*

  I

 
Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn

Những ngày sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa, chỗ gặp mặt dễ dàng và quen thuộc của một số bè bạn quen thuộc không còn nữa. Cũng không còn trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn được nữa, lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng, một ly trà đá hoặc trà sữa ở trên mặt bàn, một tờ báo mở rộng che kín khuôn mặt, và có thể, một người bạn, thời gian: buổi chiều khoảng 4, 5 giờ, có thể sớm hơn, 4, 5 giờ, nếu buổi chiều hôm đó là buổi chiều thứ bẩy hoặc chủ nhật; câu chuyện trao đổi thường tầm thường, giản dị, thứ chuyện trò của những người đàn ông sau một ngày làm việc mệt nhọc, Toàn thường than phiền buổi tối hôm trước không ngủ được và phải dùng thuốc ngủ, buổi sáng lại phải dậy sớm để viết những bài chẳng dính dáng gì đến văn chương nghệ thuật, và để có thêm một chút tỉnh táo, Toàn phải dùng cà phê để đánh tan tác dụng chậm trễ của những viên thuốc ngủ… Khi những phiền nhiễu của công việc mưu sinh đã bị xua đuổi, Toàn nói, Toàn không nói về tương lai, Toàn kể chuyện lại những dòng chữ đầu tiên của cuốn tiểu thuyết thứ nhất của Toàn, cuốn Chị Em Hải đã bị ngắt quãng, bị gián đoạn, bởi những cơn xuất huyết, những bất tỉnh, vì những giây phút chới với giữa sự cố gắng sống, hoặc cố gắng chết. Tôi bảo Toàn là chính ở trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh đó, tôi lại nhận ra tác giả, hay nói khác đi, những nhân vật của tác giả vẫn còn nhiều yêu thương và hy vọng, và những vụng về của người viết lại trở nên rất hợp, rất thực, đối với vụng về sống, vụng về suy nghĩ của những cô gái tên Dung, tên Hải….  Trong những cuốn tiếp theo, thứ nhân bản ngây thơ và trong sạch đó biến mất dần, và ngay cả tình yêu cũng vậy, càng ngày càng nhợt nhạt, rồi cuối cùng chỉ còn là một ám ảnh hoặc một âm vang. Nhân vật Lê trong Những kẻ đứng bên lề, nhân vật xưng tôi, bà bạn, bà khách trong Con Đường, họ đều làm ái tình nhiều hơn, nghĩ về tình yêu nhiều hơn, nhưng yêu ít hơn, hoặc là không yêu không thương nữa. Tình yêu trở nên một cái gì đã có, đã mất, hoặc chưa có, chưa xẩy ra, và trong cái dòng văn chảy dài như một nguồn ý thức, trong dòng độc thoại nội tâm, ngay cả khi những nhân vật nói với người khác, độc giả đều nghĩ là những nhân vật đó chỉ nói với chính họ, chỉ là ám ảnh về một cái gì hình như có đó, làm cho không khí trong những cuốn tiểu thuyết của Toàn tắm đẫm một vẻ đẹp érotique, một ám ảnh hay một hoài nhớ về một cái gì được Freud đặt tên là Libido, một hoài nhớ về một chiều sâu thăm thẳm của con người, một chiều sâu thăm thẳm, âm u và ẩm ướt, Miller chẳng đã nói, chính ở cái trong cái khoảng tối âm u và ầm ướt đó mà ông nhận ra bóng dáng của Thượng Đế sao? Cái nguyên nhân làm cho con người sinh ra rồi chết đi, cái cửa dẫn vào siêu hình học và tôn giáo đó chẳng liên quan đến bất cứ một quan niệm đạo đức nào cả, vấn đề hiển nhiên là mọi thiên tài thì đều đa tình, (tout génie est érotique), hoặc nói như Platon, vị thần đầu tiên, chính là Éros, ông thần tình ái (Le premier Dieu est Éros) và Viết cũng là một mốt của Eros, một khiá cạnh của dục tình vậy.
Những nhân vật của Nguyễn Đình Toàn đều thoát ra ngoài “huyền thoại” người-yêu-quê-hương-đau khổ mà hầu như tất cả những tiểu thuyết Việt Nam sau biến cố 1954 đều có, kể từ Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, nhân vật tên Tâm tượng trưng Bếp Lửa, tượng trưng quê hương v.v… và khi một Pasternak Việt Nam bắt buộc phải lìa bỏ quê hương đã cố gắng viết những câu thật bi thảm, cảm động, “Anh yêu em, anh yêu quê hương vô cùng", tiếp đến một cô gái tên Hà, trong Sau Cơn Mưa của Lý Hoàng Phong, lại một em là quê hương đau khổ, một thế hệ phải hy sinh, rồi sau nữa, nhất là gần đây, với một số nhân vật của Doãn Quốc Sỹ (Dòng Sông Định Mệnh, Khu Rừng Lau..) của Dương Nghiễm Mậu… Nếu định tìm một liên quan giữa xã hội và tiểu thuyết như một nhà xã hội học đã làm, thí dụ như Lucien Goldmann khi nghiên cứu những tác phẩm của Malraux chẳng hạn (Pour une sociologie du roman) chúng ta có thể có một nhận định tổng quát là, những nhân vật tên Thanh, tên Hà, tên Miên (DQS)… đều là những hé
roines problématiques trong một xã hội décadente, dégradée cuối cùng dẫn đến tình trạng phân hóa hoàn toàn như xã hội Việt Nam bây giờ.
Nhưng những nhân vật của Nguyễn Đình Toàn thoát ra khỏi cái không khí thời đại đó, những nhân vật đàn bà của Nguyễn Đình Toàn đều chỉ là đàn bà, và chỉ có một băn khoăn, một bận tâm, đó là được hạnh phúc trong những lần yêu đương.
Hiểu như vậy có thể nói Toàn là một kẻ không băn khoăn đến thời đại của mình. Nhưng thời đại của nhà văn thật ra chỉ có tính cách như một đoạn, intrevalle, một entre-temps, hoặc một khoảng đường hầm, một nhà văn “sượng”, “kém hiểu biết”, chính là kẻ luôn kêu gào, luôn luôn nói về thời của mình. Nói đùa quá đi một chút, thời đại cũng chỉ như những cái đinh để nhà văn treo tác phẩm của mình, (câu nói của Alexandre Dumas, khi bị một số người chê trách là đã hiếp dâm lịch sử để đẻ ra những hoang thai). Gọi thời đại chỉ là tunnel, đường hầm, chỉ là để khẳng định môtt điều là nhà văn chỉ đến sau những biến động. Khi những biến động lịch sử đã lắng xuống thì lúc đó nhà văn mới có thể viết được.

* *

Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn

Những ngày sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa, chỗ gặp mặt dễ dàng và quen thuộc của một số bè bạn quen thuộc không còn nữa. Cũng không còn trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn được nữa, lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng, một ly trà đá hoặc trà sữa ở trên mặt bàn, một tờ báo mở rộng che kín khuôn mặt, và có thể, một người bạn, thời gian: buổi chiều khoảng 4, 5 giờ, có thể sớm hơn, 4, 5 giờ, nếu buổi chiều hôm đó là buổi chiều thứ bẩy hoặc chủ nhật; câu chuyện trao đổi thường tầm thường, giản dị, thứ chuyện trò của những người đàn ông sau một ngày làm việc mệt nhọc, Toàn thường than phiền buổi tối hôm trước không ngủ được và phải dùng thuốc ngủ, buổi sáng lại phải dậy sớm để viết những bài chẳng dính dáng gì đến văn chương nghệ thuật, và để có thêm một chút tỉnh táo, Toàn phải dùng cà phê để đánh tan tác dụng chậm trễ của những viên thuốc ngủ… Khi những phiền nhiễu của công việc mưu sinh đã bị xua đuổi, Toàn nói, Toàn không nói về tương lai, Toàn kể chuyện lại những dòng chữ đầu tiên của cuốn tiểu thuyết thứ nhất của Toàn, cuốn Chị Em Hải đã bị ngắt quãng, bị gián đoạn, bởi những cơn xuất huyết, những bất tỉnh, vì những giây phút chới với giữa sự cố gắng sống, hoặc cố gắng chết. Tôi bảo Toàn là chính ở trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh đó, tôi lại nhận ra tác giả, hay nói khác đi, những nhân vật của tác giả vẫn còn nhiều yêu thương và hy vọng, và những vụng về của người viết lại trở nên rất hợp, rất thực, đối với vụng về sống, vụng về suy nghĩ của những cô gái tên Dung, tên Hải….  Trong những cuốn tiếp theo, thứ nhân bản ngây thơ và trong sạch đó biến mất dần, và ngay cả tình yêu cũng vậy, càng ngày càng nhợt nhạt, rồi cuối cùng chỉ còn là một ám ảnh hoặc một âm vang. Nhân vật Lê trong Những kẻ đứng bên lề, nhân vật xưng tôi, bà bạn, bà khách trong Con Đường, họ đều làm ái tình nhiều hơn, nghĩ về tình yêu nhiều hơn, nhưng yêu ít hơn, hoặc là không yêu không thương nữa. Tình yêu trở nên một cái gì đã có, đã mất, hoặc chưa có, chưa xẩy ra, và trong cái dòng văn chảy dài như một nguồn ý thức, trong dòng độc thoại nội tâm, ngay cả khi những nhân vật nói với người khác, độc giả đều nghĩ là những nhân vật đó chỉ nói với chính họ, chỉ là ám ảnh về một cái gì hình như có đó, làm cho không khí trong những cuốn tiểu thuyết của Toàn tắm đẫm một vẻ đẹp érotique, một ám ảnh hay một hoài nhớ về một cái gì được Freud đặt tên là Libido, một hoài nhớ về một chiều sâu thăm thẳm của con người, một chiều sâu thăm thẳm, âm u và ẩm ướt, Miller chẳng đã nói, chính ở cái trong cái khoảng tối âm u và ầm ướt đó mà ông nhận ra bóng dáng của Thượng Đế sao? Cái nguyên nhân làm cho con người sinh ra rồi chết đi, cái cửa dẫn vào siêu hình học và tôn giáo đó chẳng liên quan đến bất cứ một quan niệm đạo đức nào cả, vấn đề hiển nhiên là mọi thiên tài thì đều đa tình, (tout génie est érotique), hoặc nói như Platon, vị thần đầu tiên, chính là Éros, ông thần tình ái (Le premier Dieu est Éros) và Viết cũng là một mốt của Eros, một khiá cạnh của dục tình vậy.
Những nhân vật của Nguyễn Đình Toàn đều thoát ra ngoài “huyền thoại” người-yêu-quê-hương-đau khổ mà hầu như tất cả những tiểu thuyết Việt Nam sau biến cố 1954 đều có, kể từ Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, nhân vật tên Tâm tượng trưng Bếp Lửa, tượng trưng quê hương v.v… và khi một Pasternak Việt Nam bắt buộc phải lìa bỏ quê hương đã cố gắng viết những câu thật bi thảm, cảm động, “Anh yêu em, anh yêu quê hương vô cùng", tiếp đến một cô gái tên Hà, trong Sau Cơn Mưa của Lý Hoàng Phong, lại một em là quê hương đau khổ, một thế hệ phải hy sinh, rồi sau nữa, nhất là gần đây, với một số nhân vật của Doãn Quốc Sỹ (Dòng Sông Định Mệnh, Khu Rừng Lau..) của Dương Nghiễm Mậu… Nếu định tìm một liên quan giữa xã hội và tiểu thuyết như một nhà xã hội học đã làm, thí dụ như Lucien Goldmann khi nghiên cứu những tác phẩm của Malraux chẳng hạn (Pour une sociologie du roman) chúng ta có thể có một nhận định tổng quát là, những nhân vật tên Thanh, tên Hà, tên Miên (DQS)… đều là những hé
roines problématiques trong một xã hội décadente, dégradée cuối cùng dẫn đến tình trạng phân hóa hoàn toàn như xã hội Việt Nam bây giờ.
Nhưng những nhân vật của Nguyễn Đình Toàn thoát ra khỏi cái không khí thời đại đó, những nhân vật đàn bà của Nguyễn Đình Toàn đều chỉ là đàn bà, và chỉ có một băn khoăn, một bận tâm, đó là được hạnh phúc trong những lần yêu đương.



Sài Gòn có phải là 'Hòn ngọc Viễn Đông'?

Trương Thái Du Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn


Cái tên Hòn Ngọc Viễn Đông, là Tẩy ban cho Sài Gòn, và quả đúng như thế, và sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do, trong có cái gọi là "mentalité" của dân Miền Nam, và cái gọi là “văn minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân Miền Nam ngang hà
ng, không phân biệt. Điều này được những nhà văn, thí dụ hai đấng, là Graham Greene, trong "Ways of Escape" đã có những dòng ca ngợi thần sầu về Sài Gòn, và Maugham, trong bài viết về Huế, có trên Tin Văn.
Và quả đúng là quá khứ không thể nào lập lại, và điều này phần lớn là do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của chúng làm biến đổi xã hội Miền Nam đến tận gốc rễ, không làm sao gượng lại được nữa.

*

HUẾ

HUE IS A pleasant little town with something of the leisurely air of a cathedral city in the West of England, and though the capital of an empire it is not imposing. It is built on both sides of a wide river, crossed by a bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It is extremely dirty, and the food is dreadful; but it is also a general store in which everything is provided that the colonist may want from camp equipment and guns, women's hats and men's reach-me-downs, to sardines, pate de foie gras, and Worcester sauce; so that the hungry traveler can make up with tinned goods for the inadequacy of the bill of fare. Here the inhabitants of the town come to drink their coffee and fine in the evening and the soldiers of the garrison to play billiards. The French have built themselves solid, rather showy houses without much regard for the climate or the environment; they look like the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
    The French carry France to their colonies just as the English carry England to theirs, and the English, reproached for their insularity, can justly reply that in this matter they are no more singular than their neighbors. But not even the most superficial observer can fail to notice that there is a great difference in the manner in which these two nations behave towards the natives of the countries of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
    The Annamites are a pleasant people to look at, very small, with yellow flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce in their clothes. The poor wear brown of the color of rich earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle of apple green or orange round their waists; and on their heads a large flat straw hat or a small black turban with very regular folds. The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers, a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It is a costume of great elegance.
    But though in all these lands the clothes the people wear attract our eyes because they are peculiar, in each everyone is dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque often and always suitable to the climate, but it allows little opportunity for individual taste; and I could not but think it must amaze the native of an Eastern country visiting Europe to observe the bewildering and vivid variety of costume that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English crowd, for instance that which you see through a faint veil of smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert, is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men in tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours and caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.

Somerset Maugham:
The Skeptical Romancer

*   *


Bắc Kít rêu rao giải phóng Nam Kít. Sự thực, chúng đem tới, và tiêm chủng vào khí hậu con người Nam Kít cái độc cái ác bản chất của chúng, và lấy đi, những cái chúng không bao giờ có, và được hưởng, là tự do, dân chủ, sống thoải mái giữa con người với con người.

Hãy thử đọc 1 đoạn Somerset Maugham viết, là biết:

The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.

Tẩy thực dân đối xử với Nam Kít, như thế, trong khi lũ Yankee mũi tẹt sau khi lấy được Miền Nam, đối xử với họ như thế nào?
Cái chuyện Bắc Kít không hề biết đến cái gọi là tự do, dân chủ, người đối xử như người với người, là sự thực, và là chuyện thường ngày ở cả xứ Mít hiện nay.

Sự kiện chưa từng biết đến dân chủ là gì, là lịch sử bốn ngàn năm của xứ Bắc Kít, và cũng là cái chuyện của xứ Nga Xô. Nói 1 cách ẩn dụ, thì đây là câu chuyện Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, được Koestler, bằng con mắt của 1 nhà văn, cô đọng nó vào 1 cuốn sách mỏng dính. Trong bài viết mới nhất về nó, nhân nguyên tác mới tìm lại, Michael Scammell viết:
Like other European Communists, Koestler had struggled to make sense of these trials, and having utterly failed to do so, he handed in his Party card. He started his novel in an attempt to decipher the tortured logic of the confessions, taking as his hero a Bukharin-like disillusioned high Party official, Nikolai Salmanovich Rubashov. In the course of the novel Rubashov is interrogated by two secret police officials, the “good cop” Ivanov (a former friend) and the “bad cop” Gletkin (a younger, robotic apparatchik), who between them force him to review his life as a Party leader and convince him that by following his ideals he has disobeyed the Party line and has violated his oath of loyalty. In Party-speak, he was guilty of counterrevolutionary activities. Broken by the logic of his interrogators, Rubashov listlessly confesses at a public trial and is taken to a prison cellar where he is executed with a bullet in the head. The novel’s provisional title was “The Vicious Cycle” and after that “Rubashov.”

Những vụ án dởm, mà Koestler dựa vào chúng, để xây dựng tác phẩm, vẫn đang hàng ngày xẩy ra ở Xứ Mít VC.
Cái tít của cuốn sách, thoạt kỳ thuỷ là “Vòng Tròn Xấu Xa, Ma Quỉ”, rồi “Rubashov”, rồi “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”.

Michael Scammell viết, thật khó mà tin rằng, 1 nhà văn lại đẻ ra vài ấn bản khác nhau như thế, về tác phẩm đầu tay của mình: It’s hard to believe the same author could have produced two such different versions of his own novel, until one remembers that Koestler was working from the English edition the second time around. In the intervening four years he had learned to think and write in English himself, which helps to explain why the discrepancies were so wide. When he ran into trouble with his translation into German he consulted some native German speakers for advice and showed a sample to Rudolf Ullstein, scion of the great German publishing house (for which Koestler himself had worked in the 1930s). Ullstein noted that Koestler was using “a great deal of foreign words instead of German expressions” in his translation and asked for permission to change them into idiomatic German. There is irony here, for the English translation Koestler worked from is itself full of German words and phraseology, a neat reversal. After further drudgery, Koestler acknowledged his limitations and asked another German friend to revise the entire translation for him, but the final version, with all its weaknesses, was still his.
 


*

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157664271167813

*  

1966

*  

Một tờ báo thiếu nhi ở Sài Gòn năm 1972: Mây Hồng, không rõ tên chủ nhiệm chủ bút. (Hình: Viên Linh cung cấp)

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=224895&zoneid=16


“Mây Hồng” là báo thiếu nhi của ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, địa chỉ & tòa soạn là nhà in Cao Văn Luận, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chủ bút Từ Kế Tường. 
Nhờ tờ báo, và nhờ ông Nhàn cần 1 người lo dịch thuật nên Nguyễn Mai, do nhớ ơn GCC sửa bài & đăng bài trên trang VHNT Tiền Tuyến, bèn chạy đến nhà ới 1 tiếng.
Nhà GCC ở kế đó, số 29 NBK.
Không phụ tờ báo và sau đó dịch sách cho ông Nhàn, Gấu chắc chắn ngỏm ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè

Mémoirs

* *

@ KT's

* *

*

Đây là cái note của KT, kèm cuốn sách của anh. Sau đó, là chuyến đi Tây đầu tiên, cũng thời gian đó, bạn quí HPA đang ở Tây.

Có 1 k niệm thật tếu, là, khi đến phi trường chẳng làm sao nhận ra KT, thế rồi có một bà tiến tới gần, hỏi, có phải Gấu Đực & Gấu Cái đó không.
Bà xã KT.
Bà nói, tôi đã nói với ông KT, là khó nhận ra nhau lắm, vì anh ở Canada qua, xa nhau bao nhiêu năm, dễ gì nhận ra nhau. Bà nói thêm:
Nhưng khi HPA qua, thì nhận ra ngay.
GNV ngạc nhiên quá, hỏi, tại sao. Bà trả lời, cứ thấy ai gầy nhom, trông như đang đói ăn, là biết liền.

Ui chao, đám Việt Minh, khi về Hà Nội, thời kỳ đánh Tây, bị bắt, đúng là do cực khổ quá mà ra.
Anh nào cũng ốm nhom, xanh lét, và nhất là, đều thèm phở.
Thế là đám mật thám Tây chờ sẵn ở mấy tiệm phở, tóm thằng nào là y chang vừa ở rừng về!






Khi gặp Faulkner, Gấu bèn nhận ngay là thầy - hay ngược lại, ông bèn nhận ra Gấu đúng là đệ tử của ông - linh cảm ngay ra một điều là, ông này sẽ dậy mình viết văn. Linh cảm ngay rằng thì là, dòng độc thoại nội tâm, dòng ý thức mà do ông là một trong những người khai sáng, không chỉ hợp với tạng người như Gấu, mà còn có thể, là một cơ may, thay đổi hẳn văn chương Việt Nam, vốn trọng cách viết những câu ngắn, từng ý từng ý, hết ý này mới dám nhẩy qua ý khác, trong khi với Faulkner, ý tưởng, câu kệ trùng lấp, chìm ẩn, giấu mặt, chỉ những độc giả sành điệu, chịu khó, chịu gian khổ cùng với người viết, thì mới nhận ra (1).

Có những hình ảnh, khi xuất hiện, là chỉ để đấy, cho khỏi quên, chờ đến đúng lúc mới nhập vào văn mạch.

Còn Graham Greene, đọc ông như 1 cách học tiếng Tây, phải đến già, đọc lại, Gấu mới nhận ra đây là một trong những ông thầy dậy văn chương của mình.
*

Eric Ormsby, khi điểm A Study in Greene: Graham Greene and the art of the novel, của Bernard Bergonzi, và Articles in Faith: The collected ‘Tablet’ journalism of Graham Greene, [TLS, số đề ngày 15 Tháng Chạp 2006], cho rằng, miền giả tưởng Greeneland ngày càng dễ nhận ra, chẳng khác gì một Wessex của Hardy, hay một Yoknapawpha County, của Faulkner, mặc dù Greene chẳng ưa cái nhãn hiệu này.

Hơn thế nữa, Greeneland là một thứ "quê hương", miền giả tưởng mà chúng ta mang theo cùng với chúng ta. Cho dù nó tít mù ở Phi Châu, xa lắc mãi Mexico, chúng ta nhận ra liền, nói chi đến Đông Nam Á, đến một Phượng của Người Mỹ Trầm Lặng, và Sài Gòn: Chúng là trạm ngưng cuối cùng, ga chót, của cuộc hành trình đạo đức của thế kỷ chúng ta.
Ông [Eric Ormsby] viết: Greeneland is a demoralized landscape, Greeneland là quang cảnh quê ta, đã bị hư ruỗng, thoái hóa, mất mẹ đạo đức.
Đây chính là hình ảnh 1 nước Mít, sau 1975.  

(1) Nhóm "Sáng Tạo", trong những cuộc thảo luận, khi tấn công Tự Lực Văn Đoàn, đã không nhận ra yếu tố câu kệ như trên [từng câu ngắn, sáng sủa, mạch lạc] của nó. Khi coi, với TLVĐ, chỉ là vấn đề ngôn ngữ, tới Sáng Tạo chúng tôi, mới có thứ văn chương của ý thức huỷ diệt sáng tạo, vô tình nhóm ST đã đề cao TLVĐ.
Bởi vì văn chương, nói cho cùng, chỉ là vấn đề ngôn ngữ. Đây là điều Roland Barthes nhận ra, khi đã quá chán thứ văn chương dấn thân của đám hiện sinh.
*

Cảnh tượng quê ta, the "Greeneland", thì hư ruỗng. Những chi tiết trần trụi, ngay cả khi lẩn lút, vưỡn bầy ra điều này. Cuốn “The Power and the Glory” bắt đầu: “Ngài Trench bước ra ngoài đường, trong nắng chói lòa, và bụi trắng xóa của xứ Mexico. Mấy con kên kên, từ trên mái nhà, dửng dưng vô hồn nhìn xuống: thằng cha này chưa chết, thịt chưa rữa, chưa bốc mùi”. Tuy Greene vẫn được kể như là một nhà văn với con mắt của một nhà điện ảnh, những dòng trên cho thấy, quyền năng của chúng, không phải chỉ do sự quan sát sắc bén, mà còn do cay đắng đến dã man, tàn bạo, của dòng chót. Ở những nhà văn kém tài hơn, sẽ trở thành cải luơng, thành hề, thành vãi linh hồn, nhưng Greene, vốn là một chuyên viên bậc thầy, cắt đánh rụp ba cái thứ khóc lóc ỉ ôi, ngay cả khi ông ló mòi dễ dãi với chúng. Đây là cái chất dửng dưng vô hồn, của những loài chuyên ăn thịt người chết, được đẩy lên đến tận đỉnh, theo nghĩa, rắn độc không còn biết cắn ai, bèn nhè chính cái lưỡi mình mà cắn!

Kể từ khi Greene mất vào năm 1991, và lần kỷ niệm lần thứ 100, năm sinh của ông, vào năm 2004, tiểu sử của ông được quá chú ý, như muốn hất bỏ phần sáng tác qua một bên. Tiểu sử, hồi ký, thêm bộ tiểu sử khổng lồ, “được phép của tác giả”, gồm ba cuốn, của Norman Sherry. Tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi làm bực người đọc, đó là bản chất Ky Tô giáo của Greene, nó ra làm sao.

Ngay cả câu khẳng định nổi tiếng của ông, đại ý, tôi phải kiếm ra một tôn giáo, để đo lường con quỉ ở trong tôi, câu này cũng gây bực mình, có khi còn là do sự cố ý của chính người nói ra: Greene vốn là một thầy, trong trò đùa hóm hỉnh như vậy. Một kẻ tự huyền hoặc, cứ lấp la lấp lửng về chính mình.

Những khuyng hướng, sắc thái như thế, được sử dụng vào trong tiểu thuyết, làm nổi bật cái “mép bờ nguy hiểm”, the “dangerous edge” của chúng.

Về cuối đời, Greene định nghĩa mình, kêu như chuông, một tay vô thần Ky Tô giáo, a “Catholic atheist”. Tuy nhiên, có một sự miễn cưỡng, về phần ông. Bởi vì, với Greene cũng như với nhiều người Ky Tô, niềm tin là một cái gì liên quan tới ước muốn, ý chí. Và ý chí, thì cũng có khi mờ nhạt đi, yếu đi, để rồi lại mạnh lên, sau đó. Nhiều người chỉ trích Greene, Ky Tô giáo của ông quá hạn hẹp, chỉ chú trọng tới địa ngục và sự trầm luân. Nhưng những bài tiểu luận tình cờ, tản mạn của Greene, trong Aticles of Faith, cho thấy, khác. Niềm bí ẩn về Nhập Thế mới làm Greene đau đầu, hơn là Lửa Địa Ngục.

Khi đọc cuốn "Nửa Đêm" của Julian Green, ông [Greene] viết, tay đồng nghiệp người Tây của ông “có thể tả một cái dù khô dần đi dưới ánh lửa bập bùng, làm sao cho trở thành hình ảnh của trọn một kiếp nhân sinh”. Điều này, Greene cũng đã làm. Miền Greeneland có những cú thần sầu như vậy. Thần sầu như ánh lửa chập chờn hong ấm một cây dù ướt sũng nước mưa.

Theo nghĩa đó, ngay cả mấy chú kên kên đang ngồi trên đầu me-xừ Trench kia cũng tượng trưng cho những sự kiện khủng khiếp, the appalling facts, về Nhập Thế. (1)

Viết


*

Blog NL

một khoảnh khắc lớn trong lịch sử phê bình văn học của Việt Nam: sự xuất hiện của Đỗ Long Vân

cái nhìn của ĐLV ngay lập tức đã thể hiện tinh tuý của "cơ cấu luận": để mở đầu tiểu luận này, ĐLV dùng hình ảnh "chảy nước", vì mọi thứ ở Hồ Xuâ...n Hương đều là chảy nước từ trong ra ngoài, từ đó dẫn tới mối quan hệ nội giới-ngoại giới

ĐLV cũng sản sinh những cách nói xuất chúng: người ta hay "sống điêu trên một thế giới xa nguồn"

quyển sách "chính thức" in năm 66 ở nhà Trình Bầy, nhưng trước đó nó đã xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Đại Học ở Huế, số 37 tháng Hai 1964


Mùa thu sót lại 

“Ở đây giờ chỉ còn lại màu nâu ánh lên trong nắng và mùi lá sồi khô nhẹ nhàng thoang thoảng. Hôm qua và hôm nay trời ấm nhưng hồi trong tuần sáng thứ Năm đã có cơn tuyết đầu mùa, đủ đọng lại trên sân nhà chừng một hai giờ đồng hồ cho đến khi nắng lên”

* 

Xin chào bác Trụ. Chắc bác chê cái câu này viết thiếu chủ từ hả bác. 

Cần gì chủ từ cho 1 câu văn như vậy. 

"Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương". Câu này, trong "Pleiku một chút gì để nhớ" cũng không có chủ từ. 

Có thể nói, câu nào không có chủ từ là cực hay của Bà Tám!

Khi NQT tôi tập tành viết, cũng viết kiểu này, do học từ W. Faulkner, nhưng câu của NQT tôi cực dài, cũng bắt chước Faulkner, thí dụ, trong truyện ngắn Mộ Tuyết, trích: 

Mộ Tuyết 

Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt… Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.

Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình…), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này 

Sự thực câu văn không phải không có chủ từ, mà là, sử dụng cả 1 cụm từ, trong có động từ còn nguyên mẫu, infinitive verb, làm chủ từ. Kiểu viết này thường được dùng cho dòng văn độc thoại nội tâm, dòng ý thức… Sorry, dài dòng, nhưng biết đâu nhờ vậy cách viết này sẽ được các nhà văn Việt khai phá thêm. 

NQT 

Cám ơn Bác. Thật là cảm kích đã được Bác đọc, lại còn được Bác khen rất khéo. Nhưng Bác khen quá lời Tám không dám nhận sợ người đọc mắng cho. Chữ nghĩa của Tám không đầy lá mít làm gì dám so sánh với Faulkner và mong nhà văn Việt khai phá thêm. 

Bác có lẽ thích khuynh hướng lãng mạn nên thích văn tả cảnh. Tám thì nghĩ sao viết vậy thôi. Cảm ơn Bác bao giờ cũng nói những lời tốt đẹp. 

Tks. NQT

Sự thực, tôi không thuộc khuynh hướng lãng mạn, và cũng không hẳn thích văn tả cảnh. Nhưng mấy câu tôi trích dẫn, nó “nói lên” tài miêu tả của người viết: sắp xếp lại sự kiện đúng như sự "tưởng tượng" của mình.

Dẫn ý Kafka, để làm rõ thêm:

Viết như thế chỉ là miêu tả?
Proust nói, những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả là làm sự vật sống lại, theo sự “sắp xếp” của người viết.
Như vậy “cách” miêu tả rất quan trọng?
Đó là quan niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương. (1)

Saigon ngày nào của GCC

"Những con dã tràng" trên tạp chí Chiều Hướng Mới (chỉ ra một số) của sinh viên Đà Lạt, Huỳnh Phan Anh chủ trương,
have fun,
NL

Tks All There. NQT

* *


* *


Nhớ, bà cụ thân sinh ông anh nhà thơ, TTT & ông em, bạn C, đọc, lắc đầu, thằng này bịnh!


Đọc lại, thì phát giác ra rằng thì là, thời gian đó, đã tụng kinh La Nausée của Sartre rồi.
Roquentin, trong Buồn Nôn (La Nausée) của Sartre, tới thư viện thành phố Bouville để tra cứu tài liệu viết một cuốn sách về cuộc đời hầu tước Rollebon. Anh gặp Autodidacte, một nhân vật đọc sách theo vần abc, cuối cùng bị viên quản thủ thư viện "cấm cửa", vì giở trò "ve vuốt" một em nhỏ.
"Tôi sẽ chẳng bao giờ đến đây nữa", anh ta nói trong khi máu chẩy dài xuống áo và cổ. Roquentin cũng giã từ thiên đàng. Anh có cảm tưởng đã sống cạn đời mình với giấc mơ nhân bản. Anh cũng quá chán lịch sử, luận đề này nọ và cuối cùng được cứu vớt, nhờ "tiểu thuyết". Anh mơ tưởng sẽ viết một câu chuyện "như nó có thể xẩy ra, đẹp, cứng như thép và sẽ làm mọi người hổ thẹn vì cuộc sống của họ".

*

[nhà xb HDP]

*

Kafka, Những năm quyết định.

Đám điểm sách, nhà văn, phê bình gia, toàn thứ dữ, khen cuốn này thấu trời, đành phải bệ về!

*

Chapter 23

Literature, Nothing but Literature

I have known for many years
That not writing
is the hardest and longest part of this profession.

-ILSE AICHINGER, EISKRISTALLE

Nhiều năm, nhiều năm, tớ ngộ ra rằng thì là
Không viết là cái phần căng nhất, dài nhất, trong cái nghề này.

Thì cũng sống để viết [THT], sống để kể chuyện [Garcia Marquez], không viết thì ngứa lắm [tên K]…
Nhưng quái làm sao, bảnh hơn nhiều!

&

*
*

Trên tờ The New Yorker, Dec 15, 2014 có 1 bài về 1 tay chuyên viên khí tượng, làm Gấu nhớ đến thời gian trơ cu lơ 1 mình, trong những ca gác đêm, trên Đỉnh Cồn, Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, viết “Kiếp Khác”, “Những Ngày Ở Sài Gòn”, và mơ tưởng viết 1 cuốn tiểu thuyết “Mắt Bão”…

Một vị thân hữu, ở trong nước, trong khi khui quật cái mỏ văn chương Miền Nam trước 1975, gặp được những bài viết cũ của Gấu, bèn gửi cho, với lời còm, thí dụ, về bài “nghĩ về phê bình”, bài này bây giờ đọc vẫn thấy được.

Gấu viết ra ở đây, chẳng để khoe, mà chỉ để chứng minh, bạn viết, bất cứ cái gì, là phải có cái gì của riêng bạn.
Với sáng tác, thì thường là ở trong cái air, cái ambiance, có khi, ở, chỉ 1 cử chỉ, của 1 nhân vật trong truyện. Hình ảnh anh chàng đứng bên lu nước, khư khư ôm bọc quần áo, dội lên bầu trời hỏa châu, của 1 tên Mít, lỡ độ đường, đếch nhà dám chứa, mà chẳng khủng sao.

Viết, tưởng dễ, mà dễ thật, biết chữ là biết viết, nhưng cực khó là vậy. Trong đời Gấu, khen rất nhiều người, nhưng những đấng nổi tiếng, thứ đồ dởm, là không có Gấu!
Chỉ nội 1 hình ảnh đó - ng
ười đàn ông ôm cái bọc quần áo-
đủ phán TTT là nhà văn, nhà thơ tham dự cuộc chiến, của cuộc chiến rồi.

*

*

Đấng THT, trong bài viết được trang Gió O giới thiệu, tỏ ra rất ư là bực mình về TTT, khi ông đếch làm thơ được nữa, và phán, bảo ông này là nhà văn của Miền Nam OK, thời chiến, đếch được.

TTT cũng đã từng thú nhận, trong 1 bài thơ tự trào, chưa từng bắn 1 phát súng. Khi ông ra trường Thủ Đức, thì cũng sợ chết như ai, bèn làm chân gác kho xăng, nhờ bà cụ năn nỉ ông Đại Tá Út, chồng cô em gái.
Ông Đại Tá Út này, cũng đã xin cho thằng em trai của Gấu được về làm văn phòng, thay vì làm lính tác chiến, nhưng ông Thiếu Tá, Sếp của nó, chưa kịp ra lệnh làm sự vụ lệnh thuyên chuyển, thì đã tử trận.

Bạn đâu cần phải cầm cây súng, thì mới là nhà văn của cuộc chiến.
Vả chăng, cầm súng, làm thơ, viết văn, mà như...  kít, thì cũng... hỏng!

Khi TTT ra trường, làm lính gác kho xăng, Gấu, ngồi với Mai Thảo, tại Quán Chùa, nhân nhắc tới sự kiện trên, MT lắc đầu, "nó" mà đi lính thực sự, thì phải biết.
Ông cũng tiếc cho bạn của mình.

Theo GCC không phải như vậy. Một vị độc giả, cũng nhà văn, cũng sĩ quan VNCH, biểu Gấu, mấy cái truyện ngắn của anh, viết ở Sài Gòn, ở Quán Chùa, thời kỳ Mậu Thân, không phải viết từ trận địa, mà sặc sụa mùi cuộc chiến, cần gì phải ra trận mới viết được.

Tks. NQT

Source




"Những con dã tràng" trên tạp chí Chiều Hướng Mới (chỉ ra một số) của sinh viên Đà Lạt, Huỳnh Phan Anh chủ trương,
have fun,
NL
* *

Tks All There. NQT

Có Phạm Phú Minh! Không biết có phải PPM của tờ Diễn Đàn Thế Kỷ?
Dương Châu Thảo là Dương Văn Ba, sau là dân biểu, mới mất.
Anh bị Nguyễn Văn Linh chơi, nhằm dằn mặt Hồ Tôn Hiến, Sáu Dân.
Đòn này lập lại, với cú Trọng Lú đá đít y tá dạo Ba X.
Đừng hòng Bắc Kít thay đổi.
Huỳnh Thanh Tâm là Huỳnh Phan Anh. Dynamô là Đinh Ngọc Mô. Lý Minh, thi sĩ, thơ đăng Văn một thời.


Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan Anh làm đặc san văn nghệ cho trường, lấy tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại mới đây, tại Paris, anh nhắc tôi mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm báo đặc san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời!
Bài tiểu luận đầu tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô. Truyện ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng là nơi đăng truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm tức cười về Huyền, tôi đã viết lại, trong bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng Huyền bằng bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân dịp về thăm gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này đọc Kundera, khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà dịch thuật Kafka qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong Joseph K) bằng những nhân vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế được! Hay nói theo Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn Duật, mẫu mực, mô phạm ngay từ hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến khi Viên Linh làm tờ Khởi Hành, anh mới xuất hiện trở lại, qua những bài phê bình, biên khảo, đọc sách... Anh đoạn tuyệt với truyện ngắn, như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có một truyện ngắn, và nó vĩnh viễn thuộc về... Huyền!


Đọc lại, có khác, bản in sau này, trên Văn, Sài Gòn và sau này, ở hải ngoại, trên Tin Văn.
Số phận của nó, cũng ly kỳ. Gửi cho Sáng Tạo. Tính tin, nhưng sập tiệm. Thấy trong mục Hộp Thư của tờ Văn Nghệ, dù không gửi. Vứt sọt rác. Chắc thế. Rồi xuất hiện trên Chiều Hướng Mới.


bốn mươi năm dương nghiễm mậu và tự truyện nguyễn du

http://damau.org/archives/35745

Note: Bài viết này, với riêng GCC, rởm. 

Cái tệ nhất của bài viết là, Vũ Hạnh, mà chính đồng chí nằm vùng cùng với ông ta, Đào Hiếu, đã phải đổi tên cho đúng với ông ta, là Vô Hạnh: Một tên VC nằm vùng, quá rành văn học Miền Nam, nhơ bẩn như thế, mà lôi ra để đôi co với DNM, 1 cách nào là làm nhục anh chứ hay ho gì đâu.

Hơn nữa, và điều này thật quan trọng, là tác giả không đọc được DNM, theo nghĩa, không chỉ ra được thứ văn chương mà DNM viết, là văn chương ám dụ, với cái sở đoản của nó, phải là những bậc thầy như Borges mới trị nổi [Phép Lạ Bí Ẩn mà không ghê sao], hay Kafka, những truyện ngắn của ông đều có tính ám dụ. Viết không tới, chúng biến thành 1 thứ ám dụ cởi truồng. Có thể nói, như Rushdie nói, trong bài viết Ảnh Hưởng, mà TV đã giới thiệu bản tiếng Việt, ngụ ngôn [hay ám dụ] là 1 hình thức văn học tàn nhẫn nhất....

Một độc giả Da Mùi, nhận xét về truyện ngắn của DNM. Chính trị nhiều hơn văn chương. Hầu hết Mít lấy văn chương bày tỏ lập trường chính trị mắc phải lỗi lầm này, ngay cả đấng viết bài.
Chưa ra đời là đã sắm cho mình một vai rồi!
Những Vòng Đai Xanh, Mặt Trận Sài Gòn của ông ta có tí văn chương nào đâu, trong khi với những bậc thầy như Borges, như Kafka, cái gọi là ám dụ, là do người đọc nhận ra cho chính họ, cho thời của họ.
Trong truyện ngắn Y Sĩ Đồng Quê, câu nói của cô Rose, cô người làm, nói ông chủ chẳng đúng là của 1 em Bắc Kít, khi bị ông chủ hi sinh cho Tầu Phù, đổi lấy cặp ngựa để vượt Trường Sơn kíu nước ư?



damau.org online literary magazine, tạp chí văn chương Da Màu, văn chương không biên giới, văn học Việt Nam
damau.org

Đấng này, bài đăng trên Da Mùi chưa đủ đã, thế nào cũng phải trình chính uỷ NN, xin được góp mặt trên Văn Vịt!


*

manhhai
SAIGON, 7 May 1968 - Đại tá Lưu Kim Cương tại vành đai phía Tây Nam sân bay TSN
Location: RVN, Tan Son Nhut. Photographer: SP5 J.F. Fitzpatrick, Jr. A Vietnamese Air Force Col, and the Tan Son Nhut CO, (right), fire a 50 cal. machine gun into enemy positions in the Old French Cemetery from atop a tank on the southwestern perimeter of Tan Son Nhut Air Base.

Một Đại tá Không quân VN Chỉ huy trưởng căn cứ TSN (bên phải), bắn đại liên .50 vào vị trí địch tại Nghĩa trang QĐ Pháp từ trên một xe tăng tại vành đai phía tây nam Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt, [đó là Đại tá Lưu Kim Cương]
7 May 1968


Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...

Đợt trình diện đó có đủ mặt "anh hào". Thì vẫn đám bạn bè từng ngồi chung bàn ở quán Cái Chùa, cùng ngửi mùi mực in quán Văn đường Phạm Ngũ Lão. Quán có ông chủ già rất lịch lãm, và ưu ái anh em văn nghệ, chẳng bù cho ông thư ký tòa soạn Trần Phong Giao, bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng nhăn nhó trong cách tính trang, tính tiền nhuận bút, và nhất là trong việc giúp đỡ những người chưa thành danh muốn nhờ bảng hiệu nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng. Cậu thanh niên hình như chưa từng bỏ sót một số báo Văn, "văn kỳ thanh" nào Nguyễn Xuân Hoàng, nào Huỳnh Phan Anh... lần này gần như gặp đủ mặt. Sau khi cậu ta tự tử chỉ hùi hụi tiếc một điều, nếu biết trước đã kéo cả bọn tới trình diện. Bởi vì Huỳnh Phan Anh, bị ám ảnh bởi những ngày "đổ mồ hôi nơi quân trường thay vì đổ máu nơi trận địa", cộng thêm những lời hù dọa của những anh chàng ra vẻ hiểu biết những trò "huấn nhục" sắp tới, khiến căn bệnh bao tử đột nhiên lên cơn, đêm nào cũng dùng cái thùng nước lèo của mi làm chiếc gối; còn Nguyễn Xuân Hoàng vốn bô trai nên lúc nào cũng quanh quẩn bên mấy nữ tiếp viên câu lạc bộ; cuối cùng chỉ có còn mi, để quên đi nỗi nhớ, để đỡ bồn chồn chờ ngày nghỉ phép cuối tuần gặp lại Sài-gòn, gặp lại cô bạn, đã thân cận người bạn nhỏ mê văn chương và có thể còn mê làm cách mạng, còn mong mỏi cái chết của mình có thể sẽ có ích, nếu không gây một tiếng vang nào đó thì ít ra cái mạng sống này cũng do ta quyết định. Nhưng những người Quân Cảnh đã mau chóng xóa sạch dấu vết, nếu còn chăng, đối với mi, là khuôn mặt trẻ thơ không chút dấu hiệu cho biết đây là người được Thần Chết tuyển chọn, không thông qua cuộc chiến... 

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa.

Cõi khác

Lưu Kim Cương, Gấu có gặp 1 lần, hình như cũng đã kể ra rồi, trong 1 bữa ăn nhà hàng, ở Khu Chợ Cũ, mà khổ chủ là LKC, khoản đãi đám nhà văn nhà thơ, mà khách mời danh dự của bữa tiệc, là Nguyễn Mạnh Côn. Gấu ăn ké, qua Nguyễn Đình Toàn. Cũng có màn giới thiệu GCC với LKC, trong 1 lúc tình cờ, chứ không phải chủ ý. Cũng 1 tay xì phé, hình như NDT nói. Ông hỏi lại, mòng hả. NDT cười, quả thế. LKC chắc là 1 tay cự phách về xì phé.
Thời gian đó, mới quen NDT. Theo anh đi la cà. Lần tới dự bữa nhậu ở nhà Cung Tiến, là nhảm nhất. Ngay bây giờ nhớ lại, vẫn thấy nhảm. Không được mời mà cũng mò tới. Thấy mặt Cung Tiến ngớ ra, là đã thấy nhói 1 phát, ở đúng chỗ nhói 1 phát. Nhưng anh lịch thiệp đổi liền bộ mặt qua vồn vã. Và còn khen Gấu viết phê bình, đúng giọng Mít. Anh thú thiệt, tôi viết có cái giọng kinh điển, không được như GCC.
Gấu nghĩ, anh nói thực lòng.
Có ông anh nhà thơ. Ông đúng là khách mời. Ông cũng bực, nhưng không nói ra.
Đó là lần đầu tiên Gấu được uống rượu, rót ra từ cái bình bằng sành, trong 1 cái ổ rơm. Ôi chao, rượu đã ngon, nhưng thần sầu sao bằng cái bình sành để trong ổ rơm, với 1 thằng Bắc Kít, nhà quê, nghèo đói, đã từng đào trộm khoai lang ở cánh đồng làng!


*

Ui chao, lục báo cũ, lôi ra được 1 bài "thần tiên", Khói Thánh, [ML Juin 2007, về Juilen Gracg, tên cổ điển cuối cùng]
A chaque jour suffit son tabac
Mỗi ngày 1 bi, đủ rồi
Nhớ tôi, người chơi, mấy bi thuốc?



 

*

manhhai
Hanoi 1959 by Rév Miklós - Cô gái bán cành đào Tết ở chợ Đồng Xuân

*

Hà Nội, 1959, ngày nào của GCC.
Chỉ thấy mưa rơi trên nền cờ đỏ
hình manhhai,
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157663992564939

*

*

*

Nam Phương hoàng hậu @ Paris & Bà Nhu & Bà Thiệu
Đệ Nhất Phu Nhân Mít. Thiếu Bà Hồ!
hình manhhai

*

Tên của cuộc chiến

Làm cho UPI, dần dần trong tôi nẩy sinh một tình cảm quái gở. Mỗi lần có một phóng viên, nhiếp ảnh viên mới, là tôi tự hỏi, tay này chịu được bao lâu?
Lần nhiếp ảnh viên người Nhật, tên Mine, mới tới Sài-gòn, tôi lắc đầu tự nhủ thầm, đúng là tên tiền định! Chân ướt chân ráo, anh đã được "đãi ngộ": đang ở một đồn binh Mỹ, một chiếc C.130 bay ngang, bị ngay pháo bên dưới cắt thành hai mảnh.
Hai năm qua đi, hết hạn, anh trở về Tokyo. Tưởng là thoát, không ngờ anh phải qua Việt Nam, thế hai tuần, cho một đồng nghiệp đi phép. Anh bị chết cháy, trong thiết vận xa M.113, khi trúng mìn.


Viết/Đọc mỗi ngày
Pham Nguyen Truong liked this.
Follow

Khi nói về chuyện Mỹ hay Tàu xâm lược Việt Nam, xâm lược để làm gì, con bé hàng xóm nhà em bảo: Mỹ nó khai thác đc ối thứ trong thời gian "chiếm đóng" ở miền Nam.
Nhà em bảo, mày nói phải có dẫn chứng. Mỹ khai thác cái gì? Tài liệu nào nói về vấn đề này? Có tin cậy đc ko?

Nó im, nhưng có vẻ ấm ức, có lẽ nghĩ ko có lợi, tại sao Mỹ nhảy vào?

Nhà em đi tìm thông tin trên gúc. Đại ý mới lơ mơ rằng, Việt Nam chỉ là một điểm trong chiến dịch toàn cầu của Mỹ, nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chưa tìm thấy tài liệu nào, cho thấy Mỹ khai thác tài nguyên của VN để chở về Mỹ. Có thể nhà em chưa tìm thấy, nhưng nếu có, cả hệ thống chính trị của csvn chắc ko để yên.

Còn TQ đc lợi gì thì kết quả lù lù ra đó. Dân mình tiêu thụ từ cái tăm của nó đấy. Nó mà bực, dân ta ko có tăm mà xỉa đâu. 

Note: Mẽo nhảy vô xứ Mít vì "thiện ý" của chúng. Bắc Kít nhử nó vô, bằng cách phịa ra cú Diệm đầu độc tù VC ở Phú Lợi, nơi nhốt VC, sau 1954, thay vì tập kết, thì ở lại.

Phịa ra để lấy cớ thành lập MTGPMN.
Mẽo hoảng quá, nhảy vô, vì hiệu ứng domino, mất Miền Nam thì mất luôn cả Đông Nam Á. 

Đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, nói nôm na là Cái Ác Bắc Kít vs Thiện Ý Mẽo.
Hai món này, cùng độc như nhau


ssay · The Mekong
Requiem for a river
Khóc một dòng sông

Note: Tuyệt cú mèo.

In teaching his students that change was the one true constant, the philosopher Heraclitus told them that no one ever steps in the same river twice. At the second step both man and river are not what they once were. In space and in time, from narrow gorges to salty seas and from great empires to impoverished peasantry, the river at Mr Guo’s feet encompasses more change than most. These new developments, though, feel like something more profound. Flow means change, but it also brings identity, because it embodies continuity. As the river is stilled, precious identities risk being lost for ever.

Trong khi dạy đệ tử, đổi thay mới là cái vĩnh hằng, Thầy Triết Đào, ấy chết xin lỗi, Thầy Heraclitus phán, không ai bước xuống cùng 1 con sông hai lần. Cú thứ nhì bước xuống, là cả người lẫn con sông đã thay đổi rồi, đã không còn như xưa nữa..

The delta

A river stills, the seas rise

Eventually, all rivers empty into oceans; water comes together with other waters. But for this river, at this delta, the sense of an eternal return is lessened, that of an ending heightened. The seas, driven by a century of global industry, rise higher, while for the sake of a little more industrial power, the gifts of the river are being squandered. Life as it has been is not life as it will be. The days of stepping into the river are numbered.




1 Year Ago Today

TỬ SĨ VÀ LIỆT SĨ

https://www.facebook.com/notes/10150729109587362/
Hình: Bà cụ GCC bữa chôn cất thằng em trai tại nghĩa trang quân đội Gò Vấp
Bài viết: FB CGDL...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.


Bài viết: FB CGDL
Tks. NQT

Khách quan mà nói thì không khó khăn gì, nhưng với cách thức như vậy trông không giống một nghĩa trang dân sự càng không giống một di tích lịch sử. Bên trong cây cối mọc cao lẫn cỏ dại lúp xúp chen chúc giữa những dãy mộ và lấn tràn ra đường khiến không khí càng cô tịch và hoang tàn, u uất. Theo tui hiểu, thì với tập tục Á Đông, người Việt rất tối kỵ mồ mả cha ông bị rễ cây đâm vào bởi ai cũng tin rằng như thế sẽ làm đau đớn, khó chịu linh hồn người chết và con cháu sẽ không thể sống yên hay làm ăn phát lộc được. Bỗng nhớ tới chuyện nhà của một đứa bạn học có cha chết trận được chôn ở đây. Nhiều năm nay gia đình muốn bốc mộ mang về quê nhưng không được phép. Nó bảo, nghe đâu có cả thầy bên Tàu về ếm; những tử sĩ chôn ở đây hồn không thể siêu thoát, con cháu mấy đời sau cũng không thể ngóc đầu lên được. Thật ra thì cần gì thầy với bùa, bản thân nó khi ấy đi thi đại học trầy trật tới mấy lần mới vô được vì dính trong diện đối tượng gia đình có người tham chiến chế độ cũ.

Lại nhớ tới chuyện Ngũ Viên. Ông tên tự là Tử Tư người nước Sở thời Xuân Thu, cha và anh đều bị Sở Bình Vương giết hại. Ngũ Viên đã trải qua bao gian truân vất vả, lưu lạc sang nước Ngô giúp Hạp Lư giết chết Ngô Vương Liêu chiếm được ngôi vua. Về sau, Ngũ Tử Tư cùng Ngô vương Hạp Lư dẫn quân tiến đánh nước Sở, nước Sở bị thất bại. Khi ấy Ngũ Tử Tư râu tóc trắng xóa, Sở Bình vương cũng đã chết; ông bèn đào mộ lên rồi dùng roi đồng đánh luôn ba trăm cái vào thi thể của Sở Bình vương xong chặt mất đầu để báo thù cái tội giết cả nhà mình khi trước. Người bạn Thân Bao Tư của ông nghe được tin này bèn sai người đem thư sang cho Ngũ Tử Tư, trong thư viết: "Ngay đến người chết anh cũng không tha, làm như vậy thật quá tàn nhẫn". Ngũ Tử Tư xem thư xong liền nói với người đưa thư rằng: "Tôi nhờ anh về nói lại với Thân Bao Tư là tôi chẳng khác nào một người đi đường, trời đã gần tối mà đường đi còn xa lắc xa lơ, nên tôi mới làm cái việc nghịch với lẽ trời này". Trong tâm thế người chiến thắng, việc đối xử với những kẻ thua cuộc, thất thế – cho dù đã chết, là vấn đề hết sức tế nhị. Nó có thể cho thấy sự tự tin, lòng bao dung, nhân tâm và tình người; nhưng mặt khác, cũng có thể cho thấy thái độ hằn học, và vẫn còn tư tưởng thù hận. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nói theo cách Ngũ Tử Tư, thì nếu đường đã rộng đẹp thênh thang rồi thì hà cớ gì không làm những việc hợp với lẽ trời. Cư xử với kẻ thù như những người bạn, điều này còn tốt hơn bất cứ sức mạnh và quyền lực nào; đó là điều không phải ai cũng làm được!


1 Year Ago Today

Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân ...

“Bếp Lửa,” là từ biến động 1954 mà ra, và cùng với nó, là định nghĩa: Nhà văn là kẻ đến sau biến động.
"Một Chủ Nhật Khác", không đến sau mà đến trước biến động:

Không ai có thể hiểu nổi, bằng cách nào, vào những ngày sôi động như thế, TTT đã hình dung ra được 1 kẻ bỏ chạy, thoát cuộc chiến, để rồi bò về, để chết, cái chết của tên sĩ quan Ngụy, bị chính đồng đội của mình, bắn chết, vì lầm là VC.

Gấu có 1 anh bạn, cũng cán sự Bưu Điện, nhưng thuộc loại đàn em, cũng làm tại Đài Liên Lạc VTD số 5 Phan Đình Phùng, Saigon, vào những ngày “biển máu” đó, đang được học bổng tu nghiệp ở Paris. Anh nhất định đòi về. Tẩy nói, mi ở đây luôn đi, anh nói, tao phải về, nếu giả như vợ con tao có bề gì, làm sao tao sống?

Cuốn này, nhờ Nguyễn Đông Ngạc mà có được. Trước khi đi xa, anh dặn bà vợ, đưa cho GCC.
Thế là GCC bèn đưa lên net. Lần ông anh mất, gặp bạn C, bạn cho biết, chị H. cằn nhằn hoài, tại làm sao mà chú Trụ đưa lên lưới, cũng không nói với anh Tâm 1 tiếng, Gấu bèn bỏ xuống, sau lại nghĩ, anh Tâm khi đó chưa đi xa, nếu anh bực, thì đã phôn, hoặc mail, thế là lại đưa lên!

Quoc Tru Nguyen's photo.



1 Year Ago Today

GCC đọc Y Uyên ngay khi anh xuất hiện, và, đúng như tên tác phẩm của anh, Bão Khô, văn của anh khô quá, khác hẳn thứ văn phong nhão nhẹt, đầy nước, đầy “cảm tín...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.


GCC đọc Y Uyên ngay khi anh xuất hiện, và, đúng như tên tác phẩm của anh, Bão Khô, văn của anh khô quá, khác hẳn thứ văn phong nhão nhẹt, đầy nước, đầy “cảm tính”, đầy than van, của mấy đấng khác! Tuy nhiên, vẫn có 1 cái gì đó thiếu, một hình ảnh, một viễn ảnh, như chữ GCC hay dùng, trong trường hợp này.  (1)

Thí dụ, hình ảnh anh chàng lỡ độ đường lom khom với bọc quần áo, bên lu nước, trong Dọc Đường của Thanh Tâm Tuyền.

Hay hình ảnh mấy nấm mồ, trong câu văn của Nguyễn Hải Hà, khi viết về thành phố Pleiku, mà tác giả chưa từng tới:

Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.

Nhưng mới đây, nhân đọc Bắc Đảo, thì GCC mới hiểu ra là, có 1 thứ thiếu, của chính chữ, chữ Mít. 

Cái mà Y Yuyên, và những nhà văn như ông thiếu, chính chữ Mít, thiếu!

"History decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin, trích dẫn bởi Coetzee.

Lịch sử vỡ ra thành hình ảnh, không phải bằng tự sự.

Cả 1 cuộc vượt biển khủng khiếp như thế, đọng vào hình ảnh, vài nấm mồ, trấn ngự biển cả như 1 chân trời lừng lững phía sau nó. 

Hình ảnh tên Mít lỡ độ đường, là hình ảnh lũ Mít lưu vong sau này, không nơi nào dám chứa!

[Chứa nó, là nó biến nước đó, xứ đó, thành bãi đánh hàng, sao?]

Cái hình ảnh mà Mít cần, nếu đọc bài của CGDL, trên, là 1 tên VC, tay đầy máu Ngụy, cởi trần, ra nghĩa địa Ngụy quỳ lạy, như dưới đây:

*

Trên Tin Văn, GCC đã từng đề nghị tên già, chính uỷ NN, làm việc này!

(1)

*

Lần đó, theo Joseph đi gặp Đỗ Long Vân, khi đó là anh lính truyền tin tại Đài Phát Tín Phú Lâm, xin bài viết Truyện Kiều ABC. Hình như Gấu đứng ngay đó, đọc loáng thoáng, vớ được câu này: 

Cái mới nếu có chẳng qua là ở trong một cách đọc… 

Và Gấu biết, bài viết kể như xong: Ta sẽ đọc Bếp Lửa ở mức không độ của nó, vứt mẹ tất cả vào xọt rác, nào ý thức lạc loài, nào thân phận nhược tiểu, nào Malraux...

Trong một lần đi cùng NTiV lên Montreal, nhậu với một tay chuyên về điện ảnh, tay này cho biết, có một người bạn không hề bỏ một bài Tạp Ghi nào của Gấu [khi đó viết cho NMG, trên tờ Văn Học], nhưng Gấu đoán, ông bạn này là chính ông ta.

Trong lúc nhậu, chủ nhà hỏi Gấu, anh viết một bài viết như thế nào. Và Gấu trả lời, tất cả những bài viết của Gấu đều là cóp nhặt, đều là kết hợp của đủ thứ hầm bà làng, cho đến khi Gấu có được một cái "vision" choàng lên tất cả.

Với bài Biển, "vision" của nó, là chi tiết về cát.

Với bài Bếp Lửa, cái vision của Gấu chiếu về cuốn của Barthes: Độ không của cách viết.

Bài viết Bếp Lửa kết thúc bằng câu:

Người ta có thể đọc hoài một cuốn sách, nhưng không chỉ có một cách đọc cuốn sách đó.
Nếu người viết có một "viễn ảnh" về bài viết, khi viết, thì người đọc, cũng có một viễn ảnh, về bài viết, khi đọc.

Đọc một bài thơ, bài văn, như thế nào?

Hãy đọc nó, như là một viễn ảnh, của riêng bạn, về nó.
Và như thế, viễn ảnh còn là chìa khoá, password của riêng bạn, để mở ra bài viết
Có lẽ, chẳng ai có thể dậy bạn, đọc một  bản văn.
Có thể, có những gợi ý, nhưng đọc nó như thế nào, là tùy ở bạn.

Quoc Tru Nguyen shared a memory from February 10, 2015.
1 Year Ago Today

Thơ Mỗi Ngày

Underground Poems
Poems on the Underground The Wider World

... See More
Quoc Tru Nguyen's photo.




Tôi rất thích đọc những tài liệu của báo Văn, và những bài phê bình đăng trước 75 của ông, như bài viết về Nguyễn Xuân Hoàng và Thanh Tâm Tuyền. Những tài liệu đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc lại những tác phẩm của các nhà văn này. (Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền và hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông ở vị trí một người đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông. Kính chúc ông mạnh khoẻ.

Trân trọng,

Đinh Từ Bích Thuý

Tks. Chúc Mừng Năm Mới

NQT





*


*

I Am Becoming
My Mother  

Yellow/brown woman
fingers smelling always of onions

My mother raises rare blooms
and waters them with tea
her birth waters sang like rivers
my mother is now me

My mother had a linen dress
the colour of the sky
and stored lace and damask
tablecloths
to pull shame out of her eye.

I am becoming my mother
brown/yellow woman
fingers smelling always of onions.

Lorna Goodison

Tôi đang trở thành má tôi

Người đàn bà /vàng/nâu
Mấy ngón tay lúc nào cũng có mùi hành

Má tôi trồng bông lạ
Tưới chúng bằng nước trà
Ngày sinh của bà nuớc reo như sông
Má tôi bây giờ là tôi

Má tôi có chiếc áo dài bằng lanh
Màu trời
Bà trữ dây vải, lụa
tạp dề
Để lấy nỗi tủi hổ khỏi mắt

Tôi trở thành má tôi
người đàn bà/vàng/nâu
Ngón tay sặc mùi hành

&

Bà cụ GCC @ Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, lần đưa xác thằng em trai từ Sóc Trăng về mai táng 

Em tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió thoảng lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về phía trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong tràng AK từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà nằm luôn trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra vì sợ làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm niệm, chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi theo với chuẩn uý."

Có, có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo sanh, người chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết thân thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...

Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.

Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"

Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

Handbag

My mother's old leather handbag,
crowded with letters she carried
all through the war. The smell
of my mother's handbag: mints
and lipstick and Coty powder.
The look of those letters, softened
and worn at the edges, opened,
read, and refolded so often.
Letters from my father. Odour
of leather and powder, which ever
since then has meant womanliness,
and love, and anguish, and war.

Poems on the Underground

Ruth Fainlight

Túi xách tay

Cũ, bằng da, của má tôi
Chất chứa trong đó là
Những lá thư bà mang theo cùng với bà
Suốt cuộc chiến
Mùi bạc hà, mùi dầu cù là, mùi mồ hôi
Những lá thư, góc quăn, mở gấp nhiều lần,
Chữ bạc dần
Thư của ba tôi
Túi da, kể từ đó, nặng mùi nhất,
Là mùi đàn bà, tình yêu, thống khổ và sợ hãi.


Nhà cô bạn lúc này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt.

Cõi Khác
*

Bức hình, do cô bạn, từ phía trong nhà, chụp, những ngày trước Mậu Thân.
Lần đầu nhìn, NKL [anh bạn học từ thời trung học] gật gù, thằng cha nào mà đẹp trai thế?







*

manhhai
Saigon 1968 - Photo by John F. Cordova - Saigon 1968 - ngã tư Bà Huyện Thanh Quan - Ngô Thời Nhiệm.
Dãy phòng học phía sau trường TH Gia Long - Photo by John F. Cordova

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/24139497425/in/album-72157662989536676/

Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học, bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.

Ông con trai thứ nhì của GCC. 

Thằng lớn, đầu lòng, tới cô con gái, rồi tới nó. Cô Út, sinh đúng vào dịp 30 tháng Tư, 1975, vì vậy mà đành ở lại. GCC đã viết về nỗi đau thống nhất này trong Tự Truyện.
Sau 1975, có thời kỳ Gấu Cái bồng bế lũ con về Hưng Long, xây cái lều trên miếng đất của Bả, sau cùng sống không nổi lại trở lại Sài Gòn.
Nhìn thấy Gấu thằng con trai tới tát cho bố vài phát, ra ý, tại làm sao mà bố lại làm khổ chúng con như thế?
Lần đó, có Nguyễn Tân Văn, bạn cùng học, chứng kiến. Anh cười, nói, thằng bé này trách ông bố ghiền.
Còn thằng lớn, đi học, bị 1 thằng cùng lớp, cũng dân trong xóm, do đánh lộn, chửi, bố mày là thằng ghiền. Thế là xông lại, do nhỏ con hơn, bị đánh gần như mù hẳn 1 con mắt, suốt đời.

Quoc Tru Nguyen's photo.

Vargas LLosa có 1 bài viết, cũng ngắn thôi, về cuốn Ngư Ông và Biển Cả của Hemingway, GCC bèn post sau đây.

Cả cuốn truyện, cũng mỏng thôi, là để "hoành dương" cái ý tưởng mà GCC, và độc giả của Heminway,
gọi là, triết lý người hùng Lê Văn Trương & Hemingway, con người có thể bị huỷ diệt, nhưng không thể bị đánh bại. A man can be destroyed but never defeated.

Bạn có thể coi cuộc đời của Gấu, nếu có
nói lên 1 cái chó gì đó, thì đó là cái chó đó! (1)
Câu này, cũng của Hemingway, tếu thế.
Và câu này
mới là câu thần sầu của cuốn truyện, đúng như Vargas Llosa nhận ra!

(1) But I will show him what a man can do and what a man can endure






*

manhhai
SAIGON (01 June 1968) - Vụ trực thăng Mỹ bắn rocket nhầm vào trường Phước Kiến (nay là trường Trần Bội Cơ, Chợ Lớn) trong biến cố Tết Mậu Thân đợt hai.

Note: GCC có gửi Radiophotos những tấm hình tương tự, và có viết đâu đó, trên TV.
Nghe nói toàn đệ tử của Râu Kẽm, và Râu Kẽm thoát chết, vì đến trễ, do mải rút xì phé, hoặc mê coi
chọi gà!
Và, vẫn nghe nói, đòn độc của Thiệu

Có Lê Ngọc Trụ, Phó Quốc Trụ, ngỏm, trong cú này!

*

*

manhhai
Saigon 1968 - Ga xe lửa & nhà hàng Hòa Bình - Photo by John F. Cordova
Thiên đường của Gấu Xì Ke ngày nào.
This photo is in 1 album
*

Hình trên net, bữa Vương Đại Gia ra mắt sách

Thời gian ngự trị trên tầng lầu con phố Nguyễn Hậu, là lúc GCC quen Joseph Huỳnh Văn, và cả hai hay ngồi uống cà phê ở hè đường Hai Bà Trưng, dựa lưng vào bức tường nhà thương Grall.
Thời gian làm ở phòng kiểm tra tần số, thì uống cà phê lá me đường Nguyễn Du.
(1)

*

GCC & Nguyễn Trọng Khôi 1972. Thời gian dịch sách cho ông Nhàn, nhà xb Vàng Son, làm Tập San Văn Chương. Ghé thiên đàng Ga Xe Lửa.

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.

Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.

 
*

manhhai
SAIGON (01 June 1968) - Vụ trực thăng Mỹ bắn rocket nhầm vào trường Phước Đức (nay là trường Trần Bội Cơ, Chợ Lớn) trong biến cố Tết Mậu Thân đợt hai.

Note: GCC có gửi Radiophotos những tấm hình tương tự, và có viết đâu đó, trên TV.
Nghe nói toàn đệ tử của Râu Kẽm, và Râu Kẽm thoát chết, vì đến trễ, do mải rút xì phé, hoặc mê coi
chọi gà!
Và vẫn nghe nói, đòn độc của Thiệu!

*

Đường sách Xề Gòn.
Con phố ngắn này, có tên là Nguyễn Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử dụng làm Hộp Thư, Boite Postale. Thư Lưu Trữ.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi Bưu Điện tách làm đôi, một Bưu Chính, vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm dưới quyền 1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có 1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một tầng lầu phía bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me, phi xì ke, tuyệt cú...  me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ, trên manhhai, nhưng không thấy.

(1)

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.

Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.


*

Đường sách Xề Gòn. Con phố ngắn này, có tên là Nguyễn Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử dụng làm Hộp Thư, Boite Postale.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi Bưu Điện tách làm đôi, một Bưu Chính, vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm dưới quyền 1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có 1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một tầng lầu phía bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me, phi xì ke, tuyệt cú...  me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ, trên manhhai, nhưng không thấy.

(1)

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.

Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.

Thật đơn giản, nhưng...

*

[Hình trên net]


Trong một bài tạp ghi, tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm cuốn ‘Đọc Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ Thời Báo Luân Đôn, TLS -  tôi có viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng ngay trên vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, được ông chủ nhà xuất bản của nó, là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại vốn, chắc là vì chẳng có ma nào đọc. Tôi còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng (1).
Tôi nói đọc cọp, là vì hồi đó, nghèo quá, không thể nào có tiền mua nhiều thứ, không cứ gì sách: một xa xỉ phẩm!
Hình như đó là lần đầu tôi biết đến cái tên Thanh Tâm Tuyền, tác giả cuốn Bếp Lửa.
Lần thứ nhì, là biết đến tờ Sáng Tạo của nhóm bạn bè của ông.

Cũng là qua một anh bạn cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng với nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn là một lớp học, trên đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự.
Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn làm tôi liên tưởng tới một mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng nhạc Thời Đại Mới, New Age, Yanni, người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền Thiêng Ấn Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.
Và cũng có thể ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm tôi nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi, tránh cặp mắt chẳng có gì là hài lòng của người bán!

Ông Yanni này tâm sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông bố của ông. Vào năm ông chín tuổi, biết ông con quá mê âm nhạc, và quá cần cây đàn piano, ông bố bèn đem cầm cố căn nhà, tài sản độc nhất mà ông có được, để mua cây đàn cho ông con.
Ông nói, mua chậm là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn. Tất cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi, chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm một tí, là những mầm đó héo đi, sau đó có được cây đàn thì cũng cẩm như không!
Kinh nghiệm của tôi đọc cuốn Bếp Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng vào lúc đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó, mà ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí dụ như Buồn Nôn, Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói rộng ra, cả thế giới văn chương.
Có lần, tui hùng dũng tuyên bố, tôi đọc những tác giả khác, thí dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là để hiểu tôi, cũng là theo ý nghĩa đó. Nói bạo hơn một chút: Những kỷ niệm của riêng Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, tôi nhờ đọc họ, mới thấy ra được. Mới biết là mình có những kỷ niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong tôi, nhưng tôi không thấy, không hề biết đến chúng. Nếu không có họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói đó, chúng cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường của mỗi con người thường…

Tôi lấy thí dụ, một lần đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về thành phố quê hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình đen trắng, vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi ông giấc mộng lớn văn chương: Ta sẽ viết một cuốn sách thay thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về thành phố Bombay.
Đọc tới đây, đột nhiên Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh đỏ lần đầu tiên có trong đời.
Cây viết chì đó thực sự không phải của Gấu, mà của một ông cậu, em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945, bà cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è cổ chịu một đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba cậu con của Bà Ba có người hầu.
Trong số ba cậu, Cậu Cầu là người thương Gấu nhiều nhất.
Lần đó, Bà Ba đi Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba cậu con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu chơi một tí. Thấy thằng cháu mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!
Chả là Gấu vừa lùn lại vừa lé [lác].

 Có thể nói, giống như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc chín, hay muời tuổi…

NQT

(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái bản mấy lần. Lần sau cùng là vào năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.
Lạ một điều, hành động trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán ra được số phận của cuốn Bếp Lửa, phải tái sinh từ những tro than của vỉa hè Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước miền nam, tái sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.





*
manhhai

The last Vietnamese taken out of the United States Embassy during the Tet Offensive of 1968, the offensive that changed the war. The prisoner, holding a U.S. identification card in his hand, was taken to the back of a nearby hospital and shot by Vietnamese military police.

namvietnews.wordpress.com/40th-anniversary-of-the-fall-of...

Note: Bill Snead là Sếp UPI của GCC. Anh thay thế Dirck Halstead, khi Dirck rời UPI qua làm phóng viên cho tờ Time.

Hình của Bill Snead, qua manhhai.
GCC nhớ là, anh sợ lắm, khi cú Mậu Thân xẩy ra. Phải một, hay hai ngày sau, UPI mới có hình gửi đi!


https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157662597272879

*

manhhai
The blank stare of a Vietnamese girl mirrors the trauma of losing homes, friends and family. Photo by Bill Snead
Photo 18-The blank stare of a Vietnamese girl mirrors the trauma of losing homes, friends and family. This was in the Da Nang area. .
Cái nhìn trống rỗng vô hồn của một cô gái Việt phản ánh chấn thương tâm lý của người bị mất nhà cửa, bạn bè và gia đình. Hình này chụp ở khu vực Đà Nẵng.

*

Civilian residents of a Saigon suburb scurry out of their neighborhood, some waving white flags...Photo by Bill Snead

Civilian residents of a Saigon suburb scurry out of their neighborhood, some waving white flags, to a quieter part of town during fighting. In some cases the Viet Cong would infiltrate an area individually and regroup before dawn attacking strategic targets.


Tên của cuộc chiến

Sự tầm phào.... Sawada chết "lãng nhách" như vậy. Người Kampuchia, lính hoặc không lính, đều không ưa phóng viên nhà báo. Nhưng lại mê cái máy hình, chiếc xe honda... Như đa số phóng viên chết tại đây, họ đều bị giết khi đang chạy xe trên một khúc đường vắng, thường chỉ bởi một con người, "đột nhiên" nổi lòng tham.

Sự thực, S. bị Khờ Me Đỏ hành quyết cùng trưởng phòng UPI, ở Nam Vang.

GCC cứ băn khoăn hoài, tại làm sao mà phịa ra được cái giai thoại như trên.

Hoá ra có, nhưng xẩy ra, với ông con của Errol Flynn, tài tử điện ảnh,
là Sean Flynn, nhiếp ảnh viên UPI, như đồng nghiệp của ông, Tim Page, cho đến những ngày này, vẫn cố tìm hiểu, bạn mình chết, như thế nào.

On April 6, 1970, in the wilds of Cambodia, Time magazine reporter Sean Flynn and fellow journalist Dana Stone raced off on motorbikes toward guerrilla positions down the highway. Part of a glamorous group of young correspondents risking their lives to cover the Vietnam War, Flynn—son of Hollywood great Errol Flynn—was 28, Stone 31.
They never returned.
More than 40 years later, their disappearance remains one of the great mysteries of modern war journalism. And Tim Page, a British photographer who lived and breathed the war alongside them—and barely survived it himself—is still pursuing the answer.
After years combing through both archives and the jungles and villages of Cambodia chasing rumors and witnesses, he struggles to explain why he has been unable to give up the search.

Sean Flynn là tác giả 1 loạt hình, chụp cảnh biệt động Mẽo treo thám báo VC lên cành cây, để tra tấn, lấy tin.
Lạ, sao GCC nhớ hoài cảnh này. Gấu là người gửi chúng "đi ra" khắp thế giới.
Nghề của chàng mà. (1)

(1) Gửi hình, thì cũng cảm thấy có tội như tên chụp hình:

It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner.

" Et je suis las de cette culpabilité, las de me dire: Ce n'est pas moi qui ai tué cet homme, ce n'est pas moi qui ai laissé cet enfant mourir de faim. Je veux maintenant photographier des paysages et des fleurs, je me condamne à la paix.
And I am tired of guilt, tired of saying to myself:

"I didn't kill that man on that photograph, I didn't starve that child." That's why I want to photograph landscapes and flowers. I am sentencing myself to peace."
“Tôi quá chán cái tội này rồi. Quá chán vì cứ phải tự nhủ: Đâu phải tôi giết người đó, đâu phải tôi để đứa trẻ chết đói.”

Don McCullin

" J'aime la photographie, je la respecte, je la vénère, je pense à elle tout le temps. Mais je ne veux pas qu'on dise que je suis un photographe de guerre. Je suis un photographe, tout simplement. Et c'est le seul titre que je revendique.
I love photography - I respect it, I worship it, and I think about it all the time. I just don't want people to call me a war photographer.
It's nice to be called a photographer. That's the only title I need. "

Don McCullin

*

Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam

Với gương mặt khắc khổ, giọng nói từ tốn, ông McCullin kể lại cảm xúc và những nỗi bất an của mình qua một số bức ảnh tiêu biểu ông đã chụp tại cuộc chiến Việt Nam từ năm 1965 đến 1973 khi còn là phóng viên ảnh chiến trường cho tờ The Illustrated London News.

"Tôi đã chụp những bức ảnh mà có lẽ bây giờ sẽ không ai cho phép chụp nữa".

Đó là những bức ảnh đầy biểu cảm về sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam cho tất cả các bên: lính Mỹ và đồng minh, Việt Nam Cộng Hòa, Bắc Việt, và những người dân thường bị kẹt giữa nhiều làn đạn.
"Cuộc chiến tại Việt Nam là một cuộc chiến hết sức phức tạp. Nó không chỉ đơn thuần là cuộc chiến giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, mà còn là Chiến Tranh Lạnh, chiến tranh ý thức hệ, và còn có thể là cuộc chiến giành độc lập nữa"
Tuy có trong tay thẻ báo chí do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp, nhưng Don McCullin đã chọn không chỉ thể hiện cái nhìn của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa qua ống kính của mình.
Sự tự do báo chí ông có được trong những năm 60 được ví như một 'tờ ngân phiếu trắng', cho phép ông được toàn quyền tự do chụp ảnh, được sử dụng cả trực thăng khi cần thiết để đi đến những vùng giao tranh nguy hiểm và nóng bỏng nhất.
Ông đã tận dụng cơ hội đó để chụp những bức ảnh mà ông cho là đại diện cho ba điều: bản thân ông, tờ báo London News, và tính nhân văn.

BBC

Còm của Gấu Cà Chớn:
Tại sao lũ Ngụy lại ngu đến như thế, nhỉ?
Cho phép tay này 1 "ngân phiếu trắng"?
Mất nước là đúng quá rồi!

Kinh nghiệm riêng của GCC:
Đám Ngụy rất quí nhà báo, chứ không hẳn là sợ. GCC, có trong túi cái thẻ ký giả nhật báo Tiền Tuyến dởm, do PLP cấp riêng cho, chỉ để đêm đêm ghé thăm Cô Bạn, ở mãi tít bên Chợ Lớn, khi về lỡ bữa nào quá giờ giới nghiêm, bèn móc bóp giơ thẻ ra 1 phát, là anh lính nào cũng "nể ra mặt", xê ra cho Người đi làm phóng sự chiến trường!


Khi rời con tầu Rắn Biển, Đệ Thất Hạm Đội, thay vì tới 1 lều tạm cư, ở khu Phú Thọ, thì Gấu tới khu Chợ Vườn Chuối, nhà ông Hiếu Chân, ông anh rể, lúc đó còn lo đưa đồng bào di cư xuống tầu vào Nam, ở Hải Phòng. Gấu một mình vô trước để kịp năm học. Bà cụ cùng thằng em trai cũng chưa vô, vì bà cụ còn lo bán chợ trời, kiếm tí tiền làm vốn.
Khu thứ nhì Gấu biết, là khu Tân Định.
Bà chị họ, chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, đưa thằng em lên trình diện ông chú. Chú Thao, Chu Quang Thao.
Ông lúc này có căn nhà ở đường Đặng Dung, thuộc khu xóm phía sau đường Trần Quang Khải. Khi Gấu đậu Trung Học, rồi Tú Tài I, ông bèn kêu kèm, [làm trợ giáo, précepteur] cho mấy đứa nhỏ con ông.
Cô con gái thứ nhì của ông, Cô Nguyệt, là mối tình đầu của GCC.
Sau, ông mua căn nhà, ngay đầu đường TQK.
Lần cuối cùng Gấu đến thăm hai ông bà và cô Nguyệt, là 1 bữa trời mưa lớn, Gấu cứ thản nhiên, vô tư như người Hà Nội, lê đôi dép đầy bùn vô nhà, làm 1 đường dài trên sàn gạch bóng lộn, cô Nguyệt hoảng quá [cô được ông bố cưng nhất, nhưng không vì thế mà không sợ ông bố Bắc Kít của mình] la thất thanh, trời ơi, sao anh không để dép bên ngoài. Gấu chỉ chờ có thế, bèn quay ra, đi 1 mách!
Hà, hà!
Ngay kế bên cái nhà to tổ bố như cái villa, của ông chú, là 1 viện bảo sanh. Mấy đứa con của GCC, đều được sinh ở đây.
Gọi chú, vì học cùng ông cụ của Gấu, nhưng ít tuổi hơn. Ông là nhân vật chính, trong cái truyện ngắn, đi tìm 1 cái tên cho 1 cuộc chiến, của Gấu.
Đến trường Nguyễn Trãi xin học. Giám thị phán, mi vô trễ, phải học lại lớp cũ, dù đã lên lớp. Tiếc 1 năm đèn sách, thế là ra trường tư. Trường Văn Hoá, nhờ thế có mớ bằng hữu tới giờ. Những Ngô Khánh Lãng, Nguyễn Hải Hà, Phạm Văn Hàm…

*

Bức hình độc nhất & Di sản độc nhất ông cụ Gấu

Đọc Hà Sĩ Phu trả lời Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa, Cali, trên blog Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới ông cụ Gấu, chán thế!

Ông bố của Gấu không hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn cả nước theo Vẹm. Mấy đứa con ở lại Miền Bắc - ông em trai út & bà chị gái, nữ anh hùng thồ hàng chiến dịch DBP của GCC -  không hề được VC công nhận là con liệt sĩ.
Gấu về lại đất Bắc, một phần là cố tìm cho ra câu trả lời. Gặp cô con gái của ông chú, Chú Cầm, vào thời kỳ đó, là huyện uỷ Hạc Trì  [Bạch Hạc và Việt Trì] sau nghe nói, leo lên đến 1 chức vị gì cao lắm, cũng bị VNQDD bắt, nhưng trốn thoát. Bà cho biết, ông bố của bà, cho bà biết, ông giáo Dương, tức Nguyễn Tái Dương, bố của Gấu, chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình viên của Việt Minh.
Gấu cũng được biết, qua cô con gái của Chú Cầm, ông bố của Gấu, bị tên học trò giết, là do không chịu đại diện cho VNQDD, ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông đúng 30 Tết, dự tất niên với băng VNQDD chiếm giữ Việt Trì, là vì vấn đề Quốc Hội Vẹm, hẳn thế, và khi ông lắc đầu, đấng học trò bèn làm thịt Thầy, trước khi bỏ chạy VC qua Tẫu.
Như thế, ông cũng là cảm tình viên của VNQDD ?
Gấu tin là ông cụ Gấu, khi phải chọn giữa Nguyễn Thái Học và Bác Hồ, đã chọn Nguyễn Thái Học!

Trong bài viết về Koestler [điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The Literary and political Odyssey of a 20 Century Skeptic, trong mục Di sản của chủ nghĩa toàn trị, Athur Koestler: The Zealot [“cuồng tín” – thay vì “bi quan”, skeptic], trong cuốn tiểu luận của ông, Arguably, Christopher Hitchens cho biết, Koestler bỏ đảng CS, liền sau khi thoát ra khỏi Tây Ban Nha, vì quá tởm những vụ án thanh trừng “mần tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge trials, 1938 [ông, sau dùng làm đề tài cho cuốn Đêm Giữa Ban Ngày].

Koestler diễn tả cái tởm của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên văn, vô bài viết của mình:

It is a logical contradiction when with uncanny regularity the leadership sees itself obliged to undertake more and more bloody operations within the movement, and in the same breath insists that the movement is healthy. Such an accumulation of grave surgical interventions points with much greater likelihood to the existence of a much more serious illness.
[Thật khốn kiếp khi, một mặt, cứ tiếp tục thanh trừng nội bộ, cùng lúc phán, Đảng ta đả biến thiên hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ lắm]

Trong cuốn tiểu luận, có bài Hội Chứng Việt Nam, The Vietnam Syndrome, viết về vấn đề chất độc màu da cam, thú.
Thú hơn nữa, nó làm Gấu nhận ra, trong cái gọi là “hội chứng Mít”, có... “hội chứng Tẫu”!
Christopher Hitchens giải thích, bằng tiếng La Tinh: Mutato nomine de te fabula narratur: with the name changed, the story applies to you.
Cứ thay cái tên đi, là nó áp dụng vô ngay tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu có phải là chúng không biết thằng Tẫu khốn kiếp đâu. Suốt chiều dài lịch sử, một mặt chống Tẫu, một mặt mở nước về phía Nam, làm cỏ mọi giống dân yếu hơn, ít người hơn, vậy mà đùng 1 phát, rước chúng vô nhà, vô giường, để ăn cướp cho bằng được Miền Nam.
Gấu thêm vô, còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.

May 28, 2014 by Ai Trần      

Chia tay

Hôm qua tôi đưa con gái út ra phi trường. Cô xin được công việc làm mùa hè ở tiểu bang Wisconsin. Làm research. Cô nhắm công việc này từ mùa hè năm trước nhưng khi ấy cô còn đang học năm thứ hai, mà người ta đòi điều kiện phải ít nhất là năm thứ ba. Năm nay cô lại nộp đơn và người ta nhận. Ông Tám, chị Ách Cơ của cô, và tôi tiễn cô ra phi trường. Ông Tám và Ách Cơ xách hành lý đưa cô vào bên trong. Tôi ngồi chờ ngoài xe. Chia tay, tôi ôm cô. Chúng tôi hôn nhau và cô nói. “Thế thôi à?” Dường như cô ngỡ ngàng, nhận ra đến lúc mình phải xa tất cả những thứ quen thuộc an toàn, bố mẹ, chị, và con mèo. Hay là cô ngỡ ngàng tôi không đưa cô vào tận bên trong.

Còn tôi, mãi đến khi người ta bảo, thuyền ra đến hải phận quốc tế rồi, tôi mới chợt nhận ra tôi đã mất hết. Không còn đường về. Tôi mất má tôi rồi.

Khi tôi ngồi chờ trên xe, tôi thấy có một chiếc xe BMW mui trần đậu vào trước xe tôi. Người lái xe là một phụ nữ độ ngoài năm mươi. Bà chở cô con gái và đứa bé, chắc là cháu ngoại. Bà bế cháu cho cô con gái sửa soạn khuân hành lý từ trên xe xuống. Cô con gái trạc ba mươi. Cô mang chiếc ghế dành riêng cho em bé xuống, bỏ vào bao, bọc lại. Đeo nịt mang đứa bé trên ngực. Một cái túi đeo trên lưng. Tay kéo va li hành lý, và chiếc ghế em bé đi. Trước khi đi bà mẹ hôn con gái và cháu ngoại.

Tôi thấy khóe môi người đàn bà run rẩy. Bà cắn môi nhưng những giọt nước mắt vẫn tràn ra trên má long lanh. Tôi đoán có lẽ lâu lắm bà mới có thể gặp lại con gái và cháu ngoại. 

Tôi chợt nhận ra tôi không khóc khi tiễn cô út. Vì cô đi chỉ hơn hai tháng là về. Thật ra tôi còn thấy nhẹ nhõm khi biết là mình không phải bận rộn nấu ăn cho cô trong hai tháng cô vắng nhà. Tôi thuộc loại bà mẹ lười biếng. Mặc dù tôi chưa bao giờ bỏ con ở nhà để đi nghỉ hè, nhưng mỗi khi tôi tránh được chuyện nấu cơm, rảnh rỗi để lười biếng thì tôi hoan hỉ lắm.

Tôi nhớ, khi tôi nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má tôi, trong cơn say sóng dữ dội, tôi quì gối gục đầu xuống khoang thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.

Những cuộc chia lìa khởi từ đây…

*

Bài này quá tuyệt, đúng là cao thủ, do mù mờ mà thành, cũng nên. Lấy cái nọ bù cho cái kia.

Tks. NQT

V/v “Cao thủ”

Roland Barthes ưa xài đòn này. Ông nối kết hai vật, chẳng mắc mớ, liên hệ, rồi ra đòn, chúng là một, hoặc chúng có cái thật đỗi chung.

Rõ rệt nhất, trong Mythologies, bài Thiên Văn, Astrology, ông đưa ra nhận xét thật bất ngờ: Thiên văn và Văn chương có cùng một nhiệm vụ, task, trì chậm xác nhận cái thực, the “delayed” confirmation of the real.
Khủng hơn nữa, ông biểu là, trong cái vũ trụ tiểu tư sản, Thiên văn Văn chương, In the petit-bourgois universe, Astrology is Literature.

Thảo nào mấy Thầy sáng tác đếch được bèn quay qua sờ mu rùa, bói toán việc nước Mít: Tẫu nó đếch dám đụng vô Mít đâu, tối hôm qua tao coi sao trời thấy có nói rồi!

Hay bài, “Kẻ Nghèo và Tên Vô Sản” [tưởng 1 mà đếch phải 1].

Michel Foucault, khi viết Chữ và Vật, cho biết, được gợi ý từ 1 bản xếp hạng của Tẫu, trong đó, có những vật lạ hoắc, vậy mà cũng được xếp chung với nhau, là bạn quí của nhau!

"Les Mots et les Choses", nhan đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp với chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây phương).

Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau: a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v… và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.

Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên?

Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch sử trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động. (1)

Trở lại với bài viết của Ai Trần. Với những độc giả thường ghé thăm blog “bâng quơ”, tác giả thường có tí mừng, khi người thân đi vắng vài ngày, vì vào thời gian đó, bà cho phép bà lười biếng, hoặc có tí thì giờ rôi ra để viết.
Tuy nhiên, ở đây, so với cái lớn là vượt biển, nỗi đau của cả nước, thì cái buồn nhớ con chẳng nên kể ra!
Lấy cái nọ bù cái kia, là thế.
Ở đây, như thế, cũng có cái cười “rung rinh”, bên cạnh nỗi buồn nhất định không nhỏ lệ!

Hà, hà!

Post cái vụ vượt biển của Ai Trần, là tính nhân đó, đi thêm 1 đường về cú vượt biển của GCC. Nước mắt ràn rụa, làm nóng, làm rát cả 1 nửa bộ mặt nhưng, không phải nước mắt của GCC.

Viết là Khiếp

     Tôi trở nên khiếp đảm...


Đêm 23 tháng Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu thanh niên đứng kế bên lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện khác, ông già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh niên, mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con thuyền chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót ngọn sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy, tám tuổi, thấy bạn cùng lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm được. Và cứ thế lao xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp sửa chìm nghỉm, bèn nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi đã hoàn hồn, đứng ngơ ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai nạn. Như thể, cậu đã trải qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó đã từng xẩy ra, trong một giấc mơ, có thể.
Cậu có cảm tưởng, anh bạn lớn tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và anh ta sẽ can thiệp, đúng lúc.
Rõ rệt nhất là lần chơi bắn bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn, chiếm cả một góc gian nhà chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên hai tấm mễ gỗ, hay ngựa gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi những cơn lũ lụt, và những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào cũng lo trữ lúa.
Hòn bi lăn tít vào gầm hòm. Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá mục, cùng sập xuống.
Như sống lại giấc mơ, cậu xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc mễ chia giùm sức nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy vắt cơm để thu hồi lại.
Lớn lên, cậu mất dần khả năng kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp dí - có một điều gì liên can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như thể gia đình ông bị trù yểm, bởi nước.
*

Ông già của ông già bị đảng phái thủ tiêu, bằng cách cột đá vào người bỏ xuống sông.
Đứa em trai, tử trận tại một khúc sông, do một viên đạn từ bên kia bờ bắn xuống nước dội lên.
Bản thân ông đã từng bị thương nặng tại bờ sông Sài-gòn.
Lần đó, đúng ra là đi luôn, nếu không có kẻ thế mạng: một chuyên viên Phi Luật Tân mới chân ướt chân ráo tới Sài-gòn.
*

Nhưng được bỏ qua, không có nghĩa là được tha thứ. Ông già thấy nhẫn nhục, cam chịu.
Đó là một chuyến đi được tổ chức rất chu đáo. Và có lúc ông già nghĩ rằng sẽ thành công...

*

"Tôi trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật".

D. M. Dylan Thomas mở đầu “Hồi tưởng & Hoang tưởng”.

Với ông, khả năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó xẩy ra, ở một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi nó. "Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều, rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống.
Điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng. Cách đây vài năm, tôi [D.M. THomas] đi thăm Lydia, người chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp ẹp, tối thui. Chủ nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt lủn, lủng lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà phê, loại uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm sao liên hệ bà với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có muốn đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi đi theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng.
Một luồng mầu sắc và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh tuyệt vời. Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một người đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải tóc.

Tôi yêu liền ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.

Chẳng có gì đáng kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác những bức họa đã hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã có bảo hiểm những bức họa?" "Không, nếu bị đánh cắp, cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu của ông.
Một trong những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ bí, đáng sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì đứng tim, ngay trên đường phố Moscow, đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago, đã "ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô con gái Lydia đã trở thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Liền đó, ông kể lại một kinh nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác sĩ tâm thần làm ông nhớ đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một cái gì liên can đến mặc cảm Oedipe).
"Thay vì đi nhà thờ, cậu đã tới một sex shop".
"Đúng như vậy". "
Rồi trí tưởng của tôi đầy rẫy những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà bác sĩ gọi điện thoại:
"Tôi không thể gặp anh bữa nay. Tôi phải đi đám ma.
"Oh, I am sorry, tôi mong không phải là một người thân của bà.
"Thảm thay, đúng như vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết luận, đâu có gì là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không phải cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".

Chỉ là lộng giả thành chân. Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm giác ghê rợn, khủng khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh. Như thể cuộc chiến lập lại, khi giả tưởng "xuất hiện".

Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Ông già quen anh bạn, những ngày cả hai cùng làm việc cho một hãng tin nước ngoài. Anh là nhiếp ảnh viên. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít, có lần, trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào về mấy quí tướng của mình.
Ng. quả thực rất khôn ngoan. Nếu có gì đó, làm anh thất vọng về chính mình, có lẽ là, anh đã không theo đuổi nghề "phóng viên chiến tranh" cho tới cùng. Anh giải thích, làm cho hãng tin Mỹ một thời gian, anh chuyển qua một hãng tin Nhật. Ông già không gặp anh từ dạo đó. Rồi bỏ nghề, về nhà đuổi gà cho vợ.
"Mày có nhớ được bao nhiêu thằng tụi mình quen, đã tử mạng ? Ở chiến trường, cái máy chụp hình trông xa giống như khẩu súng. Còn chữ Press ở trên ngực, gặp VC tụi nó cũng chẳng tha. Sau Mậu Thân, bà vợ tao hoảng quá, không cho tao làm phó nháy nữa".
Cũng có thể còn một lý do. Tuy nhỏ con, nhưng anh có một sức hấp dẫn đặc biệt, với phụ nữ.
Anh vẫn mơ tưởng, ngoài người vợ anh đã ly dị, có với nhau một đứa con trai; ngoài bà vợ sau anh đang chung sống, có được một đứa bé gái - vì mê bả, anh giải thích, anh đã không bỏ đi, những ngày tháng Tư năm đó - còn một việc gì, chiến cuộc dành riêng cho anh, những kẻ bỏ cuộc hơi sớm. Như thể nó cho anh "hoãn dịch", để thực hiện sứ mạng này.

"Tôi để dành tôi cho tương lai", Phan Văn Hùm, (hay Tạ Thu Thâu ?), đã nói vậy, khi từ chối làm việc với những người CS. Một người quen của ông già cũng đã nói một câu tương tự, khi từ chối lệnh nhập ngũ.
Anh bạn phóng viên mơ tưởng "làm một việc, để trả ơn nhân dân Mỹ," khi đem đến cho họ tin tức, về những "con mực", mật ngữ của anh. Anh giấu kín những "tài liệu vô giá" đó, chỉ thêm vào, một bức thư, bằng tiếng Anh, do ông già viết. Một thứ "bạch thư", đại khái vậy. Thì cũng nhờ mớ tiếng Anh còn sót lại, ông già đã được "tổ chức", qua anh bạn phóng viên, chấp nhận.

Sau này, bữa theo vị linh mục người Pháp, tới văn phòng ODP, tại Bangkok, nằm trong building khổng lồ City Bank, ông thấy lại tất cả những đơn từ, thư viết tay, hình ảnh, hôn thú, giấy khai sinh..., tất cả những gì ông gửi từ Việt Nam, những ngày cực khổ, việc gửi thư là một xa xỉ... Không thấy bức "bạch thư". Như vậy, ông già nghĩ thầm, nó thuộc về một hồ sơ khác, nằm ở Bộ Quốc Phòng, như Steel, nhân viên tại Toà Lãnh Sự Mỹ, tại Vientiane, nói. "Steel, như cái này này," anh giơ chân đập vào tủ sắt kế bên. Trong bữa gặp gỡ, anh có nhắc tới Alan Dawson, một ký giả Mỹ làm cho UPI. "Ông ta là bạn tôi, hiện đang làm việc tại Bangkok. Các anh có thể tới đó gặp ông ta. Nhưng tôi không thể giúp đỡ gì, trong việc này. Tôi sẽ chuyển bức thư đi, vậy thôi." Trước khi nói chuyện anh đã cẩn thận đóng cửa văn phòng, không cho nhân viên người Lào tại sứ quán biết, về cuộc gặp mặt giữa những điệp viên CIA, hoặc MIA, "dởm". Sau khi đọc qua hồ sơ ODP, nhìn hình hai người lớn, và mấy đứa nhỏ, vị linh mục người Pháp nói, "Bây giờ ta có thể giúp con được rồi. Ta sẽ đưa con tới sở cảnh sát Bangkok. Họ sẽ bỏ tù vợ chồng con mấy tháng. Sau đó, Cao Uỷ sẽ đưa các con tới trại tị nạn."

Cũng lại một chuyến vượt biên, nhưng bằng đường bộ. Ông già vốn không tin con đường Đức Thánh Trần chỉ bảo. Gia đình ông, bị thần nước trù yểm, kể từ thời Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, cũng nên. Quê ông vốn vùng núi Tản, sông Hồng.

Trên ghe, đa số là người theo đạo. Khi đã tuyệt vọng, họ hy vọng vào Chúa. Tiếng cầu kinh nổi lên, lúc đầu còn rời rạc, nhưng dần dần át tiếng mưa bão. Phép lạ, phép lạ, ông già loáng thoáng nghe có người suýt soa. Vài phút trước đó, ông đã được anh thợ máy, sau khi thất bại không thể làm cho máy chạy, từ dưới hầm tầu bò lên, nhìn trời, ngó đồng hồ... Sau đó, anh giải thích, bão ven biển vốn vậy. Tới gần sáng là ngưng. Vả lại ghe chưa ra xa bờ. Nếu sửa cho máy nổ, chắc là tiêu rồi, anh vừa nhìn vào bờ vừa thẫn thờ nói. Trên bờ loáng thoáng những ruộng muối...
Anh bạn đi cùng đã thả xuống biển những chứng tích cuối cùng, của chuyến đi...
NQT






Tên của cuộc chiến


Khi rời con tầu Rắn Biển, Đệ Thất Hạm Đội, thay vì tới 1 lều tạm cư, ở khu Phú Thọ, thì Gấu tới khu Chợ Vườn Chuối, nhà ông Hiếu Chân, ông anh rể, lúc đó còn lo đưa đồng bào di cư xuống tầu vào Nam, ở Hải Phòng. Gấu một mình vô trước để kịp năm học. Bà cụ cùng thằng em trai cũng chưa vô, vì bà cụ còn lo bán chợ trời, kiếm tí tiền làm vốn.
Khu thứ nhì Gấu biết, là khu Tân Định.
Bà chị họ, chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, đưa thằng em lên trình diện ông chú. Chú Thao, Chu Quang Thao.
Ông lúc này có căn nhà ở đường Đặng Dung, thuộc khu xóm phía sau đường Trần Quang Khải. Khi Gấu đậu Trung Học, rồi Tú Tài I, ông bèn kêu kèm, [làm trợ giáo, précepteur] cho mấy đứa nhỏ con ông.
Cô con gái thứ nhì của ông, Cô Nguyệt, là mối tình đầu của GCC.
Sau, ông mua căn nhà, ngay đầu đường TQK.
Lần cuối cùng Gấu đến thăm hai ông bà và cô Nguyệt, là 1 bữa trời mưa lớn, Gấu cứ thản nhiên, vô tư như người Hà Nội, lê đôi dép đầy bùn vô nhà, làm 1 đường dài trên sàn gạch bóng lộn, cô Nguyệt hoảng quá [cô được ông bố cưng nhất, nhưng không vì thế mà không sợ ông bố Bắc Kít của mình] la thất thanh, trời ơi, sao anh không để dép bên ngoài. Gấu chỉ chờ có thế, bèn quay ra, đi 1 mách!
Hà, hà!
Ngay kế bên cái nhà to tổ bố như cái villa, của ông chú, là 1 viện bảo sanh. Mấy đứa con của GCC, đều được sinh ở đây.
Gọi chú, vì học cùng ông cụ của Gấu, nhưng ít tuổi hơn. Ông là nhân vật chính, trong cái truyện ngắn, đi tìm 1 cái tên cho 1 cuộc chiến, của Gấu.
Đến trường Nguyễn Trãi xin học. Giám thị phán, mi vô trễ, phải học lại lớp cũ, dù đã lên lớp. Tiếc 1 năm đèn sách, thế là ra trường tư. Trường Văn Hoá, nhờ thế có mớ bằng hữu tới giờ. Những Ngô Khánh Lãng, Nguyễn Hải Hà, Phạm Văn Hàm…



*

1965 [manhhai]

GCC ít khi ngồi ở đây, mà là ở Quán Chùa, La Pagode, hoặc Givral. 
G, thường là buổi tối, đợi bạn đi Quán Đen, có cái tên quen thuộc hơn, là Vòm.
Từ này, chắc là từ Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, anh đây công tử không vòm….

Đầu năm, server chỉ cho biết trang này:


Nhớ về Tân Định & Đakao – Trần Đình Phước


Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

Nhớ về Tân Định

Quán lúc này đã đổi chủ, HT sang lại cho bà con của họa sĩ TT, không biết bây giờ, ai là chủ. Hồi đó, chưa có thứ ghế nhựa sang như trên, mà là thứ ghể gỗ thấp, chắc gi vẫn còn, ở những quán vỉa hè.
*

Sở dĩ nhạc Văn Cao tới được cõi Thiên Thai, vì ông, có thể, và dư sức.. giết người!

Mỗi lần PD làm được 1 tình ca để đời, là ông phải làm thịt một em, y chang Vi Bức Vương, mỗi lần giở khinh công tuyệt đỉnh ra là phải hút máu người!

Bây giờ thì Gấu hiểu ra là, những câu trên, đều bước ra từ câu nói thần sầu của Walter Benjamin:

Mọi tài liệu về văn minh đều là một tài liệu về dã man.

Bữa trước, GNV đọc 1 blog ở trong nước, của 1 đấng VC. Đấng này kể về 1 lần đóng vai hướng dẫn viên cho 1 đoàn khách du lịch nước ngoài, và 1 tay mũi lõ hỏi, xứ Mít đẹp như vầy, sao không có những công trình hiển hách như Vạn Lý Trường Thành của Thiên Triều?

Thế là anh VC cao giọng dậy dỗ tên mũi lõ ngu đần:
Mi có biết Vạn Lý Trường Thành làm chết bao nhiêu người dân TQ đói khổ không?
Nước Mít của chúng ông lấy Đức Hiếu Sinh làm trọng, không thể bắt dân xây dựng những đền đài, những công trình văn hóa dã man như thế!

Ui chao, GNV đọc mát cả… chim.
Cả 1 cái nước Mít, chính là 1 cái công trình dã man của Cái Ác Bắc Kít.

Chúng sợ Thiên Triều quá, rồi đẻ nhiều quá, đồng bằng sông Hồng nuôi không nổi, cứ thế tràn xuống Miền Nam, làm cỏ không biết bao nhiêu giống dân, sau cùng làm cỏ luôn thằng em Nam Bộ, thu đất Mít về một mối, cho đám Cùng Hung Cực Ác ở Bắc Bộ Phủ hưởng, thừa ra thì tới đám lau nhau!

7/68 KQ: Tân Định & Đa Kao

768kq.blogspot.com/2013/09/tan-inh-kao.html

Tên của cuộc chiến


Khi rời con tầu Rắn Biển, Đệ Thất Hạm Đội, thay vì tới 1 lều tạm cư, ở khu Phú Thọ, thì Gấu tới khu Chợ Vườn Chuối, nhà ông Hiếu Chân, ông anh rể, lúc đó còn lo đưa đồng bào di cư xuống tầu vào Nam, ở Hải Phòng. Gấu một mình vô trước để kịp năm học. Bà cụ cùng thằng em trai cũng chưa vô, vì bà cụ còn lo bán chợ trời, kiếm tí tiền làm vốn.
Khu thứ nhì Gấu biết, là khu Tân Định.
Bà chị họ, chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, đưa thằng em lên trình diện ông chú. Chú Thao, Chu Quang Thao.
Ông lúc này có căn nhà ở đường Đặng Dung, thuộc khu xóm phía sau đường Trần Quang Khải. Khi Gấu đậu Trung Học, rồi Tú Tài I, ông bèn kêu kèm, [làm trợ giáo, précepteur] cho mấy đứa nhỏ con ông.
Cô con gái thứ nhì của ông, Cô Nguyệt, là mối tình đầu của GCC.
Sau, ông mua căn nhà, ngay đầu đường TQK.
Lần cuối cùng Gấu đến thăm hai ông bà và cô Nguyệt, là 1 bữa trời mưa lớn, Gấu cứ thản nhiên, vô tư như người Hà Nội, lê đôi dép đầy bùn vô nhà, làm 1 đường dài trên sàn gạch bóng lộn, cô Nguyệt hoảng quá [cô được ông bố cưng nhất, nhưng không vì thế mà không sợ ông bố Bắc Kít của mình] la thất thanh, trời ơi, sao anh không để dép bên ngoài. Gấu chỉ chờ có thế, bèn quay ra, đi 1 mách!
Hà, hà!
Ngay kế bên cái nhà to tổ bố như cái villa, của ông chú, là 1 viện bảo sanh. Mấy đứa con của GCC, đều được sinh ở đây.
Gọi chú, vì học cùng ông cụ của Gấu, nhưng ít tuổi hơn. Ông là nhân vật chính, trong cái truyện ngắn, đi tìm 1 cái tên cho 1 cuộc chiến, của Gấu.
Đến trường Nguyễn Trãi xin học. Giám thị phán, mi vô trễ, phải học lại lớp cũ, dù đã lên lớp. Tiếc 1 năm đèn sách, thế là ra trường tư. Trường Văn Hoá, nhờ thế có mớ bằng hữu tới giờ. Những Ngô Khánh Lãng, Nguyễn Hải Hà, Phạm Văn Hàm…






*


*

SAIGON 1954 - Operation Passage to Freedom - by Howard Sochurek
Có lẽ ghe thuyền dùng sào tre đưa hàng lên bán cho người trên tàu
[hình manhai]
Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.
Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"
Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."
"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.

Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.



  *
manhhai
Saigon 1966 - Central Market

Have You Ever Seen The Rain?

Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi :D.
Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".

Have you ever seen the rain?
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi?

Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại có một lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.

Câu hát trọn vẹn của nó đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên má em, bữa hai đứa mình đứng trú mưa, tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp hát, kế bên Nhà Thương Đô Thành... .



Someone told me long ago theres a calm before the storm,
I know; its been comin for some time
When its over, so they say, itll rain a sunny day,
I know; shinin down like water

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Yesterday, and days before, sun is cold and rain is hard,
I know; been that way for all my time
til forever, on it goes through the circle, fast and slow,
I know; it cant stop, I wonder

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Yeah!

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Someone told me long ago theres a calm before the storm,
I know; its been comin for some time
When its over, so they say, itll rain a sunny day,
I know; shinin down like water

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

*

@ Quán Hạ Cờ Tây, chân cầu Thị Nghè, 2001

Khu Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi

Gặp Gỡ Cuối Năm


*

Rạp Cao Đồng Hưng, gần hẻm Đỗ Thành Nhân, nhà Bạn Chất



Văn xuôi Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi


Trong Nửa Thế Kỷ Của Tôi, tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có trích mấy đoạn, trong Nhật Ký, bà viết về thành phố của bà.
Post lên đây như “chim mồi”, lấy hứng, viết về Sài Gòn Của Gấu ngày nào.

Nữ văn sĩ Bắc Kít, Lờ Mờ Hờ, khi mới viết, cũng có những dòng thật đẹp về Hà Nội.
Nhưng Hà Nội của Gấu khác, và Sài Gòn, thì tất nhiên, khác, vì bà này làm gì có!

"Suốt khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."     

(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)

Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố.

Tuyệt!


Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

30. 4. 2013

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011
TTT 2012

Tribute to PCL & VHNT
Xử VC
Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

NQT vs DPQ



Saigon ngày nào của GCC


V/v NS. Trên Blog Ðoàn Nhã Văn có 1 bài viết về ông. Post lại ở đây.

Nhà văn và những chuyện liên quan (3)

Một người bạn vừa email hỏi: "Ông biết câu này trong bài thơ nào không?" và viết tiếp "Bia lên tìm chỗ ta nằm / Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu", là sao?...
Anh bạn cho biết: câu thơ đọc được trong 1 bài báo của 1 tờ báo "chợ" tại địa phương. Báo "chợ" là báo tặng miễn phí, thường phát hành tại các chợ người Việt tại Mỹ. Đây là những tờ báo địa phương, sống bằng quảng cáo của các cơ sở thương mại trong vùng.
Trở lại câu hỏi của người bạn. 'Bia' trong câu này không phải là bia ... uống, bia hơi. "Bia lên" không hề là nâng bia lên để cùng uống. Và, "bia lên" càng không hề là bia ...ôm.
Bia, ở đây, là tấm bia nơi trường bắn. Là mục tiêu tác xạ của những người lính mới.
Câu thơ trên là 1 câu trong bài thơ "Sân bắn" của nhà thơ Nguyên Sa, mà câu kết là 1 câu thơ đẹp:

"Hầm bia buồn đến mộ sâu
ngàn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."

Tôi nghĩ, đây có thể là bài khởi đầu trong mạch lục bát của Nguyên Sa. Và cũng nên nói thẳng rằng: Nguyên Sa làm rất ít lục bát, ngay cả những năm tháng sống ngoài nước. Và cũng nói luôn, theo tôi, lục bát không phải là điểm mạnh của ông, dù rằng trong số những bài lục bát ấy, có nhiều câu thơ đẹp. 

Xin chép lại bài "Sân Bắn"

Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du,
Thấy tay dư, thấy thân thừa,
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau,
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta...
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh,
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu...
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay... 

Bài này ông làm năm 1966, thời kỳ ông bị động viên theo học khóa 24 Thủ Đức. Chuyện bị động viên của ông cũng rất .. hài hước. Ba mươi mấy tuổi, đang dạy học ngon lành, ông nhận giấy lên đường. Lúc đó, Tổng Trưởng giáo dục là ông Bùi Tường Huân. Nhưng NS tin rằng: sau ông Huân phải có "đại ca thủ lãnh". Đại ca mượn ông BTH mà xuống tay với ông. Dĩ nhiên, trước khi vào Thủ Đức NS cũng đã nhờ những tên tuổi khác, chống lưng một thời gian, để sắp xếp công việc nhà. Và khi mọi việc đã sắp xếp xong, ông "phơi phới lên đường". 

Và ở quân trường Thủ Đức, "Sân Bắn" đã ra đời. Nó ra đời từ những mệnh lệnh:

- Hầm bia chuẩn bị
-Xạ thủ chuẩn bị!
-Mở khóa an toàn!
-Bia lên
-Bắn 

Và thi sĩ (chứ không phải xạ thủ) đã bật ra:

"Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."

Note: Chuyện động viên thì ai cũng dính hết, khó mà…  “hài hước” được. Sở dĩ NS "ba muơi mấy tuổi đang dạy học ngon lành", bị gọi động viên, theo như Gấu suy nghĩ, trước đó, ông đã được ai đó vờ đi. Và BTH đã làm đúng việc của ông, nghĩa là hỏi thăm sức khoẻ của NS.

Ðây là 1 cái may lớn của NS, thực sự là vậy. Về già ông phải cám ơn BTH. Nhờ đi lính, ông làm thơ, bài thơ trên, viết văn, không phải thứ “dễ dãi và sung sướng”, mà là thứ có mùi người chết [những ngày ông phục vụ ở chung sự vụ).
Mấy thằng bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC làm sao có được cái may như NS. Bị gọi, ông sợ lắm, phải đưa đi nhà thương tâm thần, TPG nhân đó, đi một đường vấn an thật xỏ lá, để đáp lễ cái cú NS đánh ông, khiến 1 phần nào làm ông mất job!
Trên TV có cái Tin Văn Vắn ký tên Thư Trung, tức TPG nhưng không làm sao kiếm ra.

*

Trong đời viết văn cũng cả nửa thế kỷ đâu có ít, Gấu chưa từng có ý nghĩ nhìn lại những trang viết cũ, và cũng chẳng hề mong có ai viết về mình, theo cái kiểu nhà văn của thế kỷ, như Thầy Cuốc phán về VP. Gấu thực sự mong có người viết về mình, như "tri âm tri kỷ", kẻ thù càng tốt, như trong Ngư Ông và Biển Cả.

Một nhà phê bình, khi đưa ra 1 nhận xét "chìa khoá" về 1 tác phẩm, hay 1 tác giả, thì chẳng khác gì 1 anh học trò phải chứng minh một định lý, hay giải 1 bài toán. Giải 1 bài toán thì phải dựa vào những giả thiết, ở đầu bài. Bài toán phán, cho 1 tam giác cân, lập tức anh học trò biết ngay, anh ta có 1 tam giác, tam giác đó có 1 đỉnh, hai đáy, hai cạnh bằng nhau, hai góc đáy bằng nhau. Và anh ta sẽ phải dựa vào đó để chứng minh. Giả thiết không thể thừa, không thể thiếu. Thiếu, không giải được. Thừa vô nghĩa, bài toán ra trật.
Với nhà phê bình, khi phán, là phải dựa vào những giả thiết như thế. Nhưng với anh ta, giả thiết do anh ta tìm ra, không ai cho, và có thể, càng nhiều giả thiết, thì càng dễ thuyết phục người đọc. Câu phán cũng chỉ có tính thuyết phục thôi, chứ không phải là chân lý.
Chúng ta lấy câu phán của Thầy Cuốc về Võ Phiến, nhà văn của thế kỷ 20, để bàn thử.

Bất cứ nhà văn nào sống cùng thời với VP, đều có thể nói ta là nhà văn của thế kỷ 20 được.
Một độc giả sau khi đọc câu phán, nếu như quan tâm, thì bèn tìm hiểu, thế kỷ 20 có cái gì, và VP có mắc mớ tới cái gì đó không, thì sẽ nảy sinh 1 số vấn đề, thế kỷ 20 là thế kỷ của bạo lực, của cái ác ngự trị, của Lò Thiêu, Trại Cải Tạo, Gulag…

VP có mắc mớ tới những thứ đó không?
“Hình như” không.

Nói ông là nhà văn của thế kỷ 20 do chống Cộng cũng sai, vì tác phẩm của VP không chống Cộng. Ðặt ông vào cái thế đó là hạ thấp tác phẩm của ông. Tụi VC đã làm như thế, thành ra chúng đếch cho ông về, phong cho ông là Tổ Sư Chống Cộng cả trước 1975, và sau đó, ở hải ngoại. Bữa trước, Gấu đọc đâu đó 1 bài về ông, hình như của PLT thì phải, ông này về trong nước và có hỏi ý VC, liệu VP có về được không, VC lắc đầu, và PLT rất lấy làm buồn cho VP.

Quá nhảm.

Một người như VP mà phải năn nỉ xin về ư?
Nếu sự thực VP ướm lời, thì VC phải sướng điên lên, trải thảm đỏ mời ông về thì mới đúng chứ, sao lại lắc đầu.
Bởi thế, chúng đâu có thực sự hoà giải. Coi trường hợp PD, Kỳ Râu Kẽm là biết. Chúng tìm đủ cách dụ hai ông này về. PD thì dùng tiền nhử. Nửa triệu đô chứ đâu có ít. Kỳ Râu Kẽm, thì chỉ mong nắm xương tàn sẽ được nằm ở xứ Ðoài mây trắng lắm, sau khi hoàn tất cái công trình của thế kỷ ở Vịnh Hạ Long! Về, là chúng chửi như chửi chó. PD thì bị chính 1 ông nhạc sĩ, bố của ông ta bị VC làm thịt, chửi. Kỳ bị một đấng cùng quê Sơn Tây. Tên khốn này chửi xong, phán, thôi tha cho tên tội đồ!
Cô con gái đâu thấy đau, lại quay qua chửi đám hải ngoại, mấy ông thầy chùa ở Cali đã nhận tiền tụng kinh cho Râu Kẽm, sau lắc đầu!
Khốn nạn thế.


Monday, October 10, 2011 2:23 PM

Hà Nội 1954

Không biết mày đã từng xuống tàu này để vào Nam năm 1954 hay không.
Không được thư mày trả lời thư tao thăm hỏi sức khỏe mày. Tuy nhiên, tao cứ cho rằng mày vẫn an lành mọi mặt. Nhân tiện, tao nêu mấy chi tiết không quan trọng đọc thấy trong 'Nơi Người Chết Mỉm Cười' mà thư trước tao quên không nói tới. Vụ biểu tình chống Văn Tiến Dũng năm xưa, mày và tao có tham dự, xảy ra ở khách sạn Galie'ni (?) chứ không phải Majestic. Trường của ông Nguyễn Khắc Kham ở đường Ngô Tùng Châu có tên là Văn Hóa, không phải Văn Lang của ông Ngô Duy Cầu. Ngoài ra, về chữ dịch, mày dịch Hope abandoned là Hi vọng rã rời thì không biết có phải mày định nói 'hi vọng đã rời xa hay hi vọng xa rời hay không. Một ý khác, .....vấn đề có liên quan đến đất cát (Câu này tao muốn trích nguyên văn nhưng tìm thoáng qua lại không thấy. Có phải mày định nói ... có liên quan đến nơi sinh, sống?)

Lủng

Tao trả lời mày liền rồi, cả ở trên Tin Văn.
Tao và mày biểu tình ở cả hai khách sạn.
Ở Galliéni trước, sau quay qua Majestic. Ở Majestic, mày phá cửa phòng của 1 em đầm, nó khóc thảm thiết, sợ bị giết. Tao nhớ rõ lắm, làm sao quên được?

Có tí mùi đầm, ngay đầu đời nữa, làm sao quên?

Tao đi tầu Marine Serpent, Rắn Biển của Ðệ Thất Hạm Ðội. Ðúng chuyến có Ðức Hồng Y Spellman lên tầu thăm dân di cư.

V/v tên trường Văn Hóa. Tks. NQT

Hope abandoned: Hy vọng tan hoang, rã rời, tao dịch theo ý của tao, không theo nguyên ý của câu tiếng Anh, hope abandoned, hy vọng bị bỏ rơi.

V/v Hình di cư xin coi Blog Tin Văn. NQT

*

*

Một trong những Chợ Giời như thế này, mở ra ngay trước nhà của Gấu, villa số 60 đường Nguyễn Du, Hà Nội, vòng quanh 1 phần bờ hồ Hallais. Trộm cắp như rươi. Gấu thủ một khúc gậy, đêm nằm ngay hành lang căn trộm. Trộm vô thật. Nhè khúc bờ tường thấp, đúng nơi Gấu, những lần đi ciné về muộn, cổng đóng, leo tường vô nhà. Nhưng, vì bên nhà Gấu đâu có gì ngoài hai cái bếp, và 1 hồ nước, nhà trên thì khoá, thế là chúng leo qua nhà hàng xóm, một bảo sanh viện, dinh đâu mớ quần áo, tã lót, bàn ủi, mấy cái phích đựng nước sôi cho con nít. Nghe động, mấy bà đẻ thức giấc, chúng bỏ chạy. Gấu nghe tiếng hô hoán, bật dậy, vác gậy đuổi theo, chúng leo tường thoát ra ngoài, đánh rớt lại 1 cái bàn ủi. Gấu đứng dưới bờ tường với đưa lên cho 1 mụ đàn bà. Bà này lại nghĩ Gấu là đồng bọn, mở cổng cho chúng vô nhà Gấu, rồi theo đường đó leo qua nhà bảo sanh, vì có cái thang lộ thiên kế bên tường.
Sáng hôm sau, lũ đàn bà đẻ lào xào sao đó tới tai bà cô Gấu. Buổi chiều, bà đứng ngay sân chửi cho một trận thật tàn khốc. Ui chao ơi, tới khi đó, Gấu mới biết tài chửi của bà cô của mình. Mấy đứa nhỏ, con tay bác sĩ chủ nhà bảo sanh hình như cũng học Nguyễn Trãi. Chúng nói với bố. Hôm sau đích thân ông bác sĩ sang gặp bà cô của G
ấu xin lỗi.

Không phải bà chỉ chửi mấy con mụ đàn bà mà chửi luôn cả Gấu. Sao mà mày ngu đến như thế, may mà không mất mạng!

Nhìn cái hình DTH đứng giữa Paris, trong 1 số báo ML, thì lại nhớ đến bà cô của Gấu, đứng giữa sân nhà xỉa xói qua nhà kế bên. May có thằng cháu kế đó, không thì bà cũng dám v đồm độp như SCN một lần mất vịt!


*

*  

GCC & Nguyễn Đông Ngạc, nhà xb Sóng @ Niagara Falls cc 1996

Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta.

Gấu “sống sót” cuộc chiến, và có được cuộc đời thứ nhì ở hải ngoại là nhờ cuốn này. Bức hình độc nhất của suốt 1 thời trẻ tuổi, viết văn viết viếc, xì ke xì kiếc, cùng tí tiểu sử, trong có ghi "phê bình, điểm sách", trở thành bùa cứu mạng, Gấu lèm bèm về nó nhiều lần rồi, nhân 30 Tháng Tư bèn tự sướng thêm 1 cú!

*

3.4.2008 @ Little Sàigon

30.4.1975 with Đỗ Khờ

Trong quân đội miền Nam, sĩ quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.

DK

Theo GCC, nhận xét này sai.
Gấu đọc PNN, không thấy cái gọi là không ý thức hay chủ ý, mà chỉ thấy anh chọn nghề binh, chọn cả chuyện chống cộng ở trong đó. Chứng cớ, là, khi đi tù cũng không thay đổi, đếch thèm nhận quà thăm nuôi của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần “họ” của mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn Thủ Đức, là của những người bị động viên, phải vô lính. PNN có những dòng thổi Võ Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của anh, làm sao không. Nhưng đâu có dòng nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho phép GCC nhận xét về văn của DK, cũng y thế, một thứ văn chương Thủ Đức, đếch phải văn chương thứ thiệt của Đà Lạt, như của PNN!
Viết tiếng Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây, ai đọc?
Thú thực, đọc đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn cười.
Tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết đúng văn phạm, nhưng đếch phải văn chương.
Văn chương, là thể nào cũng có cái gì đó, có tính u hoài, gọi đại như vầy, về 1 xứ Mít đã mất. Linda Lê có bao giờ nhận bà là người Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy cái đó, dù bà phán, tôi viết văn như kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.

NQT 

Phạm Duy Khiêm, xưa chê đám Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất bại.
Có thể, vì tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés, bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng Tây, nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo kiểu Kafka phán, tớ nói tất cả ngôn ngữ, nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka, là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này, là nhục nhã, mặt phải/theo kiểu Malaparte chửi Đồng Minh:

Thắng trận nhục nhã lắm!

Bạn DK này, ở Mẽo, nhưng đọc, thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!

Hà, hà!




*

Ngô Khánh Lãng & Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà

Trụ ơi !

Tớ còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi "bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó. (1)

Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.

Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này, phải không ?  Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến

Ngô Tùng Lam thì nhớ quá chứ, còn mấy bạn kia quên sạch.

Mai Ngọc Liên?
Có phải  anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay khóa đầu?

Tớ chơi xì ke chừng vài chục năm [cc 1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không làm sao nhớ lại được.
May là còn ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc tới gia đình và tất cả bè bạn

NQT

*

Đây là Phà Thủ Thiêm, nhưng trong hình, không có con phà, mà chỉ có những con đò.

Thời gian trọ học bên Thủ Thiêm, gần ngay bờ phía bên kia, hàng ngày đi học, Gấu dùng phà, vì có giá đặc biệt cho học sinh. Chỉ tới sau 1975, thì mới qua lại bằng bến đò Thủ Thiêm, nơi cột cờ Thủ Ngữ, vì phiá bên kia là khu xóm chích.
Quen Phạm Văn Hàm ở bên đó, vì cùng trọ học. Hàm dân Hố Nai, sau học Luật, ra trường làm lớn, ở Tòa Sài Gòn. Anh nhớ nhiều về thời gian trọ học, Gấu gần như quên sạch.

Đầu tiên người chủ trọ là 1 ông đàn ông, sau ông ngày nhường mối cho 1 người bà con, có chồng, nhưng chồng mất, có mấy đứa con, hình như đều là con trai.
Để căn chừng người đàn bà có con không có chồng, là ông bố chồng. Hàm còn nhớ tên tất cả, có lần qua Cali, Gấu hỏi, anh trả lời, nhưng lúc này, Gấu chẳng nhớ.
Nhưng nhớ cái kỷ niệm thật đáng nhớ về bà chủ trọ, kiêm nấu cơm trọ, cho 1 đám thanh niên mới lớn.

Gấu nhớ là, đứa con trai của bà rất thông minh, và hay quấn quýt với Gấu. Một lần, bế thằng bé, Gấu chỉ trái bầu trên giàn, hỏi trái gì, nó nói, trái bầu, hỏi tiếp trái bầu giống cái gì, nó nghĩ và trả lời, giống cái chai, hỏi nữa, nữa, sau cùng trở lại với trái bầu, và khi Gấu hỏi trái bầu giống cái gì, nó khóa họng Gấu bằng câu trả lời:
-Giống 1 trái bầu khác!

Tuyệt!

Gấu xoa đầu thằng bé khen um lên, bà mẹ cũng mừng quá, cười quá là cuời, cái cảnh Gấu bế thằng bé, tung lên trời rồi ôm vào lòng, và hình như là bắt đầu thương....  Gấu, đúng vào lúc đó!
Hà, hà!

Phải đến chót đời, thì Gấu mới hiểu được người đàn bà có chồng một mình nuôi con này thương… Gấu, khi nhớ lại một buổi trưa, nhà chẳng có ai, Gấu và thằng bé đang nô đùa, người đàn bà nói, ông cụ nhà tôi chửi tôi mê trai, Gấu ngạc nhiên, hỏi mê trai, mà mê ai chứ, người đàn bà mặt đỏ ửng, bẽn lẽn nói, mê... cậu.

Gấu khi đó, thực sự không biết ba cái chuyện này, ngu thế. 
Thành thử nghe xong, cũng…  bỏ qua, chán thế!
Về già, tiếc hùi hụi!

Thủ Thiêm

Nhìn hình, và đều già cằn, nhưng làm sao quên được kỷ niệm nhưng ngày mới vô Sài Gòn, mà, nếu không có bạn Tuyến, không làm sao đi học được tại trường Thành Công, và nếu có đi được, thì cũng trần ai, vì phải đi bộ. Suốt thời gian học Thành Công, bạn Tuyến ngày nào cũng phải chở Gấu đi học.
Cũng thế, thời gian trọ học Thủ Thiêm, bạn Hàm cho mượn chiếc xe đạp. Chỉ đến khi đậu cái bằng Tú Tài 1, được Bà Trẻ lôi về nuôi, thì mới lấy lại cái xe.
Bạn Tuyến có thể quên, nhưng Gấu gặp lại bạn 1 lần, ở 1 con hẻm, nơi Cổng Xe Lửa Số 6, nơi nhà ông Hiếu Chân, sau khi dời Chợ Vườn Chuối, mua cái nhà ở đó. Bà chị họ, vợ ông HC tiếp tục cái nghề bán bún chả, ở chợ Trương Minh Giảng. Chắc là bạn đến chơi gia đình 1 ngươi quen, kêu Gấu.
Gấu "hi" 1 phát, rồi chuồn.
Lúc đó ghiền nặng quá, ngượng, chẳng muốn gặp lại bạn cũ.




http://huyvespa.blogspot.com/2015/11/thanh-tam-tuyen-tren-khoi-hanh-series.html

Giấc Mơ BHD

Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.

Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.

“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”

Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.

Theo Enrique Vila-Matas

Nhưng mà, này, vẫn thuổng Vila-Matas, liệu có một thánh nữ có tên là Bông Hồng Đen?

(1)

Béatrice exista-t-elle vraiment?

AUTOFICTION

Une seule certitude: l'autofiction est un néologisme inventé par le professeur et romancier français Serge Doubrovskyen 1977. Il désigne une variante moderne de l'autobiographie romancée. En anglais, ce même genre littéraire s'appelle faction, fusion des mots fact et fiction.
C'est tout ce que je sais sur l'autofiction.
Je me rends tout à coup compte en rougissant que je dois demander pardon, parce que je sais quelques autres choses à ce sujet. Vous voyez bien comment je suis. Sans y songer vraiment, je m'étais déjà mis à faire de l'autofiction. Oui, je sais certaines choses de plus. Je sais, par exemple, ce qu'a exactement dit Doubrovsky. Il a dit qu'il y a autofiction quand « l'auteur devient lui-même sujet et objet de son récit ». Et je sais aussi ou crois savoir ce qui distingue l'autobiographie de l'autofiction. C'est tout simple: l'autofiction, c'est l'autobiographie faisant l'objet d'un soupçon. Celui qui raconte sa vie la transforme en roman et passe la frontière qui le mène vers les domaines de la fabulation. Ce qui veut dire que nous ne devons plus comprendre l'autobiographie uniquement de façon classique (simple reproduction exacte du moi), mais comme un ensemble de matériaux utilisés pour la fiction, si bien que l'auteur auto-invente son autobiographie.
Il n'est pas indispensable d'être comme les autres veulent nous voir, mais que l'écriture nous serve à construire notre propre personnalité et notre biographie. Nous pouvons renoncer aux liens chaotiques avec les événements de notre vie et essayer de nous autocréer, de modeler notre propre personnage et notre propre biographie pour l'usage du lecteur, de notre fiancée, de notre épouse ou de notre belle-mère.
Ce que fit, par exemple, Gombrowicz dans son célèbre Journal. À la base, il y a évidemment des faits réels de la vie de l'auteur, de la vie de Gombrowicz. Ce sont des faits racontés plus ou moins minutieusement tandis que, simultanément, des fragments d'essais philosophiques, de brillantes polémiques, des passages lyriques, des plaisanteries grotesques, et aussi, ouvertement, de la fiction littéraire accèdent au même statut.
Cela dit, par bonheur, Gombrowicz n'avait jamais entendu parler d'autofiction. Pour ma part, j'ai du mal à m'habituer à ce mot apporté au monde par Doubrovsky. Bien des annnées avant d'entendre parler d'autofiction, j'ai écrit, je me souviens, un livre intitulé “Souvenirs inventés” (1) dans lequel je m'appropriais les souvenirs d'autres personnes pour consstruire mes souvenirs personnels. Je ne sais toujours pas si c'était de l'autofiction. Toujours est-il qu'avec le temps, ces souvenirs sont devenus pour moi tout à fait vrais. Je dirais même que ce sont mes souvenirs.
Pour ce livre, j'avais volé à Antonio Tabucchi ses souvenirs de Porto Pim dans les Açores. Mais Tabucchi ne l'a pas mal pris et a donné un double tour d'écrou à cette histoire en transformant les souvenirs que je lui avais volés en souvenirs à lui, de son invention. Ce double tour d'écrou n'a, pour l'instant, aucun néologisme qui le désigne, il attend son Doubrovsky, mais à vrai dire, je préférerais qu'il n'yen ait pas d'autre, parce qu'il ne me semble pas indispensable de donner des noms à toutes les variantes du prétendu nouuveau genre, et si je dis « prétendu nouveau genre », c'est parce que Dante et Rousseau l'ont déjà pratiqué.
Si l'on s'en tient à ce qu'a dit Borges, Dante écrivit La Divine Comédie uniquement pour y inclure, de temps à autre, des scènes de ses renconntres avec l'irrécupérable Béatrice, dont le regard le comblait d'une inntolérable béatitude. Béatrice qui s'habillait en général de rouge. Béatrice à qui il avait tant pensé qu'il fut étonné que des pèlerins qu'il vit un matin à Florence n'eusssent jamais entendu parler d'elle.
Béatrice exista-t-elle vraiment?
L'ombre d'un léger soupçon pèse sur elle. Et une autre sur Dante. Avait-il, par hasard, des souvenirs inventés?
Je crains fort que l'autofiction ne soit une invention de Dante. Lacan disait que la vérité est structurée comme une fiction. Dante aurait, à coup sûr, souscrit de son plein gré à cette phrase .•

Traduit de l'espagnol par André Gabastou

(1) Non disponible en français.

Magazine Littéraire Nov 2005

Tất cả cái gọi là thơ xuôi thì không thực.
hay,
Làm đếch gì có cái gọi là thơ xuôi

Điều này chính xác: tự động giả tưởng là một tân luận lý được phát minh bởi một vị giáo sư, tiểu thuyết gia người Pháp, Serge Doubrovskyen, vào năm 1977, để chỉ 1 thể loại văn học hiện đại qua đó, tự thuật được tiểu thuyết hóa. Trong tiếng Anh, cũng có 1 thứ tương tự có tên là “faction”, do “fact” [sự kiện] trộn với giả tưởng [fiction].



Đường Lê Lợi. 1968
Hình manhhai

Nhà thương Đô Thành, phía bên phải. GCC ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh, được cảnh sát khiêng ra xe, rồi đưa vô đây.
Khi ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện, còn là thầy dạy học trường Quốc Gia Bưu Điện, Thầy Nguyễn Văn Điều, vô thăm, thấy kiến bu vết thương, phán, cho nó vô Grall - nhà thương Đồn Đất, của Tẩy.
Kế nhà thương, l
à bót Lê Văn Ken, GCC cũng đã bị bắt, đưa vô đây, đã kể rồi, trong Lần Cuối Saigon.

Capstan: Cho anh phát súng tim anh nát!

Grall là nhà thương tư, Gấu vô đó, là phải trả tiền. Khi ông Tổng Giám Đốc phán như thế, là nhà nước phải trả tiền. Sau đó, trừ vào lương. Phải mất đâu cả 1, hay 2 năm, Gấu mới thanh toán hết
tiền nằm Grall.
Bót Lê Văn Ken. GCC lầm là Bót Hàng Ken.
Thảo Trường, hồi chưa di xa, mail, chỉ cho cái sai.


Khi GCC nằm nhà thương Đô Thành, BHD không dám vô thăm. Đọc báo Chính Luận, thấy GCC thuộc loại bị thương nặng, khóc, mà không dám dụi mắt, sợ mắt sẽ đỏ, mọi người trong nhà sẽ biết. Khi Gấu chuyển vô Grall, ghé thăm đâu cũng được một, hai lần; một lần, trên đường đi, ghé 1 tiệm sách ở Lê Lợi, mua 1 cuốn của J.H. Chase, Un beau matin d’été, Một sáng đẹp mùa hè. Hỏi, đọc chưa. Gấu ngu quá, nói đọc rồi, em, mặt xịu xuống, H. cũng nghĩ là anh đọc rồi.
Khi về nhà dưỡng thương, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, có ghé, rồi, khi về Đài làm việc, với cái tay băng bột, cũng ghé.
Khi tháo băng bột, là mối tình chấm dứt.
Cái đoạn, chạy theo em, nơi cổng trường Đại Học Khoa Học, Đại lộ Cộng Hòa, xẩy ra đúng như vậy. Gấu không thêm bớt, tưởng tượng.
Sau này, nghe qua Vy, cô em họ, em nói, học Y Khoa mấy năm dài, làm sao bắt anh Gấu đợi. Mà đợi, thì cũng chắc gì đã nên vợ, nên chồng. Hơn nữa, anh Gấu, có bằng cấp, công chức chánh ngạch Bưu Điện, có nhà nhà nước cấp, lại viết văn nữa, thiếu gì người lo cho anh ấy…
Em tính toán y hệt 1 cô gái Bắc Kít. Thật là chu đáo. Nhưng lý do chính, là, em không muốn Gấu phải gọi ông bố của em là bố!
Nhớ, lần đi chơi trong Chợ Lớn, về, ghé hình như cũng đường Lê Lợi, để em đi bộ về nhà. Ra khỏi xe, có một bà và 1 cô gái, đứng bên hè đường đợi tắc xi, hóa ra là cô bạn cùng lớp, và bà mẹ của cô. Cả hai cùng trố mắt nhìn. Gấu hoảng quá. Em tỉnh bơ, như người Hà Nội, chào, và giới thiệu Gấu, không phải bạn trai, mà là bạn của ông anh.
Thật là chững chạc.
Ui chao, sau đọc MCNK, cũng có 1 cảnh y chang. Nhưng thê lương hơn nhiều.

Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình, chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể nào khác. 

Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó. 

Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn.... 

Ngày 28 tháng 3, tôi gặp lại H. lần cuối cùng. Trời bữa đó mưa. Trận mưa mở đầu mùa. Thời tiết thay đổi, khí hậu ẩm ướt làm cánh tay trái của tôi trở nên đau nhức, khó chịu. Tôi ra Sài Gòn, tìm một quán nước, vừa uống cà phê vừa ngó mưa. Quán này, ngày trước tôi và H. thỉnh thoảng có ghé. Tôi còn nhớ, một lần ngồi đây, cũng tại bàn này, tôi uống bia, và chợt có ý định muốn hôn nàng. Lúc đó buổi trưa, trong quán chỉ có một hai người ngoại quốc đang dùng bữa. Họ vừa ăn vừa cắm cúi đọc báo. Ngày hôm sau, nàng bảo tôi, nàng biết ý định của tôi lúc đó, và phải quay đi, để che giấu nụ cười. 

Đang ngồi, đột nhiên nhớ đến nàng, đột nhiên tôi có ý định phải gặp nàng, và chỉ cần nhìn mặt nàng lúc này, là tôi biết rõ, nàng có còn yêu tôi hay không. Tôi đến Đại Học Khoa Học, và ngồi ở hiên ngoài, cũng là nơi tôi vẫn thường ngồi với bạn bè, hoặc ngồi một mình đọc sách, thay vì ngồi bên trong giảng đường nghe giáo sư giảng bài. 

Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.

Sơ Dạ Hương

Trong khi Kiệt bị quấy rầy, Oanh châm thuốc lá hút, nhấm nháp ly rượu hồng nhạt. Nàng đóng kiểu cách vênh váo lạ mắt, nghênh nghênh trông ra cửa sổ làm vẻ không chú ý đến kẻ nhiễu sự. Thái độ của nàng hơi quá đáng nhưng Kiệt thích.

Oanh càng lúc càng vui vẻ, điệu bộ ngôn ngữ linh hoạt. Nhiều lúc nửa say nửa tỉnh, nàng bộp chộp gấp gáp khiến Kiệt phì cười. Đó là những phút vui thê thiết. Những lúc ấy Kiệt nắm tay Oanh, níu nàng lại, không cho tiến thêm. Chàng cũng có cảm tưởng hai người đang tựa nhau trong cơn lảo đảo để khỏi té nhào. Và Oanh cười long lanh nước mắt.

Cuối bữa ăn, không khí bớt ồn tạp. Oanh bình tĩnh, thong thả hơn. Kiệt thấm rượu choáng váng. Họ ăn món tráng miệng đặt trên mặt bàn đã thay khăn trải, vẻ thật nghiêm chỉnh.

Trong phòng nổi mấy khúc nhạc tối qua.  Nhà hàng có lẽ chỉ có vài ba băng nhạc và mở lên theo một trật tự bất biến. Kiệt lại nghe Hòa Tấu Khúc số 5, nhưng chàng không hát theo vì còn gặm miếng bánh ngọt. Oanh khời khời từng muỗng nhỏ trái cây hộp. Hai người âm thầm ngắm lẫn nhau, cùng ngưng thần sửa soạn vượt chặng gian nan nhất của cuộc tình ngắn ngủi. Kiệt biết vậy. Và Kiệt biết, người thiếu nữ lạ lùng vừa sống trọn với mình một ngày chủ nhật, cũng biết thế.

Tu es vraiment femme.


Gấu thực sự không biết BHD có đọc Gấu, những ngày còn Saigon. Nhưng cái xen chạy theo em, trên, về già, Gấu biết, gây “chấn động”, ở 1 vài độc giả. Trong có cô em gái của HPA, cùng học lớp BHD, thời học trường Kiến Thiết, trên đường Trần Quí Cáp, phía bên đường, căn nhà của BHD, ở đường Phan Đình Phùng.
Ấy là có lần HPA chê Gấu viết văn vãi linh hồn, và cho biết cô em của anh, đọc, khúc trên, khóc nức nở.
Cô này, thời gian học cùng lớp với BHD, có lần nhờ Gấu giải giùm 1 bài toán hình học. Cô ngớ người, và nói với ông anh, Gấu giỏi toán, còn hơn cả ông thầy của cô!




*

Saigon_scenes 1967 by Francois Sully - Đường Yersin. Phía trước là ngã tư Hồ văn Ngà - Yersin, thẳng lên là Khu Dân Sinh.

Francois Sully, ký giả Tẩy, chết cùng Đỗ Cao Trí, khi trực thăng rớt. GCC nhớ là tờ báo Mẽo mà ông là nhân viên, sau đó, đi 1 đường điều tra, và kết luận, máy bay để dơ quá, nên rớt, không phải VC bắn hạ, hình như ở Tây Ninh. 

*

Chữ & Việc

Note: Thú thực Gấu không nhớ là đã từng giữ mục “Chữ và Việc” cho “Tập San Văn Chương”.
Tks. All of U.
NQT

Đọc, bồi hồi, muốn khóc.
Vì có địa chỉ của BHD, có số điện thoại của BHD nữa!
Hà, hà!

Già rồi, khóc hoài, con nít nó cười cho!
Người gì mà dai như đỉa thế!

Sorry, NQT

*

Một thảm kịch vô phương cứu chữa vẽ nên khuôn mặt nát tan tuyệt vời của tình yêu:
Đúng là nó vận vào anh cu Gấu thật!

Số nhà thì không quên, nhưng số điện thoại, làm sao mà nhớ nổi, nhưng không quên, cái lần đầu nhờ cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài gọi giùm, gặp ông bố hắc ám, tất nhiên. Tra vấn 1 hồi, mới kêu cô con gái. Nói chuyện cũng lâu lắm. Cô em họ, cô Vy, dân Đà Lạt, hỏi ai đấy, nghe nói Gấu, cô chạy qua nhà kế bên, có điện thoại, kêu đúng số trên, để cùng nghe. BHD cười quá. Hỏi về boyfriend, biết là có rồi, bạn cùng học, cũng dân y khoa, sau qua Cali, thôi nhau, có được 1 đấng con trai.
Qua đây, GCC có mấy cơ hội để có được số điện thoại, nhưng ngu quá, tự ái nữa, chỉ nhờ 1 anh bạn nhắn giùm, em trả lời qua anh bạn, để em kêu. Ui chao GCC chờ hoài, em quên, chắc là chờ đi rồi, sẽ gọi từ phía bên kia.
Đó cũng là lần em kể chuyện boyfriend nghe Sài Gòn rục rịch có biểu tình là khệ nệ vác mấy bao gạo tới nhà trình ông bố vợ, và phán, Gấu không làm nổi chuyện đó đâu. 

Đúng, không làm nổi.
Mà có làm nổi thì em cũng cấm không cho làm.
Bởi là vì, nếu Gấu làm nổi, thì em đâu cần có thêm 1 thằng vác gạo khác nữa?



*
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April 1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this

    ngao5 7h
    13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di tản binh sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc. Ảnh: Dirck Halstead

GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm phóng sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên Bưu Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày Dương Văn Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh ở, ở đường Nguyễn Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực thăng, ra hạm đội 7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc đầu, anh móc túi lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng nói bye, bye. Gấu xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà nằm phê!
Mới nhận mail của Dirck, liền tức thì:

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.

Cuộc hội ngộ vào tháng Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói, thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả mười mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường lúc đó.
Tám nói, cũng là tình cờ tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao.
Tám, nhân viên phòng tối, trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó, cuồng cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên văn phòng tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm liền.
Bữa sau, Hai Lúa xuống văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú chiêng, quần lót của bướm!
Dirck cũng từng đề nghị với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp".
Lạ một điều, Hai Lúa chưa từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi lại mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL từ bỏ một hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong được đi Tây.
Cho Gấu tí Paris
Để Gấu làm thi sĩ!
Đại khái vậy!
Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Bài Surprise là do một độc giả Tin Văn [ĐLK, cộng tác viên thường trực của Tin Văn, đúng hơn], chuyển cho. Nhờ vậy, liên lạc được với Dirck. Tks. Hai Lúa.





*

Giấc Mơ BHD

Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.

Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ  có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.

“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”

Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.

Theo Enrique Vila-Matas

Trang Vila-Matas
Ui chao, mò ra được bài viết trên, sướng mê tơi.
Của Người Phước Ta.
Cám ơn ông Vila-Matas một phát!

 (Ủng hộ hai bác TV và NL:)


*

Số Mùa Thu, năm ngoái. Fate. Số mệnh. Cầm lên, đọc loáng thoáng, vớ đúng bài Joseph Roth viết về “nơi cuộc chiến bắt đầu”, Sarajevo, 1923.
Bài intro cũng tuyệt. Cả 1 thế kỷ đã qua, Roth thì cũng chết từ đời tám hoánh. Ông chết, và bài essay thuộc thứ, nhìn lại. Chúng ta nhìn tới, cuộc chiến thứ nhì, cuộc chiến Bosnia, cuộc chiến chấm dứt mọi cuộc chiến…



“Vẫn là nó. Nhưng không phải là nó!”

Câu trên là của ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi.

Sở dĩ nhắc lại, là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng viên, trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.

Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!

Đúng là tình cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái gì đã mất đi, theo nó.

*

Chôn thường dân chết trong trận vây hãm, Jan 1993

MEMOIR

LIFE DURING WARTIME

Remembering the siege of Sarajevo

By Janine di Giovanni

There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman. Through the frosted window I could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley, above which Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone below. Twenty years had passed since I'd arrived in Sarajevo as a war reporter. During the siege of the city, most foreign journalists had lived in the Holiday Inn, and it was in that grotty hotel that the man who was to become my husband and the father of my child professed undying love. I met some of my best friends in Sarajevo and lost several others-to alcoholism, drugs, insanity, and suicide. My own sense of compassion and integrity, I think, was shaped during those years. 

Janine di Giovanni has won four major awards for her war reporting and is a member of the Council on Foreign Relations. She is currently writing a book about Syria, to be published by Norton. She lives in Paris.

Janine di Giovanni đợp bốn giải thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành viên của "Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên Hệ Ngoại]. Hiện đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống ở Paris.

HARPER'S MAGAZINE / APRIL 2013

Tin Văn sẽ post bài này, và dịch lai rai, song song với bài Novel, của Fuentes

Why was it that Sarajevo, and not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars that all of us went on to report-captured us the way this war did? One of us, I think it was Christiane Amanpour, called it "our generation's Vietnam." We were often accused of falling in love with Sarajevo because it was a European conflict-a war whose victims looked like us, who sat in cafes and loved Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived among the people of Sarajevo. We saw the West turn its back and felt helpless.

Đây là "Việt Nam của thế hệ chúng tôi". Chúng tôi thường bị buộc tội tương tư Sarajevo, bởi vì đây là cuộc xung đột Âu Châu - một cuộc chiến mà nạn nhân trông giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong những tiệm cà phê, mê Philip Roth và Susan Sontag

Khe Sanh,1968

MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM

I looked and there was a pale green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with him.   
 
-Book of Revelations, c. 90

Tôi nhìn và thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương, đằng sau anh ta.

Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992, Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:

There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman.

Có mưa Xuân và sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của tôi loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu xanh, của núi Mount Igman.

Câu văn còn làm nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!

(1)

Tưởng như còn người yêu

Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu

Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ

Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ 

Em không nhìn được xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu !

Lê Thị Ý
[net]

Lần đầu tiên Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển] như thế nào mới được thưởng thức!



*

Saigon Feb 1967 - Chợ hoa Tết Đinh Mùi - Tòa nhà góc Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế - Vélo Solex

Văn phòng UPI, 19 Ngô Đức Kế, phía bên trái bức hình. Bạn đi tới, gặp con phố Catinat...

Khi nghe tin BHD bịnh, biết Lãng Ngố có số phôn, Gấu biểu anh gọi, nói, Gấu xin số phôn.
Em nói, cho Em số phôn, để Em gọi, tiện hơn.
Gấu ngu quá, cứ chờ hoài, cho đến lúc nghe tin Em đi xa.

*

*

Ngã Sáu Saigon

*

GCC hay ngồi ở đây, vào những lúc quá trống trải, thường là ban đêm, làm 1 ly sâm bửu lượng

*

Địa chỉ [số nhà số điện thoại] của BHD
Thiếu email-address! 

...  như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....

Mùa Hè Miền Nam


Tứ tấu khúc

*

Một trang bản thảo tìm lại được, viết về Bông Hồng Đen.
Viết hồi ở trại tị nạn Thái Lan.
Cùng một air với những dòng sau đây, mở ra Lần Cuối Sài Gòn:

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".
*
"Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa, lúc đó BHĐ ở Huê Kỳ. Gấu thì chưa biết có đậu thanh lọc, hay bị trả về cho VC.
Bi giờ mới biết, "Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa là:

Vĩnh Biệt

Cái câu văn sau cùng - đột nhiên, đèn trong phòng trên lầu bật sáng: hình bóng của cô xuất hiện trước khung cửa mở rộng - là một kỷ niệm thật là tuyệt vời về Bông Hồng Đen

Nhớ, đêm đó là đêm Noel.
Em nói, làm sao có chuyện đi rước đèn với anh được!
Gấu bèn đưa ra... giải pháp:
Anh sẽ đi chơi, tơi bời, thăm đủ chỗ, đủ thứ, của Sài Gòn, giùm cho cả Em!
Đúng 12 giờ đêm, anh sẽ đậu xe ngay dưới đường, nhìn lên phòng em, và lúc đó em bật đèn, mở cửa sổ.
Bông Hồng Đen gật đầu.



Tks Both [Hai Bac] of U. NQT

  *

manhhai
SAIGON 1967 - Đường Nguyễn Du, cổng Vườn Tao Đàn

Cổng vô vườn Tao Đàn, phía đường Nguyễn Du. Lần đầu tiên, Gấu đậu cái xô lếch bên hè đường, phía bên trong vườn. Em đi bộ, phía bên kia đường, vô vườn, Gấu vòng xe hoa, em thản nhiên ngồi lên, đúng như em viết trong 1 lá thư sau đó.
Nhớ là thời gian đó, cuối năm, lạnh, Gấu dậy sớm, chắc là do lạnh, nên nhớ Hà Nội, xứ Bắc Kít, thế rồi bất thình lình, nhớ Em khủng khiếp, và thế là lấy cái xô lếch phóng 1 mách…
Chiếc xô lếch, là của bạn Chất. Bà cụ Chất nói, mày lấy cái xe, đi làm, đừng đi xe đạp nữa, có tiền rồi. Tao mua chiếc xe Nhật cho nó....
1967, đúng thời gian này.