Đỗ
Long Vân:
Vô Kỵ Giữa Chúng Ta hay
là Hiện Tượng Kim Dung (6)
VI.
Thế giới Kim Dung.
"There is therefore a poetics of
blood. It is a poetics of tragedy and pain, for blood is never happy"
Gaston Bachelard. (Về Tưởng tượng Thi
ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and Reverie; Colette Gaudin biên
tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1971.)
["Từ đó, có một thi học về máu. Đó là
một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi máu là chẳng thể nào hạnh phúc."
J.M. Coetzee trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters
in South Africa", nhà xuất bản Yale University Press].
"As long as there are victors,
there’s not too much hope for the world".
"The only hero is the anti-hero".
"We have no chance against a time
that needs heroes."
Christa Wolf: The Author’s Dimension
(tuyển tập tiểu luận, nhà xb The University of Chicago Press).
"To whom can I say that the Iliad
bores me?"
(Nói với ai đây, Iliad làm tôi chán?)
Christa Wolf: Casandra (a novel and
four easays).
"Heroes must suffer, not die"
(Người hùng phải đau khổ, cấm được
chết")
G. Steiner
"Truyện ông như muốn quật ngã cái ý
chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người
thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững
và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn
của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp?…"
"Và có lẽ cũng như tác giả ‘Don
Quichotte’, ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị trường
Địa Trung Hải làm sống lại sự giao thương, tao loạn và những thuyết
nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng của những
chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp
để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’. Những anh hùng
của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có
những cá nhân."
"Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là
cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan
uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm
động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng."
"Ông sẽ cho người ta thấy trong mỗi
tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở đang ngủ."
"Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ,
nhân vật nào trong Kim Dung mà không đa sầu, đa cảm, đa tình?"
Nhưng trước khi chắp xong những mảnh vụn
ấy, thu tất cả những đầu dây vào một mối và tìm ra cái chốt của mọi sự
kiện thì chàng đã trải qua những rừng nghi vấn. Hơn một lần những bất
ngờ đã vồ lấy chàng. Và cuộc phiêu lưu của chàng đã là một thất lạc
giữa những đe dọa chập trùng. Không có ai trong truyện cổ điển để nghi
ngờ cái ý nghĩa sẵn có của mọi vật. Nhưng người anh hùng của Kim Dung
trái lại vào đời để ngạc nhiên và khám phá rằng thế giới to, rộng và
phức tạp hơn người ta đã dạy chàng. Ấy thường là một thiếu niên thật
thà, võ công chẳng có mấy cũng như chẳng có mấy kinh nghiệm giang hồ.
Khác hẳn những anh hùng cổ điển khi xuống núi là đã sẵn có những võ
công trác tuyệt và chỉ có việc mang cái đạo sẵn có ra thi hành để tiếp
tục một truyền thống đã gần trở thành tự nhiên, thì chàng, chàng phải
học tất cả từ đầu. Những tình cờ của cuộc đời sẽ dạy chàng võ công cũng
như đạo lý. Theo chàng, người ta tham dự vào sự khám phá một thế giới
mới lạ và bí mật. Và đồng thời chuyện của sự khám phá ấy cũng là chuyện
trở thành của người anh hùng. Không thuộc một môn phái nào cố định,
nhưng học ở khắp nơi, người anh hùng Kim Dung là con của kinh nghiệm và
tình cờ. Ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền thống sụp
đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con người
ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng thành một cái gì
khác hẳn những tham vọng nguyên thủy của chàng. Truyện võ hiệp cổ điển
trình bày những giai đoạn của sự thực hiện theo một đường thẳng của một
dự định từ đầu tới cuối vẫn là một. Khi cuộc phiêu lưu của Vô Kỵ chấm
dứt thì còn gì ý chí phục thù của chàng? Hình như chàng đã quên nó từ
bao giờ không biết.
Con người bị thế giới thay đổi. Ấy là
tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị
vây giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại khó hiểu, sau
lưng chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi
một võ công thất truyền như nhắc lại tiếng vọng của một cái gì thần bí
và hoang đường. Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng
thế giới như không có giới hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết
võ công này lại có võ công khác cao hơn, và như người ta nói, ngoài
trời lại có trời. Kinh nghiệm của người anh hùng là kinh nghiệm của cái
vô cùng, cái bên kia, cái khác. Từ cái phồn hoa của những đô thị đến
những cơ quan ác hiểm, tất cả, trong truyện võ hiệp cổ điển, đều làm
chứng cho sự nhân loại hóa của thế giới. Cảnh trí trong truyện võ hiệp
mới khác hẳn. Hang sâu, vực thẳm, rừng hoang, đảo vắng, sa mạc mênh
mông, một thiên nhiên dữ tợn vây con người ở khắp nơi. Khắp nơi xao xác
tiếng gọi của Huyền bí và Vô cùng.
Tà đạo trong Kim Dung cũng có lưỡng tính
ấy. Vừa đe dọa vừa cám dỗ. Như người của Chính phái, khi lâm sự, người
của Tà đạo cũng mười phần ác độc, và đôi khi những đòn của họ còn thâm
hiểm gấp bội. Chỉ có người Tà đạo, chẳng hạn, mới nuôi rắn trong túi để
phòng khi họ bị thua, kẻ thù có lục xác sẽ bị rắn cắn chết. Nhưng họ
không bao giờ tìm cách cho sự ác độc ấy một minh chứng. Hơn thế nữa, họ
còn cười đạo lý của những môn phái khác là ngây thơ, giả dối và hủ lậu.
Cám dỗ đầu tiên họ mang lại là sự tự do không biên giới. Người lương
thiện trước họ sửng sốt tự hỏi tại sao trên đời lại có những người như
thế? Làm sao có thể vô tình trước sự thông minh của Hoàng Dung, nhan
sắc của Hân Tố Tố, sự uyên bác của Tạ Tốn, tính ngạo mạn của Hoàng Dược
Sư? Những đức tính ấy tuy nhiên chỉ là những cám dỗ bề ngoài. Xa hơn
nữa, Kim Dung sẽ làm cho người ta thấy rằng Tội Ác tự nó có một sức thu
hút lạ thường. Ai có thể đoan trang hơn Mục Niệm Từ? Nhưng người con
gái suốt đời giữ thủy chung với Dương Khang, một con người ung thối,
gian sảo và ngoài danh vọng ra thì chẳng thiết gì. Cũng như thế, Kỷ
Hiểu Phù thà chịu chết chứ không chịu phản bội Dương Tiêu, người mà sư
phụ nàng gọi là tên dâm tặc và cũng là người tình phụ bạc của chính
nàng. Trong những mối tình ấy có một cái gì người ta không thể hiểu hết
và người ta tự hỏi khi tả chúng thì Kim Dung muốn nói lên cái gì? Sự
thôi miên của tội ác, sự phi lý của tình yêu, hay là cái thiêng liêng
mà người ta muốn xác định trong những con người sa đọa nhất? Tất cả
những ý tưởng ấy có lẽ cùng một lúc đã thoáng qua trong đầu người ta,
khi, cái xác của Dương Khang phơi ở ngoài tòa miếu vắng, đàn quạ no nê
chỉ để lại một mớ xương hoang. Con người gian xảo ấy đã đền tội một
cách xứng đáng. Nhưng trong một ngôi chùa xa, ít người lai vãng, Mục
Niệm Từ vẫn giữ nguyên dưới đáy lòng ảnh tượng của một người yêu.
Cái chí của Dương Khang không cao. Tham
vọng duy nhất của chàng là thừa kế cái địa vị của người cha nuôi của
chàng để có thể tận hưởng phú quí. Nhưng để thực hiện tham vọng ấy
chàng đã phản bội tất cả: quê hương, cha mẹ, anh em, bằng hữu, và sau
cùng trở thành một kẻ sát nhân. Cái họa ấy là tâm hồn chàng vẫn còn có
chỗ bị cái đạo lý truyền thống uy hiếp, và cứ gặp cái nhìn của Mục Niệm
Từ là chàng lại như thấy sự oán trách của lương tri. Tội ác chàng làm
tự chàng lại coi là tội ác, và đứa con sa đọa ấy của một dòng nghĩa
hiệp sẽ không bao giờ biết gót chân nhẹ nhàng của những người đi chinh
phục những vùng đất cấm. Xã hội lên án những con người ấy là Tà đạo.
Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới hạn của cuộc sống tầm
thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giới hạn tự nhiên của
con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì đến Trời
họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy, người ta đã nhận ra người anh
hùng của văn học lãng mạn. Cơn thịnh nộ của Tạ Tốn, trong cơn bão đánh
bạt thuyền ông lên Băng Hỏa Đảo, chống lại cái mà ông nguyền rủa là Lão
Tạo Thiên làm người ta nghĩ đến thuyền trưởng Achab của Melville và
không phải ngẫu nhiên mà đã hai lần Kim Dung lấy cái tên Phá Thiên để
đặt cho nhân vật của mình. Tà đạo trong ông không phải chỉ gồm những
quân đầu trộm đuôi cướp mà những người mang cái chí muốn đoạt quyền tạo
hóa. Họ đã ly khai khỏi cái đạo lý của tất cả mọi người. Lẽ dĩ nhiên họ
bị mọi người nguyền rủa. Tham vọng điên cuồng của họ trong khi ấy chỉ
có thể đưa họ đến thất bại và sự thất bại ấy lại xuất hiện như một
nguyền rủa lớn hơn nữa, là của định mệnh. Họ là những người đã thách đố
Thần linh. Và như trong truyện cổ Hy Lạp, Thần linh đã trừng phạt sự
kiêu ngạo của họ và làm cho họ hóa điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn
là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm cho người ta sợ hãi, tại
trong sự thất bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân. Ấy
là ấn tượng của người ta trước định mệnh của một Hoàng Dược Sư, một Tạ
Tốn, một Kiều Phong. Lại có những nhân vật như Dương Khang, Chu Chỉ
Nhược, Du Thản Chi chẳng có gì vượt bực. Nhưng thảm kịch của đời họ đặt
cho người ta những nghi vấn. Sao lại có thể có một Du Thản Chi, từ thể
xác tới tinh thần, như tụ hội tất cả những tật nguyền? Những nhân vật
như thế tuy nhiên, trong Kim Dung, không phải chỉ giữ một vai bàn đạp
để tuyên dương cái tích cực rực rỡ chuyên chở trong những nhân vật
chính. Tai họa mà họ phải gánh chịu ông còn cho người ta biết như một
điều oan uổng. Người ta chạm trán trong họ với cái phi lí của định mệnh.
Định mệnh, Thần linh, Thiên nhiên, Thế
giới, tất cả đều lớn hơn con người như sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết
Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khi đã khuất phục cái mênh
mông của sa mạc, sẽ gặp lại trước giờ nhắm mắt là một cô độc không thể
vãn hồi. Sự thất bại sau cùng ấy Kim Dung cũng sẽ dành cho những Vô Kỵ,
Mộ Dung, Kiều Phong, Tạ Tốn. Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh
hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị.
Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững và tới bậc
cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn.
Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp? Người ta sẵn sàng
dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ và ngu đần! Và có lẽ như tác
giả "Don Quichotte", ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị
trường Địa Trung hải, làm sống lại sự giao thương, tao loạn, và những
thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng
của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện
võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc "Tiếu Ngạo Giang Hồ". Những
anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng?
Chỉ có những cá nhân.
Cái gì người ta chiêm ngưỡng trong những
nhân vật cổ điển không phải cá nhân họ mà là những giá trị họ tượng
trưng. Nhưng sự sụp đổ của những giá trị trước một thế giới của vật lực
cũng làm rơi những mặt nạ, và con người trong Kim Dung xuất hiện như
một mớ đam mê. Khi Trương Thúy Sơn ôm cái xác của Dư Đại Nham về Võ
Đương thì cái gì sư huynh đệ chàng chợt giác ngộ là sự thật đơn giản,
rằng họ không phải là những thiên thần. Họ có một thân thể để mang
bệnh, trúng thương và chết, không phải cái chết vinh quang mà người ta
thường đợi ở những người anh hùng mà là cái chết tăm tối, ô nhục, và
khả nghi không biết tại sao chết và chết dưới tay ai, có thể xảy ra cho
bất cứ kẻ vô danh nào lạc bước trên giang hồ. Sinh ra ở đời ai mà không
chết! Tiếng thở dài của Trương Tam Phong trước cảnh hấp hối của đứa học
trò yêu của mình như cáo chung cho một giai đoạn trong lịch sử võ hiệp.
Những người anh hùng giờ sẽ biết sự đau khổ. Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố,
dục, tâm hồn họ sẽ là nơi dao động của thất tình. Và những biến cố tâm
lý cũng có một trọng lực không kém gì những biến cố ngoại tại. Tương
quan giữa người đọc và truyện cũng đổi hẳn. Từ địa vị khán giả của một
buổi trình diễn, người ta phải chia sẻ tâm sự của nhân vật: vui buồn,
thắc mắc cùng nhân vật, nói tóm lại, tham dự trực tiếp vào cuộc phiêu
lưu.
Xa cái vui mắt của những đô thị, người
ta theo người anh hùng tiếp xúc với cái trữ tình của những mặt hồ man
mác, những chuyến đi thuyền đêm dưới trăng, những cảnh rừng hoang xào
xạc lá rụng. Ấy là những cảnh để nói với lòng người, và trong truyện,
chúng là một yếu tố dẫn cảm. Cũng như thế, quan trọng của biến cố không
còn ở ý nghĩa đạo lý chúng có thể trình diễn mà ở tiếng dội tâm lý của
chúng. Khi thì chúng làm người sửng sốt và trông chờ, lại có khi chúng
gây ra những tình cảm nhân loại hơn: lãng mạn như cuộc tương ngộ đầu
tiên giữa một đôi tri kỷ, nhưng thương tâm cũng có – như cái chết của
một nhân vật mà người ta đã theo như một người bạn đường. Ai có thể
nghĩ rằng những Hân Tố Tố, Trương Thúy Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Châu, Kiều
Phong, A Tỷ… lại có thể bị hy sinh? Nhưng Kim Dung sẽ đi rất xa. Ông
sẵn sàng cho chết ngang xương những nhân vật được cảm tình của người
đọc nhất. Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một
Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn
là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động
trước đã, và cảm động sẽ thắng. Những giá trị của truyện võ hiệp mới là
những giá trị của tâm hồn. Ai có thể chờ gì hơn ở một truyện kể khi
ngay những nhân vật của truyện cũng không còn thiết đến ý nghĩa đạo lý
của nó? Tất cả là làm thế nào cho người ta động lòng. Xưa thế giới chia
đôi: một Tà, một Chính. Giờ thì những tiêu chuẩn tình cảm sẽ thay thế
những tiêu chuẩn đạo lý: sẽ có những nhân vật để người ta có cảm tình
với, và những nhân vật để nhận tất cả ác cảm của người ta. Cho nên, để
gợi sự thương tâm trong độc giả, anh hùng giờ sẽ là người anh hùng lâm
nạn, và truyện sẽ không kể lại những chiến công mà là những tai họa kế
tiếp nhau trong đời chàng. Ấy là Dương Quá trong tay những ông thầy bất
công và nghiệt ngã; ấy là Thạch Phá Thiên ở với một người mẹ nuôi thù
hằn; ấy là Vô Kỵ suốt thiếu thời mang một thứ bệnh nan y. Nhỏ thì chịu
tất cả những tủi nhục của một đứa trẻ vô thừa nhận, lớn lên họ lại bị
xã hội nghi ngờ, xua đuổi, nguyền rủa, uy hiếp. Ngoài ra còn đủ thứ
cảnh ngộ éo le mà cái tình cờ của phiêu lưu thường xô họ vào để họ phải
chọn giữa những tình cảm đối nghịch. Không có gì trong thế giới là minh
định như xưa. Họ thường xuyên phải ngạc nhiên, tự tra vấn, xét lại
những thành kiến và những ước định của mình. Cho nên người nào cũng có
một cuộc sống bên trong cực kỳ sôi động. Hơn thế nữa, chẳng mấy người
lại chẳng từng trải qua những cay đắng của giang hồ và đeo trong mình
một quá khứ nặng nề. Kinh nghiệm ấy cho họ một tâm hồn đầy uẩn khúc, và
mỗi nhân vật giờ xuất hiện như một sự sâu xa thần bí. Ấy là nguồn của
cái tâm lý phức tạp mà người ta thường ca tụng Kim Dung là đã mang vào
truyện võ hiệp. Tâm lý trong truyện Kim Dung có lẽ cũng không phức tạp
như người ta tưởng. Nhưng ít nhất thì những nhân vật của ông cũng không
phải là những vai trò mang những nhãn hiệu cố định. Sau những nhãn hiệu
như thế là một thế giới riêng tư, sau những vai trò còn có con người,
và con người đích thực, theo Kim Dung, là con người của năng tính. Ông
sẽ cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn
thuở đang ngủ. Tiếng khóc của một đứa trẻ thơ thức tỉnh Tạ Tốn khỏi cơn
mê sảng đẫm máu từ bao lâu đã vùi ông trong một cuộc tàn sát tưởng
không bao giờ thôi. Và cái sướng nhất đời của Âu Dương Phong, có ai
ngờ, là được một thằng bé con gọi là cha. Mất con, Diệp Nhị Nương bắt
trẻ của người để ăn tim uống máu. Nhưng chỉ cần nhìn thấy đứa con mụ
mong thầm nhớ trộm là mụ chợt giác ngộ và tự lên án cả quá khứ của
mình. Cũng như thế, một Lý Mạc Thu có thể nhảy vào lửa để cứu một đứa
trẻ thơ. Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim
Dung lại không đa sầu, đa cảm, đa tình? Người ta chỉ cần nhớ đến sự
thủy chung của Hoàng Dược Sư với người vợ sớm qua đời, và tiếng sáo của
ông trên nước biếc, khi, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể
tìm con.
Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu
xa nhất trong mỗi con người. Không có tình giữa những vai trò xã hội.
Nhưng khi hai nhân vật khám phá ra nhau như những con người, nghĩa là
khi Trương Thúy Sơn thấy rằng Hân Tố Tố không giống hẳn cái ảnh tượng
mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai
người đã bắt đầu. Nhân vật của truyện võ hiệp cổ điển cũng biết yêu
nhau. Nhưng trong thế giới của họ chữ Tình chỉ định một tương quan
ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, qui định bởi thứ bậc xã hội và những
tiêu chuẩn đạo lý. Không thể tưởng tượng được chẳng hạn một cuộc yêu
đương giữa người của Tà môn và của Chính giáo. Nhưng trong Kim Dung,
cái tình là cái tinh hoa của năng tính. Nó sẽ thắng những giới hạn giả
tạo ấy và làm cho Dương Quá chẳng hạn suốt đời thương nhớ một người cha
sa đọa. Tình cha mẹ con cái, tình thầy trò, tình đồng môn, tình bằng
hữu, không tình nào mà Kim Dung không mô tả qua. Và lẽ dĩ nhiên phải kể
đến tất cả những sắc thái của tình yêu: tri kỷ như giữa Hoàng Dung và
Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ, ác độc như
giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia
sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung và những mối tình, như của Hân Ly
với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối
tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như
những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa
như Đoàn Chính Thuần, thờ phụng như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau
khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Châu, nhưng người nào cũng yêu
đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được
lần thứ hai ở trên đời. Cho nên A Châu có chết đi nhưng ảnh tượng nàng
vẫn còn thao thức mãi trong lòng Kiều Phong. Hai tâm hồn gặp nhau,
tương đắc, giao hội và không có gì có thể chia rẽ họ. Trương Thúy Sơn,
Kỷ Hiểu Phù, A Chu nhận cái chết để khỏi phải lên án người yêu của họ,
và Mục Niệm Từ giữ thủy chung với Dương Khang cho tới cùng. Tình yêu
không kể tới đạo lý. Nó không thể giải thích được. Ai biết đâu sự sa
đọa của Dương Khang là cái đã cám dỗ Mục Niệm Từ, cái ngây thơ của
Quách Tĩnh là cái cám dỗ Hoàng Dung, sự lơ đãng của Mộ Dung Phục là cái
cám dỗ Vương Ngọc Yến? Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình
yêu là cái đam mê duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn
năn. Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình
có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung
Phục sẽ bị trừng phạt đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng
quá lớn mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết
thế nào là tình yêu.
Sự giá trị hóa cái Tình trong Kim Dung,
tuy nhiên, chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hóa đời sống tâm
hồn. Tâm hồn của nhân vật võ hiệp cổ điển có thể đọc trên mặt họ. Ấy
không phải là một tâm hồn mà là một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều lắm
là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của
cá tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy
rõ. Nhưng Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một con người không
bao giờ có thể đạt tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa
diện, và trong họ lúc nào cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn
con người vẫn thường biết. Hơn thế nữa, trong Kim Dung, người ta vào
đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây dựng. Cho nên cái vô định
tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật – và nhân vật nào cũng
chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên ở họ người ta chỉ
biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn
tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn
những nội dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở
sau cái dịu dàng, sự thủy chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của
nhân vật Kim Dung không diễn tả cái tâm hồn của họ. Nó giấu cái tâm hồn
ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như một cái gì rất sâu xa. Giông tố
nào sau cái mặt nạ lạnh như tiền của Hoàng Dược Sư? Tham vọng nào trong
con mắt lơ đãng của Mộ Dung Phục? Tuyệt vọng nào trong cơn say phá trời
của Hoàng Dung? Nhân vật võ hiệp cổ điển ngược lại, cảm ra sao thì tình
cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là được diễn tả một cách trực tiếp và
minh bạch qua những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm
một tiếng cười, một điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì
thế mà càng cố làm ra như thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ
ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên, chúng lại chợt tắt đi, và những
nhân vật sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như không có gì xảy ra. Nhưng
trong Kim Dung, những tình cảm đích thực thường ít nói. Khi biết rằng
không còn cách nào để chữa cho Dư Đại Nham thì Trương Tam Phong chỉ yên
lặng thở dài quay lại nhìn các môn đệ của mình và nói một câu chạm
chạp: làm người ai chẳng chết một lần. Để rồi suốt đêm ngồi một mình
suy nghĩ trên mấy câu thơ đang tàng trữ cái bí mật về tai nạn đã xảy ra
cho đứa học trò yêu của mình và sáng tạo ra bộ Đồ Long Công. Nỗi buồn
không được nói ra, nhưng nó đè nặng trên mỗi cử chỉ. Ấy là một nỗi buồn
đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền ngẫm, một nỗi
buồn đã hóa ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật cho nó
một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới. Hay là ngôn ngữ, trong một
thế giới mà đối thoại duy nhất có thể có là của vũ lực, chỉ còn là một
thứ xa hoa? Cho nên mới có một Hoàng Dược Sư mặc cho người đời nguyền
rủa và nghi ngờ, vẫn thản nhiên tiếp tục con đường của mình mà không
bao giờ tìm cách tự minh chứng. Hình như ông cho rằng ai cũng có lý do
riêng để làm cái việc mình làm, và tất cả những cố gắng để thuyết phục
cũng như giải thích đều thừa. Khi thật tức giận ông cũng chỉ "hừ" một
tiếng ngắn ngủi. Nhưng càng ít nói thì những tình cảm càng nói nhiều.
Và ở sau cái mặt nạ của Hoàng Dược Sư là một tâm hồn đầy bão tố. Người
ta bước vào từ chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái gì Kim
Dung mang vào truyện võ hiệp là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn
của mỗi người là một tâm sự không thể nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại
thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình – theo nghĩa bóng và
theo cả nghĩa đen của chữ ấy – như người ta chỉ thấy trong cái hàm hồ
của những cử chỉ, một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ nhận.
Mình Trương Thuý Sơn biết rằng chàng
không có tội. Nhưng làm thế nào chàng có thể tự minh oan khi tất cả
những sự kiện kiểm soát được đều lên án chàng là một kẻ sát nhân? Quả
Hân Tố Tố có đả thương Dư Đại Nham. Theo qui củ trong giang hồ thế
chẳng có gì là trái đạo. Huống chi nàng đã tìm mọi cách để cứu chữa
thương thế cho chàng. Nhưng ngờ đâu sự ân cần ấy lại gây thêm tai vạ,
và con người đã bị nàng biến thành một phế nhân ấy sẽ là bạn của chồng
nàng. Chủ quan mà xét thì nàng không có tội. Nhưng sự thật của những
chứng nhân đâu có giống sự thật của những tác nhân. Hơn ai hết, Kim
Dung đã dùng cái mâu thuẫn ấy để xây dựng một tâm sự, sửa soạn một thảm
kịch, dẫn đường cho một bất ngờ và không đợi những lý thuyết gia mới
của tiểu thuyết khai thác trong truyện ông sự tương đối của những quan
điểm. Khi nghe Hân Ly kể lại mối tình của nàng với Vô Kỵ thì có ai, kể
cả Vô Kỵ, có thể nhận ra những gì đã xảy ra? Trong thực tế thì chỉ có
một cuộc cãi lộn giữa hai đứa trẻ trong một chốc tình cờ gặp nhau.
Nhưng trong trí nhớ của Hân Ly câu chuyện ấy biến thành một thiên tình
sử đẫm nước mắt. Cũng một sự kiện ấy nhưng tùy nhân vật, người ta có
thể có nhiều chuyện khác nhau, và ngược lại những chuyện tưởng là khác
nhau sau cùng chỉ là những mặt khác nhau của một chuyện duy nhất. Cái
khéo của Kim Dung là bao giờ cũng trình bày những biến cố từ quan điểm
đặc biệt của một nhân vật. Người đọc nhìn bằng cái nhìn của nhân vật,
không biết gì hơn nhân vật và lẽ dĩ nhiên sẽ tham dự vào cuộc phiêu lưu
của nhân vật như nhân vật. Sự tham dự ấy cho truyện một sức hấp dẫn cảm
gia tăng. Nhưng nếu có sự tham dự ấy thì không những tại chủ quan đã
được trả lại cho nhân vật để người đọc có thể cùng nhân vật đồng hóa,
nghĩa là có cùng một ý nghĩ, một tình cảm, một xúc động, mà ngược lại
thì những xúc động, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật cũng là những xúc
động, tình cảm, suy nghĩ mà người đọc, nghĩa là bất cứ một người tầm
thường nào cũng có thể có. Nhân vật võ hiệp của Kim Dung là những nhân
vật đã được nhân loại hóa.
Không những có một thân thể, họ còn có
một tâm hồn. Hơn một tâm hồn, họ có một tâm sự. Những ý tưởng đại cương
sụp đổ. Và giá trị của nhân vật giờ là ở cái phần độc đáo nhất của nó.
Những khác biệt thi nhau đua nở và người ta ngạc nhiên trước cảnh đa
sắc ấy của nhân loại. Sức sáng tạo tâm lý của Kim Dung, người ta sẽ
công nhận là phi thường và có thể gọi ông là một thứ Shakespeare của
truyện võ hiệp. Suốt mấy cuốn truyện, số nhân vật của ông không sao kể
hết. Không nhân vật nào giống nhân vật nào. Ấy là những tổ hợp phức
tạp, theo những tỷ lệ biến đổi giữa sự thông minh, sự ác độc, sự thùy
mị, sự thanh cao, sự quật cường, sự kiêu ngạo, sự ngây ngô. Một cố gắng
để phân loại những nhân vật của Kim Dung theo cá tính và những đam mê
của họ có lẽ sẽ có ích trong việc tìm hiểu tư tưởng Kim Dung hơn là
những lý luận dài dòng. Nhưng điều quan trọng giờ không phải là nội
dung của sự khác biệt giữa những nhân vật, mà là chính sự khác biệt ấy,
nghĩa là sự giá trị hóa những nhân vật như những cá nhân. Nhân vật Kim
Dung có một trọng lực khác thường. Có nhân vật như Hà Túc Đạo chỉ xuất
hiện một lần mà ấn tượng để lại tưởng không thể nào phai. Mà đặc biệt
là đã xuất hiện thì mỗi nhân vật Kim Dung, dù nhỏ tới đâu, khi truyện
kết thúc, người ta cũng biết là nó đã trở nên cái gì. Không những đã
cho nó một tâm hồn, Kim Dung còn cho nó một tiểu sử. Và đôi khi tiểu sử
ấy sẽ giải thích tâm hồn của nhân vật như những tai biến trong đời Tạ
Tốn sẽ giúp người ta hiểu sự tàn bạo của ông. Sự khác biệt mà thoạt
tiên Kim Dung xác định trong nhân vật của ông như một điều huyền bí sau
cùng ông cho người ta thấy rằng nó không phải là không có nguyên do. Và
đào sự khác biệt ấy sâu hơn một tí, cái gì người ta gặp cũng chỉ là một
người như tất cả mọi người; không giống ai, nhưng, như bất cứ ai, một
nửa do mình tạo ra, một nửa do cuộc đời làm thành, nói tóm lại, một cá
nhân. Nhân vật cổ điển cũng có những đặc tính để người ta phân biệt họ
lẫn nhau. Hơn thế nữa, những đặc tính ấy được phóng đại một cách quá
đáng. Làm thế nào thì nó cũng chỉ có một tính cách ngoại tại. Trong căn
bản, nhân vật vẫn chỉ là tương thân cho những ý tưởng. Nhưng nốt ruồi
đỏ trên mép A Châu, khuôn mặt chữ điền của Vọ Kỵ, dáng đi cục mịch của
Quách Tĩnh, những chi tiết kín đáo ấy, trái lại, không để tách nhân vật
ra khỏi cái nhân loại thường ngày mà để mang họ lại gần người ta hơn. Ý
nghĩa của chúng là câu chuyện giờ không xảy ra giữa những thiên thần và
ác quỉ mà giữa người và người, không phải những nhân vật nhưng là những
cá nhân – nghĩa là những người, giống bất cứ người nào người ta có thể
gặp ngoài đường, chỉ có một trên đời và không ai có thể thay thế.
Nhưng nhân vật Kim Dung như chỉ xác định
sự khác biệt của họ để trở về cái vô danh của tất cả mọi người. Sự kín
đáo ấy, trên bộ mặt, ngôn ngữ, cử chỉ, người ta lại thấy trong tên họ.
Truyện võ hiệp cổ điển thường cho nhân vật những cái tên thật kêu,
thoạt nghe tưởng họ đều là thần tiên, ma quái. Nhưng Quách Tĩnh, Dương
Quá, Vô Kỵ, những tên ấy có gợi gì cho người ta hơn là nhân loại tầm
thường? Có khi Kim Dung lại cố ý tìm cho nhân vật những cái tên thật
xấu như Vô Phúc, Vô Lộc, Vô Thọ. Xét trên phương diện ấy thì truyện ông
thực là những phản anh hùng và chúng mở đường cho sự đột nhập của cái
nôm na vào cái trời tưởng [?] của truyện võ hiệp cổ điển. Cái tên sang
trọng nhất trong Kim Dung là Vương Ngọc Yến. Nhưng người ta nhớ rằng
Đoàn Dự đã coi nó như khuyết điểm duy nhất trong con người thần tiên
ấy, và chàng chỉ tiếc sao người ta không gọi nàng một cách mộc mạc là A
Bích, A Tỷ, A Châu… Nói tóm lại, sau khi đã xác định sự khác biệt của
cá nhân chống cái trừu tượng của những nhãn hiệu xã hội, Kim Dung, để
chống cái lãng mạn của sự khác biệt, lại xác định sự khác biệt ấy như
một sự tầm thường và tìm cách giá trị hóa cái tầm thường, cái nôm na,
cái vô danh. Ấy là giai đoạn thứ hai trong cái biến trình quen thuộc
của mọi thứ văn học trưởng giả.
Nhân vật được nhân loại hóa, và, như
người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng
hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta
kể truyện theo quan điểm của Chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những
truyện ấy chỉ có Chính nghĩa là có thực, chứ Tà đạo chỉ có như một đồ
phụ thuộc, một thứ ký sinh, một bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của
Chính nghĩa. Nhưng khi Tà và Chính không còn minh định thì lẽ dĩ nhiên
không có quan điểm nào được coi là ưu tiên. Quan điểm tốt nhất là quan
điểm người đọc có thể đồng hóa với một cách dễ dàng nhất. Mà người đọc,
nhất là người đọc truyện võ hiệp thường không có máu anh hùng. Cho nên
người anh hùng Kim Dung cũng không còn gì của những thiên thần giáng
thế để ra oai và tác phúc nữa mà là một người, như thường thấy, đầy
thiện chí, lương thiện, và ngu đốt bị lôi vào những xung đột mà chàng
không thể hiểu lý do. Làm thế nào một Dư Đại Nham có thể hiểu tại sao
người ta có thể giết nhau vì một võ công kỳ thư? Người anh hùng của Kim
Dung trước hết là một người xa lạ với võ lâm và những qui luật của nó.
Xét những cách mở đầu của truyện ông thì người ta thấy ngay rằng phiêu
lưu thường đến cho họ bất ngờ. Giữa một ngày đẹp trời, khi người ta
nghĩ rằng cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết và người ta chỉ có việc
tiếp tục cuộc sống đã thành nếp từ trước đến giờ, thì tất cả xảy ra.
Tất cả xảy ra khi, dưới bầu trời mưa tuyết êm đềm, Dương và Quách hai
nhà đang ngồi uống rượu, tính chuyện vợ đẻ và ước định tương lai của
con; khi Quách Tường thơ thẩn ngao du bên bờ núi Thiếu Thất; khi trên
núi Võ Đương người ta tưng bừng sửa soạn như thường lệ sinh nhật của
Trương Tam Phong. Truyện võ hiệp cổ điển thường bắt đầu, khi trong cái
lâm ly của đêm khuya, cảnh vắng, gió khóc từng cơn; khi giữa cái ồn ào
của những đô thị là chỗ những anh hùng tứ chiếng đến tìm nhau kiếm
chuyện, nhưng bao giờ cũng là trong không khí và môi trường của phiêu
lưu. Phiêu lưu trong Kim Dung xuất hiện như một điểm bất tường giữa cái
trưởng giả của cuộc sống thanh bình và có ngăn nắp. Võ Đương Thất Hiệp
là những người cuối cùng còn muốn tiếp tục truyền thống của người anh
hùng thế thiên hành đạo. Nhưng ở một thời Thiên đạo đã suy, can thiệp
vào những xung đột của giang hồ chỉ mang lại cho họ phiền lụy, tai họa
và những thù oán không đâu. Có khi họ không tìm đến người ta mà người
ta cũng đến họ gây sự. Mới đặt chân đến Trung Nguyên thì vợ chồng
Trương Thúy Sơn đã bị võ lâm đuổi theo chận đường, tróc nã. Vô Kỵ có
làm gì ai đâu mà ai cũng muốn hại? Nếu ở lại Băng Hỏa Đảo thì đâu xảy
ra chuyện gia đình tan nát, để kẻ bị bức tử và người thì lưu vong! Cho
nên người anh hùng Kim Dung sẽ đầy nghi kỵ với những chuyện của võ lâm
mà đôi khi còn coi võ học như độc vật. Một Đoàn Dự bỏ nhà đi để khỏi
phải học võ. Nhưng sự mai mỉa là chính con người ngoài cuộc ấy giờ
người ta muốn lôi vào cuộc; chính con người phản anh hùng ấy người ta
muốn bắt làm anh hùng; chính con người vô tội ấy người ta bắt phải
trình những minh chứng về sự vô tội của mình. Ôi! Cuộc đời sao mà đẹp
trên Băng Hỏa Đảo với một con vượn lông đỏ! Nhưng không bao giờ, không
bao giờ Kiều Phong sẽ được trở về Nhạn Môn Quan cùng A Châu chăn cừu.
(còn tiếp)
Ghi chú:
Đọc "chuyện Tầu", chúng ta nhận thấy,
vua Càn Long thường xuất hiện, không phải là người Mãn Thanh, mà Trung
Hoa, và là con một vị thượng thư trong triều. Không phải ông này mèo
chuột gì với hoàng hậu ngoại nhân, mà bị tráo con, giống như trong
tuồng Ly Miêu Hoán Chúa, Bao Công tra án Quách Hòe. Vẫn theo truyền
thuyết, khi thấy cậu tí nhau của mình, sau khi theo mẹ vào cung thăm
hoàng hậu trở về, bỗng biến thành một cô tí nhau, vị thượng thư bắt cả
nhà câm như hến, rồi kiếm cách từ quan.
Để giải thích "hội chứng" Càn Long là
người Tầu, người ta cho rằng, những ông "con trời" ở Trung nguyên, bị
"rợ" Mãn Thanh đô hộ ròng rã mười ba đời (Thanh Cung mười ba triều) đã
bịa đặt ra như vậy, cho đỡ đau. (Liệu có thể gọi, hội chứng Rambo?).
Kim Dung cũng đã viện tới hội chứng
trên, khi cho Trần Gia Cách, thủ lãnh Hội Hồng Hoa, và vua nhà Thanh,
là hai anh em ruột; nhưng "tiến bộ" hơn, ông "tưởng tượng", rằng, cả
hai đã đồng ý, phản Thanh phục Minh chỉ làm tốn xương máu, và nếu một
ông vua Mãn Thanh gốc Tầu mà làm được những điều tốt lành cho cả hai
dân tộc, thì còn gì đáng quí cho bằng, và ông cho anh em Hội Hồng Hoa
rút về xứ Hồi Cương, vui thú điền viên, lo "chăn cừu", nhường Trung
Nguyên cho Mãn Thanh.
Đấy là nói về mặt "chính trị phải
đạo".
Về mặt văn chương, tuyệt vời nhất,
với riêng tôi, là đoạn, do hai người giống hệt nhau, nên Hồ Phỉ đã nhờ
thủ lãnh Hồng Hoa Hội đóng vai kẻ bạc tình Phúc An Khang (trong Lãnh
Nguyệt Bảo Đao tiếp theo Hồng Hoa Hội), để an ủi một người đàn bà si
tình và bị bạc tình đang hấp hối...
Nhưng phải đợi đến khi Kiều Phong
xuất hiện, người ta mới nhận ra tính sáng tạo nhân vật và cùng với nó
là "tuyệt bi" của chưởng Kim Dung. Tuyệt bi theo nghĩa của triết gia
người Pháp Gaston Bachelard, và của Wolf, nữ văn sĩ người Đức (thuộc
Đông Đức cũ), qua những dòng trích dẫn ở trên:
Bởi vì máu là chẳng bao giờ hạnh phúc.
Còn kẻ thắng là thế gian còn mịt mùng.
Người hùng độc nhất có thể có được,
là một phản-anh hùng.
Chúng ta chẳng có một cơ may nào, ở
cái thời cần người hùng.
***
Người hùng Kiều Phong là một sáng tạo
tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim Dung, theo nghĩa: đây là người
hùng mang tính chủng tộc thay thế người hùng mang tính giai cấp, tức
những A Q, Chí Phèo. Theo nghĩa đó, W. Faulkner, qua một bài điểm sách
trên tờ Người Kinh Tế, được coi là nhà văn "hậu hiện đại", trước khi có
thuật ngữ này.
Lẽ dĩ nhiên, chuyện dòng dõi, huyết
thống đã bắt đầu từ khi có loài người, và không phải cứ cùng một huyết
thống là "người ta" thương yêu nhau, là chúng ông thương chúng mày...
theo kiểu suy nghĩ: một giọt máu đào hơn ao nước lã. Hoặc Miền Nam ở
trong trái tim của tôi. Nhưng phải đợi đến sự bùng nổ cơn thèm khát của
cải (thí dụ ngà voi, nô lệ...), thị trường, và tiếp đó là chủ nghĩa
thực dân, nó mới thực sự trở nên nhức nhối, nhất là khi được "văn
chương" nhòm ngó tới, qua những tác phẩm thí dụ như Trái Tim Của Bóng
Đen, của Joseph Conrad. [Nhân tiện, đề nghị một đề tài
tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một anh chàng Bắc Kỳ
theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của
bóng đ en: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng
khám phá ra Hà Nội. Đừng tưởng đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết
gia ở hải ngoại sử dụng " ẩn dụ" này rồi, một coi cuộc
Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm lăng Việt Nam của
Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một miền
đất, và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn...]
Nhà văn Nam Phi Coetzee, trong bài
viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa: Những cuốn tiểu thuyết của) Blood, Taint,
Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White
Writing), đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết
đề cập tới xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng
Anh này. Máu phân biệt dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác
Afrikaner, Hottentot khác Xhosa, Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói
tới sắc dân. Nhưng ‘máu" ở trong những tác phẩm của Millin không giản
dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc dân, mà đây là một "thực thể",
một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng, nóng hoặc lạnh, sạch hoặc
dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua đứa con... Một thi học về
máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu dậy trí tưởng tượng
của bà.
Trong một dịp khác, người viết sẽ trở
lại với nhà văn Nam Phi này, bởi vì, như Coetzee nhận định, tuy hiện
nay gần như bị bỏ qua, bởi vì cách chữa trị căn bệnh sắc dân của bà có
vẻ lỗi thời, và còn gây phẫn nộ, nhưng chính sự quan tâm của bà khi
xoáy vào vấn đề sắc dân ít ra cũng cho thấy, đây là một đáp ứng cho
những vấn đề mang tính hình thức mà một nhà văn thuộc địa như bà đã gặp
phải, khi đụng tới tiểu thuyết: một bi kịch về máu (a tragedy of blood,
Coetzee viết), lay động con người trước bi kịch, đặc biệt là khêu dậy
những xúc cảm ngỡ ngàng, kinh sợ, mang tính tôn giáo, trước huyền bí.
Đề tài đề nghị: Cuộc chiến Việt Nam: Bi kịch về máu.
***
(Đoạn viết sau đây, "Mơ Trung Hoa",
viết về phim võ hiệp "Ngọa Hổ Tàng Long" và nhân đó, bàn thêm về nghệ
thuật Kim Dung.)
Phim võ hiệp Ngọa Hổ Tàng Long đề
nghị 10 Oscars, được 4, qua tin tức báo chí. Theo Joan Acocella, tác
giả bài viết trên báo Nguời Nữu Ước số tháng Ba 26, 2001, nếu có thêm
một giải thưởng đạo diễn chuyển động (mouvement direction), thì phải là
11, bởi vì những màn đánh kiếm trong phim thật tuyệt vời và là cốt lõi
của phim và Yuen Wo Ping là người sáng tạo ra "cuộc khiêu vũ của cái
đẹp trong lúc chuyển động" này.
Ông người Hongkong, thuộc một gia đình chuyên về phim võ hiệp. Bốn
người con trai theo nghề của bố (một, là đạo diễn những màn đấm đá
trong cuốn phim mới "Những thiên thần của Charlie"). Yuen khởi nghiệp
bằng vai đóng thế tài tử chính ở những màn nguy hiểm, trong phim của
bố.
Ông luôn luôn đóng vai kẻ [phải]
chết. Ông nói với tờ Guardian (London): "Về chuyện té xuống chết, tôi
là số một."
Năm nay 55 tuổi, đạo diễn những màn đấm đá trong khi bay nhẩy (fight
choregrapher) trên 50 phim. Ông đã biến Jackie Chan thành một tay quyền
cước tiếu lâm, để đối lại với một Lý Tiểu Long lúc nào cũng đăm chiêu.
Hai năm trước đây, làm choregrapher cho phim The Matrix, ông đưa xảo
thuật dây (wirework) vào trong phim này. Những diễn viên có thể bay
nhẩy nhào lộn trên không, nhờ buộc vào những sợi dây (khi in phim, họ
xóa những sợi dây đi).
Đây là một xảo thuật mà người viếti,
khi còn là con nít đã từng say mê những nhân vật như Phàn Lê Huê đằng
vân giá vũ, di sơn đảo hải… trong các tuồng Tầu, hoặc cải lương hồ
quảng…
Nhưng cho dù xóa những sợi dây, thì
hiệu quả của chúng vẫn còn. Khán giả tinh ý vẫn có thể nhận ra: khi
diễn viên đột nhiên bị giật lên cao, theo nguyên lý quán tính, cơ thể
của họ cưỡng lại; cũng vậy, khi họ đặt chân xuống đất. Theo tác giả bài
viết trên Người Nữu Ước, xảo thuật dây đối nghịch với nghệ thuật khiêu
vũ: một nghệ thuật của sự dung hoà (negociation) với sức hút của trái
đất tạo nên sức nặng của cơ thể, trong khi với xảo thuật, chỉ cần xóa
bỏ hình ảnh những sợi dây. Trong môn vũ ba lê, cú nhẩy của diễn viên
làm cho khán giả ngỡ ngàng, lý do là diễn viên nhẩy lên cứ như không,
như thể không phải vận dụng một sức lực nào hết, giống như thường nhân
chúng ta thảnh thơi dạo chơi trên mặt đất; trong khi bất cứ một chuyển
động nhẩy vọt nào, đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi nguyên lý quán tính.
Nói nôm na, trái đất trì kéo người diễn viên, trong khi người đó phải
giải tỏa sức trì kéo này, mà vẫn bay nhẩy một cách thật tự nhiên.
Người Trung Hoa chia ra nhiều thứ tình. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
gần như bao gồm đủ loại tình "truyền thống" đó: tình si, tình hận, tình
hiệp… Ngọa Hổ Tàng Long, một phim võ hiệp, chắc chắn rồi, nhưng chắc
chắc hơn nữa, đây là một phim tình hiệp. Cái màn "long tranh hổ đấu"
giữa vị sư muội của đại hiệp Mu Bai là Shu Lien với Jen, nữ đệ tử của
Hồ Ly, theo thiển ý của người viết, là do ghen tuông mà ra. Và sở dĩ,
tới phút hấp hối vị đại hiệp mới tỏ tình với sư muội, là cũng do hối
hận, vì đã để lòng mình ngả nghiêng, trước "tài sắc vẹn toàn" của Jen,
qua những màn đấu "giao hữu" trên những ngọn cây xanh, giữa ông và
người nữ đệ tử xinh đẹp của Hồ Ly (nên nhớ, cuộc tình giữa hai người đã
không thể thực hiện, vì người yêu trước của Shu Liên là bạn của Mu Bai).
Như đạo diễn Ang Lee của Ngọa Hổ Tàng
Long nói, "điều tôi muốn, là một giấc mơ về Trung Hoa", và ông đã đạt
được. Nhưng nếu Ngọa Hổ Tàng Long là giấc mơ Trung Hoa, thì màn "khiêu
vũ bằng võ nghệ" những ngọn tre, chính là giấc mơ của võ hiệp
(kung-fu): Mu Bai, vị đại hiệp, trong lòng thì như dông như bão, nhưng
dáng đứng trên ngọn tre lại "trầm mặc" như dáng đứng của một ông Phật;
còn Jen, nữ đệ tử của Hồ Ly, bay lui về phía sau, trong cái dáng tần
ngần ngơ ngẩn thật ướt át (erotic trance).
Joan Acocella, tác giả bài viết
"(Dancing): Jump, Fly, and Wail", trên tờ Người Nữu Ước, xem phim, nhận
ra chất Đạo (Tao) ở trong đó. Nhưng với độc giả say mê Kim Dung, họ
nhận ra điều này liền, vì đây đúng là màn đấu giữa hai đệ tử của môn
phái Tiêu Dao.
Joan Acocella cho rằng trong những phim Hongkong, nam hoặc nữ đều
"nghiêm túc" như nhau, khi nói tới "kiếm đạo". Theo Kim Dung, kiếm đứng
đầu trong mọi thứ võ khí (độc giả Kim Dung chắc khó có thể quên, lần
đầu tiên Viên Thừa Chí được quỳ trước bức tượng vị tổ sư của môn phái,
và sau đó, chứng kiến sư phụ Bát Thủ Tiên Vượn Mục Nhân Thanh, dùng hỗn
nguyên công phóng kiếm vào thân cây ngập tới tận chuôi, trên đỉnh Hoa
Sơn, trong Bích Huyết Kiếm. Trong Ngọa Hổ Tàng Long, khi Jen hỏi nhan
sắc sầu muộn Shu Lien, 'Chị cũng là một kiếm sĩ", nàng trả lời, "Đúng
vậy, nhưng tôi thích đao hơn kiếm"; người xem phim tự hỏi tại sao, và
sẽ thấy câu trả lời sau đó: vì kiếm cũng như trái tim vị đại hiệp đã
thuộc về cô em rồi!
Nói rõ hơn, Jen khi đánh cắp thanh
kiếm là đã đánh cắp luôn trái tim người cầm kiếm!
Mu Bai trao tặng thanh kiếm, là để
làm mồi nhử Hồ Ly, nhưng Hồ Ly không mắc bẫy, đệ tử của bà đánh cắp
thanh kiếm chỉ vì "nghịch tinh"; theo tôi, điều này cho thấy, bố cục
của phim Ngọa Hổ Tàng Long rất lỏng lẻo. Ang Lee chưa học được Kim Dung
ở những tình tiết lắt léo, tính nghẹt thở, và kỹ thuật "rắn nằm trong
cỏ" của Đông Phương. Tôi lấy thí dụ: Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, khi Nhạc
Linh San giả làm cô gái bán rượu, và là nguyên nhân khiến Lâm Bình Chi
giết người, gây họa cho toàn gia đình… phải mãi sau đó, chúng ta mới
hiểu được, từ chính miệng Lâm Bình Chi, khi biết rõ bộ mặt thật của
quân tử kiếm Nhạc Bất Quần: tất cả là do Tịch Tà Kiếm Phổ mà ra. Cái
chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình nghiệt, c
ủa Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh
Hồ Xung chiếu cố tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của
những bài hát của những cô gái hái chè vùng Phúc Kiến, quê hương nhà
chồng trong trí tưởng của nàng.
Joan Acocella cũng bị quyến rũ bởi tiếng nhạc trong phim Ngọa Hổ Tàng
Long. Nó làm ông nhớ tới những phim âm nhạc tuyệt vời của Tây phương
thập niên 1930. Vẫn theo tác giả, phim âm nhạc tuyệt vời sau cùng của
Tây phương là "West Side Story", làm năm 1961. Nhưng những độc giả của
Kim Dung chắc chắc một điều, Ngọa Hổ Tàng Long chưa đạt tới tinh thần
của bản đàn do hai cao thủ chính tà hợp soạn, ở trong Tiếu Ngạo Giang
Hồ. Ang Lee, nhà đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng Long, làm sao không đọc Kim
Dung, và làm sao quên được cái cảnh tượng Phí Bân truy đuổi tận sát hai
cao thủ chính tà là Lưu Chính Phong và Khúc Dương trưởng lão, đồng tác
giả bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, và rồi chết dưới lưỡi kiếm của Tiêu Tương
Dạ Vũ. Kiếm từ hồ cầm theo tiếng đàn bật ra, kiếm tới đâu, tiếng đàn
theo tới đó, khi kiếm trở lại với đàn, cũng là lúc Phí Bân biết mình
trúng tử thương, nhẩy lên cao, dồn hết nội lực theo tia máu vọt ra theo
vết kiếm, trông thật ghê rợn, kỳ bí! Joan Acocella đã cảm nhận được
điều này, qua tiếng trống ở trong phim Ngọa Hổ Tàng Long (Drums sound,
adding to the mystery).
Tác giả cũng chú ý tới mầu tre xanh:
một mầu xanh bạn chẳng thể nào tưởng tượng ra nổi, mềm như nhung, dầy
như nêm; trong cõi siêu thực như thế đó nổi lên hai cánh chim trắng là
Jen và Mu Bai…
Đao hơn kiếm hay kiếm hơn đao? Đây cũng là một bài toán hắc búa, theo
tôi, một "đệ tử" của Kim Dung. Trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao, thì đao lại
đứng đầu, với Hồ Gia Đao Pháp. Đây là một tuyệt tác của Kim Dung, nhưng
là một tuyệt tác "hỏng", theo nghĩa còn nhiều sơ hở, cho nên nó là một
tuyệt tác. Chính tác giả cũng đã nhận ra những sơ hở này, và đã tìm
cách viết lại tác phẩm (lần đầu xuất hiện với cái tên Thần Đao Hồ Đại
Đởm). Kim Dung là bậc thầy, trong quan niệm "cái đẹp thì tuyệt hảo, do
bất toàn". Lục Mạch Thần Kiếm: tuyệt hảo, nhưng lúc sử dụng được, lúc
không. Dịch Cân Kinh: tuyệt hảo, nhưng "cố tình học" là không được, nếu
chối đây đẩy, nó lại bám chặt lấy bạn, gỡ không ra! Bẩy mươi hai tuyệt
kỹ Thiếu Lâm, chỉ Đạt Ma tổ sư là kiêm đủ…
Nhìn theo quan niệm trên, Ngọa Hổ Tàng Long đúng là một giấc mơ Trung
Hoa đã trở thành hiện thực.
***
Rắn nằm trong cỏ. Sóng sau đè sóng
trước. Cái nên thơ của cơ cấu luận... Michel Foucault giải thích: Không
thể không có tiêu ký [để chỉ ra] sự tương đồng [giữa những sự vật]. Thế
giới tri âm tri kỷ là đã được tiêu ký. (Il n’y a pas de ressemblance
sans signature. Le monde du similaire ne peut être qu’un monde marqué.
"Chữ và Vật", chương "Những tiêu ký", "Les Signatures".) Những độc giả
tri kỷ của Kim Dung chắc là tâm đắc với những khám phá, thí dụ như: Cái
chết của A Châu làm nảy sinh tình yêu của A Tỷ. Nhưng trước đó, Kim
Dung đã "gài"một câu, tuy thật hợp với tình tình của A Tỷ, nhưng lại
nói lên một sự thực, hay là nguồn gốc của người hùng phản-anh hùng, của
nhân vật mang tính máu huyết: Người ngượm gì mà đến tên họ của mình
cũng không biết! (Kiều Phong không biết mình họ Kiều hay họ Tiêu, không
biết mình là người Hán hay Khiết Đan).
Tất cả xảy ra như thể một người chôn
một kho tàng, rồi đánh dấu để sau này có thể kiếm thấy. (Foucault trích
dẫn Paracelse).
Đâu phải tự nhiên, Hân Tố Tố giả dạng
Trương Thúy Sơn. Đâu phải tự nhiên, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ
Hiền Trang, chỉ vì một đứa con gái bá vơ, người hầu của Mộ Dung Phục.
Một nhà thơ đàn anh, khi còn Sài Gòn
còn gọi là Sài Gòn, nhân một buổi sáng ngồi bàn cà phê Cái Chùa, tình
cờ nhắc tới Dostoevsky, nhân đó leo qua bi hùng kịch Hy Lạp, đã đưa ra
nhận xét: bi hùng kịch Hy Lạp chưa tới đỉnh cao như chuyện Tầu, thí dụ
như đoạn Tống Tửu Đơn Hùng Tín ở trong Thuyết Đường. Một đám huynh đệ
uống máu, thề đồng sinh đồng tử, vậy mà khơi khơi mời bạn nhậu, rồi
khơi khơi đưa bạn ra chặt đầu, chẳng thèm diễn tuồng xử lý nội bộ!
Theo tôi, đoạn Kiều Phong uống rượu
cùng bè bạn trước khi mở một trường loạn sát, là đã được "tiêu ký" từ
Tống Tửu Đơn Hùng Tín.