Ghi
|
Xuân Diệu: Phượng Hoàng đậu
chốn cheo leo...
Ẩn dụ, ám dụ, hoán
dụ... là
những hình tượng (figures) tu từ. Nói nôm na, chúng đều là chuyện ví
von, nói
gần nói xa, nói bóng nói gió, mơ mơ hồ hồ, về một sự kiện, một sự thật
nào đó -
con người chưa biết, hoặc là biết nhưng lại không thể nói thẳng ra.
Không có tu
từ là không có văn chương.
Con
người, và nhân loại, ở
vào thời trẻ thơ của nó, ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Đây là
thời đại
hoàng kim của những "nhà văn không văn chương" (écrivain sans
littérature). Nhưng dần dà (già), trở nên trơ ra, bị "lão hóa", hết
còn ngạc nhiên vì chuyện "tự nhiên". Văn chương bắt đầu bằng những từ
"hình như", "như là", "giống như"...
Nabokov,
nhà văn Nga, dùng
một ẩn dụ để diễn tả cùng một sự thực. Trong bài "Độc giả tốt và nhà
văn
tốt" ("Bon lecteurs et bon écrivains", trong Văn Chương I,
Littérature I, nhà xb Gallimard, tủ sách essais, loại bỏ túi), ông
viết:
"Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ chạy trối chết từ
một
cánh rừng ra, và chạy và la "chó sói, chó sói", và một con chó sói
bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn "chó sói, chó
sói", và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập đi
lập
lại một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc,
nhưng điều
quan trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang
sách, có
một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn
chương."
Vẫn
theo ông, trong bài đã
dẫn: "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một câu
chuyện
là "chuyện thật, lịch sử thật", là làm "nhục" cả nghệ thuật
lẫn sự thực." Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực
xã
hội chủ nghĩa... phiền một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ
nghĩa,
vốn luôn luôn đánh lừa. Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân
của bà,
thay vì trung thành với chủ nghĩa hiện thực!"
*
Tu
từ là con dao hai lưỡi.
Nước đẩy thuyền đi, nhưng nước cũng làm lật thuyền; đây cũng là nguyên
lý văn
chương: nó chết, khi bội thực tu từ.
Nói
nôm na: thùng rỗng kêu to.
Theo
ý nghĩa đó, những câu
thơ "thần" thường rất đỗi tự nhiên như... một lời nói. Thơ là lời
nói, là bề mặt cuộc sống, theo nghĩa, những băn khoăn, thắc mắc siêu
hình,
"gây ám ảnh" đều phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói để mà
quên đi, thay vì nhớ hoài, bởi vì có nhớ cũng không thể được. (Ôi, anh
đâu có
nhớ những lời em nói khi từ biệt, và sau này anh bịa đặt, tưởng tượng
ra chúng,
tưởng tượng ra em...).
Thơ,
là để quên đi, chứ không
phải để nhớ mãi. Chính vì quên, nên anh tưởng tượng ra em. Chính vì
quên mà
chúng ta đọc. (It is precisely because I forget that I read. Roland
Barthes: Reading,
Forgetting; S/Z;
bản dịch tiếng Anh).
*
Một
hình ảnh thơ thuộc loại
quí hiếm thường không viện dẫn đến những hình thức tu từ. Gaston
Bachelard coi
thi ảnh, "image poétique" khác với ẩn dụ thơ (métaphore poétique), là
vậy. Khi dùng bóng hồng để chỉ giai nhân, cánh buồm để chỉ con thuyền,
tang
thương dâu bể... chúng là những ẩn dụ thơ. Nhưng những câu văn như sau
đây
chẳng hạn, là những hình ảnh thơ; chúng không cần đến tri thức, không
viện dẫn
tu từ:
"Cây
cầu kêu dưới bánh
xe với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân cầu trong buổi chiều ngất ngư
chưa muốn
ngã". (Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa)
"Trên
chòi canh, hai
con
mắt nguời lính gác tối đen nhìn qua núi". (TTT, sđd).
Quá
chút nữa, ẩn dụ trở thành
viễn dụ (vision): con sói trong mê cung của Kafka ngày càng nhập một
với con
sói của cuộc đời.
Theo
nghĩa đó, chúng ta có
thể hiểu được tại sao Xuân Diệu coi việc làm thơ giống như chuyện cháy
nhà. Và
đây là một viễn dụ, theo tôi.
*
Trong
"Chân Dung và Đối
Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu:
"Còn
nhớ dạo ông tặng
tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục. Khi gặp ông, tôi
thú
thực:
-
Trong này có mấy bài thơ tứ
tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào, thuộc thơ, rồi lại quên mất tác
giả, lại
tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường mới chết chứ!
Xuân
Diệu cười, tỏ ra rất tâm
đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng chân thật:
-
Cháu rất thích tập thơ này.
Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở, chú
ạ.
-
Ơ, cái cậu này hay chửa? -
Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây là tuyển thơ à? Còn phải
sàng sảy
chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn bây giờ có cái gì, cứ phải
quăng
ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt, cái váy đụp gì thì cũng
vứt ra,
rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà cậu còn ngồi nhặt
nhạnh của
nả hả?
Tôi
im tịt chẳng nói được gì.
Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao mình lại ngu thế nhỉ. Ai lại
chọn lọc
của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc thoát ra khỏi cái mê cung của
Xuân
Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới sực tỉnh, mới nhận ra một
điều
quá ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai việc rất khác nhau."
*
Như
trên đã nói, văn chương
bắt đầu bằng những từ: "là" (Em là gió, là mây...), "hình
như" (là tình yêu), "như" ("sáng nay Nga như một con mèo
ngái ngủ...", "buổi sáng sớm tinh sương như một vết thương mới lên da
non"...). Tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, thậm xưng, cường điệu....) đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Chúng ta tự hỏi: tại sao Xuân Diệu
lại so
sánh chuyện cháy nhà với chuyện làm thơ? Và cảm giác "mụ lị" của Trần
Đăng Khoa, và thái độ "phản tỉnh" (tự kiểm thảo?) sau đó, có thể hiểu
như thế nào?
Liệu
có thể có một nối kết
giữa con sói ở góc rừng, nỗi sợ của cậu bé, chuyện cháy nhà (chiến
tranh, B.52,
chủ nghĩa toàn trị sẽ phần thư tất cả, chỉ để lại những câu vè...), nỗi
sợ của
Xuân Diệu, con sói giả tưởng của ông...
Cả hai nhà thơ, Xuân Diệu và
Trần Đăng
Khoa đều nhận ra một sự thực: có những câu thơ của Xuân Diệu đã vươn
tới cõi
thơ Đường, đã trở thành tự nhiên như cây cối, như sỏi đá, người đọc mê
luôn, và
chẳng cần biết tác giả là ai. Nhưng để cho những câu thơ tồn tại, phải
quăng
vào đó, một mớ váy đụp... Như một nhà thơ, Xuân Diệu biết rõ, thời gian
qua đi,
chủ nghĩa toàn trị sẽ qua đi, sẽ bị huỷ diệt, tới lúc đó, nàng công
chúa sau
giấc ngủ dài, rũ khỏi lớp váy đụp, vươn vai tỉnh dậy...
Là
thi sĩ, làm sao ông không
biết bài ca dao vịnh Phượng Hoàng:
Phượng
hoàng đậu chốn cheo
leo,
Sa
cơ thất thế phải theo đàn
gà.
Bao
giờ mưa thuận gió hòa,
Rũ
lông, rũ cánh, lại ra
phượng hoàng.
(Tôi
viết lại theo trí nhớ).
Chen Yun (Trần Vân), kinh tế gia, thuộc
đảng bộ Bắc Kinh, trước khi mất vào tháng Tư, 1995, đã so sánh chính
sách kinh
tế Thị Trường Mới (New Market economy) của Trung Quốc như một con chim
tư bản
lớn lên ở bên trong cái chuồng xã hội chủ nghĩa (a capitalist bird
growing up
inside a socialist cage).
Liệu đã tới lúc con phượng hoàng thơ vỗ cánh
thoát ra
khỏi cái chuồng giam giữ nó?
Note: Loạt bài về TDK, Gấu viết theo lời yêu cầu của một người bạn, cho
tờ Cánh Én. Một số, sau đăng trên Việt Mercury. NQT
Bài
ca dao này, Gấu nghe lần
đầu, trước khi ông cụ Gấu ra đi, và đi luôn không về, vào năm 1946, khi
Gấu mới
mấy tuổi. Không hiểu sao, bao nhiêu năm sau, nó cứ luẩn quẩn với Gấu
mãi, và cùng với nó, là câu hỏi:
Tại
sao ông cụ mình đã biết
như thế, mà vưỡn không chịu 'theo đàn gà', để cho chúng làm thịt?
Hai anh em Gấu, tại
miếng đất
ngày nào.
Căn
nhà, thằng em xây cất
lại, "lui" ra phía trước, so với căn nhà cũ, đã phá bỏ, vì quá mục nát.
Chiếc xe
thuê, từ trên đê đi thẳng vô nhà, theo hướng đồng làng. Đó là lần
trở lại quê nhà đầu tiên, vào năm
2001.
Bạn đọc để ý, tay
trái Gấu lòng khòng, cong cong, là do xơi mìn VC tại
nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bờ sông Sài Gòn!
Căn nhà cũ, có lần
Gấu suýt chết, đã kể lại trong chuyến
Vượt biển tại Vàm Láng.
*
Đêm 23 tháng Chạp, năm 1985,
cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa
chìm gần
ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu thanh niên
đứng kế bên
lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới
bất cứ
lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức ông
già, lảm
nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện khác, ông già
vẫn
nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh niên,
mặn, nóng
hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con
thuyền
chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót
ngọn
sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy,
tám tuổi, thấy bạn cùng
lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm được. Và cứ thế
lao
xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp sử chìm
ngỉm, bèn
nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi
đã hoàn hồn, đứng ngơ
ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai nạn. Như thể, cậu
đã trải
qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó đã từng xẩy
ra, trong
một giấc mơ, có thể.
Cậu
có cảm tưởng, anh bạn lớn
tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và anh ta sẽ can
thiệp, đúng lúc.
Rõ
rệt nhất là lần chơi bắn
bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn, chiếm cả một góc
gian nhà
chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên hai tấm mễ gỗ,
hay ngựa
gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi những cơn lũ
lụt, và
những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào cũng lo trữ lúa.
Hòn
bi lăn tít vào gầm hòm.
Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá mục, cùng sập
xuống.
Như
sống lại giấc mơ, cậu
xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc mễ chia giùm
sức
nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy vắt cơm
để thu
hồi lại.
Lớn
lên, cậu mất dần khả năng
kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp dí - có một điều
gì liên
can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như
thể gia đình ông bị trù
yểm, bởi… nước.
*
Và Thomas kết luận, đâu có gì
là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không
phải
cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang
sách vang
lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
|
|