|
Kim Dung còn
1 tuyệt chiêu nữa, từ niềm tin vào thuyết "oan oan tương báo". Một độc
giả mắt xanh của ông, khi đọc đến cái xen Ngụy Quân Tử Nhạc Bất Quần mê
"Tịch Tà Kiếm Pháp" quá,
bắt con gái là Nhạc Linh San giả làm cô bán quán, và khi cô, biết võ
công, lặng
thinh, sõng tay, để cho thằng con nít mê gái, là Lâm Bình Chi
giết người
vì cô, là bèn thở dài, thôi xong rồi, em sẽ chết dưới tay Lâm Bình Chi.
Mối tình
nghiệt ngã giữa Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi cũng từ đó mà ra.
Tiễn cô đi là tiếng hát của những cô gái hái chè vùng Thái Nguyên,
Tuyên Quang, vùng Quan Họ [Phúc Kiến], là vậy.
Bạn có nhớ cái xen A Tỷ
núp
lén dưới cầu nhìn Kiều Phong giết A Châu, khi cô giả trang làm “Kẻ
Đại Ác”,
tức thân phụ của mình, là Đoàn Chính Thuần, và khi nghe Kiều Phong khóc
than,
thì bèn ngộ ra, đúng rồi, thằng khốn này đúng là người yêu của ta!
Cú đó là "sóng
sau đè sóng trước", cũng 1 bí quyết võ công của anh Tẫu mà KD thuổng từ
truyền
thống văn học TQ: Sóng truớc, là cái xen Kiều Phong tung A Châu lên
trời
ở Nhạn
Môn Quan, đợi rớt xuống ôm chặt vào lòng, và nói, hai ta ra quan ngoại
chăn dê,
rời chốn giang hồ gió tanh mưa máu!
Ui chao, sao
mà tuyệt đến như thế hả Trời!
Cũng thế, Miêu
Nhân Phượng dù thế nào đi chăng nữa, thì cũng là người làm thịt Hồ Nhất
Đao, thì lại phải Hồ Phi đáp lễ, và do đó mà trận đấu giữa cha vợ và
chàng rể khó mà
tránh được.
Miêu Nhân
Phượng ngoài mối thù giết bố, còn mối thù truyền kiếp giữa mấy dòng họ
Hồ, Miêu,
Điền… tức mấy anh em kết nghĩa cùng phò Sấm Vương, người anh cả họ Hồ,
và Hồ
gia đao pháp thì đứng đầu thiên hạ. Miêu Nhân Phượng, muốn giải mối thù
truyến
kiếp đời này qua đời khác này, bèn quyết định không truyền kiếm pháp
cho con gái
là Miêu Nhược Lan. Miêu gia kiếm pháp, đến ông, kể như chấm dứt. Trong
1 đêm, Hồ
Nhất Đao 1 mình 1 ngựa, đi hàng ngàn dặm đường, chém đầu Thương Kiếm
Minh, kẻ
thù của Miêu Nhân Phượng, cũng là để giải mối thù truyến kiếp đó, bởi
là vì ông
đâu có giết bố MNP.
Bà vợ TKM, thề trả thù cho chồng, nhưng làm sao
địch nổi kẻ
thù, cho nên mới biến Thương gia trang thành 1 cái tòa nhà tường bằng
sắt, một
khi kẻ thù tới, thì nhốt lại và đốt lửa chung quanh.
Hồ Phi gặp Miêu
Nhược Lan
và Miêu Nhân Phượng lần đầu tại Thương Gia Trang. Cuộc gặp mặt đó, có
bà vợ
MNP, và người tình là Điền Quy Nông, bạn của MNP.
Bà vợ theo trai, hai
người chạy
trốn MNP. MNP tính bỏ luôn, nhưng cô con gái còn nhỏ quá, thèm sữa quá,
khóc om
xòm, ông bố bế con chạy theo vợ, không phải để níu kéo, mà là để cho
con bú lần
chót!
Gặp, tại Thương
Gia Trang. Cô con gái nhìn thấy mẹ mừng quá, giơ tay đòi bế, bà vợ tính
bế, nhưng
nghĩ sao, quay mặt đi, MNP lắc đầu tha cho cả hai, bế con quay về, Hồ
Phi - lúc
đó còn là đứa con nít, được Bình A Thúc, tức thằng bé hầu bàn ngày nào,
trong lần
tử đấu giữa MNP và HND, cứu thoát chết, cả hai lúc đó trú mưa trong
Thương Gia
Trang – bèn đến trước mặt vợ MNP mắng, có thứ đàn bà nào khốn kiếp như
mi, bà vợ
MNP xấu hổ nhục nhã quá, kéo trai bỏ đi. Bà
vợ Thương Kiếm Minh bèn giữ Hồ Phi và Bình
A Thúc ở lại.
Lúc đó, bà cũng
không biết Hồ Phi là con trai của kẻ thù.
Trong lần gặp
gỡ, còn có Diêm Cơ, lúc đó là 1 tên tướng giặc. Anh thầy lang ngày nào
theo lệnh
Điền Quy Nông làm chết Hồ Nhất Đao bằng thuốc độc bôi trên kiếm MNP, để
cướp Hồ
Gia Đao Pháp. Nhờ Bình A Thúc mà Hồ Phi thoát chết, nhưng Hồ Gia Đao
Pháp, khi
BAT đoạt lại được ở trong tay Diêm Cơ, thì do giữ chặt quá, mất 3 trang
đầu, thành
ra Hồ Phi không làm sao học được võ công của bố để lại. Trong cuộc gặp
gỡ nói
trên, Bình A Thúc mượn danh MNP, hù Diêm Cơ, lấy lại ba trang đầu. Hồ
Gia Đao Pháp,
bí kíp, lúc đó trở thành toàn vẹn, và chỉ chờ Hồ Phi tái xuất giang hồ.
Diêm Cơ chỉ
học võ công ba trang đầu Hồ Gia Đao Pháp, mà giương danh giang hồ.
KD rất coi
trọng bí kíp. Bí kíp, mất mấy trang đầu, là kể như bỏ.
Cũng vậy, là
trường hợp Càn Khôn Đại Nã Di. Vô Kỵ học được trong đường hầm Quang
Minh Đỉnh,
nhưng thiếu mấy trang đầu, là những chữ ghi trên mấy thanh Thánh Hoả
Lệnh đã bị
mất. Phải đến khi gặp mấy vì sứ giả Ba Tư, Vô Kỵ đấu với họ, và đám này
sử dụng
võ khí là mấy thanh Thánh Hóa Lệnh. Vô Kỵ ăn đòn, chữ ghi lại trên má,
học được những chiêu vỡ lòng, nhờ vậy mới thắng đám sứ giả Ba Tư.
Alberto Manguel,
trong cuốn Lịch Sử Đọc, A History of
Reading, dành cả 1 chương cho Những Trang Sách Mất, The Missing
Pages, là cũng nghĩa đó.
Quái nhất
là, Miêu Nhược Lan, lúc đó còn khát sữa mẹ, khóc om xòm, mà đã nhận ra
Hồ Phi
sau này là "của mình", my man!
Sở dĩ CS thất
bại, là vì họ bỏ những trang đầu của chủ nghĩa Mác, tức là 1 ông Mác
Trẻ, như
Heni Lefebvre cho thấy, trong cuốn Duy Vật
Biện Chúng Pháp của ông. Ông viết, chúng ta phải đọc lại Mác, nhất
là những
tác phẩm thời còn trẻ - surtout les oeuvres de jeunesse - mà lũ ngu lầm
là “triết
học” [dites à tort “philosophiques”], bởi vì chúng chứa đựng một phê
bình cơ bản,
une critique radicale, tất cả triết học được hệ thống hóa, toute
philosophie
systématisée - với cái nhìn mới: Cái trở
thành-triết học của thế giới thì cùng lúc là cái trở thành- thế giới
của triết
học, sự thực hiện nó thì cùng lúc là sự mất nó: Le devenir-philosophie
du monde
est en même temps un devenir-monde de la philosophie, sa réalization
est en même
temps sa perte.
Đoạn trên
rất
quan trọng. Gấu Cà Chớn sẽ giải thích tiếp, để cho lũ “lề phải” VC hiểu
rằng
là, không phải ai cũng ngu như chúng, khi đọc Mác.
Kim Dung,
theo Gấu, chắc chắn chịu ảnh hưởng của Marxism, thứ “pure” nhất, của lũ
Mác Học
[Marxologues], như Henri Lefebvre, thí dụ, khi ông để
cho nhà sư già coi việc quét dọn Tàng Kinh
Các thuyết giảng về “Tại sao Phật Pháp [Théorie] lại rong ruổi với võ
công
[Praxis]”?
Hôm nay nhân
loại nói chung một tiếng nói
Khi là một học
sinh trung học, tôi rất say mê môn toán. Mỗi lần sung sướng vì tìm ra
được lời
giải cho một bài toán khó, khi cảm thấy có những lúc gần gụi sự bí mật
của những
con số, tôi vẫn thấy mình bất lực vì không làm sao chia sẻ niềm vui với
tất cả,
ngoại trừ một thiểu số bè bạn cũng mê toán như tôi.
René Thom
cho rằng toán học gia là những người rất buồn vì họ không thể chia sẻ
niềm vui
với những người không phải là toán học gia, và ông tự hỏi, toán học có
phổ
thông không. Người da đỏ, người Trung Hoa có lý giải, raisonner, như
những người
Âu châu?
Ông là người
Pháp, giải thưởng Fields, 1958, tương đương với Nobel. Sở dĩ không có
giải thưởng
Nobel về toán, chỉ vì mối giao tình giữa bà vợ của Nobel với một toán
học gia
Thuỵ Điển khi đó, và giải thưởng này nếu có, sẽ về tay ông ta, một điều
không một
ông chồng nào muốn.
Toán là một
môn học phổ thông, chắc chắn như vậy, theo René Thom. Thoạt kỳ thuỷ,
toán học gốc
Hy Lạp, hoặc ít nhất có hình thức thông minh cổ Hy Lạp. Nhưng bằng
những con đường
khác biệt, cuối cùng các sắc dân cũng đi tới những kết luận mang tính
luận lý
như nhau. Người da đỏ, khi xây dựng những ngôi đền, người Trung Hoa,
khi hoàn
thiện âm lịch, họ cũng đã "bịa đặt" ra hình tam giác, và tìm ra những
tính chất của nó, cùng lúc với những người Hy Lạp. Sự trùng hợp này
không phải
vì có một tam giác như vậy ở ngoài đời, mà vì nó đáp ứng nhu cầu trí
tuệ của
nhân loại. Cũng theo ý nghĩa đó, nhân loại cần tới văn chương, triết
học, nghệ
thuật... Tới mức mà, giả sử không có một London, một St. Petersburg thì
Dickens, Dostoevsky cũng phải bịa đặt ra chúng. Và những thành phố
hoang tưởng
như Bouville của Sartre, như Macondo của Garcia Marquez, hoặc Đào
Nguyên, Thiên
Thai... của huyền thoại Đông Phương nhiều khi thật, sống động hơn những
thành
phố có thực trên thế giới.
Nhưng chúng
ta mang ơn những người Hy Lạp ở nghệ thuật chứng minh. Theo René Thom,
người
Trung Hoa, Người Nhật, người Da đỏ ghi nhận (constater) chứ không chứng
minh.
Ngược lại, lý luận Hy Lạp không hề có nhảy đoạn trong lý giải
(raisonnement).
Trong những
ngày trung tuần tháng Bẩy 1995, tại Đại Học York, Toronto, đã diễn ra
cuộc thi
Toán Quốc tế lần thứ 36, giữa những toán học gia tương lai của nhiều
quốc gia
trên thế giới, nhật báo địa phương, Toronto Star, viết: Hôm nay nhân
loại nói
chung một tiếng nói.
Phái đoàn Việt
Nam gồm 6 em, 2 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, một đồng. Cuộc thi
thực sự
mang tính cách cá nhân, nhưng so số điểm, phái đoàn Việt Nam đứng hạng
Tư, sau
Trung Hoa, Romania, và Russia.
"Những
toán học gia đều buồn...", tôi bỗng nhớ những ngày còn học Trung học,
nhớ
tới câu nói của René Thom, buổi tối tại một nhà hàng ở Toronto. Nỗi
buồn càng
thấm thía hơn qua câu nói khi giã từ của một em trong đoàn: Giá Việt
Nam được xếp
hạng tư trên thế giới về văn minh, và nếp sống hiện đại thì sung sướng
biết chừng
nào!
Hoang tưởng
trong văn chương thì chẳng sao, nhưng hoang tưởng trong quản lý kinh
tế, trong
quan hệ đối xử giữa con người với con người - vốn quí nhất của xã hội -
chỉ những
người Cộng sản mới có riêng cho họ thứ ngôn ngữ đó.
Nhưng đã có
một thời, những triết gia như Henri Lefèbvre, Aron, Merleau-Ponty... đã
mơ tưởng
một thứ tiếng nói phổ thông, duy nhất, cho toàn thể nhân loại: Chủ
nghĩa Cộng sản.
Thứ tiếng nói phi chính trị, phi triết học, phi vong thân. Trước sự sụp
đổ của
chủ nghĩa Cộng Sản, Louis Althusser - trước thềm cái chết - đã ngậm
ngùi than
thở, chúng ta đã sản xuất ra một triết học "ảo" cho Marx, một thứ triết
học không có trong tác phẩm của ông.
Trong bài mở
đầu cuốn Signes (Ký hiệu, 1960), Merleau-Ponty viết: "Chủ nghĩa
Marxisme
tìm thấy trong lịch sử những thảm kịch trừu tượng về Hữu thể và Hư vô,
nó đặt
vào đó gánh nặng siêu hình lớn lao; điều này đúng, vì nó nghĩ tới bộ
khung, tới
kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen lẫn, bổ sung giữa vật chất và
tinh thần,
giữa con ngừơi và thiên nhiên, giữa hiện hữu và ý thức, trong khi triết
học chỉ
đưa ra được bài toán đại số và bản thiết kế. Thu tóm toàn bộ nguồn gốc
nhân loại,
chính trị cách mạng đi qua trung tâm siêu hình này. Nhưng trong thời kỳ
gần
đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một chuỗi đứt đoạn những hành động,
những giai
đoạn không có ngày mai, và người ta 'buộc' vào đó tất cả những hình
thức của
tinh thần và của cuộc sống. Thay vì nối kết những đức hạnh, triết học
và chính
trị chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: Người ta có một thực hành quỉ
quyệt và
một tư tưởng mê tín."
Bạn đọc thấy
ngay từ những năm 60, Merleau-Ponty đã nhìn thấy rõ kết cục bi thảm của
tương
lai Cộng sản Việt Nam hiện nay: Hành động dã man, tư tưởng tín điều.
Lý do là,
theo Merleau-Ponty, "nối kết mác-xít giữa triết học và chính trị đã đứt
rời".
Và người ta cứ coi như nó vẫn như thế, theo nguyên tắc, trong thế giới
tương
lai, nghĩa là thế giới ảo tưởng, điều Marx đã nói: "Triết học, cùng
lúc,
được thực hiện và tiêu huỷ bởi lịch sử, cái phủ định thì cứu vớt, cái
tiêu huỷ
thì hoàn tất." (La philosophie à la fois réalisée et détruite par
l'histoire, la négation qui sauve, la destruction qui accomplit.
Signes, p.13).
Và ngay từ năm 1960, Merleau-Ponty đã tỏ ra sáng suốt, khi kết luận:
"Cuộc
vận hành siêu hình đó đã không xảy ra." Thời đại đã chứng rõ ràng là,
trong khi qui luật mác-xít đòi hỏi, đừng tiêu huỷ triết học nếu không
thực hiện
nó, thực tế Stalinienne tiêu huỷ triết học, giản dị có vậy.
"Những
cuộc phiêu lưu của biện chứng pháp", của Merleau-Ponty, xuất bản năm
1955,
ghi lại những chặng đường phiêu lưu của chủ nghĩa Marxisme, kể từ những
người
Bônsêvích tới Sartre, qua G. Lukács, tác giả cuốn Lịch Sử và Ý Thức
Giai Cấp,
có thời được coi là Tân Thánh Kinh của những người Cộng Sản, dù sau này
tác giả
phải phủ nhận tác phẩm khi bị buộc tội theo chủ nghĩa xét lại. "Những
cuộc
phiêu lưu tới đó là hết."
Marx, chương
cuối trong 11 chương luận về Feuerbach, đã đưa ra một công thức nổi
tiếng bao gồm
hết tham vọng lớn lao của ông: "Các triết gia chỉ cắt nghĩa thế giới,
bằng
cách này cách nọ, nhưng vấn đề từ nay là phải thay đổi nó đi". Thay vì
trung thành với ông, chủ nghĩa Marxisme, ấn bản Bônsêvích đã đưa vào đó
ý niệm
Léniniste về tập trung dân chủ và quan niệm Trotskyste về cách mạng
thường trực.
Tư tưởng này đã làm đảo điên thế kỷ 20. Cuộc Cách mạng Nga 1917 càng
làm lời
tiên tri của Nietzsche là đúng: "Thời đại của những cuộc chiến tranh
lớn
lao, nhân danh những tư tưởng thù nghịch." Lịch sử của thế kỷ đã nhịp
nhàng diễn ra qua bốn tiến trình kể từ cách mạng Bônsêvích: Thắng thế
của chủ
nghĩa Léninisme trước chủ nghĩa xét lại của Bertein, và dân chủ xã hội
của
Kautsky; chủ nghĩa Stalinisme nở rộ và chiến thắng Nazi mở ra đế quốc
xô viết;
chiến tranh lạnh với những quốc gia dân chủ Tây phương, sự đối đầu giữa
hai khối
ý thức hệ, được củng cố bằng những liên minh quân sự, dưới lưỡi gươm
ghê rợn của
một cuộc chiến tranh nguyên tử; sự sụp đổ tàn khốc và cùng lúc của
Liên-bang
Xô-viết, đế quốc Cộng Sản, và của chủ nghĩa Mác-Lê như là Ý thức hệ
quốc gia.
Triết gia
Kostas Papaioannou lại giải thích tiến trình trên qua "hai mặt nạ lãng
mạn"
đã đi theo suốt cuộc đời Marx: Prométhée và Lucifer. Về phía Prométhée,
đó là sự
phân tích xã hội kỹ nghệ. Về phía Lucifer, lý luận về chủ nghĩa tập
trung, những
cuộc chiến toàn thể, ai thắng ai.
(Tài liệu
tham khảo: Tạp chí Văn học, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về
Marxisme. Phần
liên quan tới René Thom, trích từ Les vrais penseurs de notre temps,
tác giả
Guy Sorman [nhà xb Fayard, tủ sách Bỏ Túi])
Maurice
Merleau-Ponty (March 14, 1908 – May 4, 1961) was a French
phenomenologist
philosopher, strongly influenced by Edmund Husserl, and often somewhat
mistakenly classified as an existentialist thinker because of his close
association with Jean-Paul Sartre and Simone de Beauvoir, and his
distinctly
Heideggerian conception of Being
From
Wikipedia, the free encyclopedia
Maurice
Merleau-Ponty , triết gia hiện tượng học Pháp, ảnh hưởng nhiều từ
Edmund
Husserl, thường bị hiểu lầm là triết gia hiện sinh, do cặp kè với đám
Sartre và
de Beauvoir, và do quan điểm mang tính Heidegger của ông về Hữu Thể.
Văn
Chương Kung Fu
Một trong những
đỉnh cao chói lọi của văn chương chưởng Kim Dung, là tình yêu. Có những
xen quá
thần sầu, quá bi ai, quá thê thảm, quá quá quá… Nhân vật nữ bi thương
nhất, như
độc giả trên net nhận xét, mà Gấu tình cờ đọc được, trong 1 bài viết
nay chẳng
còn nhớ, là cô bé nhà quê theo bố [cũng 1 thứ bố Bắc Kít cực kỳ tàn
nhẫn], và
anh bạn đồng học, cũng là người yêu đầu đời ra tỉnh, bị chúng lùa vô
bẫy, phải
lấy 1 tên trong bọn, còn anh chàng bạn từ thời thơ ấu thì bị chúng vu
cho tội
giết người, trong Tố Tâm Kiếm, hay Liên Thành Quyết
Đây có lẽ là
truyện thê lương nhất của Kim Dung, Gấu đọc 1 lần là không bao giờ dám
đọc lại,
vì chịu không nổi.
Và có thể, Kim Dung cũng không đọc lại, cũng vì lý do đó, nên truyện
quá hỏng, quá rông rài.
Biết đâu đấy, có thể, ông
còn muốn như thế, muốn tác phẩm
số 1 của ông được phủ kín bằng những chiếc váy đụp, theo ý của nhà thơ
Xuân Diệu,
khi trả lời nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa, trong bài viết dưới đây,
1 trong loạt bài Gấu Cà Chớn viết về cuốn sách một thời nổ như tạc đạc
của
ông, đặc
biệt cho 1 tờ báo của đám Bắc Kít, tờ Cánh
Én!
Trong
"Chân Dung và Đối Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ
Xuân Diệu:
"Còn nhớ dạo
ông tặng tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục.
Khi gặp ông, tôi thú thực:
- Trong này có mấy bài thơ tứ tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào,
thuộc thơ,
rồi lại quên mất tác giả, lại tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường
mới chết
chứ!
Xuân Diệu cười, tỏ ra rất tâm đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng
chân thật:
- Cháu rất thích tập thơ này. Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc.
Cháu thấy
có nhiều bài dở, chú ạ.
- Ơ, cái cậu này hay chửa? - Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây
là tuyển
thơ à? Còn phải sàng sảy chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn
bây giờ
có cái gì, cứ phải quăng ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt,
cái váy đụp
gì thì cũng vứt ra, rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà
cậu còn
ngồi nhặt nhạnh của nả hả?
Tôi im tịt chẳng nói được gì. Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao
mình lại
ngu thế nhỉ. Ai lại chọn lọc của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc
thoát ra
khỏi cái mê cung của Xuân Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới
sực tỉnh,
mới nhận ra một điều quá ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai
việc rất
khác nhau." (1)
Trung Trung
Đỉnh & Phạm Xuân Nguyên, Hanoi 2001
Xuân Diệu:
Phượng Hoàng đậu
chốn cheo leo...
Ẩn dụ, ám dụ, hoán
dụ... là
những hình tượng (figures) tu từ. Nói nôm na, chúng đều là chuyện ví
von, nói
gần nói xa, nói bóng nói gió, mơ mơ hồ hồ, về một sự kiện, một sự thật
nào đó -
con người chưa biết, hoặc là biết nhưng lại không thể nói thẳng ra.
Không có tu
từ là không có văn chương.
Con
người, và nhân loại, ở
vào thời trẻ thơ của nó, ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Đây là
thời đại
hoàng kim của những "nhà văn không văn chương" (écrivain sans
littérature). Nhưng dần dà (già), trở nên trơ ra, bị "lão hóa", hết
còn ngạc nhiên vì chuyện "tự nhiên". Văn chương bắt đầu bằng những từ
"hình như", "như là", "giống như"...
Nabokov,
nhà văn Nga, dùng
một ẩn dụ để diễn tả cùng một sự thực. Trong bài "Độc giả tốt và nhà
văn
tốt" ("Bon lecteurs et bon écrivains", trong Văn Chương I,
Littérature I, nhà xb Gallimard, tủ sách essais, loại bỏ túi), ông
viết:
"Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ chạy trối chết từ
một
cánh rừng ra, và chạy và la "chó sói, chó sói", và một con chó sói
bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn "chó sói, chó
sói", và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập đi
lập
lại một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc,
nhưng điều
quan trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang
sách, có
một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn
chương."
Vẫn
theo ông, trong bài đã
dẫn: "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một câu
chuyện
là "chuyện thật, lịch sử thật", là làm "nhục" cả nghệ thuật
lẫn sự thực." Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực
xã
hội chủ nghĩa... phiền một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ
nghĩa,
vốn luôn luôn đánh lừa. Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân
của bà,
thay vì trung thành với chủ nghĩa hiện thực!"
*
Tu
từ là con dao hai lưỡi.
Nước đẩy thuyền đi, nhưng nước cũng làm lật thuyền; đây cũng là nguyên
lý văn
chương: nó chết, khi bội thực tu từ.
Nói
nôm na: thùng rỗng kêu to.
Theo
ý nghĩa đó, những câu
thơ "thần" thường rất đỗi tự nhiên như... một lời nói. Thơ là lời
nói, là bề mặt cuộc sống, theo nghĩa, những băn khoăn, thắc mắc siêu
hình,
"gây ám ảnh" đều phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói để mà
quên đi, thay vì nhớ hoài, bởi vì có nhớ cũng không thể được. (Ôi, anh
đâu có
nhớ những lời em nói khi từ biệt, và sau này anh bịa đặt, tưởng tượng
ra chúng,
tưởng tượng ra em...).
Thơ,
là để quên đi, chứ không
phải để nhớ mãi. Chính vì quên, nên anh tưởng tượng ra em. Chính vì
quên mà
chúng ta đọc. (It is precisely because I forget that I read. Roland
Barthes: Reading,
Forgetting; S/Z;
bản dịch tiếng Anh).
*
Một
hình ảnh thơ thuộc loại
quí hiếm thường không viện dẫn đến những hình thức tu từ. Gaston
Bachelard coi
thi ảnh, "image poétique" khác với ẩn dụ thơ (métaphore poétique), là
vậy. Khi dùng bóng hồng để chỉ giai nhân, cánh buồm để chỉ con thuyền,
tang
thương dâu bể... chúng là những ẩn dụ thơ. Nhưng những câu văn như sau
đây
chẳng hạn, là những hình ảnh thơ; chúng không cần đến tri thức, không
viện dẫn
tu từ:
"Cây
cầu kêu dưới bánh
xe với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân cầu trong buổi chiều ngất ngư
chưa muốn
ngã". (Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa)
"Trên
chòi canh, hai
con
mắt nguời lính gác tối đen nhìn qua núi". (TTT, sđd).
Quá
chút nữa, ẩn dụ trở thành
viễn dụ (vision): con sói trong mê cung của Kafka ngày càng nhập một
với con
sói của cuộc đời.
Theo
nghĩa đó, chúng ta có
thể hiểu được tại sao Xuân Diệu coi việc làm thơ giống như chuyện cháy
nhà. Và
đây là một viễn dụ, theo tôi.
*
Trong
"Chân Dung và Đối
Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu:
"Còn
nhớ dạo ông tặng
tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục. Khi gặp ông, tôi
thú
thực:
-
Trong này có mấy bài thơ tứ
tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào, thuộc thơ, rồi lại quên mất tác
giả, lại
tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường mới chết chứ!
Xuân
Diệu cười, tỏ ra rất tâm
đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng chân thật:
-
Cháu rất thích tập thơ này.
Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở, chú
ạ.
-
Ơ, cái cậu này hay chửa? -
Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây là tuyển thơ à? Còn phải
sàng sảy
chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn bây giờ có cái gì, cứ phải
quăng
ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt, cái váy đụp gì thì cũng
vứt ra,
rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà cậu còn ngồi nhặt
nhạnh của
nả hả?
Tôi
im tịt chẳng nói được gì.
Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao mình lại ngu thế nhỉ. Ai lại
chọn lọc
của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc thoát ra khỏi cái mê cung của
Xuân
Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới sực tỉnh, mới nhận ra một
điều
quá ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai việc rất khác nhau."
*
Như
trên đã nói, văn chương
bắt đầu bằng những từ: "là" (Em là gió, là mây...), "hình
như" (là tình yêu), "như" ("sáng nay Nga như một con mèo
ngái ngủ...", "buổi sáng sớm tinh sương như một vết thương mới lên da
non"...). Tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, thậm xưng, cường điệu....) đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Chúng ta tự hỏi: tại sao Xuân Diệu
lại so
sánh chuyện cháy nhà với chuyện làm thơ? Và cảm giác "mụ lị" của Trần
Đăng Khoa, và thái độ "phản tỉnh" (tự kiểm thảo?) sau đó, có thể hiểu
như thế nào?
Liệu
có thể có một nối kết
giữa con sói ở góc rừng, nỗi sợ của cậu bé, chuyện cháy nhà (chiến
tranh, B.52,
chủ nghĩa toàn trị sẽ phần thư tất cả, chỉ để lại những câu vè...), nỗi
sợ của
Xuân Diệu, con sói giả tưởng của ông...
Cả hai nhà thơ, Xuân Diệu và
Trần Đăng
Khoa đều nhận ra một sự thực: có những câu thơ của Xuân Diệu đã vươn
tới cõi
thơ Đường, đã trở thành tự nhiên như cây cối, như sỏi đá, người đọc mê
luôn, và
chẳng cần biết tác giả là ai. Nhưng để cho những câu thơ tồn tại, phải
quăng
vào đó, một mớ váy đụp... Như một nhà thơ, Xuân Diệu biết rõ, thời gian
qua đi,
chủ nghĩa toàn trị sẽ qua đi, sẽ bị huỷ diệt, tới lúc đó, nàng công
chúa sau
giấc ngủ dài, rũ khỏi lớp váy đụp, vươn vai tỉnh dậy...
Là
thi sĩ, làm sao ông không
biết bài ca dao vịnh Phượng Hoàng:
Phượng
hoàng đậu chốn cheo
leo,
Sa
cơ thất thế phải theo đàn
gà.
Bao
giờ mưa thuận gió hòa,
Rũ
lông, rũ cánh, lại ra
phượng hoàng.
(Tôi
viết lại theo trí nhớ).
Chen Yun (Trần Vân), kinh tế gia, thuộc
đảng bộ Bắc Kinh, trước khi mất vào tháng Tư, 1995, đã so sánh chính
sách kinh
tế Thị Trường Mới (New Market economy) của Trung Quốc như một con chim
tư bản
lớn lên ở bên trong cái chuồng xã hội chủ nghĩa (a capitalist bird
growing up
inside a socialist cage).
Liệu đã tới lúc con phượng hoàng thơ vỗ cánh
thoát ra
khỏi cái chuồng giam giữ nó?
Note: Loạt bài về TDK, Gấu viết theo lời yêu cầu của một người bạn, cho
tờ Cánh Én. Một số, sau đăng trên Việt Mercury. NQT
Bài
ca dao này, Gấu nghe lần
đầu, trước khi ông cụ Gấu ra đi, và đi luôn không về, vào năm 1946, khi
Gấu mới
mấy tuổi. Không hiểu sao, bao nhiêu năm sau, nó cứ luẩn quẩn với Gấu
mãi, và cùng với nó, là câu hỏi:
Tại
sao ông cụ mình đã biết
như thế, mà vưỡn không chịu 'theo đàn gà', để cho chúng làm thịt?
Hai anh em Gấu, tại
miếng đất
ngày nào.
Căn
nhà, thằng em xây cất
lại, "lui" ra phía trước, so với căn nhà cũ, đã phá bỏ, vì quá mục nát.
Chiếc xe
thuê, từ trên đê đi thẳng vô nhà, theo hướng đồng làng. Đó là lần
trở lại quê nhà đầu tiên, vào năm
2001.
Bạn đọc để ý, tay
trái Gấu lòng khòng, cong cong, là do xơi mìn VC tại
nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bờ sông Sài Gòn!
Căn nhà cũ, có lần
Gấu suýt chết, đã kể lại trong chuyến
Vượt biển tại Vàm Láng.
*
Đêm 23 tháng Chạp, năm 1985,
cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa
chìm gần
ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu thanh niên
đứng kế bên
lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới
bất cứ
lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức ông
già, lảm
nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện khác, ông già
vẫn
nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh niên,
mặn, nóng
hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con
thuyền
chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót
ngọn
sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy,
tám tuổi, thấy bạn cùng
lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm được. Và cứ thế
lao
xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp sử chìm
ngỉm, bèn
nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi
đã hoàn hồn, đứng ngơ
ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai nạn. Như thể, cậu
đã trải
qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó đã từng xẩy
ra, trong
một giấc mơ, có thể.
Cậu
có cảm tưởng, anh bạn lớn
tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và anh ta sẽ can
thiệp, đúng lúc.
Rõ
rệt nhất là lần chơi bắn
bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn, chiếm cả một góc
gian nhà
chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên hai tấm mễ gỗ,
hay ngựa
gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi những cơn lũ
lụt, và
những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào cũng lo trữ lúa.
Hòn
bi lăn tít vào gầm hòm.
Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá mục, cùng sập
xuống.
Như
sống lại giấc mơ, cậu
xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc mễ chia giùm
sức
nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy vắt cơm
để thu
hồi lại.
Lớn
lên, cậu mất dần khả năng
kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp dí - có một điều
gì liên
can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như
thể gia đình ông bị trù
yểm, bởi… nước.
*
Và Thomas kết luận, đâu có gì
là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không
phải
cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang
sách vang
lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Văn
Chương Kung Fu
Trong “Nước
cờ Hư Trúc”, Gấu Cà Chớn đã “mách nước” đám Hậu Vệ, đừng tìm cái
mới cho mất công,
cứ cái cũ mà xài, và nếu cần, thì làm như Kim Dung, đốt 1 que diêm đã
đốt rồi!
Đây đúng
là tuyệt
chiêu của Kim Dung, đốt 1 que diêm đốt rồi, mà vẫn cháy như thường, và
có khi còn
bảnh hơn lần cháy trước!
Hư Trúc,
do
muốn cứu mạng “Ác quán mãn doanh" Đoàn Diên Khánh bị ván cờ quái dị của
chưởng
môn phái Tiêu Dao đưa vào cõi chết, bèn nhặt đại 1 con cờ bỏ đại xuống
bàn cờ, lay
tỉnh họ Đoàn, nhưng khi Đệ Nhất Ác Nhân tỉnh lại, nhìn nước cờ “mình
tự giết mình” – bởi vì đặt quân cờ vào chỗ đó, là tàn sát hầu như toàn
thể quân
ta, nhờ vậy, bàn cờ trở nên thoáng ra - bèn nhìn ra sinh lộ!
Thú vị
hơn nữa,
là sau đó, ông lại dùng chiêu này để cứu Thiên Sơn Đồng Mỗ, chủ nhân
Linh Thíu
Cung!
Cũng thế,
là
trận đấu giữa Miêu Nhân Phượng và Hồ Nhất Đao. Trong khi hai bên tử
đấu, bà vợ
HND ẵm Hồ Phi đứng coi, tối về nựng con, bố mày là Đệ Nhất Cao Thủ, ông
chồng
ngạc nhiên hỏi, ta đánh mãi không thắng hắn, “đệ nhất” cái gì. Bà vợ
mới cho biết,
do đứng ngoài, nhìn từ phía sau lưng MNP, nhận ra, mỗi lần ra chiêu “gì
gì đó” [Gấu
quên tên], là vai phải [hay vai trái] nhúc nhích. Ngày mai, nếu hắn ra
chiêu kiếm
đó đó, anh dùng chiêu này này, trong Hồ Gia đao pháp, là rồi đời hắn!
Bữa sau,
quả
nhiên như vậy, nhưng Hồ Nhất Đao vào giờ chót, tha mạng MNP, và nói,
cái này là
do bà xã đứng ngoài nhìn thấy, mách nước, thôi bỏ. Nhân đó, hỏi, MNP
kể, khi còn
nhỏ tập kiếm với ông bố, đúng lúc ra chiêu đó đó, thì bị 1 con kiến
cắn, thế là
nhói 1 cái, và bèn nhúc nhích vai, bị bố đánh đau quá, sau, mỗi lần ra
chiêu, là
nhúc nhích vai, chẳng cần kiến cắn nữa!
Trận
đấu
sau,
lập lại trận đấu đó, giữa MNP và Hồ Phi, con HND, mới khủng khiếp.
MNP
phải giết Hồ Phi, vì thấy
thằng cà chớn
từ trên giường phóng ra, cứu MNP, nhưng nhìn lại thì cô con gái của
mình nằm trần
truồng trên giường, do bị bế huyệt đạo, nhưng ông đâu có biết nguồn
cơn …
Nên
nhớ MNP, vì vợ bỏ theo trai, bây giờ có cô gái cưng lại bị thằng khốn
làm thịt,
làm sao tha cho nó được!
Lần trước
thù
giết bố, lần này vì con gái bị làm nhục.
*
Kính anh
Nguyễn Quốc Trụ,
….
Em vào ngay
đây:
"Và
cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại
cho võ học, là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân
tích được”(Đỗ
Long Vân).
Đây là một khẳng định rất dễ
gây tranh luận,
vì nó đối nghịch với quan niệm “thông thường”, khi cho rằng thơ là để
“cảm nhận”:
Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương khói đó, đâu phải là để… phân
tích!
Nên nhớ, cơ
cấu luận là từ toán học mà ra. Người ta không thể nói về nó mà không
khởi từ
toán học, theo tính cách lịch sử cũng như lô gíc của vấn đề.
Lévi-Strauss chẳng
hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của ông từ môn đại số đại cương
(algèbre
générale).
Cho nên, từ
định lý “cái nên thơ… của những gì phân tích được”, chúng ta có thể có
được một
hệ luận, là:
“Cái gì có thể phân tích được,
là thơ.”
[Trích Vô Kỵ
giữa chúng ta]
Ta có
mệnh đề:
Nếu f(a) = f(b) suy ra: a = b
Thì mệnh đề tương đương của nó
là:
Nếu a khác b
suy ra f(a) khác f(b).
Em xin nêu 1
ví dụ:
Cái gì đẹp
thì lạ nhưng cái gì lạ thường không đẹp.
Tương tự câu
- muốn tiến lên CNXH cần có con người XHCN
sẽ đưa đến hậu
quả là:
Nếu (VN)
không có con người XHCN thì (VN) không có CNXH
Thực tế đã
cho thấy không bao giờ có con người XHCN nên CS đã bị tổ trác trên toàn
thế giới.
Kính anh. Nếu
có điều chỉ giáo xin anh cứ mạnh tay.
SCD
Vậy hệ luận
mà anh nêu trên sẽ viết là:
Cái gì không thể phân tích
được không
phải là thơ
[GCC tô
đậm]
Phúc đáp.
Bài viết bên
lề tác phẩm Vô Kỵ giữa chúng ta
của DLV, thực sự mà nói, chỉ là bản nháp. Đọc 1
khúc, thì lại viết 1 khúc, thế rồi nhân có dịp, bèn in, chưa có dịp
hoàn chỉnh.
Bài viết này đã từng được 1 website về chưởng Kim Dung type và post, và
Gấu đã
có mail, cho biết tình trạng như trên, và mấy vị chủ trương website cho
biết, cứ
post đã, sau có bản hoàn chỉnh, sẽ lại post tiếp!
Hà, hà!
Và cái câu
phán của mấy vị này, cũng có thể dùng để nói về.. cơ cấu luận: Có 1 cái
gì đó
chưa hoàn chỉnh về lý thuyết văn học này.
Tuy nhiên, 1
định luật toán học có phần đảo, phần thuận, phải đúng cả hai, thì mới
coi là định
lý được. Những góc vuông thì đều bằng nhau, nhưng những góc bằng nhau
đâu “nhất
thiết, bắt buộc” phải là… góc vuông!
Hệ luận mà bạn
đưa ra, theo tôi, giống như thế, “những góc bằng nhau thì đều là góc
vuông”
Chủ nghĩa CS thì cũng y chang: Mít sẽ xây cái nhà to tổ bố, sau cuộc
chiến Mít,
nhưng nhà đâu chẳng thấy, mà hầu hết dân Mít thì đều mất nhà!
Thân
NQT
Câu
bạn hỏi và vấn đề liên quan tới thơ & cảm thơ & phân tích
thơ &
thơ hũ nút & thơ hiểu được & không thể hiểu
Văn
Chương Kung Fu
Trong “đại lục”
Kim Dung, nếu Gấu nhớ không lầm, có ba kho tàng.
Một, trong Bích
Huyết Kiếm, chủ nhân
kho tàng, là 1 ông vua, bị cháu lật đổ, bỏ chạy, thu gom vàng bạc, mong
dùng nó
tuyển mộ quân đội cướp lại ngôi. Bản đồ là 1 trong “tam bảo” của Ngũ
Độc Giáo. Viên
Thừa Chí nhờ bản đồ, kiếm được kho tàng, biếu Sấm Vương, đánh bại vì
vua cuối cùng
của nhà Minh, là Sùng Chinh, tức ông vua xử tử Viên Sùng Hoán, bố Viên
Thừa Chí.
Kho tàng thứ
nhì, ở núi Tuyết Sơn, là của Sấm Vương. Khi đại cục tan vỡ, Sấm Vương
thu gom vàng
bạc, lập kho tàng, làm bản đồ, 1 nửa giấu trong thanh đao lệnh của Sấm
Vương, một
nửa sau cùng nằm trong cây thoa Miêu Nhược Lan, con gái Miêu Nhân
Phượng, đeo. Sấm
Vương biết, Mãn Thanh dù có lấy được TQ, thì sau này, chắc chắn dân TQ
cũng sẽ
nổi lên, đuổi Mãn Thành ra khỏi TQ.
Kho tàng sẽ dùng vào việc đó.
Kho tàng này, trong Tuyết Sơn Phi Hồ.
Phi Hồ, là tên của Hồ Phi,
đọc ngược.
Kho tàng thứ
ba là của quân Mãn Thanh.
Mãn Thanh, dù lấy được TQ, nhưng vẫn biết, sẽ có ngày bị đá
ra khỏi TQ, bèn thu gom vàng bạc, lập pho tàng này, sau Vi Tiểu Bảo,
trong Lộc Đỉnh Ký,
kiếm thấy.
Tuyết Sơn
Phi Hồ và Lãnh Nguyệt Bảo Đao,
có thể nói, là một. Không đọc truyện này, thì
khó hiểu được chuyện kia.
Tuyết Sơn
Phi Hồ, nếu biểu là hay nhất của Kim Dung, thì 1 phần của cái
hay của nó, là do
“viết hỏng” mà ra.
Trong TSPH, có những cái lỗi, có thể nói, không làm sao sửa
được. KD cũng nhận ra, và cố sửa, nhưng sau cùng chịu thua.
Lỗi nặng nhất,
là, Miêu Nhân Phượng đã từng gặp Hồ Phi mấy lần, vậy mà không nhận ra
để đến nỗi
cả hai phải lập lại trận đấu trước, giữa Miêu Nhân Phượng vs Hồ Nhất
Đao, và kết
quả của trận đấu, gây 1 trường náo loạn trong những độc giả của KD, vì
không biết
ai chết, giữa Miêu Nhân Phượng và Hồ Phi.
Kết thúc Tuyết Sơn Phi Hồ là
1 thai đố
giống như thai đố “mỹ nhân hay mãnh hổ” chắc nhiều độc giả đã từng
biết.
Trên TV hình
như cũng đã lèm bèm về chuyện này rồi.
Giả và
Thực
trong văn chương
Kim Dung viết Thần
Đao Hồ Đại Đởm, [tức Tuyết
Sơn Phi Hồ], thấy một vài chi tiết
sai, ông cố sửa, và viết lại cuốn truyện, thành Lãnh
Nguyệt Bảo Đao. Nhưng vẫn không thể giải thích tại sao Miêu
Nhân Phượng không nhận ra Hồ Phỉ, cậu bé con của người bạn ngày nào, dù
hai người
đã gặp nhau mấy lần.
Theo truyền
thuyết Ấn độ, Ganesh, vị thần đầu voi, vì quá mê văn chương, nên đã
chịu ngồi
dưới chân nhà thơ Vyasa, nghe kể và ghi lại toàn bộ bản văn
Mahabharata. Saleem
Sinai, nhân vật chính trong Những đứa con
giờ Tý của S. Rushdie, nhắc lại thần thoại trên, nhưng Ganesh của
anh lại
ngồi dưới chân thi sĩ Valmiki, và ghi lại Ramayana. Tác giả hy vọng
người đọc đừng
quá tin tưởng vào anh ta, và cũng đừng coi cuốn tiểu thuyết của ông là
một hướng
dẫn lịch sử Ấn độ sau khi được độc lập, cho dù nhân vật của ông sinh
vào nửa
đêm, giờ thứ nhất ngày 15 tháng Tám, 1947, giờ của tự do.
Theo
"qui ước", những nhân vật tiểu thuyết hay lầm lẫn thường là những kẻ
"ngu đần", và độc giả nhận ra liền ý nghĩa của câu chuyện. Nhưng nhân
vật trong truyện của Rushdie lại không ngu, anh ta hiểu chuyện gì đang
xẩy ra.
Vậy thì phải cắt nghĩa sao đây, về những chi tiết lầm lạc? Đành đổ tội
cho tác
giả, đã không chịu nghiên cứu, tìm tòi. Một lần, Rushdie gặp một độc
giả. Người
này giận dữ "sửa lưng" tác giả: "Nếu ông muốn sử dụng những truyền
thống Ấn độ, xin ông hãy cố gắng trân trọng chúng." Ông cũng nhận được
rất
nhiều thư độc giả, "sửa lưng" người viết, về những sai lạc trong những
tuyến xe buýt tại Bombay, những chức tước, cấp bậc trong quân đội...
Đọc thư,
ông như nhìn ra nụ cười hóm hỉnh của người viết.
Ông thừa nhận,
cuốn sách có vài chi tiết sai lầm. Ông đã lầm, nhân vật của ông cũng
bắt chước
ông, lầm "thêm" một lần nữa. Về cuộc tàn sát ở Amritsar, ông đã để
cho Saleem kể là, Dyer đi vào trong vườn Jalianwala Bagh, theo sau có
"năm
chục binh sĩ da trắng". Sự thực có 50 binh sĩ, nhưng không phải tất cả
da
trắng. Khi khám phá ra sự lầm lạc, ông rất bực bội, và cứ loay hoay tìm
cách
"sửa sai". Nhưng dần dà, ông nhận ra: Sự lầm lạc càng ngày càng
"thuộc về" nhân vật của ông. Rằng có cái gì đúng ở trong đó. Có những
đoạn, khi nhận ra sai, thay vì sửa, ông lại "quan trọng hóa" vấn đề.
Ông giải thích: Thoạt đầu, ông muốn nó mang hơi hướng của Proust. "Thời
gian và di dân: bộ lọc giữa tôi và đề tài. Và nếu như sức tưởng tượng
của tôi
khá mạnh mẽ, tôi có thể nhìn qua bộ lọc đó, và viết, như thể đây không
là quá
khứ; như thể tôi chưa từng rời khỏi Ấn Độ tới Tây phương. Nhưng trong
khi làm
việc, tôi khám phá ra, điều tôi quan tâm, chính là hiện tượng thẩm
thấu. Không
còn đi tìm thời gian đã mất mà là "cách" tái tạo quá khứ, dùng hồi nhớ
như một dụng cụ, sao cho quá khứ đáp ứng hiện tại."
[Viết, như
thể đây không là quá khứ, "như thể chẳng có gì đã xẩy ra, chẳng có gì
đã
thay đổi," như thể chưa từng, chưa từng... có lẽ đây là giấc mơ lớn
lao,
tuyệt vời nhất của chúng ta. "Thơ phải được đọc lên, được nghe, như đây
là
định mệnh cuối cùng của nó. Định mệnh của một tiếng nói nhưng cũng là
định mệnh
của hồi nhớ của bao nhiêu con người" (Thanh Tâm Tuyền, "Thơ giữa chiến
tranh và trại tù").]
Hồi nhớ thường
lầm lạc, và thường hay "chọc quê" con người. Để chống lại, con người
ôm lấy kỷ niệm giả, thay vì sự kiện thực. Người đọc đành phải coi những
biến cố
trong tiểu thuyết chỉ là những giả dụ. Bản thân người viết, qua mục
"Tạp
Ghi" (trên tờ Văn Học, Cali) đã hơn một lần bị trí nhớ đánh lừa. Câu
của
Sartre, trong bài viết về Koestler, "tác phẩm lớn như cây đại thụ",
thực sự không phải vậy. Khi viết về Sartoris của Faulkner, ông cho rằng
tác phẩm
lớn, tới một lúc nào đó, giống như sỏi đá, cây cỏ. Người đọc chấp nhận,
và quên
luôn nó đã từng có một tác giả. Cũng trong bài "Trầm luân vì niềm
tin" kể trên, người viết đã cố tình "hiểu sai" ý nghĩa của cuốn
truyện, vì như một độc giả có thiên kiến, hoặc như bao con người của 10
ngày cải
tạo, anh ta không tin sự chuyển hoá cuối cùng, Rubashov "lần hồi" trở
lại làm người.
Về chuyện thả
mồi bắt bóng, Borges là một bậc thầy. Ông còn đi xa hơn, coi Don
Quichotte, của
Cervantes, là một cuốn sách "giả", chính nó được viết ra bởi một tác
giả "giả", Pierre Ménard. Gilles Deleuze nhân đó, cho rằng, đã đến
lúc phải kể một cuốn sách thực, về triết học đã qua, như đây là một
cuốn sách
giả. Như vậy, sự lập lại đúng nhất, triệt để nhất "đẩy" sự khác biệt
tới mức tối đa ("Bản văn của Cervantes và Ménard từ ngữ y hệt nhau,
nhưng
cái sau rõ ràng là súc tích vô cùng..."). Giả và thực là hiện hữu kép
của
tác phẩm. Tác phẩm kép "lý tưởng" chính là sự lập lại bản cổ văn/ bản
hiện đại, cái nọ trong cái kia. (Gilles Deleuze, Différence et Répétition,
Paris, PUF, 1972).
Vũ Quần
Phương, Tổng Biên Tập báo Người Hà Nội,
khi được phỏng vấn về "bối cảnh lịch
sử", và nhận định với tư cách thành viên Ban chung khảo giải thưởng, về
cuốn
Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, ông cho biết: "Tôi đề nghị cho giải
B,
vì cuộc chiến Bảo Ninh thể hiện không phải là cuộc chiến ta đã trải
qua. Tôi đã
sống giai đoạn lịch sử này, tôi thấy cảnh ném bom tả ở ga Thanh Hoá là
không có
trong thời kỳ chiến tranh phá hoại. Tôi nhớ một thành viên trong ban
giám khảo
giải thích: "Bảo Ninh không định phản ánh hiện thực, anh suy ngẫm hiện
thực"
Tôi không tin, vì muốn suy ngẫm đúng thì phải dựa trên dữ kiện đúng...
Tác giả
như muốn đứng cao hơn cả hai phía để phán xét cuộc chiến. Với anh,
chiến tranh
là chiến tranh, không có tính từ nào kèm theo. Đó là bộ máy huỷ diệt -
đi qua
nó, cái tốt đẹp bị huỷ diệt, cái còn lại thành thân tàn ma dại không
thích hợp
với thời bình. Sau này, một nhà nghiên cứu giải thích cho riêng tôi:
Bảo Ninh
ra trận ở cuối giai đoạn của cuộc chiến, sự trải nghiệm của anh có thể
khác lúc
tôi đi..."
Trong giai
phẩm "gió đông", (đã đình bản), Vũ Hoằng Dương nhận định một bài của
Nguyễn Khải, viết về Hà-nội: "Riêng nhà văn, dường như ông không màng
đến
chuyện đánh giá. Ông cứ kể tỉnh bơ, kể những chuyện động đến nhà nước,
đến con
người, đến luôn bản thân ông... Ông tỉnh bơ như thể: tôi chỉ nói thực
tế, bản
thân chẳng ý kiến gì".
Nhưng
"kể tỉnh bơ", là đã có vấn đề rồi. Văn tự "trắng, trung
tính" là cõi không tưởng, một đảo ngược "đất hứa", thời đại
hoàng kim của nhà văn-không văn chương, khi con người còn ngạc nhiên về
vẻ tự
nhiên của sự vật.
Vũ Hoằng
Dương trích dẫn Bùi Minh Quốc, "Chả trách Nguyên Ngọc có lần xếp Nguyễn
Khải
(cùng với Chế Lan Viên) là hai trong "những người thông minh sắc sảo
vào
hàng nhất nước". Chính vì quá thông minh, nên Nguyễn Khải đã chọn lựa
một
cách viết tối hảo cho ông, khi viết về những chuyện động đến nhà nước:
để cho sự
kiện nói. Bởi vì ông hiểu rất rõ, chi tiết, sự kiện, là "ông trời"
trong văn chương.
Người ta nói
đến những chi tiết tàn nhẫn, cái ác trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp.
"Người Nghệ sĩ Đói" được coi là truyện ngắn độc ác nhất của Kafka:
công chúng phải trả tiền để vào xem người nghệ sĩ đói, ở trong chuồng,
để mân
mê thân hình trơ xương của anh. Liệu chúng ta có thể nhìn ra, một hiện
hữu kép
của tác phẩm, như "sự kiện giả", ở Bảo Ninh, và "sự kiện thật, kể
tỉnh bơ", ở Nguyễn Khải?
Chi tiết là
Thượng đế trong văn chương. Cô Hiền, nhân vật của Nguyễn Khải chỉ biết
mặt
trái, phía "sau, tối, khuất" của Hà-nội. Vậy thì phía sáng của nó
đâu? Lê Trọng Phương, trong "gió đông", khi nhắc đến tấm bản đồ tỷ lệ
xích 1:1, rách tả tơi mà một số người cố gắng mang ra khỏi nước, rồi
tìm đủ mọi
cách vá víu lại, ngụ ý đây là phía sáng của Hà-nội. Đọc những tác giả
ra đi từ
miền Bắc, cá nhân tôi bắt gặp những chi tiết "cửa sổ" đó; những chi
tiết cực kỳ thơ, trong một thế giới cực kỳ không thơ mà Kundera đã nói
tới.
Nhân vật
trong Về Làng của Lê Minh Hà
(Văn Học số tháng Sáu, 1997), về làng là để đi
luôn không về nữa. "Tôi còn gì ở đó?", cô gái tự hỏi. Tôi cũng tự hỏi
như vậy, và tìm thấy, ở trong truyện ngắn, những chi tiết "cửa sổ" mà
cô gái muốn mang đi cùng với cô. Bởi vì, "Bắt đầu lại từ đầu ở xứ người
vào tuổi ngoài ba mươi như thế nào tôi không hình dung được".
"Tôi
còn gì ở đó?".
Đây là một số chi tiết cô
còn: "Buổi chiều nắng hết ơi
ơi mà rực lên như nắng những ngày sau bão..." "Nhớ! sao không nhớ?
Xuy Xá. Đình tám mái sân đầy hoa gạo và cứt chim. Bãi dâu xanh mênh
mông. Hoa
muồng muồng vàng rực. Chợ Lai Thụ toàn thịt chuột là táo bột... Kỳ thi
học sinh
giỏi toàn miền Bắc năm đó tổ chức ở cái làng heo hút ấy. Máy bay Mỹ
oanh tạc khắp
nơi. Một kỷ niệm như thế quả thực không dễ có trong đời đi học."
Kim Phúc, cô
bé bị bom napan năm nào suốt đời chỉ mơ được mặc áo ngắn tay. Cô bỏ đi,
vì
không muốn nhà nước "lạm dụng" ước mơ của cô vào mục đích tuyên truyền.
Không muốn một ước mơ không làm sao đạt được, một chi tiết cửa sổ biến
thành
nhà tù giam giữ cô.
Viết như thể
đây không là quá khứ, như thể chẳng có gì đã xẩy ra, hay viết sao cho
quá khứ
đáp ứng hiện tại, hay viết một cuốn sách giả, về một cuốn sách thực...
NQT
Trước 1975,
Gấu không được quen Đỗ Long Vân. Có gặp, đúng hai lần. Một, ở Quán
Chùa, ông đi
cùng một hai người bạn, liền ngay sau bài giới thiệu Gấu viết về 1 cuốn
sách của
ông mới ra lò, đăng trên trang VHNT của nhật báo quân đội VNCH, Tiền
Tuyến.
Gấu có nhắc
lại cuộc gặp gỡ này, trong bài tưởng niệm ông, khi nghe tin ông mất,
trước đó
cũng lâu, ở quê nhà, trên tờ Văn Học của NMG. Bài viết thực sự là cho
báo Sóng
Văn, nhưng NMG, đọc bản thảo, thú quá, bèn biểu “thằng người
làm”,
“thằng viết
muớn”, thằng “hitman”, ông cho tôi bài này. Ông chủ báo Sóng Văn, biết,
bực lắm,
nhưng cũng bỏ qua!
Lần thứ nhì,
gặp ông, là đi cùng với Joseph Huỳnh Văn tới Đài truyền tin Phú
Lâm, nơi
ông trực
thuộc, khi bị bắt đi lính, như là 1 bình nhì, vì không trưng bằng cấp,
tuy là
giáo sư Đại Học. Joseph hẹn gặp, để lấy bài Truyện Kiều ABC, của DLV,
viết cho
tờ Tập San Văn Chương.
Chắc cũng chỉ
tình cờ, bữa tá túc nhà bạn Bạn, ông hỏi tôi, Đỗ Long Vân thuộc băng
đảng nào
trước 1975.
Gấu bèn ngớ
ra, và sau đành nói đại, ông hay viết cho tờ Trình Bày, như vậy, chắc
thuộc
băng “phản chiến”!
Còn ông bạn
họa sĩ đang ngồi khoa tay, thì trong 1 lần nhậu, cho biết, có gặp bà xã
của Đỗ
Long Vân, trong lần triển lãm tranh ở Houston, Texas, và có nhắc tới
cuốn Gấu
viết về DLV, bà xã của ông bèn đưa ra nhận xét, ông ta có viết, nhưng
đâu có viết
gì về Đỗ Long Vân!
Đúng như vậy.
Gấu không được quen với DLV.
Những bè bạn
của ông, viết, mới đúng.
Đinh Cường
có lần nhắc tới DLV, ngồi đọc sách, trong khi ông nhậu với mấy đấng bạn
khác,
hình như thế.
Mới đây, Gấu
đọc báo trong nước, 1 tay nào đó, có viết về cái
chết, thật
là đau lòng của ông, nhưng thôi, bỏ.
VC viết thì cũng khó tin, nhưng quả là những
ngày sau 1975 của ông thì thê lương hơn nhiều, so với những ngày cũng
thê lương
chẳng thua gì, trước 1975.
Đời Gấu Cà
Chớn mà chẳng thê luơng sao?
Hà, hà!
Đâu có sao!
Mà có sao
thì cũng đếch cần!
Duyên do Gấu
viết về bản văn “Vô Kỵ giữa chúng ta” của Đỗ Long Vân:
Gấu về Hà Nội,
vớ được nó, tại 1 sạp báo. Từ sạp báo, nhìn qua con hồ, Hồ Gươm, Gấu
muờng tượng
ra 1 cái tiệm thuốc Tây, hồi Gấu được về Hà Nội học, 1954 còn thấy nó,
nghe nói
của gia đình DLV. Ông đi Tây học, để về làm chủ tiệm thuốc Tây, nhưng
mê văn
chương, nhất là mê Simone Weil, thế là bèn tung hê hết. Cái chết của
ông, như
sau này đọc qua 1 tay nào trong nước viết, nếu đúng như thế, thì chắc
cũng là
noi gương Simone Weil.
Về lại
Canada, Gấu vừa gõ bài viết của DLV, vừa viết ở bên lề bản văn, lập lại
trường hợp
Đạt Ma Tổ Sư viết Cửu Dương Thần Công, ở bên lề 1 cuốn kinh Phật, vì
vậy mà sau
này mở ra 1 trường giang hồ gió tanh mưa máu, cùng sự xuất hiện của đủ
các thứ
môn phái võ học, nào Nga Mi, nào Côn Luân, nào Võ Đang....
Tưởng Niệm Đỗ
quân và Joseph Huỳnh Văn
Đỗ Long Vân
mất tại quê nhà tháng Tám năm 1997. Người viết chỉ được biết, nhân đọc
mục thư
tín trao đổi với bạn đọc của một tạp chí văn học ở hải ngoại.
Và sau đó có
viết vài dòng về ông, như một tưởng niệm muộn, và mượn ngay tên bài
viết của
ông làm của mình. Cả bài viết của ông, sau bao tai biến, chỉ còn lại
một cái
tên trong trí nhớ người viết. Gửi theo ông rồi, mới quên điều tính hỏi:
Vô Kỵ
là ai, mà ở giữa chúng ta?
***
"Mỗi một
bài viết bạn đang đọc…", bạn đọc hãy coi những dòng sau đây, như là một
bài viết bên lề, vẫn như một lời tưởng niệm muộn, gửi theo người đã
khuất.
***
Chết là hết,
như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi
sĩ
Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của
nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của
người
đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng
thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được
trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay
đổi thật
tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần
chết vạch
giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người
chết, chỉ
sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết
(the
posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi
những bức
chân dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong
trường hợp
của Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng
năm
1996 ở New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những
bức
hình của ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố
bị vây
hãm, cuộc vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp
hồi phục bị
giáng thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu
Kafka của
nhà nước Xô viết…
Người viết
đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya,
rồi nhân
đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao
lại để hai
nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu
có ai
biết đến mà chơi cái trò ăn theo!
Tôi thật sự
ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.
Trong bài viết
của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng
vấn, đã trả
lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!
Anh bạn nhà
thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề
dạy học.
Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!
Cái ông thợ
mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một
nhà thơ
được giải Nobel văn chương!
Cái ông thợ
mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể
sẽ là hai
người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng
Joseph
Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái
thế giới
cả hai đã cùng từ bỏ.
Nhà thơ Nga
bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn
tôi cứ
tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc,
nhà thơ
Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải
bỏ nghề.
Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ
ở đó,
khi không còn có thể làm thơ được nữa.
Thử hỏi
Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?
Anh bạn nhà
thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.
Tôi viết bài
tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng
tư như Đỗ
quân.
Bởi vì cái
cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi.
Đám chúng
tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học
sĩ quan
(bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng
chuyên
môn)…
Đỗ quân, tuy
bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện
như một
cái bang chẳng có một túi nào!
Sĩ quan,
binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ
niệm của
tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh
Văn ghé
thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo
nhà binh
rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái
hơn cả lần
đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.
Trích Vô Kỵ giữa chúng ta
Vô Kỵ Giữa
Chúng Ta
Tribute to DLV
Đỗ Long Vân,
tác giả Truyện Kiều ABC, Vô Kỵ Giữa
Chúng Ta, Nguồn Nước Ẩn Trong Thơ Hồ Xuân
Hương... đã mất tháng Tám năm vừa qua (1997), tại quê nhà. Người
biết chỉ được
tin, qua mấy dòng nhắn tin, trong mục thư tín, trên tạp chí Văn Học, số tháng
Ba, 1998.
Ngay từ trước
1975, ông đã sống một cuộc sống lặng lẽ, "từ chối" mọi đặc quyền, nếu
có thể gọi đây là một đặc quyền mà chế độ Miền Nam dành cho những người
có bằng
cấp: được đi học trường sĩ quan Thủ Đức. Khi bị gọi động viên, ông đã
trình diện
như là "lính trơn", nghĩa là chẳng trưng ra những bằng cấp, chẳng nhớ
gì (?) tới những năm tháng du học Paris. Bạn với một số bạn lặng lẽ:
Joseph Huỳnh
Văn, Phạm Kiều Tùng, hình như có cả Nguyễn Tử Lộc, và đứa em út trong
bọn, Nguyễn
Đạt (gọi là em út, vì nhà thơ này là em ruột Nguyễn Nhật Duật), nghĩa
là hầu hết
anh em trong nhóm Tập San Văn
Chương. Khi cả bọn xúm nhau làm tờ báo, chỉ có
Joseph Huỳnh Văn,"Tổng Thư Ký" tòa soạn, mới đủ tư cách mang "cẩm
nang võ công của Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đang", nói nôm na,
những
bài Cầm Dương Xanh của anh,
tới "Thiếu Lâm Tự", Bắc Đẩu Võ Lâm, để đổi
lấy một cách đọc bí kíp/văn bản: Hãy đọc ở độ thấp nhất, mức độ ABC,
của nó.
Tôi chỉ còn
giữ được một kỷ niệm về Đỗ quân, về Nguồn
Nước Ẩn, khi cuốn sách được xuất bản,
thời gian tôi đang phụ trách trang Văn
Học Nghệ Thuật cho một nhật báo. Bèn viết
bài giới thiệu.
Phải nói rõ
một điều: Đỗ Long Vân, cũng như tôi, và nhiều người khác nữa, đều có
chung một
số ông thầy. Và cái trường phái võ học/văn chương đang thịnh hành hồi
đó là cơ
cấu luận, với những đại gia như Roland Barthes, Claude Lévi-Strauss...
Khi đọc
Nguồn Nước Ẩn, trí óc tôi còn tràn ngập những hình ảnh, những
chiêu thức phê
bình văn chương, thí dụ như, phê bình là siêu-ngôn ngữ, phê bình là một
bản văn
(choàng, cover) trên một bản văn, là sáng tạo của sáng tạo... Nói tóm
lại, tôi
không đọc tác phẩm của Đỗ quân, mà chỉ lo ca tụng nguồn võ công đã sản
xuất ra
một chiêu thức kỳ tuyệt như thế.
Vẫn là câu
chuyện Cửu Dương Chân Kinh, của Thiếu Lâm, và võ công của
Trương Tam Phong, tổ
sư Võ Đang. Tuy thoát thai từ Cửu Dương Thần Công, nhưng Miên Chưởng, Thái Cực
Quyền/Kiếm...
là hoàn toàn do Trương Tam Phong tổ sư sáng tạo ra. Theo nghĩa đó, Cửu
Dương thần
công chỉ đạt tới mức siêu việt của nó, qua nhân vật Vô Kỵ, người mang
trong
mình tất cả những võ công chính tà: Cửu Dương/Càn Khôn Đại Nã Di. Nếu
không có
Trương Tam Phong, không có Cửu Dương Công, bởi vì nó sẽ mục nát trong
Tàng Kinh
Các, hay mãi mãi "ở trong dầu", tức là trong bụng một con vượn.
Đây một chân
lý văn chương/võ học, theo ý nghĩa của Borges, khi ông viết về Kafka:
mỗi nhà
văn phải sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó.
Bản thân
Borges ảnh hưởng
nặng nề Kafka, nhưng giữa những ngụ ngôn của ông, và của Kafka là một
khoảng
cách vời vợi.
Buổi sáng
đó, Đỗ quân rời núi, tới chùa (quán Cái Chùa, ở đường Tự Do, Sài-gòn);
khi một
người nào đó, cùng ngồi bàn, nhắc tới bài điểm sách, và cho rằng, đây
là những
lời khen tác giả Nguồn Nước Ẩn, ông nhìn tôi, cười: Bạn ơi, bạn đâu có
khen
tôi, mà là khen Roland Barthes.
Tatyana
Tolstaya, trong một bài tưởng niệm nhà thơ Joseph Brodsky, có nhắc đến
một cổ tục
của người dân Nga, khi trong nhà có người ra đi, họ lấy khăn phủ kín
những tấm
gương, sợ người thân còn nấn ná bịn rịn, sẽ đau lòng không còn nhìn
thấy bóng
mình ở trong đó; bà tự hỏi: làm sao phủ kín những con đuờng, những
sông, những
núi... nhà thơ vẫn thường soi bóng mình lên đó?
Chúng ta quá
cách xa, những con đường, những sông, những núi, quá cách xa con người
Đỗ Long
Vân, khi ông còn cũng như khi ông đã mất. Qua một người quen, tôi được
biết, những
ngày sau 1975, ông sống lặng lẽ tại một căn hộ ở đường Hồ Biểu Chánh,
đọc, phần
lớn là khoa học giả tưởng, dịch bộ "Những Hệ Thống Mỹ Học" của Alain.
Khi người bạn ngỏ ý mang đi, ra ngoài này in, ông ngẫm nghĩ rồi lắc
đầu: Thôi để
cho PKT ở đây, lo việc này giùm tôi....
NQT
Văn
Chương Kung Fu
Giấc đại mộng
của Kim Dung, về già Gấu nhận ra, chính là giấc đại mộng “con người
toàn thể, hoàn toàn",
l’homme total, của Marx, mà ông để cho nhà sư già chuyên làm “tà lọt”
cho chùa
Thiếu Lâm - đúng hơn, làm người quét dọn trong Tàng Kinh Các - cũng 1
thứ Thư
Viện Toàn Thể của Borges - đi 1 đường thuyết giảng, và cũng là để giải
vấn nạn “đi
tu mà làm sao còn học võ công, và… giết người”?
Đây cũng là đề tài ruột của triết gia Tẩy
Merleau-Ponty, trong cuốn Nhân Bản và
Khủng Bố, Humanisme et
terreur, essai sur le problème communiste (Paris: Gallimard,
1947)
Trong bài viết "Nước cờ Hư
Trúc", Gấu lèm
bèm rồi, nay nhắc lại, để lèm bèm tiếp.
Kim Dung có thể coi là
tuyệt đỉnh của
thứ văn chưởng mang tính toàn thể, sau ông là hết, và nếu vẫn còn văn
chương
chưởng, thì nó phải thay đổi đi, và đó là trường hợp xuất hiện của Cổ
Long.
Đọc Kim Dung
chúng ta thấy ông vay mượn rất nhiều nguồn, nhiều người. Ngay cách mở
truyện, từ
một chi tiết, một sự kiện lịch sử, vốn do A. Dumas và nhận định của nhà
văn
Pháp này: Lịch sử chỉ là cái đinh để tôi treo tác phẩm của tôi. Nhân
vật Du Thản
Chi là từ Masque de fer, Mặt
nạ sắt. Tính chất nghẹt thở là của Tây
phương, rõ
rệt nhất là từ ông vua kinh dị Hithcock Những nhân vật như Vô Kỵ, Kiều
Phong,
bà con với những đứa trẻ bất hạnh của Dickens. Lập luận của nhà sư già
tại Tàng
Kinh Các, khi giải thích tại sao Phật pháp lại giong ruổi với Võ học,
xem ra
như có vẻ vay mượn từ Lý thuyết (Théorie) và Thực hành (Praxis) của
triết học
duy vật biện chứng: Trên đường giong ruổi, Théorie và Praxis triệt tiêu
lẫn
nhau, quyện vào nhau, để cùng biến mất và từ đó xuất hiện, con người
hoàn toàn
(l'homme total), tức giấc đại mộng của Marx. Cái chết của Hồ Nhất Đao
mà mỗi
người chỉ biết có một phần sự thực, là gợi hứng từ Rashomon của nhà văn
người
Nhật, Ryunosuke Akutagawa. Những nhân vật nữ "độc, tối độc" như A Tỷ,
Chu Chỉ Nhược xem ra vay mượn từ những nhân vật "Série Noire" của J.
Hadley Chase, tuy tính chất chung tình của họ hoàn toàn Á Đông. Cách
xây dựng
nhân vật, cặp Hân Tố Tố-Trương Thúy Sơn vừa nằm xuống, cặp Vô Kỵ-Triệu
Minh xuất
hiện là thuộc truyền thống Trung Hoa, sóng sau đè sóng trước.
Nếu Kim Dung
có giấc đại mộng [“con người hoàn toàn”], thì trang Tin Văn cũng có, và
là 1 đại
tác phẩm, chỉ gồm toàn trích dẫn, tức giấc đại mộng của Walter
Benjamin, và
cùng với nó, là 1 cách viết lịch sử, từ đáy thay vì từ đỉnh.
Phải đến
sinh nhật mới rồi, 2012, Gấu Cà Chớn mới ngộ ra điều trên, sau khi nghe
Gấu Cái
ca cẩm hoài, tại làm sao mà mi không chịu
chiều ta, dù chỉ 1 tí ti, là viết 1 cuốn
tiểu thuyết, dù cụt ngủn cỡ mấy!
[Có lẽ lần
này viết, về cuộc gặp gỡ Sad Seagull: Đọc
và Sống Một Chủ Nhật Khác ở Quận Cam!]
Vô Kỵ Giữa
Chúng Ta hay là Hiện Tượng Kim Dung (6)
VI. Thế giới
Kim Dung.
"There
is therefore a poetics of blood. It is a poetics of tragedy and pain,
for blood
is never happy"
Gaston
Bachelard. (Về Tưởng tượng Thi ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and
Reverie; Colette Gaudin biên tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill,
1971.)
["Từ
đó, có một thi học về máu. Đó là một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi
máu là
chẳng thể nào hạnh phúc."
J.M. Coetzee
trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters in South
Africa", nhà xuất bản Yale University Press].
"As
long as there are victors, there’s not too much hope for the world".
"The
only hero is the anti-hero".
"We
have no chance against a time that needs heroes."
Christa
Wolf: The Author’s Dimension
(tuyển tập tiểu luận, nhà xb The University of
Chicago Press).
"To
whom can I say that the Iliad
bores me?"
(Nói với ai
đây, Iliad làm tôi chán?)
Christa
Wolf: Cassandra (a novel and
four easays).
"Heroes
must suffer, not die"
(Người hùng
phải đau khổ, cấm được chết")
G. Steiner
"Truyện
ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không
giống cái
đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi
uy quyền
đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang
giai đoạn
của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp?…"
"Và có
lẽ cũng như tác giả ‘Don Quichotte’, ở cái thời mà vàng của Mỹ châu
tràn ngập
những thị trường Địa Trung Hải làm sống lại sự giao thương, tao loạn và
những
thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng
của những
chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp
để vừa tiếc
chúng vừa mua một cuộc ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’. Những anh hùng của ông sẽ
biết sự
thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân."
"Và lẽ
dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang,
cũng đủ thảm
khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một
cảm động mạnh.
Cảm động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng."
"Ông sẽ
cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở
đang ngủ."
"Nhưng
dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung mà không đa
sầu, đa
cảm, đa tình?"
*
JM COETZEE (1940-):
Nobel Văn Chương 2003
“Trong khi thám hiểm, khai
phóng sự yếu đuối, và thất bại, Coetzee
làm bật ra cái chất thiêng, cái chất huyền, cái gọi là yếu tính của con
người”
Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển.
Thật dễ dàng
thông cảm với sự ghê tởm của khán thính giả Âu Châu và Mỹ, khi nhìn
cảnh phi
công Mẽo xả bom na-pan thui nướng VC, nhưng không lẽ chính phủ Mẽo
trưng dụng
cái thứ phi công chết nhát không thể hoàn tất phi vụ, hoặc phát khùng
phát
điên, vì cảm thấy tội lỗi đầy mình?
[Obviously
it is difficult not to sympathize with those European and American
audiences
who, when shown films of fighter-bomber pilots visibiy exhilarated by
successful napalm bombing runs on Viet-Cong targets, react with horror
and
disgust. Yet, it is unreasonable to expect the U.S. Government to
obtain pilots
who are so appalled by the damage they may be doing that they cannot
carry out
their missions or become excessively depressed or guilt-ridden].
Đây là điều
Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển lọc ra, trong thông báo dành cho báo chí: Quan
tâm của
ông chủ yếu ở những hoàn cảnh, khi mà sự phân biệt giữa đâu là đúng đâu
là sai,
mặc dù hiển nhiên, nhưng hoàn toàn vô dụng.
*
Người hùng
Kiều Phong là một sáng tạo tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim
Dung, theo nghĩa: đây là người hùng mang tính chủng tộc thay thế người
hùng
mang tính giai cấp, tức những A Q, Chí Phèo.
Theo nghĩa đó, W.
Faulkner, qua một
bài điểm sách trên tờ Người Kinh Tế,
được coi là nhà văn "hậu hiện
đại",
trước khi có thuật ngữ này.
Nhân tiện, đề
nghị một đề tài tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một
anh chàng
Bắc Kỳ theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của
bóng
đen: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng khám phá ra... Hà Nội!
Đừng tưởng
đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết gia ở hải ngoại sử dụng " ẩn dụ"
này rồi, một coi cuộc Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm
lăng Việt
Nam của Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một
miền đất,
và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn...
Coetzee,
trong bài viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa:
Những cuốn tiểu thuyết của) Blood,
Taint,
Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White
Writing),
đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết đề cập tới
xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng Anh này. Máu
phân biệt
dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác Afrikaner, Hottentot khác
Xhosa,
Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói tới sắc dân. Nhưng ‘máu" ở trong
những
tác phẩm của Millin không giản dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc
dân, mà
đây là một "thực thể", một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng,
nóng hoặc lạnh, sạch hoặc dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua
đứa
con... Một thi học về máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu
dậy trí
tưởng tượng của bà...
Tờ báo Anh, The Guardian coi
Coetzee, như là một tác giả đã chọn kẻ xa lạ, người ngoài hành
tinh, kẻ ngoại cuộc, đứng bên lề (the outsider), như là một thể loại
nghệ thuật,
hay nói một cách khác, đây là nghệ thuật của kẻ ngoài lề, với những suy
tư thật
là u ám của kẻ đó, về chế độ hậu-phân biệt chủng tộc tại Nam Phi.
Viện Hàn Lâm
Thụy Điển ca ngợi tác giả, với những cuốn như Tủi Nhục, Chờ Những Dân Rợ, như
là “một người hồ nghi một cách thận trọng, và thật là tàn nhẫn, không
một chút
xót thương, khi phải phê bình tính duy lý độc ác, và cái thứ làm ra vẻ
đạo đức
của văn minh Tây Phương”.
Từ chối phỏng
vấn, qua thông báo của Đại Học Chicago, nơi ông hiện là một ‘visiting
professor’, [giáo sư được mời tới, còn
được dịch là giáo sư thỉnh giảng], nhà
văn 63 tuổi này nói, tin ông được giải là một sự ngạc nhiên hoàn toàn.
Bạn bè, đồng
sự chào mừng ông, coi đây như là một sự nhìn nhận một
tài năng văn học lớn lao, mà những cuốn tiểu
thuyết xoáy vào nỗi đau nhức của cá nhân con người trong cuộc sống
riêng tư của
họ, trước thay đổi trật tự xã hội.
Lời khen ngợi
của Viện Hàn Lâm, [Coetzee] người mà "trong nhiều cung cách, miêu tả sự
liên can lạ thường của kẻ ngoài lề", một lời khen như thế nhắm vào tác
giả
hơn là những nhân vật của ông, theo ký giả Rory Carroll của tờ The
Guardian,
Friday October 3, 2003 trong một bài viết từ thành phố Johannesburg,
Nam Phi.
Coetzee rời
Nam Phi Coetzee vài năm trước đây, như một cách tự đặt mình vào hoàn
cảnh lưu
vong, sau khi đụng độ với nhà cầm quyền ở đây [the ruling African
National
Congress] do cuốn tiểu thuyết của ông. Trong cuốn Tủi Nhục, con gái của nhân vật
chính bị ba người da đen hãm hiếp, nhưng từ chối không chịu thưa gửi,
một phần
là do mặc cảm tội lỗi thực dân thuộc địa. Văn phòng bộ trưởng cho rằng
câu chuyện
mang tính kỳ thị mầu da (racist) và đánh thẳng vào vấn đề nhân quyền ở
mức tối
nguy hiểm của nó.
Coetzee chẳng
bao giờ nói, chuyện ông rời bỏ Nam Phi tới Úc châu liên can tới vụ nói
trên,
nhưng nhiều người Nam Phi tin rằng ông cảm thấy bị săn đuổi, quấy rầy
(hounded). Cũng có dư luận cho rằng, ông bực mình vì một vụ trộm viếng
nhà.
Nếu nhà cầm
quyền ở Nam Phi cảm thấy “lúng túng như ngậm hột thị”, họ cũng đủ khôn
khéo
không để lộ ra, vào ngày hôm qua [2, tháng Mười], và đã ca ngợi việc
Coetzee được
giải như là một bước tiếp nối nữ văn sĩ Nam Phi Nadine Gordimer, Nobel
văn
chương 1991. “Nhân danh quốc gia Nam Phi và thực sự ra là cả một lục
địa Phi
Châu, chúng tôi chào mừng nhà văn đoạt giải Nobel mới mẻ nhất, 2003 và
chia sẻ
cùng với ông vinh quang tỏa ra từ sự nhìn nhận này.” Tổng thống Thabo
Mbeki
tuyên bố.
Dư luận báo
chí quốc tế cho rằng, Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã chọn đúng người và qua
tin hành
lang, việc chọn Coetzee.. dễ dàng, đối với mấy ông Hàn. Đây là một vinh
danh tối
hậu cho một tiểu thuyết gia luôn luôn hỏi những câu thật khó chịu (the
ultimate
honour for a novelist who always asks the uncomfortable questions). Một trong những nhà văn lịch lãm, can đảm nhất
của thời đại chúng ta. Chuyện chọn ông không có gì là bất ngờ, nhưng
việc chọn
thời điểm để tung ra thông báo quả là một sự ngạc nhiên. Hàn Lâm Viện
đã có ý
muốn, việc trao giải thưởng Nobel sẽ giống như Oscar, và đây là cho một sự nghiệp một đời người cống hiến,
khác hẳn những trường hợp trước đó, thí dụ như với
Gabriel Garcia Marquez, sau khi được giải
thưởng, ông còn viết dữ,
và viết hay hơn trước đó!
Chuyện chưởng
(new)
1/4/13
ý nghĩa của
đối thủ
nếu có viết
chưởng, chưởng của tôi sẽ rất bựa và sẽ có xen như thế này: hai cao thủ
đấu với
nhau đến hồi kịch liệt, nhìn từ bên ngoài thì như hai thằng dở hơi ngồi
đờ đẫn
nhìn nhau nhưng thật ra đã tới lúc nhúc nhích một li một tấc là có kẻ
toi mạng,
con ruồi nào lỡ bay qua là trúng huyệt bách hội lăn quay thở dốc liền,
trên đầu
mỗi đồng chí có một mảnh khói bốc lên lờ mờ; và như mọi cuộc oánh nhau,
bu lại
xung quanh là rất đông cao thủ hạng bốn hạng năm của thiên hạ, chúng
chỉ trỏ xì
xào, lại còn phân tích tích phân loạn cào cào, vừa nãy là chiêu Ngũ
Hành xào tỏi,
bây giờ thì đang đấu Nguyên Khí sắn luộc vân vân và vân vân; hai cao
thủ trong
vòng đấu bực mình lắm vì bọn chúng cứ lao xao điếc cả tai và điếc thêm
một thứ
nữa, đến hồi không chịu nổi nữa, một người móc luôn cứt mũi búng một
đàn chỉ thần
thông, một chú ở vòng ngoài bỗng ngã lăn, miệng ú ớ, từ đó bị phế bỏ võ
công
vĩnh viễn, suốt đời mắc chứng viêm phế quản
chưởng của
Kim Dung những bộ lớn có rất nhiều điều đáng ngưỡng mộ, nhưng một ấn
tượng rất
lớn mà Kim Dung để lại trong tôi là Tuyết Sơn Phi Hồ, đặc biệt là đoạn
Kim Diện
Phật Miêu Nhân Phượng đấu với Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao
trong Tuyết
Sơn Phi Hồ này, Kim Dung đẩy lên đến mức trác tuyệt quan niệm về đối
thủ trong
giang hồ
giang hồ lồng
lộng (bờ sông trắng hoa dương/chia ly buồn đứt ruột/giậm chân hát mà từ
biệt...
vạt áo xanh giang hồ) sở dĩ kỳ thú là bởi có những cặp đối thủ; đối thủ
tầm thường
thì mong giết được nhau, mong thắng được một chiêu, tiên thủ vi cường,
dĩ bẩn
trị địch, mong nhanh hơn nó một sát na để xử lý xong nó rồi đi lên đỉnh
đồi đứng
nhìn về xa xăm, áo choàng thẫm máu tung bay trong gió mùa hoang lạnh
cao thủ thượng
thặng không có cái tâm lý ấy; những gì tinh túy nhất của chưởng không
dính đến
chết chóc (phim action của Hollywood ta luôn luôn thấy có mùi rẻ tiền
là vì nhiều
máu quá), Morris cũng phải quyết định để anh lonesome cowboy không bao
giờ bắn
chết người nữa thì Lucky Luke mới có cơ bước vào thế giới của sự vĩ đại
và bất
tử
cao thủ như
Miêu Nhân Phượng và Hồ Nhất Đao coi cái sự gặp được nhau là một hạnh
ngộ bất
tuyệt trong đời, đấu mãi với nhau thì nảy sinh lòng mến phục và trân
trọng; tìm
được đối thủ xứng tầm cũng thú ngang với tìm được một tuyệt sắc giai
nhân không
sợ bị gọt đầu bôi vôi mà đi theo mình kẻ lông mày cho mình, ngang tìm
được một
tri kỷ đối ẩm luận đời quên ngày tháng
quý trọng đối
thủ, Miêu Nhân Phượng coi cái chết của Hồ Nhất Đao là nỗi bất hạnh lớn
lao của
đời mình; vào giây phút ấy, Miêu Nhân Phượng hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ
mình
còn tìm được một ai như Hồ Nhất Đao nữa; đối thủ ở một mức nào đó là
duy nhất,
không thể thay thế, như người bạn thân
ý nghĩa của
đối thủ là khiến cho ta thấy đời đáng sống, ngày ngày ta được đối thủ
nâng lên
một tầm mức mới vì đối thủ bắt ta lúc nào cũng phải suy nghĩ để phá một
chiêu,
khiến ta nghi hoặc, khiến ta hậm hực, khiến ta ngưỡng mộ trước tài năng
xuất
chúng, trước khí độ hiên ngang, trước tấc lòng trượng phu, trước những
quái đản
bất ngờ
và rất bực
khi đối thủ của mình bị mấy bọn cao thủ Tây Vực mặt giặc đến quấy
nhiễu, để đối
thủ không thể tập trung vào cuộc đấu với ta; trong cuộc đấu giữa Hồ
Nhất Đao và
Miêu Nhân Phượng, có một đêm Miêu Nhân Phượng đã bỏ đi, sáng ra phi
ngựa về vứt
dưới chân Hồ Nhất Đao một cái đầu người, là một kẻ thù của Hồ Nhất Đao,
làm vậy
là để Hồ Nhất Đao đỡ phải bận tâm với những thứ vớ vẩn
những điều
như thế là quý giá
(viết riêng
tặng Mr. Tin Văn)
Blog NL
Tks.
Với chưởng và
nhất là chưởng KD, bạn NL chỉ là dân ngoại đạo.
Thành ra khó
nói lắm.
Hà hà!
Trong số những
còm, có 1, phán, không thích Kim Dung mà thích Cổ Long, theo tôi, là do
chưởng
của KD chúng dính chùm với nhau.
Chỉ 1 trận đấu giữa Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân
Phượng là đã liên can/liên quan [cả hai từ này đều đúng] đến mấy bộ
chưởng rồi.
Có 1 vị độc
giả TV, trước rất hay đọc, bây giờ cho biết, chán rồi, vì đọc mệt quá,
cái nọ xọ
cái kia, link này đẻ ra link khác, ngay Gấu Cái mà cũng chẳng thèm đọc,
vì chẳng
có bài nào đọc riêng ra được.
Chưởng KD theo tôi cũng
thế.
Tuyết Sơn Phi Hồ, với riêng Gấu, là cuốn
hay nhất của
Kim Dung.
Nhưng để thấy nó hay, thì “ít nhất”, phải trang bị thêm hai bộ này:
Bích Huyết Kiếm, Lãnh Nguyệt Bảo Đao.
Hồ Nhất Đao,
đang đêm phi hành hàng ngàn dặm đường, "giết giùm" Miêu Nhân Phượng 1
kẻ thù,
là có lý
do: Ông muốn hoá giải trận đấu, chứ không hẳn như bạn NL nghĩ.
Nên nhớ Miêu Nhân
Phượng có lý do giết Hồ Nhất Đao, vì nghĩ HND giết bố mình, còn HND
chẳng có lý
do gì để đấu với MNP.
Họ Miêu muốn giết HND để trả thù bố, mới tự xưng là Đả
biến thiên hạ vô địch thủ Kim Diện Phật
Miêu Nhân Phượng, để chọc HND rời Liêu Đông xuống đồng bằng, nhưng
HND biết
rõ vụ cha của Miêu Nhân Phượng bị giết ra sao, nhưng không làm sao nói
cho MNP
hiểu được, vì nó tởm quá.
Cái chết của Hồ Nhất Đao
cũng liên can đến rất nhiều
nhân vật giang hồ, vì đâu phải Miêu Nhân Phượng giết, mà chết vì thuốc
độc, tẩm
trên võ khi của cả hai bên, mà đâu phải thứ thuốc độc thường.
Lại còn cuộc
tình giữa đời thứ nhì, hay, thứ ba cũng bắt đầu từ cuộc tử đấu. Hồ Phi,
con trai Hồ
Nhất Đao, tuy chưa từng đấu với MNP, nhưng đã lập lại trận đấu này, và
trận đấu
giữa hai người còn khủng khiếp hơn nhiều, vì nó liên quan đến cuộc tình
giữa Hồ
Phi và Miêu Nhược Lan.
Cuộc đấu giữa HND với MNP
thì đẻ ra cuộc tình
cay nghiệt
giữa Miêu Nhân Phượng và bà vợ, sau phản bội chồng, cũng vì cuộc đấu…
Bởi vậy
khi Miêu Nhược Lan gật đầu nhận lời với Hồ Phi, đã hứa, tôi sẽ không
như mẹ tôi đâu,
và dặn người yêu đừng có giết bố đấy nhé.
Ui chao, trùng
trùng điệp điệp bao nhiêu yêu thương, ân oán, của bao nhiêu đời ở trong
trận đấu,
đâu có dễ hiểu như bạn NL viết!
NQT
Chỉ đến khi
tỉ đấu, thì MNP mới hiểu được HND là một đấng quân tử [mượn từ của
Cioran nói về
Beckett], và HND, khi trúng độc té xuống, còn ngỡ ngàng đưa mắt hỏi
MNP, tại
sao, ấy là vì HND tưởng là MNP biết lý do bố chết, qua thầy lang Diêm
Cơ, nhưng
tên này đâu có nói cho MNP biết, còn bôi thuốc độc lên cả đao lẫn gươm
vì ăn tiền
của Điền Quy Nông, và cũng còn muốn cướp Hồ Gia Đao Pháp.
Bà vợ Hồ Nhất
Đao, thấy tư cách của MNP tin được, mới gửi con lại, để chết theo
chồng. Cái chết
của bà vợ HND, MNP suốt đời ngợi ca, khiến bà vợ chạm nọc, vì đã từng bỏ chồng chết cháy
trong 1 khách điếm.
Bà vợ MNP bỏ
chồng theo trai 1 phần là vì vậy.
Bà thất vọng
khi biết Điền Quy Nông quyến rũ bà vì kho tàng của Sấm Vương, thành ra
khi sắp
chết mới nhờ họ Điền trả lại cho họ Miêu cây thoa, trong cây thoa có
bản đồ kho
tàng.
Bích Huyết Kiếm có thể coi là bộ chưởng
mở ra “đại lục”
Kim Dung [từ đại lục, mới thuổng từ bài viết về Faulkner trên Le Monde: đại lục, le
continent Faulkner.
Mấy anh Tẫu Hồng Kông (?), coi đây là 1 trong “Tân Lục Tài Tử” của TQ,
nhưng
danh hiệu này, theo Gấu, phải dành cho Tuyết Sơn Phi Hồ
Gấu đọc
BHK
và mê liền anh chàng mồ côi Viên Thừa Chí, bố Viên Sùng Hoán, danh
tướng chống Bắc Phương, bị
vua Sùng Chinh ra lệnh làm thịt. Vì VSH chết, một phần, mà giống Mãn
mới lấy được TQ, đẻ
ra Thanh Cung 13 triều.
|
|