Thông
Điệp Của Anne Frank
Trong chương
9, và cũng là chương chót Những Di chúc bị Phản bội, Kundera bàn về một
sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề cắt xén, vặn vẹo tác phẩm,
ngay từ khi tác giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở nên thô bạo
hơn, khi họ đã chết rồi.
Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết định tự
trình diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn
bộ âm nhạc của ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky trình
diễn qua vai nhạc trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán vào
nốt nhạc, tuy đã thuộc lòng. Và tính giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!
Kundera tự hỏi tại sao, và ông tìm được câu trả lời, khi nghiên cứu 146
bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest Ansermet (người chế diễu), khởi
sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear fellow, My dear friend, Very
dear, My dear Ernest, rồi bất thình lình: "Paris Oct 14, 1937, Rất vội,
bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một
lý do gì cắt xén Chơi Bài (Jeu de cartes) khi trình diễn... Cá nhân
bạn cảm thấy một vài động tác hơi ngán ngẩm (boring). Về chuyện đó,
tôi chịu thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng khi bạn cố thuyết phục tôi
về vụ "cắt xén"; tôi, người đã trình diễn nó tại Venice, và cũng đã
cho bạn biết về sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi thực sự không
tin khán thính giả của bạn kém thông minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng
bạn có thiện ý, khi muốn co dãn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người
đã từng can đảm chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao hưởng Đàn Gió
(Symphonies of Wind Instruments); khi khăng khăng cho rằng nó phải
thành
công, và công chúng thừa sức để thông cảm! Bởi vậy tôi không để cho
bạn cắn xén "Jeu de cartes". Tôi nghĩ, tốt nhất đừng chơi nó gì hết,
còn hơn là với sự dè dặt! Tôi không còn gì để thêm. Chấm hết!
Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn tha lỗi cho tôi, về
một cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng không cho phép bạn về bất cứ
một cắt xén nào trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của
bạn."
Samuel Beckett có lẽ vô địch, trong nỗ lực bảo vệ nghệ phẩm: ông theo
dõi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và nhiều lần nhẩy lên sàn tập,
để tự tay điều khiển diễn viên. Rồi in cả một
cuốn sách, những ghi chú trình diễn Tàn Cưộc (Endgame). Bạn ông, và
là nhà xuất bản đứng coi thiên hạ trình diễn, nếu cần đưa ra tòa, để
bảo vệ tác phẩm, sau khi ông đã chết.
Kafka gửi bản thảo Hoá Thân tới một tờ báo. Ông chủ, nhà văn Robert
Musil, bằng lòng in, với điều kiện tác giả rút ngắn lại. (Buồn thật,
hai thiên tài văn chương bàn chuyện in ấn, xuất bản tác phẩm văn học!).
Trả lời của Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng như Stravinsky:
Tôi chịu được chuyện bỏ vô thùng rác, nhưng không thể chịu nổi việc in,
mà cắt xén, xẻ thịt nó! Ông không được may
mắn như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này một phần lớn, là do Max
Brod, người theo truyền thuyết, vì nhân loại, đã phản bội di chúc
của Kafka. Theo Kundera, Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa
bạn ra ánh sáng, tạo nên cả một môn học "Kafkology", nhưng chính ông
là người xa lạ nhất với nghệ thuật của Kafka.
Thật dễ dàng khi không vâng lời một người đã chết. Càng dễ dàng hơn,
khi người chết là một nạn nhân của Lò Thiêu Người,
một cô bé, lại là con gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.
Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945, cô ăn mừng lễ
sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1997). Và nếu cô không giữ tập
nhật ký khác thường, qua đó, chúng ta có thể
coi cô là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy,
số phận của cô cũng không quá sức bi đát, như là bây giờ, sau những
khám phá mới nhất về cô.
Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13 tuổi, cô đã cảm thấy quyền
năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống, thật dễ
dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái
nguồn giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó. Người ta
cũng thấy được những tác phẩm chẳng bao giờ có
được đó, sẽ gần gụi với Nadine Gordimer, Nobel văn chương, hơn là
Francois Sagan. Cô bé la lên, vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục
sống, ngay cả sau cái chết của ta!" (I want to go on living even
after my death!)
Ở đây không phải là tình trạng hưng phấn thái quá của
tuổi trẻ. Bằng trực giác cô đã nhận ra, sự lớn lao của nghệ thuật
nghĩa là gì. Và cũng đã nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới
bàn tay của cô, trong những trang nhật ký: một ghi nhận văn học về
những cuộc sống hãi hùng trong hiểm họa thường nhật; một tài liệu
nóng bỏng nhắm thẳng tới tương lai. Vào những tháng cuối cùng, cô miệt
mài rũa gọt, thêm thắt, cắt xén một số đoạn, với hy vọng in nó sau
chiến tranh. Cô gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức,
"căn nhà phía sau", nhưng thường được dịch là "căn nhà phụ bí mật",
và không đúng như ý của cô, qua tác phẩm. Nó liên can đến lịch sử,
tới thực tại, tới sự thực chết người. "Khi tôi viết", cô tâm sự, "tôi
có thể rũ sạch mọi lo toan. Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi sống
lại!" Nhưng cô không thể rũ bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt, của mình.
Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng với chị và mẹ như hàng
triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương trình đã được tính
toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma nhất của
con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt, xóa sạch
khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không một ký hiệu, không một dấu
vết, bất kể loại gì. Lỗi của cô - tội
ác của cô, là người Do thái, và như vậy cô bị xếp vào trong những
kẻ không có quyền được hiện hữu, không còn là một vấn đề người, không
được như một giống dân hạ cấp, ngay cả làm nô lệ cũng không luôn.
Thoát bị đưa vô phòng hơi ngạt, cô chết vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy
rận), một tháng trước khi giải phóng.
Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện của Anne
Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối
bị mất. Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của Anne Frank
trong vòng 50 năm, kể từ khi "Nhật Ký của một Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên
được in ra, đã bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm,
giả mạo, trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng
nhất hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đã bị chối bỏ, một cách thật
thô lỗ. Trong số những người làm giả gồm có những nhà bi kịch, những
ông giám đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và ngay cả,
công chúng, kể luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch
nghệ, trên toàn cõi địa cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã
biến thành một dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực.
Gần như mọi bàn tay đụng vào tập nhật ký, với một thiện ý in nó ra, đều
đã góp phần làm chuyện bậy, đảo ngược lịch sử.
Nhật ký được coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan trọng cần nói,
là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những
vòng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở
nơi tinh thần vô tận của con người". Có một
sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật ký chưa hoàn tất,
hoặc đã được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa
ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan, nơi những người Do thái Hòa-lan bị tống
xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của
Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật",
những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận của chúng
ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất
trong những dòng chữ viết tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn
sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào
đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu).
Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm
Frank, và
tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ
20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ
trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng
về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về
phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài
trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến
di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi
Bergen-Belsen,
chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một
đống rẻ rách.
Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel,
hay Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo
Levi (chỉ nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những
chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng là tự cho phép
mình được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin được! Những
ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể
bị huỷ diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn
của can đảm và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự
thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch,
cái gọi là khả tính can đảm, nó cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh
thần nhân loại, và đây là bản di chúc lâu dài của nó.
"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đã cảnh cáo: ở đây
không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời, chỉ là một mầu u
tối của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank, được kể lại,
rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu
chuộc. Và đó là thông điệp của Anne Frank.
NQT