cuồng
tín.
Mỗi tên GCC
trong chúng ta, là tiếp diễn của, không
phải một, mà là nhiều tên GCC. Trong
số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như
thế đó, sẽ có 1 tên cực là khủng, chứa
chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh
ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.
Chắc là tên
GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên
chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng
Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa
Học?
Hay là tên
khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không
làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!
(1)
Ui chao, đọc ba chớp
ba nháng, as always, tưởng em không nỡ
bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát
sữa, đi lấy sữa cho con!
Đúng là nghèo
mà ham!
Note: Lời chúc của K,
CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI"
TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC: Calvino's idea of memory as the
link between what we do and what we wanted to do.
Vampire in Love is a selection of his short fiction, published
in English for the first time. Born in Barcelona in 1948, Vila-Matas grew
up under Franco’s dictatorship and began his career as a journalist. Possibly
as a result, or possibly for other reasons entirely, he has wilfully obscured
details of his life, and advised members of the press to ‘reinvent the whole
thing entirely’. His erudite, hybrid works demolish the boundaries between
fiction and reality, novel and essay: in Bartleby & Co. (2000;
translated into English in 2004), a literary addict compiles
a mock taxonomy of writers who failed to write; in Never Any
End to Paris (2003; translated 2011), a ‘poor,
young man’ goes to Paris and writes a novel that seems to kill anyone
who reads it; in Montano’s Malady (2002; translated
2007), the protagonist confuses events from fiction with his own
memories and ends up thinking he has ‘taken possession of the soul
of Robert Walser’.
In the opening story of Vampire in Love, ‘A Permanent
Home’, the narrator is summoned to his father’s deathbed.
He goes there hoping for a climactic revelation, when all his
uncertainties will be resolved. Yet his father just unfurls a
series of more and more preposterous stories, until the narrator
perceives that ‘quite astonishingly for someone on the verge of dying
– my father … was continuing ceaselessly to invent’. Outraged at
first, gradually he understands:
My father, who had once believed in many, many things only to
end up distrusting all of them, was leaving me with a unique,
definitive faith: that of believing in a fiction that one
knows to be fiction, aware that this is all that exists, and
that the exquisite truth consists in knowing that it is a fiction
and that, nevertheless, one should believe in it.
Clearly, this is something of a paradox. In Vila-Matas’s work, general reality is coercive and deeply
weird; the only possible salvation lies in the ‘exquisite
truth’ of fiction. Furthermore, he suggests, why would you permit
others to tell you what is ‘real’, when they are all as mortal
and doomed as you? In the darkly funny ‘Rosa Schwarzer Comes Back
to Life’, a museum worker turns fifty and asks herself, ‘What is the
point of my life?’ The question is so wildly unanswerable that Rosa
finds herself drinking with a madman in a local bar and contemplating
suicide. ‘Sea Swell’ is an improbable literary anecdote in the manner
of Never Any End to Paris, in which a feckless
narrator attends a Parisian party with Marguerite Duras and Sonia Orwell.
This elegant literary soiree is comically debauched; the narrator
is high on amphetamines and his manic-depressive friend, Andrés,
drinks all the Beaujolais and throws himself into the Seine.
In this anti-realist landscape, everything echoes something else.
As the narrator of Bartleby & Co. says, ‘Nowadays
we have no option but to repeat.’ After the aesthetic revolutions
of the early 20th century, writers and artists are stuck in tribute-modernism,
with ‘only a few, insignificant details waiting to be explored’.
For Vila-Matas’s personae/narrators, writing is a form of passionate
vampirism – hence the title. This might all seem like one postmodernism
too far, yet Vila-Matas conveys agonising depths of solitude and
longing in his work as well. The title story describes the mournful
inner world of Ferrato, who slightly resembles a vampire and has
been abused and jeered at for so long that he has ‘grown tired of
being good’. Another story, ‘Greetings from Dante’, features a woman
whose child refuses to speak, until at the age of ten he starts
shrieking like a ‘stupid, utterly unfeeling bat’. But – as with Mansfield’s
‘Miss Brill’ – it is uncertain whether the cries emanate from the
son or his desperate mother. ‘Invented Memories’, which reminds
us of Montano’s Malady,is narrated
by a man ‘with scarcely any biography. Until I decided to invent
one for myself.’ He adds:
literature is like a message in a bottle … because literature
needs a recipient too; and so, just as we know that someone,
some unknown person, will read our shipwrecked sailor’s message,
we also know that someone will read our literary writings: someone
who is not so much the intended recipient as an accomplice, insofar
as he or she is the one who will give meaning to our writing … And
that is precisely what is so strange and fascinating about literature,
the fact that it is not a static organism, but something that mutates
with every reading, something that is constantly changing.
This may be Vila-Matas’s philosophy too, but we will never know
precisely when his narratorial personae represent him and
when they do not – which is the beautiful and salutary point.
The narrator’s final provocation evokes a rich counterfactual tradition of high ironists,
including Kafka, Woolf, Borges and Bolaño: that fiction
is the only reality because ‘life itself doesn’t actually exist’.
Note:
Tờ Điểm Sách Ăng Lê điểm cuốn sách mới
ra lò của Vila-Matas, Ma Cà Rồng Iêu.
Tay này Gấu cực mê, chuyên giữ mục Sổ Tay
của tờ Văn Học Pháp, nhưng mục này bị phế rồi, cũng
như mục Về Mái Nhà Xưa của Linda Lê
Carnet de lecture par Enrique Vila-Matas LE RÊVE AMÉRICAIN l'enfance est un rêve qui s'ignore
Pendant
des années et des années, le plus récurrent
de mes rêves me transportait dans l'immense cour de l'enntresol
de la rue Rosellon de Barcelone où, enfant, je jouais seul
au football quand, après la lonngue journée scolaire,
je retournais chez mes parents et, histoire de m'occuper avant le
dîner, j'inventais des matchs. La cour était entourée
d'immeubles gris, tristes constructions caractéristiques de
l'époque, ces dures années de la sinistre Espagne d'après-guerre.
Dans mon imagination, j'étais les vingt-deux joueurs à
la fois, si bien qu'une partie de moi-même- composée
de onze joueurs - passait son temps à attaquer comme si elle
était le Brésil au Mondial de Suède, tandis
que l'autre attendait, tapie, la contre-attaque. Je n'avais pas de préférence
et chaque équipe - chaque partie de moi - pouvait gagner indistinctement;
tout dépendait du génie dont chacune faisait preuve.
Aidé par mon génie d'enfant, j'inventais des coups
de rêve, des coups qui faisaient se dresser le stade imaginaire
constitué, il est vrai, uniquement par les spectateurs sporadiques
des maisons voisines qui, de temps en temps, montraient leur tête,
observant sûrement avec tristesse ce qui devait leur sembler
un enfant terriblement seul jouant avec un pauvre ballon de chiffon.
Dans mon rêve récurrent, tout
était toujours pareil (je jouais au football seul, la
cour était la même, la désolation générale
d'après-guerre aussi). Une seule chose changeait: dans
mon rêve, les immeubles qui m'entouraient étaient de
splendides gratte-ciel de New
York, ce qui me donnait l'impression
d'être au centre du monde et étrangement - une sensation
d'une placidité et d'une plénitude surnaturelles -
heureux, extraordinairement heureux.
Quand il devint très clair pour moi
que le rêve me signalait que je souhaitais vivre à
New York,
je me dis que le jour où j'irais dans cette ville dans
laquelle je n'étais jamais allé et me retrouverais
parmi ses gratte-ciel, je serais, dans la vie réelle, au
cenntre même de mon grand rêve. Une sensation peut-être
extraordinaire.
Un jour, alors que j'avais déjà
41 ans, on m'invita à prononcer une conférence
à New York
et je me rendis enfin dans cette ville. Un taxi me déposa
à l'hôtel et, dans la chambre de Manhattan,
après avoir vidé ma valise, je décidai de regarder
par la fenêtre. Elle était entourée de splendides
gratte-ciel. Je téléphonai aux professeurs qui
m'avaient invité et fixai un rendez-vous avec eux pour le
lendemain. Puis je me penchai de nouveau à la fenêtre.
Je suis au centre même de mon rêve, pensai -je. Mais
je vis que tout était touujours pareil, qu'il ne se passait rien
de différent. J'étais à l'intérieur
de mon rêve et, en même temps, celui-ci était réel.
Mais rien de plus. Je passai un bon moment à regarder les
gratte-ciel, essayant de me sentir heureux entouré de gratte-ciel,
mais il ne se passait rien, je ne ressentais rien de particulier.
J'étais penché à une fenêtre, je voyais
des gratte-ciel de Manhattan ... et c'était
tout.
Comme j'étais fatigué, je
décidai d'attendre le lendemain, me couchai et ne tardai
pas à m'endormir. Je rêvai alors que j'étais
un enfant de Barcelone jouant au football dans une cour de
New York.
Je n'hésite pas à dire que ce fut le plus beau
rêve de ma vie, d'une plénitude et d'une intennsité
absolues. Je découvris que le sortilège ou génie
du rêve n'était pas New York. Le sortilège ou génie
du rêve avait toujours été l'enfant qui jouait
seul en se laissant guider par son imagination débridée.
Et je me souvins de Giorgio Agamben expliquant que, pour chacun d'entre
nous, arrive le jour où il doit se séparer de Genius.
« Aussi bien tout à coup en pleine nuit, quand, à
cause du bruit que fait une bande qui passe sous votre fenêtre,
vous sentez, sans savoir pourquoi, votre dieu vous abandonner »,
écrit Agamben.
Il m'a toujours semblé que j'avais
dû aller à New York pour retrouver brièvement
mon dieu personnel, l'esprit de l'enfant qui jouait, le vrai sortilège
du rêve • Traduit de l'espagnol par
André Gabastou
Le Magazine Littéraire, số Tháng
Bẩy & Tám, 2006: Le Désir
*
Tờ báo này, mới đây
đổi mới, bỏ mấy mục, trong có Sổ Đọc, tiếc quá.
Gấu mê nhất mục này. Bài trên đây
mà chẳng tuyệt cú mèo sao? Đọc, Gấu cứ nghĩ
đến thằng cu Gấu Bắc Kỳ mắt lé, lần đầu ghé bến Cảng
Sài Gòn, năm di cư 1954, cùng lúc, cảnh
Gấu chạy theo BHD, ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn...
mỗi đứa chúng ta, đều sẽ có một ngày, phải
từ biệt BHD của mình: pour chacun d'entre nous, arrive le jour
où il doit se séparer de Genius.
Ui chao tuổi thơ là giấc mộng đếch
biết là giấc mộng! Tuyệt!
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là một cơn mộng không biết
là cơn mộng.
Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở
lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa
tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon,
thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi
chơi đá banh một mình sau ngày học dài,
trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa
ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung
quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn
thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài
cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí
tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu
thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi
- gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó
là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong
khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên
không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như
thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có
thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà
mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ,
tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc
gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả
của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà
xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò
đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn
bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả
banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện
y như nhau, tôi chơi đá banh một mình,
cái sân vẫn cái sân, vẫn cái
cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi:
trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi,
là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và
điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung
tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời
thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì
thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc,
vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh
thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như
chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng
có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá
mà có ngày được đặt trên lên
Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng,
nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình
tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa
cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại
mộng, thì cái cảm giác lúc đó
mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi,
tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc
họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và
trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi
lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm
thành phố. Xung quanh tôi là những tòa
nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo
sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào
ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò
ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi
bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy,
vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy
ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ
là thực. Nhưng, chỉ có vậy.
Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình
vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào
trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng
mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng
có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài
ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa
nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là
vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi
để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi
lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc
ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày
nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân
ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó
là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo,
tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi
khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên
tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu
Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính
là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa
trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí
tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười
phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì
là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi
một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái
ngày, mà vào ngày đó, Bông
Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình lình,
trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít
đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm
thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên
cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ
bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ
H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là,
đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này,
là để tìm kiếm trong giây lát, vị
nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa
con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ,
thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ
thiệt của giấc mơ.
Tôi đưa Nguyễn
Huy Thiệp đến nói chuyện ở trường Berkeley. Đến trước cổng sân
trường tôi thấy hàng người đứng cầm cờ vàng ba sọc đỏ
hô khẩu hiệu biểu tình chống...
Note: Gấu là
thằng đầu tiên dám về trong nước, nhưng vấn
đề là, NHT, khi “nói” như thế, là với
tư cách như thế nào?
Một cá nhân đại diện cho
1 chế độ?
Anh qua đây
với tính cách cá nhân hay chính
phủ Việt Nam đưa đi?
Cá nhân
chứ.
Ông không coi truyện
“Tướng về hưu” là tác phẩm xuất sắc nhất trong số 40
truyện ngắn và kịch mà ông đã viết về tình
yêu, nỗi buồn, khao khát tự do và về bất lực của
con người trước sự ngu dốt. Nhà văn là kẻ mơ mộng giữa
thế gian phàm tục và thời thế phàm tục. Ông
lập lại lời một nhà thơ: “Vấp phải đời phàm tục, chiếc
thuyền tình vỡ tan”. Như trong Titanic.
Cái chuyện, NHT không khoái
“Tướng Về Hưu”, thì cũng thường tình thôi,
nhưng truyện ngắn này, vô hình trung, lọt
đúng vào cái lỗ đen dành cho nó,
như Trước Pháp Luật, của Kafka, (có thể kể thêm,
Làng Kế Bên, cũng của ông), Eveline, của Joyce,
hay Người Đàn Bà Ngoại Tình, của Camus, Biển
của Miêng, thứ truyện ngắn “nói lên” tâm trạng
“lưu đầy và quê nhà”, sống đời này, mà
thèm đời kia - cái gì gì, mi làm
phiền ta quá, kiếp trước mi đúng là con điả,
ta bận chồng bận con bận công việc nhà thờ, bận viết
nữa, có thân thì lo, hay là chờ…
kiếp khác, hà, hà - (Truyện ngắn Phì
Lũ của Carver, Tin Văn mới giới thiệu, cũng nằm vào trong hố
đen này).
Truyện ngắn Tướng Về Hưu lọt vào
cõi mà Lukacs gọi là “Not Yet, No Longer”,
Gấu đã lèm bèm rất nhiều lần. Cái
dạng “tướng về hưu”, “tướng âm binh” [của Kadaré),
“tướng chờ thư” (Garcia Marquez)… đầy rẫy, và chúng
đều chỉ ra viên…. “y sỹ đồng quê” của Kafka,
và hình ảnh của một DHT ngồi khóc bên
lề đường Sài Gòn đúng vào ngày
30 Tháng Tư 1975, vừa khóc vừa chửi: Chúng ta
đã bị lừa, không chỉ 1 mà vài thế hệ, và
sợ, hoài hoài thế hệ!
Khủng khiếp thực. Thiệp “ít học,
ít đọc” như Dương Tường phán, không hiểu
nổi những chuyện ghê gớm như vầy đâu.
Gấu sở dĩ vỡ ra được là nhờ đọc
Tolstaya, Những Thời Ăn Thịt Người.
Để trả lời 'giùm' DTH,
khi có người hỏi bà, về những đóng góp
của chính bà cho cái chế độ VC, có
thể mượn Jaspers, trong lời Tựa cho Cầm Tưởng:
Thường thường, người ta có thói
quen áp dụng những bản kẽm cũ mòn, về những
chuyện đang xẩy ra ở đó: dối trá/sự thực; phản
động/phản kháng… Với cuốn sách, không giản
dị như vậy, mà là hoàn cảnh, thực tại ‘thực’.
Bằng cách nào, những con người thay đổi, một khi không
ngừng cảm thấy, đè nặng lên họ, là một hiểm
họa hủy diệt, và cùng lúc, họ còng lưng
gánh vác lịch sử, theo nghĩa, đây là niềm
tin, đây là chân lý: lịch sử cần thiết
như thế đó. Và đó là Niềm Tin Mới.
Milosz nhớ lại thời kỳ 1945, mốt thời
thượng trong những câu lạc bộ trí thức ở Varsovie,
là so sánh chủ nghĩa cộng sản với sự ra đời của
thiên chúa giáo. [Người viết còn nhớ,
một ký giả đã từng hỏi Stalin, bao giờ thì
đảng cộng sản có một Đức Giáo Hoàng.]
Milosz nhờ đọc Weil mà ngộ, tuy
nhiên, trong một bài viết, ông không
nghĩ, ông là một 'fan' của bà.
Gấu, khi ra hải ngoại đã tự nhủ,
chẳng viết nữa, nhưng đọc Steiner, và nhờ Steiner,
được đọc Weil.
Và lại viết! NQT
Chắc chắn, ở đây Milosz tự biện
minh, về quyết định “chạy làng” (to defect) của ông.
Chính cái hành động chạy làng đó
đẩy ông vào một vị trí đạo đức cao hơn người
khác, một khi biết rõ mọi mũi dùi sẽ chĩa
vào ông, chưa kể thái độ khinh khi, rè
bỉu của những người cộng sản mà ông bỏ lại sau lưng.
Nhưng điều mà những người chỉ trích không nhận
ra, đó là, bằng cách nào, ông tin
rằng cái đầu của ông hết còn bị vây khổn.
Và đây chính là một “hạnh ngộ”, nếu coi
tầm quan trọng của Weil trên tư tưởng của ông, những
ngày ở Paris.
Liệu, quyết định ở lại Paris của DTH,
là cũng tương tự Milosz?
Và, biết đâu đấy, do thương
hại, sau khi đã giận dữ ban cho mảnh đất đó,
một Con Bọ, Ông Trời bèn bù trừ, và
thế là có một.... DTH?
Và liệu câu này, của
một nhà phê bình, về W. Faulkner, 'but
Mr. Faulkner's work has seemed to be of a man who has, at some
time, been desperately hurt' cũng có thể áp dụng cho...
DTH?
Tác phẩm của DTH có vẻ như
của một người đàn bà bị đau đớn, bị thương tổn
đến cùng cực, ở một lúc nào đó.
Luật bù trừ, như 'quà tặng'
của Thượng Đế, theo cái kiểu tán phó
mát của Gấu, với Kim Dung, là luật của thiên
nhiên. Ông kể, về một miền đất lạnh tàn
nhẫn lạnh khốc liệt, và để bù trừ, thiên nhiên
ban cho người dân ở đó, một thứ cỏ, bện làm
giầy đi ấm chân vô cùng. Đọc, Gấu như cảm thấy
cái ấm áp của những ổ rơm, ngày nào,
ngày nào....
Kim Dung còn phán, một khi
thiên nhiên sản sinh ra một thứ độc dược, độc
vật, một cái ác, thì quanh quẩn kế đó,
nó gài sẵn thuốc giải trừ.
Liệu DTH sẽ là thuốc giải độc CS?
Có thể, do đó bọ VC sợ bà.
Nhân nhắc tới Weil, có lẽ
cũng nên nhắc tới một 'xác tín' [certirude]
của bà, "Ainsi se grave en elle pour toujours cette certitude
que 'n'importe quel être humain, même si ses facultés
naturelles sont presque nulles, pénètre dans ce royaume
de la vérité réservé au génie,
si seulement ildésire la vérité
et fait perpétuellement un effort d'attention pour l'atteindre'."Simone
Weil, Oeuvres, Introduction.
Tạm dịch: Bất cứ một cá nhân,
cho dù ngu đần đến cỡ nào, cũng vào được
vương quốc của sự thật, vốn dành riêng cho bậc thiên
tài, nếu, và chỉ nếu, cá nhân đó
sấn hết mình vào đó.
Hay câu này:
Giả sử như bạn 'ngu đần', không
thể nào với tới thiên tài, bạn vưỡn cứ
OK như thường, ấy là nói về chuyện bạn thèm
biết chân lý!
[Elle - Simone Weil - puise dans sa doctrine
l'idée qu'à défaut d'atteindre au génie,
tout le monde peut connaitre la vérité].
Hay câu này:
Người tự hào thông minh thì
cũng giống như tù tự hào phòng giam
rộng rãi.
* Tại sao Con Bọ VC?
Câu trả lời, mượn đỡ của Kertesz.
La mythologie moderne commence par une
constatation négative : Dieu a créé le
monde, l'homme a créé Auschwitz. Auschwitz
était possible puisque nous l'avons rendu possible.
C'est le reflet de notre vie. Nous pouvons le considérer
comme le résultat de notre négligence existentielle.
Huyền thoại hiện đại bắt đầu bằng một
khúc xương thật khó gặm: Thượng Đế sáng
tạo ra con người. Con người sáng tạo ra Lò Thiêu.
Lò Thiêu khả hữu bởi vì chúng ta
làm cho nó khả hữu. Nó là phản ảnh đời
chúng ta. Chúng ta có thể coi nó như
kết quả của sự lơ là trong cuộc sống của chúng ta.
Nhưng Edmund Wilson, một phê bình
gia Mẽo, trong tiểu luận The Wound and The Bow, đã giải
thích, theo kiểu của Kim Dung, ở đâu có cái
ác, ở đó có thuốc trị, nhưng hơi khác
một chút: Ở đâu có sức mạnh ở đó có
cơn dịch.
Ông coi đây là ý
niệm về sức mạnh vô địch không thể tách rời
một căn bệnh hiểm nghèo vô phương chữa trị.
[The conception of superior strength as
inseparable from disability].
Nói rõ hơn, con bọ VC
là do sức mạnh 'kẻ thù nào cũng đánh
thắng' mà ra.
Nếu trước 1945 ở Việt Nam
có một thiên tài văn chương đích thực,
đúng nghĩa và trọn vẹn nhất, thì thiên
tài ấy là Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân.
Không có đâu như ở Việt
Nam, một thiên tài văn chương đã hoàn
toàn vắng bóng khỏi văn học sử chính thống.
Sau rất nhiều thập kỷ, Nhượng Tống đã gần như bị quên
hẳn, một số người có nhắc đến thì hầu như xuất phát
từ một sở thích đối với những thứ mờ ảo mà bản thân
họ cũng chỉ biết lờ mờ, để tỏ vẻ lập dị, đặc biệt. Phê bình
(critique) văn học của Việt Nam vô cùng gần với tội
ác (crime) chính ở những trường hợp như thế này.
Thật ra suốt gần một thế kỷ qua, các nhà phê
bình đã làm gì?
Cuốn của Tolstaya, order, bữa
nay về. Trong có tất cả những bài đã
giới thiệu trên TV, đã từng đăng trên NYRB.
Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã
từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên
tờ Thế Kỷ 21, nhưng không thấy. (1)
(1) Kiếm ra rồi: Bài điểm
cuốn của Robert Conquest: The Great Terror
(Oxford University Press, 1990): “The Great Terror and
the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này,
đọc ở Trại Tị Nạn TháiLan,
mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.
Cuốn hồi ký của Pico Iyer
cũng tuyệt lắm. Viết về sư phụ của ông, là Graham Greene, và
nhân vật ông thật mê, là Người Mẽo Trầm Lặng, Pyle.
TTT biểu thằng em, trong 1 lần ngồi Quán
Chùa, nhà văn An Nam chết non, cứ viết hết thời
thanh xuân, là ngỏm. Về già Gấu nhận ra, nhà
văn Mít chết non vì “đéo” có Thầy.
Thầy mũi lõ, không thể có,
vì dốt quá, không đọc được chữ mũi lõ,
Thầy mũi tẹt thì lại càng không có,
vì, có thằng nào hơn tao đâu, mà
Thầy mới lại chẳng Thầy!
Nên nhớ, nếu bạn thực tình
mê văn chương, thực tình muốn có ngày
trở thành nhà văn: Phải có Thầy!
Nguyễn Tuân mà chẳng
xứng đáng là Thầy ư. Vậy mà Gấu đọc lũ nhà văn
Mít, tên nào cũng chê ông!
Hẳn là có nhiều người bực
mình, nhất là mấy đấng nhà văn cũng có
tí tên tuổi, cũng có 1, hoặc 2 cái
truyện ngắn được đời biết tới, chúng ông cũng nổi
tiếng vậy, mà đâu cần Thầy.
Đúng như thế, và đây
chính là cõi văn Mít, làng
nhàng 1 lũ, áo thụng vái nhau, "đếch" cần Thầy!
Đời người thì ngắn ngủi. Với nhiều
người, cái việc đào bới quá khứ thì
chán ngấy, chưa kể đáng sợ, và họ chẳng có
thì giờ. Vả chăng, ở 1 xã hội Tây Phương, ý
niệm lịch sử yếu dần nếu không muốn nói, biến mất theo
với năm tháng: Tây phương không sống với lịch sử,
nó sống với văn minh (qua cái từ này, tôi
muốn nói 1 thứ tự quan hoài, của 1 nền văn hóa
liên quốc gia, mang tính kỹ thuật, đối nghịch với dòng
tiềm thức, không tra hỏi của lịch sử). Nhưng ở Nga, gần như
không có cái gọi là văn minh, và
lịch sử thì nằm trong những tầng sâu, chưa ai mó
tới, trên những làng xóm, thành phố nhỏ
mấp mé bờ tiền sử, thời hoang sơ, trên những thành
phố lớn ở những khu vực rộng, không biết đến cái gọi
là có văn hóa, nơi ngăn cấm những người nước ngoài,
và chính họ cũng chẳng dám mò tới. Ngay
cả ở trung tâm thành phố Moscow, vẫn có những khu
vực mà đời sống ở đó, thì “huy hoàng thế
kỷ” 15, hay 11; thế kỷ 11 thì dễ hiểu, dễ thông cảm hơn,
vì vào thời kỳ này, nước Nga phát triển nhiều
về mặt văn hóa, văn minh, so với thế kỷ 15)
Tây Phương sống bằng văn minh, Mít
sống bằng lịch sử. GCC thuổng ý này, khi viết
về Bác Hồ, giống như cái xác ướp của Đức
Thánh Trần, thí dụ, từ quá khứ bốn ngàn
năm bèn sống lại, hoặc, buồn quá, bèn vỗ
vai Hùng Vương, “toa” có công dựng nước, còn
“moa”, giữ nước!
Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt
Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu
sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh.
Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những
nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội
mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già
dân tộc.
Có thể cũng vì vậy, câu
nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi",
của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ
tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi
bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ.
Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn
Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc
đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn
chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm
gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra,
và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
During Stalin's time, as I see it, Russian society, brutalized
by centuries of violence, intoxicated by the feeling that everything
was allowed, destroyed everything "alien": "the enemy," "minorities"-any
and everything the least bit different from the "average." At
first this was simple and exhilarating: the aristocracy, foreigners,
ladies in hats, gentlemen in ties, everyone who wore eyeglasses,
everyone who read books, everyone who spoke a literary language
and showed some signs of education; then it became more and more
difficult, the material for destruction began to run out, and society
turned inward and began to destroy itself. Without popular support
Stalin and his cannibals wouldn't have lasted for long. The executioner's
genius expressed itself in his ability to feel and direct the evil
forces slumbering in the people; he deftly manipulated the choice of
courses, knew who should be the hors d' oeuvres, who the main course,
and who should be left for dessert; he knew what honorific toasts to pronounce
and what inebriating ideological cocktails to offer (now's the time to
serve subtle wines to this group; later that one will get strong liquor).
It is this hellish cuisine
that Robert Conquest examines. And the leading character of this
fundamental work, whether the author intends it or not, is not
just the butcher, but all the sheep that collaborated with him,
slicing and seasoning their own meat for a monstrous shish kebab.
Tatyana Tolstaya
Lần trở lại xứ Bắc, về lại
làng cũ, hỏi bà chị ruột về Cô Hồng Con,
bà cho biết, con địa chỉ, bố mẹ bị bắt, nhà phong
tỏa, cấm không được quan hệ, và cũng chẳng ai dám
quan hệ. Bị thương hàn, đói, và khát,
và do nóng sốt quá, khát nước quá,
cô gái bò ra cái ao ở truớc nhà,
tới bờ ao thì gục xuống chết.
Có thể cảm thấy đứa em quá đau
khổ, bà an ủi, hồi đó “phong trào”.
Tolstaya viết:
Trong thời Stalin, như tôi biết, xã
hội Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo,
bèn trở thành tàn bạo, bị cái độc,
cái ác ăn tới xương tới tuỷ, và bèn
sướng điên lên, bởi tình cảm, ý nghĩ,
rằng, mọi chuyện đều được phép, và bèn hủy diệt
mọi thứ mà nó coi là “ngoại nhập”: kẻ thù,
nhóm, dân tộc thiểu số, mọi thứ có tí
ti khác biệt với nhân dân chúng ta, cái
thường ngày ở xứ Bắc Kít. Lúc đầu thì thấy
đơn giản, và có tí tếu, hài: lũ trưởng
giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà vạt, đeo kiếng, đọc sách,
có vẻ có tí học vấn…. nhưng dần dần của khôn
người khó, kẻ thù cạn dần, thế là xã hội
quay cái ác vào chính nó, tự
huỷ diệt chính nó. Nếu không có sự trợ giúp
phổ thông, đại trà của nhân dân, Stalin và
những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không thể
sống dai đến như thế. Thiên tài của tên đao phủ,
vỗ ngực xưng tên, phô trương chính nó, bằng
khả năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám đông,
khôn khéo thao túng đường đi nước bước, biết, ai
sẽ là món hors d’oeuvre, ai là món chính,
ai sẽ để lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục
mà Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu
thì không phải chỉ là tên đao phủ,
nhưng mà là tất cả bầy cừu cùng cộng tác
với hắn, đứa thêm mắm, đứa thêm muối, thêm tí
bột ngọt, cho món thịt của cả lũ.
Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest,
bản nhìn lại, a reassessment, do Oxford University Press
xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya,
1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan,
cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực
hãn hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ
Thế Kỷ 21, với cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không
có nó, là không có Gấu Cà
Chớn. Không có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu,
như 1 tên Bắc Kít, nhà quê, may
mắn được ra Hà Nội học, nhờ 1 bà cô là
Me Tây, rồi được di cư vào Nam, rồi được đi tù
VC, rồi được qua Thái Lan... là để được đọc bài
viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn
bài điểm sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm
khái chi đâu. Có thể nói,
cả cái quá khứ của Gấu ở Miền Bắc, và Miền
Bắc - không phải Liên Xô - xuất hiện, qua bài
viết.
Khủng khiếp thật!
Tatyana Tolstaya, trong
một bài người viết tình cờ đọc đã lâu,
khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch,
Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng,
chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống,
cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết
bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng
sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời
Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. ["We Russians don't need to eat; we
eat one another and this satisfies us."].
Chính cái phần Á-châu
man rợ đó đã được đưa lên làm giai
cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà
khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân
dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin
đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến
một cuộc cách mạng Nga! "God forbid we should ever witness
a Russian revolt, senseless and merciless," our brilliant poet Pushkin
remarked as early as the first quarter of the nineteenth century.
Trong bài viết, Tolstaya kể, khi cuốn
của Conquest, được tái bản ở Liên Xô, lần
thứ nhất, trên tờ Neva, “last year”
[1990, chắc hẳn], bằng tiếng Nga, tất nhiên, độc giả Nga,
đọc, sửng sốt la lên, cái gì, những chuyện này,
chúng tớ biết hết rồi!
Bà giải thích, họ biết rồi,
là do đọc Conquest, đọc lén, qua những ấn bản
chui, từ hải ngoại tuồn về!
Bản đầu tiên của nó, xb truớc
đó 20 năm, bằng tiếng Anh, đã được tuồn vô
Liên Xô, như 1 thứ sách “dưới hầm”, underground,
best seller.
Cuốn sách đạt thế giá folklore,
độc giả Nga đo lường lịch sử Nga, qua Conquest,"according to
Conquest,"
Review of “The Great Terror:
A Reassessment, by Robert Conquest” (Oxford University Press,
1990)
LAST YEAR Robert Conquest's The Great Terror
was translated into Russian and published in the USSR in the
journal Neva. (Unfortunately, only the first edition was published.
I hope that the second, revised and enlarged edition will be published
as well, if it is not suppressed by the censorship so recently
revived in the Soviet Union.) The fate of this book in the USSR
is truly remarkable. Many of those who opened Neva in 1989-90 exclaimed:
"But I know all this stuff already!" How did they know it? From Conquest
himself. The first edition appeared twenty years ago in English, was
translated into Russian, and infiltrated what was then a closed country.
It quickly became an underground best seller, and there's not a thinking
person who isn't acquainted with the book in one form or another: those
who knew English read it in the original, while others got hold of the
Russian text, made photocopies at night, and passed them on. The book
gave birth to much historical (underground and emigre) research, the facts
were assimilated, reanalyzed, argued, confirmed, elaborated. In short,
the book almost achieved the status of folklore, and many Soviet people
measure their own history "according to Conquest," sometimes without realizing
that he actually exists. This is why many readers, especially the younger
ones, thought of Conquest's book as a compilation of "commonly known
facts" when they read it for the first time. The author should be both
offended and flattered.
He [Conquest] later called
Marxism a “misleading mental addiction”. Ông sau đó
gọi chủ nghĩa Mác là thứ “say mê, nghiện ngập
về mặt tâm thần lầm lạc”.
Ngày “Một ngày trong đời Ivan Denisovich” của
Solzhenitsyn chính thức ra lò, Thứ Bẩy, 17 Tháng
11, 1962.
Cứ như ở trong nhà thờ, ông
chủ báo Novy Mir kể lại cho tác giả, tình
hình tòa soạn, độc giả lặng lẽ vô, lặng
lẽ đưa ra 70 kopeck, lặng lẽ lấy một số báo, và lặng
lẽ ra ngoài, nhường chỗ cho độc giả khác!
Nhưng, nếu như thế, liệu “Một ngày
trong đời Ivan” có thể dài quá một số báo
Novy Mir?
Không thể, theo Gấu.
Đúng như Lukacs, khi nhận định, vào
thời điểm Cái Ác lên ngôi, cả văn chương
và đời sống bỏ chạy có cờ, thì truyện ngắn
đúng là cái anh chàng cảm tử đóng
vai hậu vệ, cản đường tiến của nó. (1)
“Bếp Lửa, Kẻ Xa Lạ, Một ngày, Tướng
về hưu”… bắt buộc phải là truyện ngắn, không
thể khác.
Hơn thế nữa, chưa cần đọc, chỉ đọc mỗi cái
tên truyện không thôi, là đã
đủ ngộ ra chân lý.
Nhân đang ồn ào về Dương Nghiễm
Mậu, lịch sử không thể lập lờ, thế thì, tại nàm
sao, trong danh sách trên, lại thiếu, những Rượu
Chưa Đủ, Cũng Đành, Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn
Tôi, Con Thú Tật Nguyền, Trăng Huyết, Trái Khổ
Qua, Dọc Đường, Tư, và, lẽ dĩ nhiên: “Tứ tấu khúc”
viết về Lan Hương và Sài Gòn!
Ôi chao, hoá ra Lukacs mới kỳ
tài làm sao: ông biết trước, Cái
Ác sẽ lên ngôi, và thiên tài
của nơi chốn [ông thần đất, ông thành hoàng,
ông địa...] sẽ ban cho miền đất bị trù ẻo này
hơn một truyện ngắn, trong khi chờ, được chúc phúc trở
lại.
*
(1) G. Lukacs, phê bình gia
Mác xít, đọc Một ngày, và đưa ra
nhận định như trên, về thể loại truyện ngắn.
Trớ trêu là, Robert Conquest,
và tiếp theo, Martin Amis, cũng dựa trên kinh
nghiệm của Solz, của trại tù Stalin, để giải thích
sự dài ngắn của một cuốn sách.
Amis mở ra cuốn “Koba The Dread” của ông,
bằng câu văn thứ nhì của Robert Conquest, trong
cuốn “Mùa Gặt Buồn: Tập thể hóa Xô viết và
Trận Đói-Kinh Hoàng: The Harvest of Sorrow: Soviet
Collectivization and the Terror-Famine”:
Nếu lấy chữ mà so với mạng người,
thì những chuyện gì xẩy ra ở trong cuốn sách
của tôi, cứ hai mươi mạng người thì tương đương
với, không phải một từ, mà một con chữ.
Câu tiếng Anh của Conquest, “We may
perhaps put this in perspective in the present case by saying
that in the actions here recorded about twenty human lives were
lost for, not every word, but every letter, in this book”, tương
đương với 3,040 mạng người. Cuốn sách của ông dài
411 trang.
Conquest trích một
câu của Grossman, câu này tương đương với
3.880 mạng trẻ em:
"And the children's faces were aged, tormented,
just as if they were seventy years old. And by spring they no
longer had faces. Instead, they had birdlike heads with beaks,
or frog heads-thin, wide lips-and some of them resembled fish,
mouths open"
[Mặt trẻ em thì già cằn, tả
tơi, cứ như thể chúng 70 tuổi đầu. Tới mùa xuân
chẳng em nào còn có mặt, thay vì
mặt thì là những cái đầu giống như đầu chim...]
Ai Điếu Robert Conquest
Tay này, khui ra sự thực về Stalin:
Một Con Quỉ
Trong
những sử gia Tây Phương về Liên Xô, Robert
Conquest, mất 3/8/2015, 98 tuổi có 1 vị trí độc
nhất. Ông không chỉ là người thứ nhất viết
về khủng bố Stalin, mà còn là người chi tiết
nhất, chính xác nhất về nó: Người nói
sự thực về khủng bố Xì, và về tên bạo chúa
sát nhân, the man who told the truth about the terror,
and Stalin’s murderous tyranny.
Thay vì đi 1
đường tưởng niệm, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Tolstaya, khi
điểm cuốn của Conquest. Nhờ bài viết này, đọc bản dịch,
hay tóm tắt chẳng biết nữa, “Những Thời Ăn Thịt Người”, trên
tờ Thế Kỷ 21, tại Trại tạm cư Panat Nikhom, cc 1989, Gấu mới ngộ ra
Cái Ác Bắc Kít
Và, xin vĩnh biệt,
và cầu mong linh hồn ông sớm siêu thoát.
NQT
The Turkish Nobel laureate Orhan
Pamuk had warm personal memories: “Grass learned a lot from
Rabelais and Celine and was influential in development of ‘magic
realism’ and Marquez. He taught us to base the story on the inventiveness
of the writer no matter how cruel, harsh and political the story is,”
he said.
Ông học nhiều từ Rabelais và Céline,
và ảnh hưởng bởi hiện thực thần kỳ và Garcia
Marquez. Ông ta dạy chúng ta, hãy viết, bằng
phát kiến của nhà văn, đếch thèm để ý
đến câu chuyện, cho dù nó độc địa, dữ dằn
hay bị chính trị cấu xé, tới cỡ nào.
He danced
across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving
evil because of his personal grace.
Sự vĩ
đại của GG.
Ông
khiêu vũ qua những ghê tởm, gớm ghiếc của lịch sử,
tới cái đẹp của văn chuơng, sống sót cái
ác, nhờ ân sủng cá nhân của mình.
Ui chao,
thèm câu phán quá, đeo ở cổ... Gấu Cà
Chớn, như cái tai người, của 1 nhân vật, của NMG trong Mùa
Biển Động.
Hà, hà!
[Note: Bạn chỉ cần dịch, từ "ân sủng", là "nhân hậu và
cảm động", là ra GCC, thay vì GG!]
Noel coming I MISS U SO MUCH
Grass cực bảnh, theo GCC. Cái
cú thú tội của ông thần sầu, khó
có ai bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít
làm được như ông, là lịch sử xứ Mít
đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào,
não cũng bị thiến 1 mẩu, là thế!
Trong tập tiểu luận Quê
Hương Tưởng Tượng, (Patries imaginaires), Salman Rushdie có
nhắc tới một hình ảnh theo ông thật là tuyệt
vời trong tác phẩm "Mùa Đông của ông
Khoa trưởng" của nhà văn Mỹ, Saul Bellow, Nobel văn chương.
Nhân vật chính, ông khoa trưởng, Corde, nghe tiếng
chó sủa một cách man rợ ở đâu đó. Và
ông ta tưởng tượng ra được rằng, tiếng sủa đó là
sự nổi loạn của con chó chống lại sự hữu hạn của kinh nghiệm
loài chó. "Thượng Đế hỡi, con chó nói,
xin làm ơn mở rộng thế giới ra một chút xíu nữa".
Rồi Rushdie kết luận: Bởi vì Bellow thực sự không nói
chuyện mấy con chó, hoặc không phải chỉ nói chuyện
về chúng mà thôi, tôi có cảm tưởng
cơn cuồng nộ, và khát vọng của con chó cũng là
của chúng tôi, của chúng ta, những người ở trên
thế gian này.
Không hiểu sao, khi đọc
bài phỏng vấn nhà văn Thảo Trường trên Văn,
số tháng Chạp, 1996, tôi bỗng nhớ đến S. Rushdie,
cùng cơn cuồng nộ, và khát vọng của ông.
Nhà văn Thảo Trường khẳng định một điều: "Văn Học Việt Nam
thì phải viết bằng Quốc Ngữ. Viết bằng chữ khác thì
không nên gọi là văn học Việt Nam." Không
ai có thể phủ nhận điều này. Và bởi vì
ngay cả khi khẳng định, chúng ta vẫn còn tra hỏi, bởi
vì câu hỏi nhiều khi cần thiết hơn là câu
trả lời; cho nên ở đây, người viết chỉ xin đưa ra một đề nghị,
liệu chúng ta có nên thêm vào Văn Học
Việt Nam một "mảng văn chương viết bằng tiếng Anh".
Bởi vì Thượng Đế quả tình
đã nghe được lời khẩn cầu của S. Rusdhie, và thế giới đối với
ông quả có rộng thêm, không phải một chút
xíu, mà thật rộng, ít ra cũng rộng hơn nhiều, so với
đám di dân, tỵ nạn chúng ta.
Cùng với những nhà
văn như Michael Ondaatje, Kazuo Ishiguro... họ đang đại diện
cho dòng văn chương thế giới hiện đại: dòng văn
chương viết bằng tiếng Anh của những người di dân. Họ cũng đã
từng đoạt giải thưởng The Booker, một giải thưởng văn chương của
"đế quốc Anh". Nếu không có những người như họ, liệu
tiếng Anh, dòng văn chương viết bằng tiếng Anh có trở
nên giầu có, trở thành niềm hãnh diện
không phải của một số sắc dân mà coi như của toàn
thể nhân loại. Bản thân người viết, khi đọc họ, thí
dụ như nhà văn nữ Amy Tan, chỉ thấy đây là một
người đàn bà Trung Hoa, viết về những đề tài
muôn thuở của con người, và những xung đột, những mâu
thuẫn... khi họ, những "đứa con của Trung Nguyên, của ông
Trời", phải đụng đầu với thế giới Tây Phương; trong niềm tin tưởng
mãnh liệt, chỉ cho họ đặt chân xuống đất Trung Hoa là
họ trở thành người Trung Hoa "một trăm phần trăm".
Trong cuốn "Tàn Ngày",
(The Remains of the Day), tác phẩm đoạt giải The Booker,
nhà văn gốc Nhật, Kazuo Ishiguro đặt thẳng vấn đề, "người
ta không thể có nhân phẩm, một khi là
một tên nô lệ", và có nên trung
thành với "ông chủ", Lord Darlington, một nhân
vật biểu tượng cho vương quốc Anh, cho sự cao cả, la grandeur, của
vương quốc đó, đến nỗi đẩy người yêu vào tay
kẻ khác, cuối cùng khám phá ra ông
chủ chỉ là một kẻ cộng tác với Nazi.
Cũng trong Quê Hương Tưởng
Tượng, S. Rusdhie, trong bài viết Luận về phê bình,
Essai de critique, bàn về vấn đề di dân, về những
tác phẩm văn học thế giới, và của nhà văn
Đức, Gunter Grass. Ông viết: Có những tác phẩm
mở ra những cánh cửa cho độc giả, những cánh cửa
ở trong đầu, những cánh cửa mà họ chẳng bao giờ nghi
ngờ đến sự hiện hữu của chúng. Và có những
độc giả mơ ước trở thành nhà văn; họ tìm kiếm
một cánh cửa lạ lùng nhất trong số tất cả những cánh
cửa... Lại có những độc giả khác đọc và bắt
đầu mơ mộng. Với những Alice như vậy, họ ao ước "di cư" từ Thế Giới
vào trong Những Cuốn Sách. Đối với họ, có những
cuốn sách (nếu họ may mắn) cho phép họ du lịch, cho
phép họ trở thành "nhà văn có sẵn ở trong
họ"... Một cuốn sách cũng giống như một tờ thông hành,
và những tờ thông hành của tôi, gồm có
Hồi Ký của Serge Eisentein, Con Quạ của Ted Hugues, Những Giả
Tưởng của Borges, và trong mùa hè 1967, Cái
Trống, của Gunter Grass.
G. Grass là đứa trẻ nổi
tiếng nhất của Danzig (Lech Walesa, người độc nhất có
thể tranh giành với ông danh hiệu này, thực
ra sống ở Gdansk). Ông cũng là nhân vật quan
trọng "trung tâm" của dòng văn chương di dân,
và di dân lại là nhân vật trung tâm
và quyết định của thế kỷ 20 này. Như rất nhiều di dân,
như rất nhiều người đã mất một thành phố, ông
tìm lại được nó trong hành trang của ông,
dấu kỹ trong một cái hộp cũ bằng sắt. Thành phố Prague
của Kundera, Dublin của Joyce, Danzig của Grass: Ôi chao, cái
đám lưu đầy xứ người, cái đám tỵ nạn, cái
đám di dân gói ghém không biết bao nhiêu
là thành phố trong hành trang của họ theo suốt những
cuộc hành trình "lang thang Do thái" đó! Và
đừng coi thường sự cứng đầu của họ, những nhà văn như thế. Họ không
cho phép bất cứ ai được "Gdansk hóa" quá khứ của họ.
Trong cái thành phố mà Grass mang theo, Labesweg
vẫn là Labesweg, và những xưởng đóng tầu nhìn
thấy sự ra đời của Solidarnosc không gọi là Lénine,
nhưng mà là Schichau.
Theo một nghĩa nào đó,
Grass chỉ có một nửa "di dân". Một di dân
chính hiệu đau nỗi đau ba lần "đứt phim": mất nơi chốn,
sống ở một nơi có một tiếng nói xa lạ hoàn
toàn, sống với những người xa lạ hoàn toàn,
nhiều khi còn tỏ vẻ thù nghịch đối với người đó.
Chính ba lần đứt phim này đã biến di dân
trở thành quan trọng vì ba điều vừa kể trên là
ba thành phần quan trọng nhất để định nghĩa một con người.
Mất cả ba, họ bắt buộc phải tìm những cách thức mới để tự
diễn tả, những cách thế mới để là người.
Di dân dâng hiến
cho chúng ta "ẩn dụ" giầu có nhất của thời đại.
Từ "ẩn dụ", métaphore, theo gốc Hy Lạp của nó, có
nghĩa "mang qua", diễn tả một trạng thái thiên di,
từ ý tưởng qua hình ảnh. Di dân do đó là
những sinh vật ẩn dụ tự bản chất.
Grass còn là một
di dân đối với quá khứ của ông. Không
phải đợi đến khi người Mỹ tới, và cuộc chiến chấm dứt ông
mới nhận ra chuyện gì thực sự đã xẩy ra ở Đức. Một
kinh nghiệm mới đắng cay làm sao khi khám phá
ra rằng hình ảnh toàn diện về thế giới mà người
ta có được là giả, không những giả mà
còn được tạo nên từ Quỷ, từ Ma. Và trách
nhiệm mới lớn lao làm sao đối với chỉ một cá nhân:
xây dựng lại, tái tạo thực tại từ những mảnh vụn, những
điêu tàn. Theo nghĩa đó, Grass là một di
dân trong Lịch Sử. Ông là di dân "kép",
chứ không chỉ một nửa.
Quê Hương Tưởng Tượng,
tại sao vậy?
Trong bài viết được dùng
làm tên cho cả tập, S. Rushdie viết về một kỷ niệm
lần ông trở lại Bombay. Như những di dân, những kẻ
lưu đầy xứ người, ông luôn bị ám ảnh bởi một
nỗi mất mát, và sự cần thiết phải "tái chinh
phục" quá khứ, phải quay về với nó, cho dù có
bị biến thành tượng muối. Nhưng nếu chúng ta quay
lại, chúng ta phải biết rằng là, sự xa mặt đã
làm cho chúng ta không thể nào tái
chinh phục được cái đã mất; một cách ngắn gọn,
chúng ta sẽ chỉ xây dựng được, không phải những
thành phố, những làng mạc thực mà là
những quê hương tưởng tượng.
Những Việt Nam, Sài-gòn,
Mỹ Tho, Cai Lậy... của trí tưởng.
NQT
Note: Bài viết này,
Gấu viết, hình như 1997, khi bắt đầu giữ mục Tạp Ghi
của tờ VH, của NMG. Nay, để tưởng niệm G. Grass, Tin Văn đi hết
bài viết của Rushdie, về ông, trong Quê Hương
Tưởng Tượng.
Tính đi bài trên
The New Yorker, nhưng hết credit, tờ báo đếch cho đọc!
Đọc được rồi, dùng 1 cái PC khác,
hà hà!
In 1982, when I was in Hamburg
for the publication of the German translation of “Midnight’s
Children,” I was asked by my publishers if I would like to meet
Günter Grass. Well, obviously I wanted to, and so I was driven
out to the village of Wewelsfleth, outside Hamburg, where Grass
then lived. He had two houses in the village; he wrote and lived in
one and used the other as an art studio. After a certain amount of
early fencing—I was expected, as the younger writer, to make my genuflections,
which, as it happened, I was happy to perform—he decided, all of a sudden,
that I was acceptable, led me to a cabinet in which he stored his
collection of antique glasses, and asked me to choose one. Then he got
out a bottle of schnapps, and by the bottom of the bottle we were friends.
At some later point, we lurched over to the art studio, and I was
enchanted by the objects I saw there, all of which I recognized from
the novels: bronze eels, terracotta flounders, dry-point etchings of
a boy beating a tin drum. I envied him his artistic gift almost more
than I admired him for his literary genius. How wonderful, at the end
of a day’s writing, to walk down the street and become a different sort
of artist! He designed his own book covers, too: dogs, rats, toads moved
from his pen onto his dust jackets.
After that meeting, every German
journalist I met wanted to ask me what I thought of him, and
when I said that I believed him to be one of the two or three greatest
living writers in the world some of these journalists looked disappointed,
and said, “Well, ‘The Tin Drum,’ yes, but wasn’t that a long time
ago?” To which I tried to reply that if Grass had never written that
novel, his other books were enough to earn him the accolades I was giving
him, and the fact that he had written “The Tin Drum” as well placed
him among the immortals. The skeptical journalists looked disappointed.
They would have preferred something cattier, but I had nothing catty to
say.
I loved him for his writing,
of course—for his love of the Grimm tales, which he remade in
modern dress, for the black comedy he brought to the examination
of history, for the playfulness of his seriousness, for the unforgettable
courage with which he looked the great evil of his time in the face
and rendered the unspeakable into great art. (Later, when people
threw slurs at him—Nazi, anti-Semite—I thought: let the books speak
for him, the greatest anti-Nazi masterpieces ever written, containing
passages about Germans’ chosen blindness toward the Holocaust that
no anti-Semite could ever write.)
On his seventieth birthday, many
writers—Nadine Gordimer, John Irving, and the whole of German literature—assembled
to sing his praises at the Thalia Theatre in Hamburg, but what
I remember best is that when the praise songs were done music
began to play, the theatre’s stage became a dance floor, and Grass
was revealed as a master of what I call joined-up dancing. He could
waltz, polka, foxtrot, tango, and gavotte, and it seemed that all the
most beautiful girls in Germany were lining up to dance with him. As
he delightedly swung and twirled and dipped, I understood that this
was who he was: the great dancer of German literature, dancing across
history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because
of his personal grace, and his comedian’s sense of the ridiculous as well.
To those journalists who wanted
me to diss him in 1982, I said, “Maybe he has to die before
you understand what a great man you have lost.” That time has
now arrived. I hope they do.
Vào năm 1962, khi tôi
tới Hamburg nhân dịp ra lò
ấn bản tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà
xb gợi ý hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not? Thế là chúng tôi
làm 1 chuyến ghé thăm ông, ở 1 cái
làng; ông có hai ngôi nhà ở trong
làng, một để viết, và sống, một để vẽ vời, ông
là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm, mọi tên ký
giả Đức mà tôi gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì
về GG, và tôi bèn phán, ông
ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà văn
vĩ đại nhất hiện còn sống trên thế giới; vài
tên ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó
ư, "Cái Trống Thiếc", OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo
chim rồi, hết viết được rồi, hà, hà!