Borges,
trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De
Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng
ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ
lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng
như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là
‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản
văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả
bản văn sẽ có!
UPI
office, 19 NDK, phía bên kia hè đường.
Có 1 bà cũng gánh 1 cái gánh
như thế, bán đồ ăn sáng, hình như là
cơm tấm, ở phía trước văn phòng, thời gian, chắc cũng
vào giờ này, khi tấm hình này
được chụp
Saigon Street Scene 1967 -
Đường Nguyễn Thiệp, đường ngang phía trước là
Nguyễn Huệ
Cái tay Phương,
manager tiệm radio International, là chồng Bích
Hợp, nổi danh 1 thời.
Tay Phương có thời cũng rất mê
ngồi Quán Chùa, với…. GCC. Nhớ, 1 lần,
nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài đi vô,
chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn mưa, chàng
kéo cái cổ áo mưa lên, tay Phương
nhìn, mê quá, phán, đúng là
văn sĩ!
Lần đầu tiên Gấu nghe Bích
Hợp hát, là trong 1 vở cải lương, Tình
Vương Ý Nhạc, hình như thế, và
là
bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....",
"cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời,
y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa,
hẳn thế!
Nghệ thuật làm dáng?
Cùng thời gian bức hình
đưọc chụp?
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30146656340/in/photostream/
(1) Gõ Bác
Gúc:
Hẹn Hò
Một người ngồi bên kia sông
im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy
phương nào
Trời thì mưa rơi
mưa rơi không ngưng suối tuôn
niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông
mong cho chóng tạnh mùa Ngâu
Cuộc đời làm cho đôi bên
yêu nhau
cách một biển sâu
hẹn hò tàn thu sang xuân
bên nhau
biết thuở ban đầu
dù tình không nguôi
đôi ta xin cho hứa vui về sau
trời còn làm cho mưa rơi mưa
rơi
cách biệt dài lâu...
Nước vẫn trôi mau
mắt vẫn hoen sầu
đành để hồn theo nước trôi
không màu
Số kiếp hay sao?
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần
nhau..
Một người bèn ra ven sông
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang
đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi
về đâu?
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho
phong phú đời người sau
GCC chưa từng được
gặp Bích Hợp, nhưng nhớ là, tay Phương này,
rất mê vợ mình, và hình như là,
BH do cảm động quá, bèn gật đầu
My Old Saigon
Đà Lạt
5
Kiệt có, ở Đà Lạt, hai,
trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn
và một cô bé.
Cô Bé tức Bông
Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y
hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné,
với một anh chàng mê mình, ngày mai đi
xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc
Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa
đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung
Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều"
anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh
giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói:
thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"
Cô bạn là tác giả
câu thơ mà bạn có thể để vào bài
ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi
trước:
Hồn Đông Phương thất lạc
buồn Tây Phương.
Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho
tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng
Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng
Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển
tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands,
đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch
thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính
văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có
tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác],
hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch
huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de
haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở
về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói
về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là
cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách
riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó
dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái
gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra,
còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác
phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người
đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của
nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông
Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu
thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương
thất lạc, không còn tìm thấy mình,
thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.
Borges đã từng suýt soa, dịch bản
bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác
phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn
của nó.
Ở trong dịch bản!
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia,
của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!
Mình là cái quái gì?
Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
*
Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu
tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết
cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá
già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát.
Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp
chết, là bò về nghĩa địa...
"Loài voi có đặc tính kỳ lạ
là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ
đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà
thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"
"Cũng có phần đúng, thành
phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây
tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác
sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh
ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Một Chủ Nhật Khác
Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào
đó, giống như một bài toán đố. Những chi
tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm
cách chứng minh bài toán, tìm ra cái
định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng,
tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu
thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ
một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào,
người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người
tìm có tí dấu vết mà lần mò.
Hai Lúa còn nhớ, có lần,
tác giả Một Chủ
Nhật Khác kể là, hình như trong một
bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm
thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng
sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng
rồi!
Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày
ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?
Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó,
sao mà... thảm thế!
ELEGY FOR A PARK
The
labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Tập san Văn chương ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn.
Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do bác
sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ, Nguyễn Tường Giang, chán
chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có;
và mặc dù tập san có nhà in riêng
- nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có
lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái
đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn
còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm
Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus, Soleils Retrouvés.
Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện,
không phải với mấy anh chàng Yankee đứng ngơ ngẩn ở ngã
tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố
xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần,
những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá
nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện
của họ.
Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn
đang biến dạng.
Note:
Cái anh chàng Yankee mà Gấu nhìn thấy,
là ở góc đường này, từ Quán Chùa
Nhớ hoài!
My Old
Saigon
Chất kể lại, hồi nhỏ nhà tớ
ở gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa đạp xuồng dạo chơi trên
mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới 29 tuổi,
bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở Đáp
Cầu, và lo buôn bán xuôi ngược. Cụ vô
tận trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế là
cụ đem hai thằng vô Nam nhờ bà cô trông coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà
C, bà Th. cậu biết rồi.
Lần đầu đọc Cuối Đường, Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện,
và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy,
cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp
Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng,
bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng
gặp cô Thanh Tuyền.
Cô
Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị Ng nói thêm: Tui
không đọc được từ màn ảnh PC, anh Chất phải in ra cho tui
đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện nào liên quan tới
anh Chất hết. Không lẽ anh không viết gì về những mối
tình của anh Chất, giống như mấy anh em khác trong... Thất
Hiền?
Chất cuời:
Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà
sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname
là Ông Thánh!
Gấu đậu Tú đụp
năm 1958, kỳ 2. Rớt kỳ 1, trước khi lao vào học, bà cụ Chất
cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát. Bốn đứa: Chất, Quốc, Gấu và
Hải, con bà Cảnh, anh cô bé Khanh. Truyện ngắn đầu
tay Những con dã tràng được thai nghén từ gió
biển cát Nha Trang:
Villa trông
ra biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ
phán, thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây:
Đúng lúc
đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc
đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói:
"Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó
chỉ là khám phá bản thân, khám phá
thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét
với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi
tới tận lúc đó.
Chỉ đến khi Gấu trình diện Những ngày ở Sài Gòn,
bạn Chất mới gật đầu: Được!
Tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo làm
sao có cái bằng Toán, như trên!
Khi Gấu qua hai cửa ải Tú Tài, chưa tên nào
học xong Trung Học Đệ Nhất Cấp!
“Những con dã tràng”,
truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng
Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ bài
vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của Lý Hoàng
Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa
Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng nói
gì với ông anh. Vả chăng vào lúc đó,
lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm kiếm ra tiền,
nuôi gia đình, và nếu có cơ hội, học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn
đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu mới
biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm
ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là
cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát
kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc
1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của TTT,
là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà TTT
lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói,
Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó sẽ đi xa
hơn.
“Những con dã tràng”,
với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là
bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt
hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương
“hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm
không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc
rối”!
Gấu nhớ bà cụ thân
sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.
Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc
“The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu đọc cuốn này khi
mới lớn bản tiếng Tây, Les
Pas, sau này nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn - trong
có xen y chang trong “Những Con Dã Tràng”, xen ngồi
chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:
Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá
xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng
chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài
giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu
ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của
tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình
người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi
lại mất đi một cách đều đặn.
Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog NL, lôi ra để
đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết từ hồi Quán
Chùa, thì suýt soa, cực "sex"!
Trong Steps, là xen, hai nhân vật nam & nữ,
khoả thân, làm tình qua gương:
One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether
I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said
the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still
failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said,
lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I
hastened her death.
Cái việc ném vô
thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn
đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu không
là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!
Cái chuyện gặp được Faulkner,
may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác,
cũng của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy Trò cũng đếch nhận
ra nhau!
GCC đã từng phán,
toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái
khúc mở ra Absalom, Absalom!,
dù Cô Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên miệt vườn, trước khi từ giã quê
nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến gặp bả.
Và nghe bả kể, về “Miền
Nam Sâu Thẳm”.
Về Colonel Sutpen
JERZY KOSINSKI: STEPS
The next afternoon I found a
pretext to visit the sanatorium. Patients in brightly patterned pullovers
and tight pants strolled about the corridors. Others slept huddled in blankets.
Filmy shadows cut across the deserted deck chairs on the sunny terrace,
and the canvas snapped in the sharp breezes that scattered down from the
peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually thrown around
her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered, gazing,
she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell across her
when I introduced myself. The visiting rules were very strict, and I was
permitted to spend only two hours a day in her room. I couldn't get too
close to her: she would not let me. She was very ill and coughed continually.
Often she brought up blood. She shivered, became feverish; her cheeks flushed.
Her hands and feet would sweat. During one of my visits she asked me to
make love to her. I locked the door. After I had undressed she told me to
look into the large mirror in the corner of the room. I saw her in the mirror
and our eyes met. Then she got up from the bed, took off her robe, and
stepped over to the mirror. She stood very dose to it, touching my reflection
with one hand and pressing her body with the other. I could see her breasts
and her flanks. She waited for me while I concentrated more and more on
the thought that it was I who stood there within the mirror and that it
was my flesh her hands and lips were touching. But in a low yet urgent voice,
she would stop me whenever I took a step toward her. We would make love
again: she standing as before in front of the mirror, and I, a pace away,
my sight riveted upon her. Her life, was measured and constantly checked
by various instruments, recorded on negatives, charted and filed away by
a succession of doctors and nurses, reinforced by needles piercing her chest
and veins, breathed in from oxygen bottles and breathed out into tubes.
My brief visits were interrupted more and more frequently by the- intrusion
of doctors, nurses, or attendants who came to change the oxygen cylinders
or give- new medicines. One day an older nun stopped me in the corridor.
She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand,
she said the staff had a name for people like myself:
hyaenidae. As I still failed to -understand,
she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were
dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.
As time went on her condition
visibly deteriorated. I sat in her room, staring at her pale face lit only
by an occasional flush. The hands on the bedspread were thin, with a delicate
network of bluish veins. Her frail shoulders heaving with every breath,
she surreptitiously wiped off the perspiration which rose steadily on her
forehead. I sat quietly and stared at the mirror while she slept; it reflected
the cold, white rectangles of the walls and ceiling. The nuns glided silently
in and out of the room, but I succeeded in never meeting their eyes. They
bent over the patient, wiping her forehead, moistening her lips with wads
of cotton, whispering some secret language into her ears. Their clumsy
dresses flapped like the wings of restless birds. I would step out onto
the terrace, quickly closing the door behind me. The wind was ceaselessly
driving the snow over the crusted fields, filling the deep footprints and
diagonal tracks left from the previous day. I held the soft plump cushion
of fresh snow from the frozen railings. For a moment it shimmered in my
warm palm before turning into dripping slush.
More and more often I was denied
access to her room, and I spent those hours alone in my apartment. Later,
before going to sleep, I would pullout from the desk drawer several albums
filled with my photographs of her, carefully enlarged and painstakingly
pasted onto stiff cardboard. 'I would place these enlargements in a corner
of my bedroom and sit in front of them, recalling the events of the hospital
room and the images within the mirror. In some of the photographs she was
naked; now I had them before me, for myself alone. I looked at these pictures
as if they were mirrors in which I could see at any moment my own face floating
ghost-like on her flesh. Then I would step out on my balcony. Around the
sanatorium the lights from the windows touched the snow, which no longer
seemed fresh. I would gaze at the faint lights until they began to disappear.
From beyond the breadth and width of the valleys and hills, streaked by
wooded slopes, the moonlight lit up frozen peaks and streams of vaporous
clouds being lured from the shadows of narrow defiles, A door clanged shut;
a car horn sounded in the distance. Suddenly figures appeared between the
snowdrifts. They scrambled through the fields toward the sanatorium, now
and then lost, as if straining against the stifling dust storm of a drought
stricken plain.
My Old Saigon
Follow
Hai hôm
trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún ốc
nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình
tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách khiêm
tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi nhé . Mình
cả 10 năm nay không ăn bún ốc của ai nấu vì không
ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà cho công thức Post lên
cho cả nhà tham khảo nhé . Bạn nào thích nấu
thử đi bảo đảm có món bún ốc thần thánh gia truyền
của cô giáo Thiện ( mẹ mình Hà Nội gốc 8 đời
) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...
Continue Reading
Ui chao, đây là 1 trong những
món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất nhiên là
do ngon, nhưng còn do 1 điều gì khác nữa, đúng
không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra được.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29160587460/
CARREFOUR ROSE
Ngã
Sáu Hồng
Le carrefour est familier comme un souvenir
Ngã
Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như những lần lang thang nơi khu phố
nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm
thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán
sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau
một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần
cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang,
có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết,
hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm
sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên
lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê
ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa
trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách,
hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua
con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn
lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra
nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh
toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là
không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện
đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được,
nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có
mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng
giá, và nàng mang theo cùng với nàng
chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt,
nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa,
quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn,
những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu
ngạo muốn đạp đổ tất cả....
Déjà
la nuit ne retient plus ses yeux; ils plongent à cha-
que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes
et elle
s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se défaisant en touffes d'herbe et en fils
de
fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle
d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma vie
a
regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre et
de
l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore,
almacén bnilant clair vers le bout
de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.
1. L'almacén (mot que nous retrouverons
fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene
: c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est,
ou était, souvent peinte en rouge ou en rose.
Jorges Luis Borges: Oeuvre poétique
1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra
Street with a Pink Corner Store
Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes over
us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since my own
days have
witnessed
so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that light
of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.
J.L. Borges: Selected Poems [ed Penguin]
My Old Saigon
Anh NQT quí
mến,
Vừa nhận được Lần Cuối
Sài Gòn trưa nay. Đọc trên chuyến xe
lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích thú. Đọc chia
sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có
lẽ những thành phố anh đang gợi lại đã vĩnh viễn
ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một chiếc
bóng đằng sau Sài Gòn. Sài
Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện tại.
Chữ gợi lại chập chùng những bóng. Những người
đã từng có mặt. Những chỗ ngồi. Những góc đường.
Những tàng cây.
Mới cách đây vài
hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và
tập Duino Elegies, vẫn còn bần thần, vì nhận
ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn
cái gì, là lập tức cái ấy đã
là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là
Lần Cuối. Chúng ta tới đây, như để có mặt, một
lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua đi.
Đọc mới xong phần đầu của bút
ký, và thơ, đã đầy cả Sài Gòn
của một thời kỳ kỳ lạ, tan hoang, lãng mạn, đổ vỡ,
và bi tráng của nó.
Cám ơn anh đã gửi sách.
Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống
con nước Thị Nghè, trưa có mây - hay
là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng
xa xa Thủ Đức].
Vài hàng viết gấp kẻo
anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ đọc tiếp Lần Cuối tối nay. Anh
vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
TQ (1998)
1998
Trong số những nhà văn nhà
thơ hải ngoại, Gấu chưa từng quen biết, chỉ nghe đến tên,
chỉ đọc họ, những ngày đầu ra hải ngoại, lần ra sách
đầu tiên, cố tìm địa chỉ để gửi sách tặng, chỉ
có TQ là viết thư trả lời. Còn những tên
như nhà thơ ngồi bên tách cà phê,
không. Nhớ, lần đầu làm quen, gửi cho hắn 1 bài viết
về TTT, lúc đó hắn đang làm 1 trang báo,
hắn bèn tự nhiên như người Hà Nội, đăng liền, chẳng
thèm xin phép cái con mẹ gì.
Thời gian đó, hăm hở với giấc mơ vá
lại cái bướm nát tan của bướm Mít, bản
đồ Mít… như 1 ẩn dụ của Borges, Gấu bỏ qua hết, báo
nào cũng viết, nào gió đông, nào
cánh én, nào là ta là gì,
bị cả 1 bầy chó hải ngoại xúm lại tính xẻ thịt con
sói đơn độc, (1)
bỏ qua hết, chỉ đến khi biết rằng vô phương, vô ích,
chỉ đến khi đó, mới làm trang Tin Văn, hy vọng 1
thân 1 mình làm được điều không 1 tên
Mít nào làm được, đâu có phải
tự nhiên mà vị bằng hữu K chúc, đừng để ý
đến bất cứ tên nào, tẹt kệ cha tẹt, lõ kệ
cha lõ, chỉ làm thơ thôi!
Bằng hữu mà biết đến tận gan tận ruột
Gấu như thế, nhờ làm trang TV mà có được,
thì quá xứng đáng 1 đời lưu vong rồi,
còn đòi hỏi gì nữa?
Hà, hà!
(1)
Chôm từ 1 bài viết về DTH, trên báo
Tẩy
La
louve solitaire de Hanoï
Manuel Carcassonne
16 février 2006
http://www.tanvien.net/dich/louve.html
My Old Saigon
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29261092556/
Nam Định 1954 - Các bà quả phụ than
khóc bên mộ chồng là những binh sĩ Việt đã
ngã xuống. Đây là một trong những bức ảnh
sau cùng của Capa.
INDOCHINA. Nam Dinh. 1954. Indochina widows with
their children grieving at the graves of their fallen husbands.
This image was one of Capa's last pictures.
My Old Saigon
Follow
ANH QUỐC ƠI...
Nhờ Khanh Viet Nguyen
nhắc, Hoàng Oanh mới nhớ lại trong một Đại nhạc hội ở
Texas năm 2000, Hoàng Oanh trình diễn bài hát
Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ Phạm Duy. Khi
bài hát chấm dứt, có một thanh niên lên
sân khấu tặng hoa và cảm ơn Hoàng Oanh vì
đã hát bài hát vinh danh người cha của
anh là cố Đại tá Không quân Phạm Phú
Quốc.
Đây
là một trong rất nhiều kỷ niệm trong đời ca hát của
Hoàng Oanh.
... See More
Đọc stt này, thì
bèn nhớ cái thời mới lớn, mê nhạc, mê
ca sĩ, mê bản nhạc do ca sĩ mình mê, hát. Và
cái bài hát mà Hoàng Oanh, ca
sĩ học trò, như lúc đó được gọi, vì cứ
áo dài, đứng hát thật nghiêm chỉnh, và
bài hát
được mê, là Hoa Soan Bên Thềm Cũ.
Có những đấng chạy sô y chang nữ ca
sĩ chạy sô, nghĩa là, nghe xong Hoa Soan ở phòng
trà này, thì vội vàng chạy qua phòng
trà, lại chỉ để nghe Hoàng Oanh hát, Hoa Soan
Bên Thềm Cũ
http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_5.html
The Spy Who Loved Us
Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ,
Cuộc Đời Greene, có
đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào,
trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng
nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là cuốn
Người Mỹ Trầm Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ tự truyện,
Cõi Khác,
Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng
viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc
dáng Mặt Trận
Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn"
như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường
tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một
số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin,
Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế Chiến,
không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào,
cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt thứ
tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)
Đây là điều những nhà
phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và
coi nó cao hơn Mặt Trận
Miền Tây. Cao hơn không phải là do Bảo Ninh
có tài hơn, mà là, chiến tranh, con người,
ở trong Nỗi Buồn Chiến
Tranh khác với chiến tranh, con nguời như được miêu
tả trong Mặt Trận Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene,
là phải viết Người Mỹ Trầm
Lặng. Những so sánh nhắc nhở tới ông, là
vì ai cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất,
và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn
Thời Gian Của Người
của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là
do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng,
theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của
cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như
là một tên điệp viên. Nó thiếu cái phần
sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô
như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông
tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn
giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.
Nhân vật Quân [hoá
thân của Ẩn,] trong Thời
Gian Của Người "thánh thiện quá" [theo nghĩa
thép đã tôi thế đấy], nhà văn như Nguyễn
Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng
của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như
Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương
tồi].
Một cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng có một vị thế
[position,status], của cuốn Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án của
thế kỷ.
*
"Đại tá Edward Lansdale - người được coi là
khuôn mẫu cho nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass
Một anh Xịa cáo già
như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên
mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle
trong Người Mỹ Trầm Lặng?
Như Norman Sherry cho thấy, Pyle là
tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó. Nhưng
Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is straight
out of a good quality public school - in essence he is English.
Có thể Ẩn giống Pyle, theo
nghĩa này, bản chất của anh là một Cộng Sản. Một người Bắc vô
Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc
cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác biệt giữa Trung
[phi công ném bom Dinh Độc Lập] và Ẩn.
Trung là một con người, với
lòng hận thù rất con người của anh. Có thể,
chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi bây
giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản, chủ nghĩa
đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ nó,
tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì
cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có
thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá hơn
thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo. Cái
tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào
Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên
phản quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy, khi "nằm
gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm việc cho
Mẽo, nhưng thực tình thì là một con ngựa Hồ hướng
về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là như vầy:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
*
Anh George yêu quí của
Em,
Em muốn cầu xin Anh một điều
mà không một người đàn ông phong nhã
nào có thể chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách
sạn Baur-au-Lac ở Zurich
tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann
Cú ngửa tay xin tiền bạn
cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì,
với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy
cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không
làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!],
biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa
chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức
điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có
cờ rồi, chúng không có lý do nào để
trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện
của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ
sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn
xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa
Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết
thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không biết,
cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu
quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền
Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một
tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông
hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít
tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý
tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền
Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác
Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút
cuối cùng, ông đi không được, là vì
những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (1)
Sep 26, 2013
Mưa chân
trời
Cái nước mình
nhỏ thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà
chót Mũi cũng mưa tối mắt. Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà
chiều ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó
chuỗi mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời
âm u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm
thanh rả rích. Tôi lánh cái nhìn vô
cái pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe
bị đinh đâm lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc
con. Anh vá xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia
ẵm lủng lẳng đứa sau, nói “tối nay bão vào quê,
không biết thằng em chống chọi sao rồi”.
Tin báo bão trên đài nói
rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải, anh vá
xe rầu. Năm trước nhà em trai anh bị bão dỡ một lần,
vừa vá xong đận này chắc là lại rách. Nhiều
năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này năm
ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó đi
xúc cá bị chết đuối. Khi người đàn ông này
dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây, đã
không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục ở đây.
Lần nào ghé căn chòi sửa xe này, tôi
có một chút khó thở. Không hiểu vì
trà Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người ta từ dưới
đáy ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình ảnh thằng
bé mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua kẹo ở tiệm
tạp hóa gần nhà, vắt đứa em gái trên cái
hông mỏng te bén lẹm xương của nó.
Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều kỷ niệm
với những người Bắc di cư vào. Tiệm gạo nhà tôi
cất ngay cửa ngõ vào cái xóm Hà
Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng nói
quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm. Mùa mưa, xóm
lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng giữ nhà rướn
cổ ném cho khách những tiếng kêu đầy ác cảm.
Sân nào cũng đầy dấu chân của vịt, gà. Những
thùng nước cơm cặn lặc lè yên sau xe đạp. Cô
giáo dạy văn mà tôi thương nhất. Con bạn cùng
lớp cạnh tranh vị trí nhất nhì. Vài chị là
mối mua gạo cám của tiệm nhà tôi. Những con người
ấy làm tôi thắc mắc cái xứ sở mà tôi
gọi là nước Bắc không biết gần hay xa. Chắc xa, họ gọi chén
bát lung tung xèng, phở thì không rau giá,
canh chua không nêm đường, cà đem muối trong chum,
bánh tét lại vuông. Chắc xa, năm bảy cái
tết họ mới về quê một lần.
Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám làm
tôi thấy họ gần mình. Bởi những cái thở dài
không phân biệt tập quán và quê
xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía quê
nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy rầu thôi,
nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa cũng ướt, ai ở dưới
trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt. Cùng một
nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm, cơn cảm cúm
mũi dãi chảy sụt sùi.
Những cuộc đi mê miết đã làm nhòa
những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc. Cửa hàng
bán đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên nội ô
thành phố. Nhưng phở gia truyền Hà Nội cũng rau giá
đầy vun, bánh cuốn gia truyền Hà Nội với nước chấm pha
đường ngọt lịm. Tết, nhà họ cũng có nồi thịt kho tàu.
Lâu lâu trên đài địa phương có phát
biểu của một ông giọng miền ngoài mà bắt đầu bằng
mấy chữ ‘thưa bà con,”. Mấy em cộng tác viên gốc Bắc
viết truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng phương ngữ miền
tây ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã dạ thay cho
vâng. Anh thợ sửa xe nói, từ khi không còn
cha mẹ già ngoài ấy, thì loay hoay chỉ trung thu
và tết mới thấy nhớ quê, dợm muốn về. Miền Tây không
có cái không khí lễ hội của trăng rằm và
dịp đầu năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước đi đâu cũng khó.
Anh bỏ sót mưa. Dải đất nằm nghiêng theo
biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp thấp nhiệt
đới gần bờ, không tạt vô trung thì ra bắc. Mùa
mưa phương Nam trùng với mùa bão lũ ngoài
kia. Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc rễ tưởng đã
bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng em ở quyển sổ nào,
quên mất.
Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc gọi
từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.
Blog Sầu Riêng
Nhắc đến Cao Bồi “nằm gai nếm
mật” bao nhiêu đời, nhân đọc NNT, bài viết thật
tuyệt, nhưng bị mấy cái lỗi “hỏi ngã”, tiếc quá,
bèn sửa, và post lại ở đây.
Cũng 1 cách “buộc người lang bạt…”
Hà, hà!
Tiện thể. Trên trang Gió O của bà
Huệ, "hỗ trợ", không phải "hổ trợ".
Lại nhớ Gấu Cái.
Hồi Bả "tập" viết văn, chỉ cho phép Gấu sửa
lỗi chính tả, cấm sửa văn, cho "còn nguyên"
mùi Nam Kít, không bị pha tạp!
Trang FB của GCC
Link ở đây, để lỡ GCC vội
- "đột xuất", chữ của Vẹm - đi xa, Gấu Cái/Jennifer Tran thông
báo độc giả TV, giùm.
Bả không biết làm sao post trên
Tin Văn!
Em còn
nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn những chiều lộng gió
Lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo bay
lên
Note:
Thần sầu! Mỗi lần nghe, là Gấu lại nhớ đến bài viết
của Borges, về những tiền thân của Kafka, về "một vài
người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn
đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà
chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà."
TCS
là thứ người đó, ông không thể xa Sài
Gòn, đành ở lại, ôm lấy nó, cho tất cả
chúng ta!
Có
lần Gấu phán ẩu, nhưng thật đã, thật đúng,
cái hồn văn chương Miền Nam
ở trong những bản nhạc sến là thế. Nhạc TCS thì
cũng thứ nhạc sến, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Cái sến nhất của nó, là làm
người ta quên cuộc chiến, trong khi nhạc lính, ôm
lấy nó. (b)
INTERVIEWER
In your
interview with Gordon Lish in Genesis West, you say that
there are two kinds of poetry. On the one hand, there are poems that
give delight; on the other, there are poems that do something else.
What do you mean by "something else"?
GILBERT
I think
serious poems should make something happen that's not correct or
entertaining or clever. I want something that matters to my heart,
and I don't mean "Linda left me." I don't want that. I'll write that
poem, but that's not what I'm talking about. I'm talking about being
in danger-as we all are-of dying. How can you spend your life on games
or intricately accomplished things? And politics? Politics is fine. There's
a place to care for the injustice of the world, but that's not what
the poem is about. The poem is about the heart. Not the heart as in
"I'm in love" or "my girl cheated on me"-I mean the conscious heart, the
fact that we are the only things in the entire universe that know true
consciousness. We're the only things-leaving religion out of it-we're
the only things in the world that know spring is coming.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris
Review Interviews, I
Trong lần trả lời Gordon Lish trên Genesis West, ông phán, có hai thứ thơ,
một, làm sướng điên lên, một, làm một
cái quái gì đó. Cái quái
gì đó, là cái quái gì, hở
ông?
GILBERT
Tôi nghĩ có thứ thơ thần, nó làm
cho một điều gì đó xẩy ra, và cái điều
này thì đếch có đúng, đếch có mua
vui, đếch có thông minh, dí dỏm, hóm hóm,
hay bất cứ cái chi chi.
Tôi muốn một điều gì đó xẩy ra
cho trái tim của tôi, và tôi không
muốn “BHD bye bye tôi”. Tôi không muốn điều đó.
Tôi sẽ làm một bài thơ, nhưng đó không
phải là điều tôi đang nói tới. Tôi đang
nói tới điều nguy nàn – nhưng tất cả chúng ta
nguy nàn - chết. Làm sao chúng ta có thể
trải qua đời mình trong những trò chơi, hay những sự việc
được hoàn tất thật phức
tạp? Và chính trị? Chính trị thì OK.
Phải có một nơi lo ba cái chuyện công lý
trên đời, nhưng đó không phải là điều của
thơ. Thơ là về trái tim. Không phải trái
tim theo kiểu, “Tôi đang yêu”, hay “Em lừa dối tôi”.
Tôi muốn nói con tim chân chính, con tim
ý thức, tức, sự kiện, là, chúng ta là những
gì độc nhất trên toàn vũ trụ, hiểu ý thức
chân thực. Chúng ta là những gì độc nhất - gạt
tôn giáo qua một bên – chúng ta là những
gì độc nhất trên thế gian này biết mùa xuân
đang đến.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris
Review Interviews, I
Samuel Beckett
“Personally of course I regret
everything.
Not a word, not a deed, not a thought, not a need,
not a grief, not a joy, not a girl, not a boy,
not a doubt, not a trust, not a scorn, not a lust,
not a hope, not a fear, not a smile, not a tear,
not a name, not a face, no time, no place...that I
do not regret, exceedingly.
An ordure, from beginning to end.”
[net]
Về phần tôi tất nhiên
tôi tiếc rẻ mọi thứ.
Không phải một lời nói, không phải
một hành động, không phải
một ý nghĩ, không phải một nhu
cầu,
không phải một nỗi đau, không phải một
niềm vui, không phải
một cô, không phải một cậu,
không phải một hoài nghi, không
phải một niềm tin, không phải
một khinh bỉ, không phải một thèm
khát,
không phải một hi vọng, không phải một
nỗi sợ, không phải
một nụ cười, không phải một giọt lệ,
không phải một tên gọi, không phải
một gương mặt, không phải thời gian,
không phải nơi chốn... những thứ tôi
vô cùng không tiếc rẻ.
Mà là một đống cứt ỉa, từ đầu đến cuối.
HNB dịch (1)
Ông này, cũng 1
đấng bạn quí của GCC, từ hồi Quán Chùa.
Lúc nào gặp mặt cũng khinh khỉnh, Gấu
lại nghĩ tính của bạn quí vốn vậy. Phải đến khi ra
được hải ngoại, mới ngộ ra bạn quí đếch quí Gấu!
Gấu đã có lần
chỉ cho bạn quí thấy, dịch nhảm thơ Brodsky. Dịch nhảm, có
thể còn là do chiều theo yêu cầu của VC. Bạn quí
đã từng tự hào, người đầu tiên giới thiệu Brodsky với
xứ Mít
Đoạn thơ trên, tiếng Mít,
có “vấn đề”, không phải do dốt tiếng mũi lõ,
mà là tiếng Mít.
“Personally”, “về phần tôi”,
thì có tí trật. Mít dùng cụm
từ “về phần tôi”, sau, “về phần bạn”.
Dịch, “cá nhân tôi, riêng
tôi”, thì được.
“Regret” không phải là tiếc rẻ, mà
là tiếc nuối, ân hận
Tiếng Mít tệ hại như thế, thì dù
có giỏi tiếng mũi lõ cỡ nào, cũng vứt đi.
Phải về già, thì
Gấu mới hiểu ra 1 điều thật quái dị, là, bạn học ngoại
ngữ, là để hiểu, làm thâm sâu, kiện toàn
tiếng mẹ đẻ của bạn.
Cái đám bạn quí của Gấu này,
cũng văn nghệ văn gừng cả 1 đời, mà đời đếch thèm
biết đến, sở dĩ như thế, vì chúng học tiếng mũi lõ,
để có dịp là chuồn!
Hồi mồ ma tờ Văn,
dưới mắt Xìn Phóng, chỉ có đám học
Triết, giáo sư Triết, đám học trường Tây, hay,
hơn thế nữa, chuồn qua Tẩy, như TTD, ông Tẩy mũi tẹt, là
được Người o bế, coi trọng.
Ông không ưa Gấu, thằng đó mà
tiếng Tây gì, vậy mà bày đặt tiểu thuyết
mới, hiện sinh, Sartre, Camus.
NDT là người giới thiệu
Gấu với tờ Văn. Lúc
đó, Gấu đang viết cho tờ Nghệ Thuật, thời gian VL thay
thế Thanh Nam làm tổng thư ký. Gấu nhớ là, anh
tự động ghé bàn Gấu, khi đang ngồi ăn phở 44 Phan Đình
Phùng, phía bên kia đường là Đài
Phát Thanh Sài Gòn, xưng tên, và
đề nghị viết cho Văn.
Gấu bèn đi hỏi ý kiến NTaV và thi sĩ “Cao Thọi Trâu”,
cả hai bèn phán, hỏi cái gì nữa, viết chứ,
tại sao không?
Hà, hà!
Địa chỉ [số nhà số điện
thoại] của BHD
Thiếu email-address!
... như
những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã
sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông
đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng,
nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía
bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua
thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy
nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn
ra bên ngoài, làm sao nàng có thể
nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo,
bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía
bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia
nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về
thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau
nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể
bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên
lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị
mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể
than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng
cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía
bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió
bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng
mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh
lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài
đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài
những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên
thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy
nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an
ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài
cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó
vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể
biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi,
cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....
Mùa Hè Miền Nam
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28532851274/
Vụ hành quyết năm xưa
(1) - Diễn ra trên đường Minh Mạng chứ không phải Lý
Thái Tổ
Gần đây, một người nước ngoài (ông
Paul Blizard) đã cất công tìm lại được
đúng địa điểm thật của vụ tướng Loan xử tử đặc công
VC năm 68. Vụ đó diễn ra trên đường Minh mạng, nay là
Ngô Gia Tự, chứ không phải Lý Thái Tổ
như thông tin trước đây.
Paul Blizard - Saïgon Chợ Lớn Then &
Now
www.facebook.com/groups/865130223501356/permalink/1359294...
Việt Nam
Bà
kia ơi, tên bà là gì vậy?
Tôi không biết
Bà
bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại
sao bà đào cái hang đó?
Tôi không biết
Bà
trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại
sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi
không biết
Bà
không biết là tôi không làm
đau bà ư? Tôi không biết
Bà
ở bên nào? Tôi không biết
Ðây
là chiến tranh, bà phải chọn bên.
Tôi không biết
Làng
bà còn không? Tôi không
biết
Những
người đó là con của bà? Ðúng
rồi.
Nguyễn
Quốc Trụ dịch
Tin
Văn đã từng lèm bèm về bài
thơ này, song song với bài nhạc Bà
Mẹ Gio Linh của Phạm Duy, mà theo truyền thuyết
giang hồ, mỗi lần Thái Thanh hát, là,
khóc, và đưa ra 1 phỏng đoán,
có thể bà thi sĩ Ba Lan, có lần được nghe
ai đó ca bài hát, theo đó, bà
mẹ Mít, của PD, cứ đẻ được đứa con nào là
biếu VC đứa đó, nên làm bài thơ để…
phản biện!
Do đọc lời còm của Lý
Đợi, GCC bèn tò mò mò theo niên
giám, coi bài Việt Nam đã được sáng
tác thời gian nào. Nó được in trong
tập thơ “No End of Fun”, 1967.
Có thể nói, đa
số thơ trong tập, thì dều có mùi
Mậu Thân cả.
Bài thơ sau đây,
tả cảnh nhà thơ Ba Lan, Nobel văn chương, viếng thăm
bà mẹ Bẩy Lốp, hoặc vợ Nguyễn Văn Trỗi, hoặc Bà
Mẹ Gio Linh, đích thị bà, mà PD dã
từng gặp, và gọi bà là Thánh Nữ,
hình như vậy!
Pietà
In the town where the hero was born you may:
gaze at the monument, admire
its size,
shoo two chickens from the empty
museum's steps,
ask for his mother's address,
knock, push the creaking door
open.
Her bearing is erect, her hair
is straight, her gaze is clear.
You may tell her that you've
just arrived from Poland.
You may bear greetings. Make
your questions loud and clear.
Yes, she loved him very much.
Yes, he was born that way.
Yes, she was standing by the
prison wall that morning.
Yes, she heard the shots.
You may regret not having brought
a camera,
a tape recorder. Yes, she has
seen such things.
She read his final letter on
the radio.
She sang his favorite lullabies
once on TV.
And once she even acted in a
movie, in tears
from the bright lights. Yes,
the memory still moves her.
Yes, just a little tired now.
Yes, it will pass.
You may get up. Thank her. Say
goodbye. Leave,
passing by the new arrivals in
the hall.
Pietà
Nơi Thành Hồ anh hùng
Bẩy Lốp ra đời, bạn có thể:
Chiêm ngưỡng và kính
trọng đài tưởng niệm
Lé mắt vì cái
vóc dáng vĩ đại của nó
Xua xua hai chú gà nơi
bực thềm
Hỏi địa chỉ bà mẹ
Gõ, đẩy cái cửa cọt kẹt
Dáng bà thẳng, tóc
thẳng, cái nhìn trong sáng
Bạn có thể nói với bà,
bạn từ Ba Lan đến thẳng Việt Nam
Bạn có thể mang theo quà
tặng.
Đặt những câu hỏi thật rõ
ràng, thật rổn rảng
Vâng, tôi thương thằng
con của tôi lắm.
Vâng nó đã sinh
ra theo một đường hướng như đó
[Trong 1 thành phố bị Mỹ Ngụy
dầy xéo, hẳn thế?]
Đúng, bữa đó, tôi
đứng bên ngoài bức tường nhà tù
[Nhà tù Chí Hoà?]
Vâng, tôi nghe tiếng súng
hành quyết
Bạn có thể tiêng tiếc,
mình quên không mang theo cái máy
chụp hình
Cái máy ghi âm.
Vâng, bà có nhìn
thấy những cái máy đó
Bà đọc lá thư cuối cùng
của đứa con anh hùng trên đài giải phóng
Bà hát những bài
hát ru con mà nó rất ưa
Có lần được đóng vai
của bà trên TV Hà Lội, bà khóc
nức nở
Ký ức những ngày anh
hùng như thế đó vưỡn làm bà cảm
động
Vâng, tôi có tí
mệt, nhưng không sao, hết ngay mà
Bạn có thể đứng dậy. Cám
ơn bà. Nói lời giã từ. Bước ra ngoài
Trước đàn rồng rắn đang chờ
tới lượt họ
Bài thơ này, với bài
Việt Nam, đúng 1 cặp!
Có vẻ như Szymborska rất rành
VC!
Nhờ kinh nghiệm Ba Lan của bà?
Saigon 1970 - Một lớp học tại trường Gia
Long
source: Viet-Nam Bulletin - Secondary Education in Viet-Nam
(October 1970)
Một lớp học tại trường Nữ trung học Gia Long ở Saigon:
cả cô giáo và học sinh đều mặc áo dài
quần trắng, đồng phục của rất nhiều lớp học tại Nam VN.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29098125041/
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28532851274/
Vụ hành quyết năm xưa (1)
- Diễn ra trên đường Minh Mạng chứ không phải Lý
Thái Tổ
Gần đây, một người nước ngoài (ông
Paul Blizard) đã cất công tìm lại được đúng
địa điểm thật của vụ tướng Loan xử tử đặc công VC năm 68.
Vụ đó diễn ra trên đường Minh mạng, nay là Ngô
Gia Tự, chứ không phải Lý Thái Tổ như thông
tin trước đây.
Paul Blizard - Saïgon Chợ Lớn Then & Now
www.facebook.com/groups/865130223501356/permalink/1359294...
My Old Saigon
Photo by Dirck Halstead - March 31,
1975
Saigon, South Vietnam falls to the communist
from the North after intense fighting. Many try to flee by ground, air and
sea with the help of American Soldiers, South Vietnam, April, 1975.
Bức
hình của Sếp UPI của GCC
Walter Benjamin, le flâneur
et le conteur
Vừa đi đường vừa kể chuyện
[Thuổng Trần Dân Tiên “aka”
Bác Hồ.
Liệu Bác H đã từng đọc Walter
Benjamin, như VTH, đã từng thuổng Koestler?]
Bài viết này, dịch ra tiếng
Mít, thì cũng là 1 cách,
Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống
lòng sông [Xề Gòn]
Mà lòng mình phơi
trên kè đá!
Hà, hà!
Raconter une longue histoire
interrompue par des rêveries:
Kể 1 câu chuyện dài, bị quậy
phá, làm đứt đoạn, bởi những cơn mộng
On pense à Borges,
bien sûr, et à Kafka
Người ta nghĩ tới Borges, tới Kafka, chắc
chắn rồi
Tại sao nghệ thuật kể chuyện lại tiêu
táng thòng?
Tên triết gia Đức, tên Mạc
Xịt bi quan, tên thù nghịch…. Văn Khoa
Mít, tên du lịch không ngừng nghỉ, tên
dịch giả Baudelaire và Proust….
Le vendredi 10 juin 2016
Tandis que des inédits de Walter
Benjamin sont publiés aux éditions de L'Herne,
Frédéric Pajak rend hommage au philosophe allemand
dans une biographie illustrée.
Hambourg, avril 1932, Walter Benjamin sur
le Catania reprend son long périple européen
qui l'a conduit en France, au Danemark et sur les côtes espagnoles
et italiennes. Sur le pont, il projette de « raconter une
longue histoire interrompue par des rêveries ». Les
quarante-sept récits inédits rassemblés
sous le titre N'oublie pas le meilleur composent une trame singulière
d'espace, de temps et de rêve. Un jeune homme souhaite
rendre visite à sa grand-mère morte depuis longtemps,
c'est une jeune femme dans une robe bleue défraîchie
qu'il rencontre ; un touriste à Paris boit un café
crème et se demande si, enfant, il avait été
assis à cette table, « combien de navires auraient
traversé cette banquise de marbre ». Un bourgeois éreinté
s'installe dans une osteria de Rome, antre d'une masse laborieuse,
et avale goulûment des morceaux de morues séchées
dans l'indifférence générale ; ce n'est pas
dans les rues de la Rome fasciste, mais dans l'espace de la modernité
que cet homme déambule. À l'instar de tous les personnages
de Walter Benjamin, il s'apparente au flâneur baudelairien
: se cherchant un asile dans la foule et restant au seuil du monde,
ni bourgeois ni prolétaire, mais au coeur de la masse. Ces récits
au style pictural entraînent les lecteurs dans un univers onirique
atemporel. Loin du monde où la passion suprême de tout
public est « un centre, un führer, une solution ».
Le philosophe allemand, marxiste sceptique,
hostile aux institutions universitaires, voyageur insatiable,
traducteur de Baudelaire et de Proust, n'écrit ni en
théoricien ni en révolutionnaire, et exhume une matière
littéraire des replis sédimentés depuis
des millénaires : les contes. Des contes sans explications,
sans psychologie, le lecteur glissant du présent au passé,
du réel au rêve. L'atmosphère, la concision,
l'art de la chute... on pense à Borges, bien sûr,
et à Kafka. Mais c'est surtout au Benjamin philosophe qu'on
devrait penser, lui qui, dans son travail sur le « Narrateur
», révèle la place particulière et oubliée
du conte, balayé par le roman et l'information : « Chaque
matin, on nous informe des derniers événements survenus
à la surface du globe. Et pourtant nous sommes pauvres en
histoires remarquables. » N'oublie pas le meilleur reste fidèle
à son esthétique, qui chercha sans cesse à restaurer
la puissance de l'origine. L'aura des oeuvres d'art et l'art de conter
subissent le même déclin.
Pourquoi l'art de raconter des histoires
est-il en train de se perdre ? « N'a-t-on pas constaté
que les gens revenaient muets du champ de bataille ? Non pas plus
riches, mais plus pauvres en expérience communicable »,
demande le Benjamin de Frédéric Pajak dans Manifeste
incertain (éd. Noir sur blanc), variation biographique
et illustrée. Le dessinateur retrace la vie en miettes du philosophe
: Benjamin en suspens dans la foule, Benjamin à Ibiza, dans
son refuge solitaire pour intellectuel désargenté,
et Benjamin sur le pont du Catania, en avril 1932, qui médite le
projet de « raconter une longue histoire interrompue par des
rêveries ».
Enrica Sartori
Illustration : Walter Benjamin par Pajak
©Noir sur Blanc
My Old Saigon
Saigon, 17-2-1968 - Đường Phan Châu Trinh,
sau Tết Mậu Thân không bao lâu
17 Feb 1968, Saigon, South Vietnam
--- This relative calm in Saigon was shattered when Communist forces
launched coordinated mortar and rocket attacks against U.S. and
South Vietnamese positions in Saigon and elsewhere in a wide area
of South Vietnam. The ladies are pictured in the market area on a
sunny February 14th in Saigon. --- Image by © Bettmann/CORBIS
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28238974992/
Đám thanh thiếu niên
ồn ào, náo động là lũ chúng tôi
đó dần dần rã ra cùng với mùa hè
kết thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt
tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến
cảng vào mỗi tháng Chín, đuổi chạy có
cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm chân. Trong
khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này
đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm gì cho qua
thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà
tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ phút trọng đại
như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng
đáng với nàng: xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn
bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử
tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì,
cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những
cuốn sách của tôi, và chuyện này thì
cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu.
Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ
thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng
Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Tình Đầu
26.6.2010
Đọc "Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ Việt Nam, nhớ những ngày
xưa kinh khủng.
HÂ.
Tks. NQT
V/v SN của AA
Late at night. Monday. The
twenty-third.
The capital's outlines
in the mists.
Some idiot's given
us the word,
He's informed the
world that love exists.
And out of boredom
or laziness
Everyone believes
and lives that way:
They all look forward
to trysts, no less,
They sing their
love songs night and day.
But to some, the
secret's revealed,
The smallest silence
weighs like a brick.
I too stumbled
on what was concealed.
Since then I've
felt as if I was sick.
1917
Đêm khuya, muộn. Thứ Hai. Ngày 23
Những đường ven thủ đô, trong sương mù
Một tên ngu ngốc nào đó, phán
Rằng tình yêu vưỡn còn!
Yêu hiện hữu!
Và do chán quá, nản quá,
và… lười quá
Chúng ta bèn OK, OK!
Và mọi người bèn sống theo kiểu này:
Tất cả bèn mong ngóng, hẹn hò
Hát hò, ngày và đêm
Những bài tình ca của chúng ta!
Nhưng với vài người, bí mật bật mí
Một sự im lặng, dù nhỏ nhoi cỡ nào
Thì cũng nặng như đá
Gấu, cũng té nhào khi vấp vào điều
được che giấu
Kể từ đó, lúc nào Gấu cũng cảm thấy
bịnh!
AA viết về St. Petersburg làm
GCC nhớ Sài Gòn của Gấu.
Gấu cũng có 1 Saigon của Dos, và cũng
đã từng viết về nó, về những lần đọc Dos trong 1 quán
cà phê hủ tíu Tầu, trong khi chờ BHD.
Mùi cà phê, thì là
mùi cà phê túi, và thay vì
cà phê cháy, thì là mùi
1 ly hồng trà.
The City
THE WORLD OF ART artists had
a sense of Petersburg's "beauty" and it was they, incidentally, who
discovered mahogany furniture." I remember Petersburg from very early
on-beginning with the 1890s. It was essentially Dostoevsky's Petersburg.
It was Petersburg before streetcars, rumbling and clanking horse-drawn
trams, boats, signs plastered from top to bottom, unmercifully hiding
the buildings' lines. I took it in particularly freshly and keenly
after the quiet and fragrance of Tsarskoe Selo. Inside the arcade there
were clouds of pigeons and large icons in golden frames with lamps that
were never extinguished in the corner recesses of the passageways. The
Neva was covered with boats. A lot of foreign conversation on the street.
Many of the houses were painted red (like the Winter
Palace), crimson, and rose. There weren't any of these beige and
gray colors that now run together so depressingly with the frosty
steam or the Leningrad twilight. There were still a lot of magnificent
wooden buildings then (the houses of the nobility) on Kamennoostrovsky
Prospect and around Tsarskoe Selo Station. They were torn down for firewood
in 1919. Even better were the eighteenth-century two-story houses, some
of which had been designed by great architects. "They met a cruel fate"-they
were renovated in the 1920s. On the other hand, there was almost no greenery
in Petersburg of the 1890s. When my mother came to visit me for the last
time in 1927, she, along with her reminiscences of the People's Will, unconsciously
recalled Petersburg not of the 1890s, but of the 1870s (her youth), and
she couldn't get over the amount of greenery. And that was only the
beginning! In the nineteenth century there was nothing but granite and
water.
More about the City
YOU CAN'T BELIEVE YOUR eyes
when you read that Petersburg staircases always smelled of burnt
coffee. There would often be tall mirrors and sometimes carpets. But
not in one single Petersburg home did one ever smell anything on the
staircase but the perfume of the ladies who had passed through and the
cigars of the gentlemen who had passed through. The fellow probably
had in mind the so-called "black" entrance (that is the back entrance,
nowadays, generally, the only one) and there it really could smell of
anything at all, because the doors from all the kitchens opened out onto
that stairway. For example, bliny for Shrovetide, mushrooms and fast-day
oil during Lent, and smelt from the Neva in May. When they were cooking
something pungent, the cooks would open the door onto the back staircase
"to let out the fumes" (that's how they termed it), but nevertheless, the
back staircase, alas, more often than not smelled of cats. The sounds in
the Petersburg courtyards. First of all, the sound of firewood being thrown
into the cellar. Organ-grinders ("Sing, my little sparrow, sing, soothe
my heart ... "), grinders ("I grind knives, scissors ... "), secondhand-clothes
dealers ("Dressing gowns, dressing gowns ... "), who were always Tatars.
Tinsmiths. "I've got Vyborg pretzels." The reverberation in the courtyards
and wells.
Smoke over the rooftops. The Petersburg Dutch ovens.
The Petersburg fireplaces-an ineffective offensive. The Petersburg
fires during bitter frosts. The peal of bells that would deafen
the city with their sound. The drum roll that always made one think
of an execution. The sleds that collided with all their might against
the curbstones of the humpbacked bridges, which now have nearly lost
their humpbackedness. The last branch-line on the islands always reminded
me of a Japanese print. The horse's muzzle, frozen with icicles,
almost touching your shoulder. And then there was the smell of damp
leather in the horse-drawn cab when it rained. I composed almost all
of Rosary in conditions like these, and at home would merely write
down the finished poems.
Cùng với những cuộc phiêu
lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn
trở thành một sân khấu cho tôi đóng
vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân
yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St.
Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và
cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm
cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình
đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài
người.
Hay một London của Dickens, một buổi
chiều đầy sương mù, chú bé Oliver Twist
đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi
ngày cắp sách đến trường, đêm đêm làm
bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào
Việt Nam. Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu
Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long nơi
tôi tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá,
nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo, chưa biến thành
nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng,
nơi dành riêng cho đám quân nhân
Hoa Kỳ.
Ngày mai trời sẽ mưa trên
thành phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée)
Ôi Sài-gòn, một
Sài-gòn hư tưởng, một Bouville, một London, của
riêng tôi đó!
Chắc cũng gần tòa soạn báo Văn
Chợ Sách Đặng Thị Nhu
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/27134222114/in/photostream/
My Old Saigon
http://tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html
Quán Chùa (La Pagode)
là một địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài Gòn
trước đây. Theo các miêu tả thời đó thì
đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc một "thế
hệ mới" trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm nghe tiếng
đại bác của Nhã Ca (bản Nam Cường, 68),
Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:
Cái sự kiện Gấu hay ngồi
ở Quán Chùa, và đám bạn cũng kéo
nhau ra đó, hoàn toàn là do "ngẫu nhiên,
tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!
Gấu làm cho UPI, trụ sở
số 19 Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một đầu
đâm ra Chợ Cũ, một ra bùng binh bờ sông, có bức
tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra biển. Sáng sớm,
Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ 8 giờ
sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có
gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước rồi.
Khi không có hình, Gấu bèn
ghé Quán Chùa.
Tuy nhiên, cái
sự kiện hay ngồi Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn
Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám nằm vùng,
trong có đấng Lữ Phương. Ông này dùng
từ “viễn mơ” để chửi đám Gấu. Không chỉ hay ngồi Quán
Chùa, đếch biết đến nỗi quê hương bị Mẽo dầy xéo,
vân vân và vân vân, mà còn
thờ phụng thứ văn chương hiện sinh, ăn phải cứt mũi lõ, bày
đặt tiểu thuyết mới này nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng, thực sự
tham chiến!
Rồi tới PCT!
Ngồi Quán Chùa,
gọi 1 ly cà phê, 1 cái bánh croissant,
rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở những quán
khác. Và do Gấu cày hai jobs, thường là
Gấu trả tiền, thời đó chưa có cái trò
“kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo. Chẳng thế mà
có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em, cũng lính tráng,
sĩ quan, bây giờ, khi gặp lại ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra
Quán Chùa, thấy anh ngồi đó, là "yên
chí lớn" rồi!
Khi nào thèm bún
ốc, thèm phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì,
thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại về
Quán Chùa uống cà phê.
Sau này, ra hải ngoại,
Gấu vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm ngó
dung nhan Cô T, là vậy. Giả như quen biết từ hồi đó,
biết đâu số phận lại khác đi, Cô T, có
ông chồng tử trận, Gấu có thằng em, chẳng thua, nhưng,
biết đâu nhờ vậy, Cô không quen cái băng
Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ - ma cà rồng, quỉ, kên
kên... đúng hơn - sống bằng xác chết của
ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng ra tiền”,
biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ "Việt Nam"
như bà Ba Lan, Nobel văn chương!
Hà, hà!
Thê thảm nhất, là
lần ghé Quận Cam, cùng lúc Cô T cũng
từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp, vừa uống cà
phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói, anh tới chỗ…
bữa nay ra mắt sách của băng Cờ Lăng. Ui chao, Gấu có
bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!
[Khúc này viết
để gửi tri kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]
Note: Có 1 quán,
một cái xe đẩy, đúng hơn, bán bún ốc,
tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa soạn
AP, bên trong Passage Eden.
Bà chủ xe bún ốc, có lần
cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày,
gia đình quây cót, nuôi trong nhà,
không cần phải đi chợ.
Ngồi ăn, nhìn ra, là
thấy Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở lại Quán
Chùa, tiếp bạn quí!
Note: Hai bài viết, đang
Top Ten, theo server, là cũng về Xề Gòn, bạn bè
ngày nào:
My Old Saigon
Sài Gòn có phải
là 'Hòn ngọc Viễn Đông'?
Trương Thái Du Gửi tới
BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn
Cái tên Hòn
Ngọc Viễn Đông, là Tẩy ban cho Sài
Gòn, và quả đúng như thế, và
sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do,
trong có cái gọi là "mentalité" của
dân Miền Nam, và cái gọi là “văn
minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân
Miền Nam ngang hàng, không phân biệt.
Điều này được những nhà văn, thí
dụ hai đấng, là Graham Greene, trong "Ways of Escape"
đã có những dòng ca ngợi thần sầu về Sài Gòn,
và Maugham, trong bài viết về Huế, có
trên Tin Văn.
Và quả đúng
là quá khứ không thể nào
lập lại, và điều này phần lớn là
do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của
chúng làm biến đổi xã hội Miền Nam
đến tận gốc rễ, không làm sao gượng lại được nữa.
HUẾ
HUE IS A pleasant little
town with something of the leisurely air of a cathedral city
in the West of England, and though the capital of an empire it is
not imposing. It is built on both sides of a wide river, crossed
by a bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It
is extremely dirty, and the food is dreadful; but it is also a general
store in which everything is provided that the colonist may want from
camp equipment and guns, women's hats and men's reach-me-downs, to
sardines, pate de foie gras, and Worcester sauce; so that the hungry
traveler can make up with tinned goods for the inadequacy of the bill
of fare. Here the inhabitants of the town come to drink their coffee
and fine in the evening and the soldiers of the garrison to play
billiards. The French have built themselves solid, rather showy houses
without much regard for the climate or the environment; they look like
the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
The French
carry France to their colonies just as the English
carry England to theirs, and the English, reproached for
their insularity, can justly reply that in this matter they
are no more singular than their neighbors. But not even the
most superficial observer can fail to notice that there is a
great difference in the manner in which these two nations behave
towards the natives of the countries of which they have gained
possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion
that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is
slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes
haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it,
he cannot prevent himself from feeling that the native, black,
brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same
loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself
to treat him as though he belonged to a different species. Though
he will brook no encroachment on his authority and deals firmly
with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary
affairs of life he is friendly with him without condescension
and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar
prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of
every young Annamite is to see it at least once in his life; you
will hardly meet one who is not convinced that outside France there
is neither art, literature, nor science. But the Frenchman
will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play
with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with
her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining
just as fiercely. No one likes having another take possession of his
house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better
repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics
even though his master has installed a lift for him to reach them; and
I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that
strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese
only respect the English, the Annamites admire the French. When in course
of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious
to see which of these emotions has borne the better fruit.
The Annamites
are a pleasant people to look at, very small, with yellow
flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce
in their clothes. The poor wear brown of the color of rich
earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle
of apple green or orange round their waists; and on their heads
a large flat straw hat or a small black turban with very regular folds.
The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers,
a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It
is a costume of great elegance.
But though
in all these lands the clothes the people wear attract
our eyes because they are peculiar, in each everyone is
dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque
often and always suitable to the climate, but it allows
little opportunity for individual taste; and I could not but
think it must amaze the native of an Eastern country visiting
Europe to observe the bewildering and vivid variety of costume
that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of daffodils
at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English
crowd, for instance that which you see through a faint veil of
smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert,
is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will
you see costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly.
The diversity is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen,
messenger boys; men in tail coats and top hats, in lounge suits and
bowlers, men in plus fours and caps, women in silk and cloth and velvet,
in all the colors, and in hats of this shape and that. And besides this
there are the clothes worn on different occasions and to pursue different
sports, the clothes servants wear, and workmen, jockeys, huntsmen,
and courtiers. I fancy the Annamite will return to Hue and think
his fellow countrymen dress very dully.
Somerset Maugham:
The Skeptical Romancer
Người ta gọi nó, Hòn
Ngọc của Đế Quốc [Pháp]
Bắc Kít rêu rao
giải phóng Nam Kít. Sự thực, chúng
đem tới, và tiêm chủng vào khí
hậu con người Nam Kít cái độc cái ác
bản chất của chúng, và lấy đi, những cái
chúng không bao giờ có, và được hưởng,
là tự do, dân chủ, sống thoải mái giữa con
người với con người.
Hãy thử đọc 1 đoạn Somerset
Maugham viết, là biết:
The Frenchman has deep down in
him a persuasion that all men are equal and that mankind
is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case
you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there
it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that
the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself,
with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring
himself to treat him as though he belonged to a different species. Though
he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with
any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary
affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent
without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices;
Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite
is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who
is not convinced that outside France there is neither art, literature,
nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him,
drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty
Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper
and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession
of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps
it in better repair that ever he could himself; he does not want to
live in the attics even though his master has installed a lift for him
to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more
than the Burmese that strangers hold their country. But I should say
that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire
the French. When in course of time these peoples inevitably regain their
freedom it will be curious to see which of these emotions has borne
the better fruit.
Tẩy thực dân đối xử với
Nam Kít, như thế, trong khi lũ Yankee mũi tẹt
sau khi lấy được Miền Nam, đối xử với họ như thế nào?
Cái chuyện Bắc Kít
không hề biết đến cái gọi là tự do,
dân chủ, người đối xử như người với người, là
sự thực, và là chuyện thường ngày ở cả xứ Mít
hiện nay.
Sự kiện chưa từng biết đến dân
chủ là gì, là lịch sử bốn ngàn
năm của xứ Bắc Kít, và cũng là cái
chuyện của xứ Nga Xô. Nói 1 cách ẩn dụ, thì
đây là câu chuyện Bóng Đêm Giữa
Ban Ngày, được Koestler, bằng con mắt của 1 nhà văn,
cô đọng nó vào 1 cuốn sách mỏng dính.
Trong bài viết mới nhất về nó, nhân nguyên
tác mới tìm lại, Michael Scammell viết:
Like other European Communists,
Koestler had struggled to make sense of these trials, and
having utterly failed to do so, he handed in his Party card. He
started his novel in an attempt to decipher the tortured logic of
the confessions, taking as his hero a Bukharin-like disillusioned
high Party official, Nikolai Salmanovich Rubashov. In the course
of the novel Rubashov is interrogated by two secret police officials,
the “good cop” Ivanov (a former friend) and the “bad cop” Gletkin
(a younger, robotic apparatchik), who between them force him
to review his life as a Party leader and convince him that by following
his ideals he has disobeyed the Party line and has violated his oath
of loyalty. In Party-speak, he was guilty of counterrevolutionary
activities. Broken by the logic of his interrogators, Rubashov listlessly
confesses at a public trial and is taken to a prison cellar where
he is executed with a bullet in the head. The novel’s provisional title
was “The Vicious Cycle” and after that “Rubashov.”
Những vụ án dởm, mà
Koestler dựa vào chúng, để xây dựng
tác phẩm, vẫn đang hàng ngày xẩy ra ở
Xứ Mít VC.
Cái tít của cuốn sách,
thoạt kỳ thuỷ là “Vòng Tròn Xấu Xa,
Ma Quỉ”, rồi “Rubashov”, rồi “Bóng Đêm Giữa
Ban Ngày”.
Michael Scammell viết, thật khó
mà tin rằng, 1 nhà văn lại đẻ ra vài
ấn bản khác nhau như thế, về tác phẩm đầu tay
của mình: It’s hard to believe the same author could have
produced two such different versions of his own novel, until one
remembers that Koestler was working from the English edition
the second time around. In the intervening four years he had learned
to think and write in English himself, which helps to explain why
the discrepancies were so wide. When he ran into trouble with his
translation into German he consulted some native German speakers
for advice and showed a sample to Rudolf Ullstein, scion of the great
German publishing house (for which Koestler himself had worked in
the 1930s). Ullstein noted that Koestler was using “a great deal of foreign
words instead of German expressions” in his translation and asked
for permission to change them into idiomatic German. There is irony
here, for the English translation Koestler worked from is itself full
of German words and phraseology, a neat reversal. After further drudgery,
Koestler acknowledged his limitations and asked another German friend
to revise the entire translation for him, but the final version,
with all its weaknesses, was still his.
Việc ngợi ca "hòn ngọc Viễn
Đông số một" và "Singapore mơ thành Sài
Gòn" chỉ là suy nghĩ của những người Việt Nam
Cộng hòa hoài cổ và dí dỏm sau 1975.
Vì thế, chúng tôi rất ngạc
nhiên khi thấy báo Tuổi Trẻ trích lời ông
Đinh La Thăng ngày 27.3.2016: "TP.HCM đã từng là
hòn ngọc Viễn Đông, từng là số một của khu
vực. Trước đây, Singapore, Thái Lan nhìn về
Sài Gòn với một sự ngưỡng mộ, khao khát bao
giờ mới được như Sài Gòn."
Báo Đảng Sài Gòn Giải Phóng
ngày 29.3.2016 còn làm rõ hơn ý
trên: “50 năm trước, ông Lý Quang Diệu nhìn
về Sài Gòn và mơ ước Singapore sẽ được như
Sài Gòn. Khi đó Singapore chỉ là một
làng chài, nay họ là đô thị số 1 trong khu
vực, cả về kinh tế và chất lượng sống."
Chúng tôi lớn lên ở thời điểm
đó, thường xuyên ăn độn khoai lang sùng
hoặc loại bo bo dành cho gia súc Đông Âu.
Chúng tôi cần một câu chuyện hài để tạm
quên khó khăn trước mắt. Sau này trưởng thành,
đi bán sức lao động khắp nơi, chúng tôi có
điều kiện ghé qua Singapore, Kuala Lumpur và Bangkok
nhiều lần và rất buồn lòng nghiệm ra rằng Sài Gòn
trước nay vẫn thua Singapore và Bangkok xa lắm.
Tên Thái Dúi này,
do chưa từng sống ở Sài Gòn trước khi bị Bắc Kít
sau 1975 tẩm độc, không làm sao hiểu được ý
nghĩa “hòn ngọc
Viễn Đông”, như lũ mũi lõ, trong có những
người như Graham Greene, hay Maugham, cảm nhận.
Tên Bắc Kít Đinh La Thăng, 1 tên
Thái Thú, độc địa còn hơn thái thú
Tẫu Tô Định, thí dụ, làm sao mà “tái
tạo” Hòn Ngọc Viễn Đông?
Cái khó nhất mà chúng
không có là cái “người đối với người, như người đối với người”, từ
đó mà ra đủ thứ, nào dân chủ, nào
tự do, Bắc Kít làm gì có.
Gấu, Bắc Kít, may mắn được sống ở Sài
Gòn, lâu dần cảm nhận ra điều này, không
dễ đâu.
Hoài cổ và dí dỏm!
Sợ cả xứ Mít sau này sẽ phải "hoài
cổ và di dỏm", một xứ Mít bị Cái Ác
Bắc Kít tiêu diệt!
Không chỉ Cái Ác Bắc Kít,
mà còn Cái Ác Tẫu Kít, mà
ông Hồ rước về!
Ways of escape:
Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách!
Hồi ký
của Greene. Những đoạn viết về Việt Nam thật tuyệt.
Ways
of escape
Trong
Ba Mươi Sáu Chước, Tẩu Vi Thượng Sách, Ways
of escape, một dạng hồi nhớ văn học, Greene cho biết, đúng
là một cơ may, chuyện ông chết mê chết mệt xứ
Đông Dương. Lần thứ nhất viếng thăm, ông chẳng hề nghĩ,
mình sẽ đẻ ra được một cuốn tiểu thuyết thật bảnh, nhờ nó.
Một người bạn cũ của ông, từ hồi chiến tranh, lúc đó
là Lãnh sự tại Hà Nội, nơi một cuộc chiến tranh
khác đang tiến diễn và hầu như hoàn toàn
bị bỏ quên bởi báo chí Anh. Do đó, sau Malaya, ông bèn nháng qua Việt
Nam
thăm bạn, chẳng hề nghĩ, vài năm sau, sẽ trải qua tất
cả những mùa đông của ông ở đây.
"Tôi nhận thấy, Malaya
'đần' như một người đàn bà đẹp đôi khi 'độn'.
Người ở đó thường nói, 'Bạn phải thăm xứ xở này
vào thời bình', và tôi thật tình
muốn vặc lại, 'Nhưng tớ chỉ quan tâm tới cái xứ sở đần
độn này, khi có máu'. Không có máu,
nó trơ ra với vài câu lạc bộ Anh, với một dúm
xì căng đan nho nhỏ, nằm tênh hênh chờ một tay
Maugham nào đó mần báo cáo về chúng."
"Nhưng Đông Dương, khác hẳn. Ở đó,
tôi nuốt trọn bùa yêu, ngải lú, tôi
cụng ly rượu tình với mấy đám sĩ quan Lực Lượng
Lê Dương, mắt tay nào cũng sáng lên, khi
vừa nghe nhắc đến hai tiếng Sài Gòn, hay Hà
Nội."
Và bùa yêu ép phê
liền tù tì, tôi muốn nói, giáng
cú sét đánh đầu tiên của nó,
qua những cô gái mảnh khảnh, thanh lịch, trong những
chiếc quần lụa trắng, qua cái dáng chiều mầu thiếc
xà xuống cánh đồng lúa trải dài ra mãi,
đây đó là mấy chú trâu nước nặng
nề trong cái dáng đi lảo đảo hai bên mông
vốn có tự thời nguyên thuỷ của loài vật này,
hay là qua mấy tiệm bán nước thơm của người Tây
ở đường Catinat, hay trong những sòng bài của người Tầu
ở Chợ Lớn, nhưng trên hết, là qua cái cảm giác
bi bi hài hài, trớ trêu làm sao,
và cũng rất ư là phấn chấn hồ hởi mà một dấu báo
của hiểm nguy mang đến cho du khách với cái vé
khứ hồi thủ sẵn ở trong túi: những tiệm ăn bao quanh bằng những
hàng dây kẽm gai nhằm chống lại lựu đạn, những vọng gác
cao lênh khênh dọc theo những con lộ nơi đồng bằng Nam Bộ
với những lời cảnh báo thật là kỳ kỳ [bằng tiếng Tây,
lẽ dĩ nhiên]: "Nếu bạn bị tấn công, và bị bắt giữ
trên đường đi, hãy báo liền lập tức cho viên
sếp đồn quan trọng đầu tiên".
Dịp đó, tôi ở hai tuần, và
tranh thủ tối đa, tới giây phút cuối cùng,
cái giây phút không thể tha thứ ,
"the unforgiving minute". Hà Nội cách Sài
Gòn bằng London
xa Rome,
nhưng ngoài chuyện ăn ngủ... ở cả hai thành phố,
tôi còn ban cho mình những chuyến tham quan
nơi đồng bằng Nam Bộ, tới những giáo phái lạ lùng
như Cao Đài mà những ông thánh của nó
bao gồm Victor Hugo, Christ, Phật, và Tôn Dật Tiên.
Ways of escape
Theo GCC, VNCH là
chế độ đẹp nhất mà xứ Mít có, và sẽ
chẳng bao giờ có nữa. Sở dĩ như thế, là vì cái
nền của nó là 1 miền đất thiên đàng. Con
người hiền hoà, thiên nhiên hai mùa mưa nắng,
đói khổ, lạnh quá, nóng quá không
hề biết tới, lại được thằng Tây coi như ngang hàng với nó…
Một khi Bắc Kít ăn cướp, là xong.
My Old Saigon
Thảo Cầm Viên Sgn
1966
Thảo Trần & Hoàng
Dược Thảo @ Tara, Fall, 2003
@
Atlanta, Fall 2003
7.4.2010
Ấp Tara ở đâu xa? Nó ở đây:
Chỉ có ngoại là
nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái
chòi sát bên căn nhà đổ nát
cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu
người con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi nơi,
kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình
ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà
đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi
muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi,
hai bên có hai hàng su đũa, ngày xưa
tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu
cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường
tiêu điều, hàng chục thứ dây leo chằng chịt,
quấn quít trên cành cây hai bên đường,
tôi chợt thấy trong đám dây leo đó có
những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo
không rễ, bám vào cây nào thì
cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người
ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà
ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa
đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi,
ngọn bị bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng
của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn
mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín vàng
ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày
xưa tôi và dì út thay phiên nhau
hành nó, không ngày nào mà
hai dì cháu không trèo cây, hay
lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy
cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng,
hốt hoảng, không còn những âm thanh ríu
rít như ngày xưa, hay là nó cũng như
tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn cũ. Tôi ngồi
phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh
thức...
… Và Gấu có còn muốn trở
về với nó nữa không?
Uyên đã thực sự
rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề
hiểu được một điều: biển cả, bởi vì mênh mông,
cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày
ra đi, hay tìm thấy được, con đường trở về...
Kính GNV, tôi rất
thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của bà thanh thản mà
gây buồn da diết, đúng là viết mà
như không.
Đoạn "Tara" mà tôi mới trích,
hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên.
Chúc mừng bà. Xin cảm ơn đã
cho tôi được đọc.
Kính,
HÂ
Đa tạ
TT/GNV
Thần
Chết và Gái Già
Man has here two and a half
minutes – one to smile, one to sigh, and half a one to love;
for in the midst of this minute he dies.
Đời người, dài như thế, tóm
gọn, chỉ có hai phút rưỡi. Một, để cười, một,
để thở dài 1 phát, và nửa phút
để yêu, và chính là trong “nửa” chưa
tới "một" đó, ngỏm.
-Jean Paul Richter, 1795
Câu trên, tặng
Gấu Cái thì tuyệt.
Kèm giai thoại sau đây.
Maiden, tra từ điển có
nghĩa trinh nữ, và còn có nghĩa gái
già, “hoa xuân chưa [từng] gặp bướm trần gian”!
Ui chao, không hiểu đầu óc ra
sao, hay là càng già càng trở nên
bịnh hoạn, nhìn cái hình, là nhớ
những lần hụt ăn, để xổng 1 con mồi nào đó!
Hồi Gấu Cái đẻ thằng con trai đầu,
Bà Nội của Ẻn nghe tin, bèn từ Cai Lậy lên,
mang theo 1 cô gái quê cực xinh, Bé
Năm, để lo cho thằng bé.
Gấu Cái, chắc là sợ quá,
bèn ra lệnh tống cổ con bé về Cai Lậy trở lại.
“Ẻn” không biết tính Gấu, không hề bao giờ làm
cái vụ đó, mà chỉ thích lên xóm,
khi cần. Nghĩa là ăn bánh trả tiền.
Nhưng thương hại con bé, thế là
đề nghị Bà Trẻ đem về nhà, trên Phú
Nhuận.
Đúng là trao trứng cho ác,
là vì ông con của Bà, tức ông
cậu của Gấu, Cậu Hồng, chớp liền. Cậu làm thịt con bé.
Bà Trẻ Gấu biết, bèn chờ cho tới khi biết, con
bé không có thai, Bả cho nó mớ tiền
trở về quê.
Gấu nghe chuyện này, khi về già,
cách đây chừng vài năm, qua Gấu Cái,
khi Bả nghe Gấu kể chuyện về 1 em đề nghị bỏ Gấu Cái, và
để bù lại, em cho Gấu hưởng mùi trinh nữ!
Bả nói, mày bảnh [ngu] thật,
gái còn nguyên là chê!
Gấu bực quá, bèn phản biện,
chỉ có mỗi một lần không chịu trả tiền, thì
mang cả cuộc đời ra, thế!
Hà, hà!
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26538019163/
My Old Saigon
manhhai
SAIGON 1966 - by Mikey Walters - Tiệm giầy Trần
Rắc và Hà Nội trên phố giầy Lê Thánh
Tôn
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/
Sau 1975, thằng con trai lớn, thấy
Bố thiếu thuốc, bèn kêu bạn học tới nhà,
cho Bố dậy tiếng Tây. Trong có 1 đứa, con ông
chủ tiệm giầy, trên.
Không nhớ tiệm nào.
Nghe nói, cái hầm từ Dinh ông
Diệm, ăn ra tới khu
mấy tiệm giầy. Hai ông chui lên, chạy vô Nhà
Thờ Cha Tam, Chợ Lớn, gửi e mail cho Big Minh, xin hàng.
Người cho xe tăng vô rước. Trên đường
về, Người cho cận vệ đòm cả hai, lấy 40 ngàn đô
chia nhau xài chơi.
Bảo vệ Đàng Trong
Giải Phóng Đàng Ngoài
http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html
Hình lấy trên net.
Tân Định. Phía bên trái, là
đường Trần Quang Khải. Ngay đầu đường, có nhà bảo
sanh Trương Phương (?), mấy đứa nhỏ con vợ chồng Gấu đều sinh tại
đây. Kế nhà bảo sanh vài căn, là nhà
ông chú, Chú Th, bạn học của ông già.
Gấu có nhắc tới ông chú này, trong đi
tìm một cái tên cho 1 cuộc chiến.
Cầu Kiệu, Phú Nhuận ở
phía sau. Phía trước, đi mãi tới Bến Tầu
Sài Gòn. TOBIA là nhà hòm.
Tên của cuộc chiến
Từ văn phòng hãng thông
tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhẩy mấy bước là tới khách
sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên người
Nhật, Sawada Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới vợ.
Anh tròn xoe mắt, nói sao không cho biết. Đám
cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC there!" Anh bật cười,
kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách
sạn, làm một chầu ăn sáng.
Quán Chùa (La
Pagode) là một địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài
Gòn trước đây. Theo các miêu tả thời đó
thì đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc
một "thế hệ mới" trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm nghe
tiếng đại bác của Nhã Ca (bản Nam Cường,
68), Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:
Cái sự kiện Gấu hay ngồi
ở Quán Chùa, và đám bạn cũng kéo
nhau ra đó, hoàn toàn là do "ngẫu
nhiên, tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!
Gấu làm cho UPI, trụ
sở số 19 Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một
đầu đâm ra Chợ Cũ, một ra bùng binh bờ sông, có
bức tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra biển. Sáng
sớm, Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ
8 giờ sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có
gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước rồi.
Khi không có hình, Gấu bèn
ghé Quán Chùa.
Tuy nhiên, cái sự
kiện hay ngồi Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn
Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám nằm
vùng, trong có đấng Lữ Phương. Ông này
dùng từ “viễn mơ” để chửi đám Gấu. Không chỉ
hay ngồi Quán Chùa, đếch biết đến nỗi quê
hương bị Mẽo dầy xéo, vân vân và vân
vân, mà còn thờ phụng thứ văn chương hiện sinh,
ăn phải cứt mũi lõ, bày đặt tiểu thuyết mới này
nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng, thực
sự tham chiến!
Rồi tới PCT!
Nhiều lắm. Duyên do chỉ
là do Gấu Cà Chớn đầu têu!
Gấu đã viết về cái
cảnh này rồi:
Đêm, vẫn đêm đêm,
như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên
trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình
trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa.
Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không
có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở
về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi
chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày
rồi ghé quán Cái Chùa làm người
khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động
mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và
mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó
xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó
đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự
nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua,
tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông
thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học,
nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ
Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn
những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó
cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì
lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm
canh xì.
Những buổi sáng, nếu có
Radiophoto, khi xong việc, hoặc ở lại sở phụ giúp một
đồng nghiệp làm ca sáng, chờ tới trưa coi UPI có
hình cần chuyển, hoặc theo ông Hưng, đồng nghiệp làm
cho hãng AP tới văn phòng hãng này,
ở tầng lầu phía bên trên passage Eden, nhìn
bức hình Huỳnh Thành Mỹ phóng lớn treo trên
tường, uống ly cà phê kiểu Mỹ, nói dăm ba câu
tiếng Tây với Horst Fass, trưởng phòng hình
ảnh, rồi cùng ông Hưng đi kiếm mấy cuốn truyện "série
noire" của một tay bán sách dạo ở một con hẻm chật cứng
giữa hai bức tường gần bên tiệm thuốc tây trên
đường Tự Do. Trường hợp không có Radiophoto, thường ngồi
trơ cu lơ một mình trong lúc chờ bạn bè tại một
bàn tại góc quán Cái Chùa, mơ
màng tự hỏi không biết sáng nay cô bạn có
giờ học tại Văn Khoa hay không, mơ màng tưởng tượng chiến
tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ gặp một người chắc chắn hơn hẳn
mi: Một người hoặc không nợ nần gì cuộc chiến nên
không bị nó hành hạ đến trở thành khật khùng,
hoặc thừa thông minh, thừa khôn ngoan để cùng cô
thoát ra khỏi, cho dù người đó có yêu
thương cô hay không thì mọi chuyện cũng chẳng liên
can chi tới mi.
Hoặc ba hoa trò chuyện chán
chê với đám bạn bè cho tới khi không
còn kiếm ra một câu nói thật độc địa, thật
cay đắng về nhau, về một cuốn sách vừa được xuất bản, một
bài thơ, một truyện ngắn vừa được đăng báo, tựu chung
cũng chỉ để quên đi một chốc một lát, hoặc may lắm một
nửa buổi không nhớ tới cô bạn. Rồi cũng tàn câu
chuyện, đám bè bạn từng đứa bỏ ra về. Huỳnh Phan Anh
có thể đã đến giờ lên lớp, có thể bực mình
vì thằng bạn Bắc Kỳ đổi tên cuốn truyện, Thất Lạc thành
Thật Lạt, nhại cách nói của dân miền Nam. Còn
Nguyễn Xuân Hoàng có lần bỏ quán Cái
Chùa đến cả tuần lễ, chỉ vì cũng vẫn thằng bạn khốn nạn
bầy đặt viết bài phê bình, giới thiệu cuốn sách
mới ra lò của anh, Sinh Nhật, bị đổi thành Sinh Nhạt, và
bài phê bình mang tên Đi Tìm Một Chiếc
Mũ Đã Mất, nhại theo Proust. Bao nhiêu năm trời nhớ lại
mới thấy càng thù ghét cái phần thâm
căn cố đế, cái bản chất thâm độc nơi đáy sâu
thân thể, bao nhiêu năm tháng, mưa gió, khí
hậu, con người, vùng đất hiền hòa không sao gột rửa
nổi. Ba mươi năm sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn bè, đứa còn
đứa mất, chẳng đứa nào được may mắn với cõi sống, cõi
viết. Nguyễn Đình Toàn ở Việt Nam, nghe
nói mắt cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không
được may mắn. Còn Nguyễn Xuân Hoàng bây
giờ lại ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo
gì hay không...
Cõi khác
Ngồi Quán Chùa,
gọi 1 ly cà phê, 1 cái bánh croissant,
rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở những
quán khác. Và do Gấu cày hai jobs,
thường là Gấu trả tiền, thời đó chưa có cái
trò “kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo.
Chẳng thế mà có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em,
cũng lính tráng, sĩ quan, bây giờ, khi gặp lại
ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra Quán Chùa, thấy anh ngồi
đó, là "yên chí lớn" rồi!
Khi nào thèm bún
ốc, thèm phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì,
thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại
về Quán Chùa uống cà phê.
Sau này, ra hải ngoại,
Gấu vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm
ngó dung nhan Cô T, là vậy. Giả như quen biết
từ hồi đó, biết đâu số phận lại khác đi, Cô
T, có ông chồng tử trận, Gấu có thằng em, chẳng
thua, nhưng, biết đâu nhờ vậy, Cô không quen cái
băng Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ - ma cà rồng, quỉ,
kên kên... đúng hơn - sống bằng xác
chết của ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng
ra tiền”, biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ
"Việt Nam" như bà Ba Lan, Nobel văn chương!
Hà, hà!
Thê thảm nhất, là
lần ghé Quận Cam, cùng lúc Cô T cũng
từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp, vừa uống
cà phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói, anh tới
chỗ… bữa nay ra mắt sách của băng Cờ Lăng. Ui chao, Gấu có
bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!
[Khúc này viết
để gửi tri kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]
Note: Có 1 quán,
một cái xe đẩy, đúng hơn, bán bún
ốc, tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa
soạn AP, bên trong Passage
Eden. Bà chủ xe bún ốc, có
lần cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày,
gia đình quây cót, nuôi trong nhà,
không cần phải đi chợ.
Ngồi ăn, nhìn ra, là
thấy Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở lại
Quán Chùa, tiếp bạn quí!
Note: Hai bài viết, đang
Top Ten, theo server, là cũng về Xề Gòn, bạn bè
ngày nào:
Tưởng Niệm Bạn
Duật
[Trong hình, Bạn Duật
đứng hàng thứ nhì, đeo kính, đi giầy, tính
từ phía trái]
Ba Trăm Năm Sau Có
Ai Khóc Gấu Cà Chớn
Lại có ông, cứ
mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than:
đây là nghiệp của tôi. Ông khác thì
nói: tôi mà không viết thì ngứa không
chịu được. Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng
giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba trăm năm
sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình!
Gấu bị Thầy Kuốc thù,
có thể là do đề nghị, nếu có ngứa, thì
gãi, hoặc đi gặp Bác Sĩ, vì có khi,
do di chứng của giang mai.
Đừng viết!
Có lần, được, chắc là
đàn em “mồi”, hỏi, tại sao viết, Thầy buông độc
1 tiếng:
Ngứa!
Kẹt 1 cái, cả 1 đám
đàn em sau đó, nhao nhao lập lại sư phụ, do ngứa
mà viết!
hình
manhhai
La Cigale. Con Ve Sầu.
Chủ là 1 anh Tẩy. Có
cậu con trai, chiều chiều hai cha con đi dạo, Gấu có gặp đôi
lần..... Bạn Chất hay ngồi đây lắm, khi có "viện trợ Mỹ"
- khi bà Út, phu nhân đại tá Út,
tỉnh trưởng Cà Mau về Sài Gòn chơi. Bà là
em gái bà cụ Chất. Thường là anh kéo theo
GCC. Cả hai, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ nhảy đầm.
Gấu, những đêm
trực - Đài Liên Lạc VTD, đường Phan
Đình Phùng cũng gần đó, thỉnh thoảng
cũng mò ra đây, khi quá nhớ cô
bạn… Quán cà phê Duyên Anh
cũng đâu đó…
Ui chao cả 1 trời
kỷ niệm.
Văn
Cảnh. Tới có 1 lần. Đi với Gấu Cái.
Đúng ra là
bị Gấu Cái “cho vô xiệc”.
Biết chồng mình
nhớ cô bạn phù dâu ngày
nào, và cũng thèm nghe nhạc thính
phòng, bèn phịa, nó hẹn vợ chồng
mình ở Văn Cảnh, tối nay....!
Dã man thật!
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26198790884/
http://www.tanvien.net/sangtac/sa05_coi_khac.html
Khi đã gần trưa, gã
chuyên viên trẻ bèn ghé hãng,
không biết làm gì xoay qua đổ xí
ngầu với Tư Râu, người chuyên mang hình lên
Đài để chuyển đi. Rồi cuộc chiến ăn sâu tới tận xương
tận tuỷ Miền Nam. Có những
lần Tư Râu phải chạy lên chạy xuống hàng chục
bận, từ 19 Ngô Đức Kế - con phố nhỏ gần bờ sông, đâm
ra Công Trường Mê Linh, có tượng Đức Trần Hưng
Đạo tay chỉ hướng sông hướng biển khuyên con cháu
sau này lấy "nước" mà dựng "đất", do vậy mà
có dân tộc "Boat People"- tới Đài Liên Lạc
Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, số 7 Phan Đình Phùng.
Mỗi bận như vậy, có khi chỉ để mang một tấm hình vừa mới
rửa xong, từng tấm một vì không thể chờ đợi, những tấm
kia còn đang trong phòng tối, hoặc còn tươi mùi
thịt sống, còn khét mùi bom đạn đang được cấp tốc
từ chiến trường gửi về. Một lần trong khi chạy xe, anh may mắn chụp được
hình, đúng ra là tử thi viên Bộ Trưởng Giáo
Dục Lê Minh Trí, bị hai tay đi xe gắn máy thả một
trái lựu đạn vô xe trên đường Nguyễn Du.
Note: Gấu lầm tên vị bộ trưởng
với 1 tay nào khác.
Cũng bị VC làm thịt như vầy.
Cứ có ông nào OK, là
VC làm thịt, để sau này nhường chỗ cho toàn
1 lũ bần cố nông, chăn trâu, học lớp 1, hay y tá
dạo.
Nguyễn Chí Khả, anh Nguyễn Chí
Kham, đọc truyện, sửa giùm
Bạn thử nhìn lũ Trùm
VC hiện nay, coi, có tên nào có tí
chữ hiện lên mặt không?
Quán Cái
Chùa or Factory Bistro @ San Diego
by Sad Seagull
Bỗng nhớ đến Bao Lơn, và những buổi sáng
chỉ có hai anh em, là Ông Số 1,
“Đông Phương Bất Bại” – nick nhà thơ kẹo mứt
ban cho ông, và thằng em, tên “sa đích văn nghệ” –cũng NS ban cho
- ở Quán Chùa, Xề Gòn.
Ông phán, Kịch
mới đứng đầu cõi giang hồ gió tanh mưa
máu.
Và “Bao Lơn”, và
1 trong những đỉnh của nó.
Bi giờ, đọc lại, thì mới
hiểu, tại sao TTT mê Le Balcon:
Nó là/ làm
nhớ đến, cái không khí bị vây
hãm của Xề Gòn, hồi đó.
Trong Bao Lơn,
cũng có 1 ông HPNT, sát thủ số
1 của Mậu Thân Huế ngày nào.
"Rotten with genius", thối
rữa với thiên tài. Céline phán,
về “Thánh Jean Genet" [chữ của Sartre]
Nguyên
Mẫu
Nguyên
mẫu là một mục của tờ văn học Pháp, Le Magazine
Littéraire. Số Tháng Giêng 2009, có
một bài viết về cặp Don Quichotte & Pancho Panca, thật
tuyệt, của Benoit Duteurtre. Tin Văn scan để hy vọng lèm bèm
về nó, khi nào hưỡn hưỡn, rảnh rảnh.
Thú nhất, là tác giả
tìm ra sự liên hệ giữa cặp Don & Pancho với
những cặp, thí dụ, hai nhân vật trong Của Chuột
và Người, và, từ Của Chuột và Người, móc
vào cơn suy thoái kinh tế hiện đại, rồi móc
vào cơn suy thoái tâm linh qua hai nhân
vật trong Trong khi chờ Godot của Beckett. Tuyệt!
Nói gần nói xa, chẳng qua
nói thẳng: Đây cũng chính là cách
viết Tạp Ghi của Gấu!
Cái nọ xọ cái kia, chẳng biết
đường nào mà lần! [Gấu Cái ghét
thậm tệ, chửi, chẳng khi nào đọc được trọn bài viết
của mi!]. Một ông phê bình gia hải ngoại
cho rằng, cách viết của Gấu là từ tuyệt chiêu
Lăng Ba Vi Bộ mà ra!
Nhưng, Lăng Ba Vi Bộ là một “diệu
pháp” để tránh đòn. Đoàn Dự chẳng
muốn đánh nhau với ai, học được phép này,
thú quá, vậy là khỏi lo thằng nào đánh
mình!
Còn mi?
Thì cũng nói thẳng: Để đánh
người! NQT
*
Bác gái nói
đúng đó – bác chịu khó viết bài có
nhập đề-thân bài-kết luận cho bà con dễ đọc với.
Phúc
đáp: Tks. Nhưng Tin Văn bây giờ hết còn
có thể viết một bài riêng rẽ ra như vậy được
nữa rồi. Tự nó cuốn lấy nó, chằng chịt như mạng
nhện, Gấu này cũng chịu thua. Chỉ có cách
là từ bỏ nó. Terminate nó! Nhưng làm
sao terminate? Bài viết nào thì cũng như một
phần tử trong một bản đại hoà tấu diệt trừ Cái Ác
Bắc Kít, trong khi chưa có một Newton xuất hiện.
Nhưng nhờ Gấu Cái không đọc
mà Gấu tha hồ viết!
Tks again. NQT
Đọc ở
đâu ?
Trên tờ TLS, Robert Irwin điểm cuốn
“Đọc ‘Lolita’ ở Teheran”, của Azar Nafisi, một câu chuyện
về tình yêu, về những cuốn sách và
về cách mạng, đã đưa ra một nhận xét thú
vị. Theo ông, những nhà phê bình văn học
chú ý ai đọc sách, đọc sách gì,
nhưng lại ít chú ý đến nơi chốn mà những
cuốn sách được đọc.
Nhìn lại một đời đọc, nơi đọc, hoặc
chỉ thấy mà chưa có hân hạnh đọc, lần đầu
tiên trong đời, quả là ghê gớm thật. Mà
có khi còn liên quan đến cái gọi là
cơ may, vận mệnh của một đời văn, đời người.
Một cách nào đó, có
thể nói, Mai Thảo đọc truyện ngắn đầu tay của Dương
Nghiễm Mậu, Cũng Đành, từ sọt rác tòa
soạn báo Văn, tại đường Phạm Ngũ Lão Sài
Gòn, khi Trần Phong Giao làm tổng thư ký, như
ông kể lại trong một bài viết về họ Dương. Bởi vì
ông đã lôi nó từ đó ra và
đem lên Sáng Tạo. (1)
Nguyên Ngọc đọc Nguyễn Huy Thiệp từ
trong đống bụi của tờ Văn Nghệ, như ông kể lại với Nguyễn
Xuân Hoàng trên tờ Văn số tháng 6
& 7, 2003.
Như thể, trong khi chờ đợi người đọc, chúng
- những cuốn sách – có khi phải rúc sâu
vào lớp bụi, nơm nớp sợ, một thằng cha cà chớn,
một con mắt phàm phu tục tử nhìn thấy!
Giả sử như chẳng gặp được một Nguyên
Ngọc, thì đành biến thành bụi...
Tôi, đọc Bếp Lửa
của Thanh Tâm Tuyền ngay trên hè đường Sài
Gòn, khi cuốn sách được đem bán xôn.
Sau này, tôi vẫn cám ơn ông Nguyễn
Đình Vượng, người xuất bản, đã làm một hành
động vô cùng ngoạn mục, là cho Bếp Lửa biến
thành bụi đường, để rồi tái sinh, như truyền thuyết
về một loài phượng hoàng.
Giả sử như ông không làm
như vậy, một thằng học sinh nghèo như tôi, sức
mấy mà có tiền, hoặc dám bỏ tiền ra mua,
một cuốn Bếp Lửa, nằm trên giá sách?
Tay nghệ sĩ chơi nhạc, và soạn nhạc
nổi tiếng Yanni, kể lại, vào năm 9 tuổi, ông bố
đem cầm cố căn nhà của gia đình, lấy tiền mua cây
đàn dương cầm cho thằng con con nít. Sau này
ông con kể lại, ông không phục ai trên đời
bằng phục chính ông bố của mình! Bởi vì,
theo ông, mua cây đàn chậm hơn một tí là...
hỏng! Ông bố biết, phải có cây đàn, và
phải có ngay lập tức, không là cái thiên
tài ẩn náu ở trong thằng con nít, sẽ bỏ đi ngao
du, bởi vì nó không thể đợi đuợc!
Tôi cứ tuởng tượng ra một ông
Nguyễn Đình Vượng, một buổi sáng đẹp trời tại
Sài Gòn, bê chồng sách cũ, bán
không được, là những cuốn Bếp Lửa, cho xuống lề đường,
để nó gặp được những độc giả... đích thực của nó,
thí dụ như... tui, chẳng hạn!
Bởi vì hành động bệ những
cuốn Bếp Lửa mà tôi còn nhớ rõ,
bìa vàng vàng đó, ra lề đường, đối
thằng con nít nhà nghèo là tôi
đó, nó giống như hành động cầm cố nhà
mua cây đàn. Có chút khác, là
ông Vượng làm sao biết có một thằng con nít,
đúng vào thời điểm đó, cần đọc... cọp, cuốn
Bếp Lửa?
Ôi chao, khi đã kiếm ra đồng
tiền, cày hai jobs, một cho nhà nước, một cho
báo Mẽo, thằng con nít ngày xưa ‘đăng ký’
mua báo Tây
dài hạn [hồi đó gọi là ‘abonner’, thay vì
‘subscribe’], nhưng làm sao quên được cái
thú đọc báo cọp, đọc sách cọp, ngay ở vỉa hè?
Thanh Tâm Tuyền đọc Đêm Giã
Từ Hà Nội, cho cả băng bằng hữu Sáng Tạo nghe,
và sau khi đăng, mời Mai Thảo đến tòa soạn, cả hai
kéo nhau đi uống "cà phe". Mai Thảo tâm sự, nếu
anh mà không lôi nó ra đọc, rồi đăng, tôi
đã kiếm nghề buôn, thay vì viết, giữa những chuyến
ngồi ngất ngưởng trên xe xích lô, từ tòa soạn
báo này tới báo khác, tại Sài Gòn.
Theo tôi, Thanh Tâm Tuyền
phải đợi tới khi Mai Thảo mất mới
cho đăng những chi tiết trên, không phải là
để đính chính một vài điều về nhóm
Sáng Tạo, thí dụ như “Ai là người cầm đầu nhóm,
ai là người khám phá ra Mai Thảo”... nhưng
là để cho thấy, cái gọi là nghiệp văn của
Mai Thảo, sẽ biến thành nghiệp buôn, nếu không
có một độc giả là Thanh Tâm Tuyền.
Và khi Thanh Tâm Tuyền cho
rằng Mai Thảo “đã trốn thơ cho tới khi không thể
trốn được nữa”, thì chúng ta, những độc giả của
cả hai, sẽ tự hỏi, phải chăng, thi sĩ cho rằng, giả sử như Sáng
Tạo không đăng truyện ngắn_tùy bút_ thơ Đêm
Giã Từ Hà Nội, biết
đâu đấy, Mai Thảo sẽ “bằng lòng” làm nhà
thơ, thay vì... “bằng lòng làm nhà văn”
[chữ của Thanh Tâm Tuyền, trong bài viết về Mai Thảo khi
ông mất, trên tạp chí Thơ], tác giả của những
cuốn tiểu thuyết đăng báo, viết giữa những chuyến xe xích
lô ngất ngưởng trên đường phố Sài Gòn....
còn tiếp
(1): Mai Thảo, trong Chân Dung Nhà
Văn, không nói rõ tên tờ báo,
nơi ông nhặt được bản thảo truyện ngắn của DNM. Không
phải truyện Cũng Đành, mà là Rượu Chưa
Đủ.
Chắc chắn không phải báo Văn,
vì khi ST còn sống, chưa có Văn. Báo
Văn số 1, số ra mắt, là số Tết, Xuân 1964, theo NCK.
Cám ơn bạn đã nhắc nhở về sai sót trên.
NQT
*
Bác gái nói
đúng đó – bác chịu khó viết bài
có nhập đề-thân bài-kết luận cho bà
con dễ đọc với.
Tks. NQT
Gấu có mấy bài tủ, đúng
thứ như trên đây yêu cầu, vẫn chỉ để dành
riêng cho mình, không dám viết ra,
chỉ sợ viết ra là ... mất.
Viết, một cách nào
đó, là... chết.
Gấu đã từng mở ra, như trên,
những dòng kỷ niệm về BHD, trong Lần Cuối Sài
Gòn, khi, ở trại tị nạn, biết rõ một điều, mất cả
hai, BHD và Sài Gòn.
Nhưng thôi, sắp đi rồi, sang bên
kia gặp BHD, gặp Sài Gòn rồi, giữ làm
quái gì nữa!
Những Ngày
Ở Sài Gòn
Gấu đứng chống nạnh. Người ngồi quay
lưng lại, là Trần Bảo Thạch, trưởng đài VTĐ
thoại quốc tế, số 5 Phan Đình Phùng, Sài
Gòn.
Gấu & Phạm Năng Cẩn, lần
gặp lại khi trở về Sài Gòn, 2001
Ông con PNC chụp,
tại vườn nhà PNC, khu Thanh Ða.
GGC, 1969.
Bức này có 1 bộ, hai cái.
Cái kia, Gấu đứng bên ngoài,
chụp vô trong nhà, cô bạn, mặc cái
áo ngắn tay.
Hắn sống bình thường, hắn
tham dự chiến tranh cũng như bất cứ người nào cùng tuổi,
cùng một thế hệ hắn, hắn sống, chết sợ hãi khổ sở như
bất cứ một người nào, nhưng chỉ khi chiến tranh kết liễu, khi
biến động mất đi vẻ sôi nổi bề mặt, lúc có mới có
nhà văn. Bởi vậy nhà văn chỉ là một kẻ sống sót
(Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa). Và những tác phẩm lớn
chỉ xuất hiện khi nỗi lo sợ tạm ngưng, một nhận định của Faulkner (Les
grandes oeuvres renaitront quand la peur aura cessé).
Cho nên, nếu lịch sử có
một chút ảnh hưởng, một chút liên quan
tới văn chương, chính là nó làm
thay đổi ngôn ngữ mà văn chương dùng để nói với nó.
Tất cả đều đã được nói tới, kể từ khi có
bóng dáng con người trên mặt đất, chúng
ta đã sinh ra quá trễ trong một thế giới đã
quá già, nhưng để tìm ra những ngôn
ngữ mới mẻ, chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy đã
sinh ra quá muộn cả.
Vậy thì vấn đề là, luôn
luôn chỉ là ngôn ngữ mà thôi.
Và mỗi thời đại có một ngôn ngữ riêng
của thời đại đó. Nguyễn Đình Toàn là
nhà văn trẻ tuổi
ở miền Nam hiện nay nên ngôn ngữ mà Toàn
dùng để cấu tạo
nên thế giới tiểu thuyết của Toàn đã
mang nặng không khí hiện sinh với những phát
giác đầy tính cách siêu hình
về con người, nỗi cô đơn của những nhân vật trong
Những kẻ đứng bên lề, Con Đường… nỗi cô
đơn cộng với những thất vọng, những âu lo, những ám
ảnh của sự chết, tính cách hàm hồ của hạnh
phúc… đã bám chặt lấy những nhân
vật của Toàn. Những ám ảnh của sự chết và những
ám ảnh của dục tình được trộn lẫn vào nhau,
“hình như ở trong tôi sẵn có một tiếng gọi thảm
thiết nào đó luôn luôn vọng lên
tôi không nghe rõ bao giờ nên không
biết đó là lời kêu gì và mỗi lần
như thế tôi có cảm tưởng vỡ bờ trong những vùng
tối tăm của cơ thể và ùa đi khắp thân xác,
trôi tôi đi rất xa, phát khóc được. Tôi
chết trôi trong khi thân xác, trí tuệ trì
trệ, bất động, tâm hồn mệt nhọc lặn lội trở về giữa những dòng
nước xiết không hình ảnh”, một câu của một nhân
vật trong truyện của Toàn giống như một lời gọi, đến từ một nơi
sâu thẳm nào đó, tiếng gọi của tâm lý
của những miền sâu, những nơi chốn chưa được ý thức con người
rọi sáng, và
có thể là tiếng gọi xuồng xã của dục tình,
lời nói âu yếm của người tình, của Thần
Chết, có thể như vậy.
NQT
Note: Nhớ, bài viết này
là bài đầu tiên, sau mấy cái truyện
ngắn đi trên Nghệ Thuật.
Viết dở, để trên giá sách,
buổi sáng,
Toàn tới nhà rủ ra Pagode uống cà phê.
Trong lúc lo đánh răng, rửa mặt, anh tình cờ thấy
nó, lôi xuống đọc, thú quá, bèn
biểu cho đi liền.
Nói, còn nháp, chưa
xong.
Nháp khỉ gì nữa!
Không thể ngờ được, ra hải ngoại,
cuối đời, lại thấy nó, nhờ 1 vị ở trong nước, còn
giữ đủ bộ Nghệ Thuật.
Tks.
NQT
Khen bạn nức nở, đến nỗi VL cũng bực, phán,
mày viết cái gì thì cũng có
cái tên mày ở cuối bài…
Ông anh thì cười hô
hố, lần ngồi Pagode đọc bài thổi bạn quí NXH!
Ông anh nhà thơ
ngồi Quán Chùa, đọc, bật cười, phán,
mày viết về bạn mày thì như thế này,
mà mày viết về NS thì như thế kia, làm
sao chúng không chửi. Mày viết về bạn mày
đúng như mày viết về NS, thì thành
nhà phê bình được đấy.
Thư tín
Tôi rất thích
đọc những tài liệu của báo Văn, và những bài
phê bình đăng trước 75 của ông, như bài
viết về Nguyễn Xuân Hoàng và Thanh Tâm
Tuyền. Những tài liệu đặc sắc này đã giúp
tôi kiếm đọc lại những tác phẩm của các nhà
văn này. (Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm
Tuyền và hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông
ở vị trí một người đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần
xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông.
Kính chúc ông mạnh khoẻ.
Trân trọng,
|
|