TƯỞNG NIỆM
|
Tưởng
niệm Nguyễn
Nhật
Duật
Subject:
Thu hoi am cua Duat
Date: Wed, 15 Sep 1999
22:49:46 -0800
From:
To:
Tôi đã
đọc thư E-mail của anh
NQT gửi cho NND qua điện thoại. Ảnh mừng lắm nên vừa nghe xong, ảnh nhờ
tôi ghi
những lời ứng khẩu sau đây bày tỏ tâm tư
của anh và chuyển giùm đến các bạn:
Thân gửi các bạn NQT, NXH ,
NTH.
Ngày
1-9 năm nay, cách đây 14
ngày, mình đã lên bàn mổ và đã mất đi
toàn bộ lá phổi bên phải vì cái bướu ung thư không dung thứ cho lá phổ
bên phải
một chút nào hết. Thôi thì với 35 năm dạy học thì kết quả như thế này
cũng đủ
rồi. Với lá phổi trái còn lại, vào cuối tháng chín này, mình sẽ trở lại
Trung
Tâm Ung Bướu để người ta sẽ rà xét lại và giúp mình truy quét tàn quân
địch tức
là các tế bào ung thư còn sót nếu có, để bảo vệ lá phổi bên trái cho
đến mãn
đời mình. Cuộc đời dạy học theo biên chế Nhà Nước.
của mình sắp chấm dứt tức là
sắp về hưu rồi nên mình cố gắng kéo lê nó cho đến dứt luôn nhưng khao
khát chính
của đời mình là viết được những điều tâm đắc, những điều mà hồi trẻ
mình đã cùng
các bạn Hối, Trụ, Hoàng,Viên Linh, Đặng Phùng Quân,
NDToàn , Huỳnh phan Anh đã từng ấp ủ và đã
từng viết được chút này chút nọ, rải rác trên báo này báo kia và chưa
đâu vào
đâu cả. Điều nhức nhối là mình phải làm sao thực hiện dược những tác
phẩm có tầm
vóc xứng đáng với mấy chục năm trời sống, cảm, nghĩ, đọc và tiếp xúc
với những
người và những tác phẩm đã qua. Điều mình tha thiết nhất là viết về
những hình
thái đặc sắc nhất của văn chương và nghệ thuật, viết về những biểu hiện
sâu sắc
nhất của văn nghệ nói chung tức là viết về mỹ học, nhất là mỹ học về
văn chương đồng
thời những vấn đề lớn của triết học, những vấn đề không ngừng làm thao
thức
những tâm hồn sâu sắc nhất của mọi thế kỷ, những vấn đề mà mình quan
tâm nhất
như ý nghĩa của con người, của cuộc
đời, của tình yêu và cái chết trong cõi nhân sinh này và trong vũ trụ
bao la. Tất
cả những điều đó rốt cuộc còn tồn đọng lại trong ta ý nghĩa gì và giá
trị gì ?
Quãng đời còn lại của mình sẽ
dành cho việc viết về những vấn đề cơ bản nhất của văn học nghệ thuật
và của
triết học như ngày xưa mình cùng các bạn đều đam mê đeo đuổi suy tư và
rung cảm
cùng với chúng.
Mình hứa sẽ không lãng phí
quãng đời còn lại của mình trong im lặng đâu.
Nhớ các bạn lắm và nhớ lại
bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chúng như đang hiển hiện trước mắt mình.
Tuy nhiên
mình nghĩ rằng nhớ đến các bạn thì phải làm sao cho xứng đáng với những
điều
các bạn trông đợi ở nơi mình . Mình cũng
chờ nơi các bạn những sáng tác vá biên khảo thể hiện những rung cảm của
các bạn
trong tình huống mới của cuộc sống riêng tư và cộng đồng .
Những người như chúng ta chỉ
nên sống cuộc sống có ý nghĩa bằng ngòi bút chứ không phải bằng
tịch mịch của phủ định sạch trơn mà thời gian muốn trùm lên mỗi người.
Chúng ta hãy cùng nhắc nhau
sống cho sáng tạo và bằng sáng tạo đến hơi thở cuối cùng .Các bạn có
biết không
ở miền đất như mình đang sống đây có tâm hồn nào đã từng mang nặng ưu
tư với
nhũng nỗi đau đời vá tha thiết với cái đẹp
muôn màu của sự sống mà lại không
khắc khoải , không thao thức trong từng giờ , từng phút của cuộc sống ý
thức ?
Chúc các bạn mọi sự may mắn và chúng ta sẽ được gặp nhau qua rất nhiều
bài viết
trong tương lai.
Đây là những lời xuất khẩu
qua điện thoại trong cuộc nói chuyện với anh bạn đồng nghiệp, của một
người bạn
đang bị bệnh, nhưng chỉ có bệnh về thân xác chứ tâm hồn thì vẫn đủ sức
khang
kiện và nghị lực để còn tiếp tục vươn lên theo với đời, với bạn.
Xin các bạn ghi nhận nơi đây
sự tỉnh táo của mình qua từng câu, từng chữ. Mình không mê sảng chút
nào đâu
các bạn ạ.
NNDuật.
*
… Thời gian là cái điều tàn
bạo, nó phát triển trong người tôi như cục bướu ung thư, không dễ gì lấy lui lại được.
… que cette chose
atroce: le
temps, se développe en moi comme un cancer, irrévocablement.
(André Malraux, La Voie
Royale, Con Đường Vương Giả)
*
Người
chủ địa chỉ e-mail viết
thêm: Đây là những lời xuất khẩu qua điện thoại với anh bạn đồng
nghiệp, của
một người bạn đang bị bệnh nhưng chỉ có bệnh về thân xác chứ tâm hồn
thì vẫn đủ
khang kiện và nghị lực để tiếp tục vươn lên với đời.
Nhưng sau cùng, anh e-mail:
Subject:
Về lễ an táng của
Duật
Date: Thu, 17 Feb 2000 15:25
+0700
From:
To:
Anh... và tôi đã đi phúng
điếu anh Duật lúc 10 giờ sáng nay 17-2-2000.
Chị Duật nhờ tôi báo tin cho
các bạn bên Hoa Kỳ rõ. Chị dặn tôi nhờ anh H. nhắn tin này cho anh Viên
Linh
biết.
Nhìn bản cáo phó dán trên
tường, tôi ghi lại vài hàng:
Nguyễn Nhật Duật 1940, quán
Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, từ trần lúc 6 giờ ngày 16-2-2000, thọ 61 tuổi.
Động quan lúc 6g sáng ngày
19-2-2000; an táng tại nghĩa trang chùa Giác Nguyên, huyện Hóc Môn.
Duật có 8 người con (7 gái, 1
trai)... Gia đình còn chờ người con gái thứ hai ở bên Đức về VN tối
mai, 18-2,
để cháu được nhìn thấy mặt bố lần cuối cùng. Vì vậy thi thể anh Duật
được chích
thuốc, nên mặt nhìn vẫn tươi tắn, và trông mập ra.
Trong
số bè bạn cùng thời hồi
đó, Duật tách biệt hẳn, với dáng điệu chững chạc, mô phạm, không bao
giờ ăn nói
tục tĩu, không bao giờ đề cập tới chuyện gái gẩm, chuyện ghé thăm Ngã
Năm, Ngã
Ba... nhưng suy nghĩ cho cùng, chính tôi mới là một kẻ lén lút xâm
nhập, vị
khách bất đắc dĩ của "bàn tiệc văn học": Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan
Anh, Nguyễn Xuân Hoàng... đều học triết, và sau ra làm giáo sư. Chỉ có
tôi là
dân toán, dân kỹ thuật, "nhẩy dù" qua văn chương, triết học! (Có lẽ
cũng chính vì vậy, cho nên trong Văn Học Tổng Quan, phần tiểu sử tác
giả, Võ
Phiến đã ghi tôi làm nghề dậy học.)
Tôi quen anh qua Huỳnh Phan
Anh. Trong bữa gặp mặt lần đầu đó, Duật là người nói nhiều hơn cả. Tôi
kính cẩn
ngồi nghe. Khi ra về, Huỳnh Phan Anh lắc đầu: không thể tưởng tượng
được, chỉ
một thời gian không gặp mà nó khác hẳn xưa. Mình phải bớt đi chơi banh
bàn, ngã
năm ngã ba, đóng cửa diện bích mới được! Chừng hơn tháng sau gặp lại,
anh khoe,
đã tụng xong bộ Hữu Thể và Hư Vô, của Sartre, (đâu chừng dăm, bẩy trăm
trang!).
Phải ăn mừng mới được! Thằng bạn chẳng cần phải hỏi, cũng biết sẽ ăn
mừng chiến
thắng ở đâu!
Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt
học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan
Anh làm
đặc san văn nghệ cho trường, lấy tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại
mới đây,
tại Paris,
anh
nhắc tôi mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm
báo đặc
san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời! Bài tiểu
luận đầu
tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô.
Truyện
ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng là nơi đăng truyện
ngắn đầu
tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm tức cười về Huyền, tôi đã viết
lại,
trong bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng
Huyền
bằng bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân
dịp về
thăm gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này
đọc
Kundera, khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà
dịch thuật Kafka qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong
Joseph K)
bằng những nhân vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế
được!
Hay nói theo Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của
nhân
loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng
Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn Duật, mẫu mực, mô phạm
ngay từ
hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ
hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến khi Viên Linh làm tờ Khởi
Hành, anh
mới xuất hiện trở lại, qua những bài phê bình, biên khảo, đọc sách...
Anh đoạn
tuyệt với truyện ngắn, như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có
một truyện
ngắn, và nó vĩnh viễn thuộc về... Huyền!
Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch
tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên một số báo The New York Review of
Books,
"Bông Hồng của Paracelsus", Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư
về huyền thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của
ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ
cửa,
một kẻ lạ xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết
sức mệt
mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên
tiếng
trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ
Đông qua Tây, vậy mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải
qua một cuộc hành trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong
được là đệ
tử của Thầy. Tôi mang tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng
tiền, bằng vàng. Một đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại
sư quay
lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ
cầm một
bông hồng. Bông hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến
tất cả mọi vật trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi.
Nhưng
tôi không tìm kiếm vàng, và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao
giờ có
thể là đệ tử của tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng
tiền này chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi
muốn
Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi
tới Cục
Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của
bạn, là mục tiêu mà bạn tìm kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư,
giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục
tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà
sa số như những tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu,
và họ
gọi tôi là một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có
Con
Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên
tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với
Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm.
Hãy cho
phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất
hứa...
Tất cả những gì con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc
hành
trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết
định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh.
Bây giờ, họ chuyển qua tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng
thành tro than, và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than
đó... Hãy
cho con chứng kiến phép lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin.
Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
Bởi vì con không cả tin, nên con muốn
chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay,
và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có
thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh
huỷ diệt nó".
"Anh lầm rồi. Anh thực sự tin
rằng một
điều gì đó có thể biến thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở
Thiên Đàng
có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
"Chúng ta không ở Thiên Đàng.",
người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần
tục
này, mọi vật đều chết".
"Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu
không phải
là Thiên Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không
phải là
Thiên Đàng? Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một
điều:
chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
"Một bông hồng có thể bị đốt
cháy",
người trẻ tuổi nói bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay
chỉ.
......
Người trẻ tuổi cầm bông hồng
trên bàn, và ném
vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một
giọng giản dị:
"Tất cả những nhà vật lý, dược
sĩ tại
thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than
vốn xưa
là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ.
Anh chỉ là một
kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền
thuật
của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và
nói:
"Điều tôi làm thật không
thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ
một
điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở
lại, khi
nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ
nhìn thấy
bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng
đam mê này chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes
Grisebach
này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám
phá ra
rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là
một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm tất
cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh luôn luôn là vị
khách quí
tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một điều, chẳng bao
giờ còn
có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một
mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ lòng bàn tay
này qua
lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc
đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng,
"vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là những giấc mộng
nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những bạn bè của tôi, bất cứ
một
kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu chuyện của
Borges.
Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
Vĩnh biệt bạn Duật!
Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
*
Liệu độc giả tin rằng, trang
TV chính là phép lạ, trên, và BHD xuất hiện trở lại, qua nó?
Dám lắm!
*
Người
viết có một anh bạn, mê văn chương. Mê lắm,
nhưng cứ nay lần, mai lữa, vì còn nhiều việc phải làm. Nào lo cho xong
cái nhà,
kiếm mấy chân hụi cho bà xã để dành tiền lo cho xấp nhỏ… tới lúc rảnh
rang,
tính viết văn, thì phát giác ung thư đã ăn tới tận cổ họng. Văn chương,
ở ngay
“làng kế bên” (The next village, Kafka)* vậy mà cả một cuộc đời dài như
thế,
hạnh phúc như thế, “vưỡn” chẳng nhín ra được một tí thời giờ cần thiết
cho nó!
Đoản
văn trên, là do xúc động trước giấc mộng mỹ học của bạn ta, mà bật ra.
Lại có
ông, cứ mong được người
đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của
tôi.
Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được. Ôi ngứa
thì gãi,
nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba
trăm năm
sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình!
Có thể,
nhà phê bình thù GNV, là từ những dòng ‘tôi mà không viết thì ngứa
không chịu được', trên.
*
Trong những ngụ ngôn của
Kafka, Gấu nghĩ rằng, ngụ ngôn sau đây, thuộc thứ khó hiểu nhất, và do
đó, đẹp
nhất, và, muốn ban cho nó, một ý nghĩa nào, cũng được!
Trong cuộc đấu sinh tử, giữa bạn
và thế giới, hãy ở về phiá thế giới
In the duel between you and
the world, back the world.
Sau đây
là câu trả lời của
Roland Barthes.
Kafka's Answer
In the
duel between you and
the world, back the world.
Kafka
A
moment has passed, the
moment of committed literature. The end of the Sartrean novel, the
imperturbable indigence of socialist fiction, the defects of political
theater
- all that, like a receding wave, leaves exposed a singular and
singularly
resistant object: literature. Already, moreover, an opposing wave
washes over
it, the wave of an asserted detachment: revival of the love story,
hostility to
"ideas," cult of fine writing, refusal to be concerned with the
world's significations: a whole new ethic of art is being proposed,
consisting
of a convenient swivel between romanticism and off-handedness, between
the
(minimal) risks of poetry and the (effective) protection of
intelligence.
Is our literature forever
doomed to this exhausting oscillation between political realism and
art-for-art's-sake, between an ethic of commitment and an esthetic
purism,
between compromise and asepsis? Must it always be poor (if it is merely
itself)
or embarrassed (if it is anything but itself)? Can it not have a proper
place in
this world?
This question now receives an exact
answer: Marthe Robert's Kafka.
Is it Kafka who answers? Yes, of course (for it
is hard to imagine a more scrupulous exegesis than this one), but we
must make
no mistake: Kafka is not Kafka-ism. For twenty years, Kafka-ism has
nourished
the most contrary literatures, from Camus to lonesco. If we are
concerned with
describing the bureaucratic terror of the modern moment, The Trial, The
Castle,
The Penal Colony constitute overworked models. If we are concerned with
exposing the claims of individualism against the invasion of objects,
The
Metamorphosis is a profitable gimmick. Both realistic and subjective,
Kafka's
oeuvre lends itself to everyone but answers no one. It is true
that we do not
question it much, for writing in the shadow of his themes does not
constitute a
question; as Marthe Robert says, solitude, alienation, the quest, the
familiarity of the absurd, in short the constants of what is called the
Kafka-esque universe—don't these belong to all our writers, once they
refuse to
write in the service of a world of ownership? As a matter of fact,
Kafka's
answer is addressed to the person who has questioned him least, to the
artist.
This is what Marthe Robert
tells us: that Kafka's meaning is in his technique. A brand new
argument, not
only in relation to Kafka, but in relation to all our literature, so
that
Marthe Robert's apparently modest commentary (is this not one more book
on
Kafka, published in a pleasant popularizing series?) forms a profoundly
original essay, providing that good, that precious nourishment of the
mind
which results from the correspondence of an intelligence and an
interrogation.
For after all, paradoxical as
it seems, we possess virtually nothing on literary technique. When a
writer
reflects on his art (something for the most part rare and abhorred), it
is to
tell us how he conceives the world, what relations he entertains with
it, his
image of Man; in short, each writer says he is a realist, never how.
Now
literature is only a means, devoid of cause and purpose; in fact, that
is what
defines it. You can of course attempt a sociology of the literary
institution;
but you can limit the act of writing by neither a why nor a wherefore.
The
writer is like the artisan who diligently fabricates some complicated
object,
as ignorant of its model as of its use, analogous to Ashby's homeostat.
To ask
oneself why one writes is already an advance over the blissful
unconsciousness
of "inspiration," but it is a despairing advance - there is no
answer. Apart from demand and apart from success, empirical alibis much
more
than real motives, the literary act is without cause and without goal
precisely
because it is devoid of sanction: it proposes itself to the world
without any
praxis establishing or justifying it: it is an absolutely intransitive
act, it
modifies nothing, nothing reassures it.
So then? Well, that is its
paradox; this act exhausts itself in its technique, it exists only in
the
condition of a manner. For the (sterile) old question: why write?
Marthe
Robert's Kafka substitutes a new question: how write? And this how
exhausts the
why: all at once the impasse is cleared, a truth appears. This is Kafka's
truth, this is Kafka's answer (to all those who want to write): the
being of literature
is nothing, but its technique.
In short, if we transcribe
this truth into semantic terms, this means that a work's specialty is
not a
matter of its concealed signified (no more criticism of "sources" and
"ideas"), but only a matter of its significations. Kafka's truth is
not Kafka's world (no more Kafka-ism), but the signs of that world.
Thus the
work is never an answer to the world's mystery; literature is never
dogmatic.
By imitating the world and its legends (Marthe Robert is right to
devote a chapter
of her essay to imitation, a crucial function of all great literature),
the
writer can show only the sign without the signified: the world is a place endlessly open to signification but
endlessly dissatisfied by it. For the writer, literature is that
utterance
which says until death: I shall not begin to live before I know the
meaning of
life.
But saying that literature is no more
than an interrogation of the world matters only if we propose a
technique of
interrogation, since this interrogation must persist throughout an
apparently
assertive narrative. Marthe Robert shows that Kafka's narrative is not
woven of
symbols, as we have been told so often, but is the fruit of an entirely
different technique, the technique of allusion. All Kafka is in the
difference.
The symbol (Christianity's cross, for instance) is a convinced sign, it
affirms
a (partial) analogy between a form and an idea, it implies a certitude.
If the
figures and events of Kafka's narrative were symbolic, they would refer
to a positive
(even if it were a despairing) philosophy, to a universal Man: we
cannot differ
as to the meaning of a symbol, or else the symbol is a failure. Now,
Kafka's
narrative authorizes a thousand equally plausible keys—which is to say,
it
validates none.
Allusion is another matter
altogether. It refers the fictive event to something besides itself,
but to
what? Allusion is a defective force, it undoes the analogy as soon as
it has
posited it. K is arrested on the orders of a tribunal: that is a
familiar image
of justice. But we learn that this tribunal does not regard crimes as
our
justice does: the resemblance is delusive, though not effaced. In
short, as
Marthe Robert explains, everything proceeds from a kind of semantic
contraction: K feels he has been arrested, and everything happens as if
K were
really arrested (The Trial); Kafka's father treats him as a parasite,
and
everything happens as if Kafka were transformed into a parasite (The
Metamorphosis). Kafka creates his work by systematically suppressing
the as
ifs: but it is the internal event which becomes the obscure term of the
allusion.
Thus allusion, which is a pure
technique of signification, is actually a commitment to the world,
since it
expresses the relation of an individual man and a common language: a
system
(abhorred phantom of every anti-intellectualism) produces one of the
most fiery
literatures which has ever existed. For example, Marthe Robert reminds
us, we
have commonplaces such as like a dog, a dog's life, a Jew dog; it
suffices to
make the metaphoric term the entire object of the narrative, shifting
subjectivity to the allusive realm, in order for the insulted man to
become a
dog in fact: a man treated like a dog is a dog. Kafka's technique
implies first
of all an agreement with the world, a submission to ordinary language,
but
immediately afterwards, a reservation, a doubt, a fear before the
letter of the
signs the world proposes. As Marthe Robert puts it, Kafka's relations with the
world are governed by a perpetual yes, but . . . One can fairly
say as much of
all our modern literature (and it is in this that Kafka has truly
created it),
since it identifies, in an inimitable fashion, the realistic project
{yes to the world) and the ethical project
(but .
. .).
The trajectory separating the yes from
the but is the whole uncertainty of signs, and it is because signs are
uncertain that there is a literature. Kafka's technique says that the
world's
meaning is unutterable, that the artist's only task is to explore
possible
significations, each of which taken by itself will be only a
(necessary) lie
but whose multiplicity will be the writer's truth itself. That is
Kafka's
paradox: art depends on truth, but truth, being indivisible, cannot
know
itself: to tell the truth is to lie. Thus the writer is the truth, and
yet when
he speaks he lies: a work's authority is never situated at the level of
its
esthetic, but only at the level of the moral experience which makes it
an
assumed lie; or rather, as Kafka says correcting Kierkegaard: we arrive
at the
esthetic enjoyment of being only through a moral experience without
pride.
Kafka's allusive system functions as a kind of enormous sign to
interrogate
other signs. Now, the exercise of a signifying system (mathematics, to
take an
example quite remote from literature) has only one requirement, which
will
therefore be the esthetic requirement itself: rigor. Any lapse, any
vagueness
in the construction of the allusive system would produce,
paradoxically,
symbols—would substitute an assertive language for the essentially
interrogative function of literature. This is also Kafka's answer to
all our
inquiries into the novel today: that it is finally the precision of his
writing
(a structural, not a rhetorical precision, of course: it is not a
matter of
"fine writing") which commits the writer to the world: not in one of
his options, but in his very defection: it is because the world is
not
finished that literature is possible.
1960
Roland Barthes
Câu
trả lời của Kafka.
...
but we make no mistake:
Kafka is not Kafka-ism... For the [sterile] old question: why write?
Marthe Robert's Kafka substitutes
a new question: how wrtite? And this how exhausts the
why:
all at once the impasse is cleared, a truth
appears. This is Kafka's truth, this is
Kafka's answer [to all
those who want to write]: the being of literature is nothing but its
technique.
(1)
Roland Barthes: Kafka's
Answer.
Câu văn trên, [the being of literature...], Hai Lúa đọc qua bản tiếng
Tây, ngay vào lúc chập choạng bước vào cõi văn,
quả là
một câu văn mặc khải.
Về già, Hai Lúa hiểu thêm ra
là, cái mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính là đạo, đạo ở đời.
Viết, đối với mấy tên nhà văn
nhà thơ, là đạo ở đời.
Theo nghĩa đó, Nguyễn Du
viết, "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài."
"Chữ tâm kia",
chính là kỹ thuật của nhà văn, vậy.
(1)
Tạm dịch:... Nhưng chớ có
lầm: Kafka không phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu hỏi cũ kỹ,
kiệt mọi
đường sinh đẻ, tại sao viết?, [tác phẩm] Kafka của Marthe Robert thay
bằng câu
hỏi mới viết thế nào? Và chính cái thế nào quật cho cái tại sao một
trận mê
tơi, đến kiệt thở. Và thế là cùng tắc thông, sự thật xuất hiện. Sự thật
của
Kafka, câu trả lời của Kafka [cho tất cả những ai muốn viết]: Hữu
thể [Linh hồn] của văn
chương, chính là kỹ thuật của nó.
Nhật
ký
Trong ẩn dụ của Kafka, có ẩn
dụ của sáng tạo, allégorie de le création, và đây là một đề tài thú vị,
của một
phụ trang văn học của tờ Le Monde, liên quan tới những bí ẩn văn học
«Oulipo pièces détachées »,
spectacle conçu et mis en scène par Michel Abecassis, avec Nicolas
Dangoise,
Pierre Ollier et Olivier Sai ène par Michel Abecassis. avec Nicolas
Dangoise.
Pierre Ollier et Olivier Salon.
Un
tableau, un manuscrit, une
édition devenue introuvable, une partition moins harmonieuse qu'il n'y
paraît...
La littérature adore
s'emparer des œuvres d'art pour le plaisir du jeu, l'exercice virtuose,
la
plongée vertigineuse aussi vers des vérités cachées
ou interdites. Invitation au
voyage donc dans un monde où l'écriture se joue des règles
Trong
số phụ trang văn học này, có mấy bài thật thú, về những bí ẩn văn học,
về
mắc mớ giữa nghệ thuật, triết học và cờ tướng.
Có thể phán thật ẩu, mấy tay chơi cờ tướng bảnh, thí
dụ như GNV, thường viết văn
được!
Kafka, người chiêm nghiệm một
cách tới đáy, thật sáng suốt, về sự bất lực của mình, cả về văn, về
đời, về cờ
tướng, tự chọn cho mình là một con tốt của
con tốt, “le pion du pion”, một hình tượng không có, không biết chơi,
une
figure qui n’est pas, qui ne saurait jouer.
*
Les deux
Borges
Dans
«La Bibliothèque de
Babel» - l'univers total -, tous les livres existent déjà. La lecture
précédera
donc toujours l'écriture, et il n'y a pas d'auteur a priori. Mais
alors, qui a
écrit le premier livre? Et à quoi bon en écrire un supplémentaire qui
ne peut
jamais faire que répéter, commenter ou déchiffrer inutilement un de
ceux qui
sont enfouis de toute éternité dans quelque recoin du labyrinthe
littéraire?
Raphaël Lellouche prend le risque de pulvériser l'aporie borgésienne et
malgré
la certitude que tout est écrit persiste à se glisser, comme lui, sur
un
rayonnage de la bibliothèque. Il fait bien, car cet essai-là n'a
sûrement pas
été rédigé, du moins aussi magistralement.
L'Hypothèse de
l'auteur s'appuie sur une
autre hypothèse, ou une autre
conviction, borgésienne elle aussi: celle
selon laquelle l'écriture restera toujours “indigne”,
en deçà de ce qui la suscite. L'illuminaation qu'engendre « 'Aleph»
dans le
conte de Borges, “ce point de l'espace
qui contient tous les points” et qui est aussi la première Lettre,
c'est le
vertige de l'infini auquel ne pourront succéder que la mort ou l'oubli
absolu,
et face à quoi l'écriture est sans voix. D'où l'impossible transmission
de la
Lettre: l'ineffable ne se dit pas, ne s'écrit pas et resste sans auteur.
Reste à lever l'hypothèse: et
si l'auteur était lui aussi dans la fiction, dans l'infini littéraire
où le texte
s'écrit? Peut-être qu'en dépit des apparences, «Borges est un autre».
Ni
seulement l'auteur, ni seulement le personnage, mais, dans le conte,
l'auteur
qu'invente le perrsonnage pour les besoins de la cause. «Borges
n'est pas seulement une "vaste littérature'; c'est aussi
l'autre fameux, le personnage fictif "Borges" que l'écrivain Borges a
créé, doublant ses lettres et considéré officiellement comme leur
auteur. On
confond généralement les deux, mais Borges, lui, les distingue
soigneusement.”
L'Hypothèse de l'auteur part
du principe que, chez Borges,l'auteur renverse
les valeurs de la gloire (“fama”) épique: il n'est plus «fameux» mais
infâme,
indigne de tout témoignage authentique, impuissant à se distinguer de
son récit
et à en garantir la vérité. L'auteur ne trouve son salut qu'en
s'effaçant, dans
«l'infamie».
Loin de se contenter d'une
analyyse des morceaux thématiques récurrents chez Borges, le superbe
essai de R. Lellouche se lit
comme un roman policier où l'énigme serait le plaisir de la raison, ou
plutôt de
l'humble inquiétude de la raison devant le mystère insoluble. Il
s'engouffre
dans le puzzle de l'œuvre sans prétendre le reconstituer et, en traçant
la
totalité continue de son mouvement, il donne la raison d'être des
fictions.
Comme sur un dessin d'Escheret à la manière de l'univers de Borges, les
entrées
sont multiples. La parole rebondit avec fulgurance, pénètre sans
scrupule les
paradoxes borgésiens et le casse-tête qui définit l'innclusion
réciproque entre
l'histoire et son écriture .•
Marion Van Renterghem 12
janvier 1990
Borges ou
l'hypothèse de l'auteur, de
Raphaêl Lellouche, Balland.
*
La
bibliothèque de Babel
«
L'écriture méthodique me
distrait heureusement de la présente condition des hommes. La certitude
que
tout est écrit nous annule ou fait de nous des fantômes ... Je connais
des
districts où les jeunes gens se prosternent devant les livres et posent
sur
leurs pages de barbares baisers, sans être capables d'en déchiffrer une
seule
letttre. Les épidémies, les discordes hérétiques, les pèlerinages qui
dégénèèrent inévitablement en brigandage, ont décimé la population. Je
crois
avoir mentionné les suicides, chaque année plus fréquents. Peut-être
suis-je
égaré par la vieillesse et la crainte, mais je soupçonne que l'espèce
humaine
-la seule qui soit - est près de s'éteindre, tandis que la Bibliothèque
se
perpétuera: éclairée, solitaire, infinie, parfaitement immobile, armée
de
volumes précieux, inutile, incorruptible, secrète.
Je viens d'écrire infinie. Je
n'ai pas intercalé cet adjectif par entraînement rhétorique; je dis
qu'il n'est
pas illogique de penser que le monde est infini. Le juger limité, c'est
postuler qu'en quelque endroit reculé les couloirs,les escaliers, les
hexagones
peuvent disparaître - ce qui est inconcevable, absurde. L'imaginer sans
limites, c'est oublier que n'est point sans limites le nombre de livres
possibles. Antique problème ou j'insinue cette solution: la
Bibliothèque est
illimitée et périodique. S'il y avait un voyageur éternel pour la
traverser
dans un sens quelconque, les siècles finiraient par lui apprendre que
les mêmes
volumes se répètent toujours dans le même désordre - qui, répété,
deviendrait
un ordre: l'Ordre. Ma solitude se console à cet élégant espoir. ».
|