Tin Văn sẽ update very soon
11.5.2018
TIN VĂN
Nguyễn Quốc Trụ
Viết Mỗi Ngày
Note: Do tạm thời không
thể post trên Tin Văn từ nơi xa, Viết Mỗi
Ngày của GNV được đăng trên art2all.net, cho
những độc giả không sử dụng FB.
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 09, 2018 :
PHẦN MỘ THANH TÂM TUYỀN
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 09, 2018 : TẠI
SAO KHÔNG THƠ
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 08, 2018 : VUONG / THE PHOTO
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 07, 2018 :
GIỮA ĐỊA NGỤC, CHUNG QUANH
LÀ BIỂN
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 05, 2018 : LET'S TALK
ABOUT TRAVEL / VƯƠNG DUY
VIẾT MỖI
NGÀY / MAY 05, 2018 : THỜI KHÔNG MẶT
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 04, 2018 : LOT'S WIFE
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 04, 2018
: LET'S TALK ABOUT LOVE
VIẾT MỖI
NGÀY / MAY 01, 2018 : BORGES VÀ DỊCH THUẬT
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 01, 2018 : DI CƯ 1954
/ THỀM HOANG
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 30, 2018
: MYSTICISM FOR BEGINNERS
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 29, 2018 : PHẠM
XUÂN ẨN / JANUS
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 28, 2018 : THE CHESS
PLAYERS
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 27, 2018 : NHỮNG
BÀI VĂN SỬ
VIẾT MỖI
NGÀY / APRIL 27, 2018 : LORCA
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 26, 2018
: POEM IN A STRANGE LANGUAGE
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 25, 2018 : ANIMAL
FARM
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 24, 2018 : THE HOUSE
OF DREAMS
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 24, 2018 : GHOST-HOUSE
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 24, 2018 : HÓA
THÂN
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 23, 2018 : XÁC
ĐẠI DÂM TĂNG RASPUTIN
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 23, 2018 : BẮC
KỲ, ĐẤT VÀ NGƯỜI
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 23, 2018 : ĐÁ / STONE
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 20, 2018
: NÉN NHANG MUỘN
CHO NGUYỄN KHẢI
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 19, 2018 : NGUYỄN TUÂN VÀ TÔ HOÀI
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 19, 2018 : MỘT LỜI VỀ DANTE
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 18, 2018 : SPEAKING
OF A MAMMAL
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 18, 2018 : SINH NHẬT HÚY NHẬT
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 17, 2018 : CHÂN
DUNG TỰ HỌA
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 16, 2018 : LỤC
BÁT CUNG TRẦM TƯỞNG
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 15, 2018
:
CHIM THIÊNG HÓT
LỜI MỆNH BẠC
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 14, 2018
:
NỖI BUỒN HOA PHƯỢNG
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 13, 2018
: DANTE / BÀI NHỚ THI SĨ
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 12, 2018 : QUÁCH
TƯỜNG CỦA TA ƠI
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 11, 2018 : THẾ KỶ KHẬT KHÙNG CỦA
TỚ
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 10, 2018
: MY GRANDFATHER'S POEMS
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 9, 2018 : THANH
TÂM TUYỀN VÀ
PASTERNAK
VIẾT MỖI
NGÀY / APRIL 9, 2018 : SONG - EDWARD HIRSCH
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 8, 2018
: A PARTIAL HISTORY OF MY STUPIDITY
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 7, 2018 :
IN MEMORIAM / CHÂN DUNG TỰ HỌA NHƯ LÀ EURYDICE
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 6, 2018 : KHI PHỐ.
VÀNG NHÀU
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 5, 2018 : NHỚ BỐ
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 4, 2018 : NGÔN
NGỮ CỦA SỰ PHẢN BỘI
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 3, 2018 : COI PHIM
SHOAH TRONG MỘT PHÒNG KHÁCH SẠN Ở MỸ
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 2, 2018 : VIẾT,
THÁNG TƯ
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 29, 2018 : THÁNG BA, NHỚ THANH TÂM TUYỀN #3
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 27, 2018 : THÁNG BA, NHỚ THANH TÂM TUYỀN #2
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 27, 2018 : EDWARD HIRSH : POET LAUREATE OF
GRIEF
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 25, 2018 : HOW TO READ A POEM AND FALL IN
LOVE WITH POETRY
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 23, 2018 : LAY BACK THE DARKNESS
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 21, 2018 : THANH TÂM TUYỀN VÀ
KY TÔ GIÁO/ A BURNT-OUT CASE
VIẾT MỖI NGÀY / MAR. 19,
2018 : THÁNG BA, NHỚ THANH TÂM TUYỀN
#1
Joseph Huỳnh Văn kể, lần đầu hai thằng gặp.... suốt
ngày đeo kinh đen, ngồi một mình ở 1 cái bàn
ở góc Quán Chùa…
manhhai
VIETNAM 1962-64 - Đường Bến Hàm Tử, qua khỏi gầm cầu Chữ Y là
nối tiếp vào cuối đường Bến Chương Dương.
Photo by R. W. Hamlin
Ôi chao, nhìn cái hình 1
phát, là bèn nhớ liền đến bài thơ thần sầu
của ông anh nhà thơ, và nhớ Sài Gòn đến
phát điên lên được
Thanh Tâm Tuyền
Một chỗ trên ô tô
buýt
Tặng Nguyễn
Buổi chiều vào chật khoang
xe. Đèn thắp lên.
Tiếng máy nổ bỗng thành tiếng cười dài.
Mưa xuống bên ngoài cửa sổ. Những bàn tay níu
lấy vòng sắt lạnh.
Mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen
nhau,
Thân mật ngó lên mái tóc rối nền trời
khuya.
Ngó vào mắt hoang xa giòng sông không
bờ.
Sau một ngày làm việc em mơ về khói ấm khuôn
mặt riêng.
Tôi nghĩ về cuộc đời thầm thầm hàng ngày,
Trên những thành ô tô buýt người ta
xô chạm vô tình.
Tôi bám chặt cửa xe xin một chân đứng.
Nhớ đến chúng bạn: một người bên Xóm Cỏ, một người
ngoài Phú Thọ.
Muốn gặp nhau mang tình cảm cho nhau qua hai chặng đường len
giữa ồn ào.
Chuyến xe buýt chạy trong buổi chiều. Trời mưa, mưa ngoài
châu thành.
Không tìm thấy bến không đỗ lại.
Vai áo đã ướt đầy.
Tóc em rét mướt.
Một ngày mới bắt đầu với tờ báo phát hành
sớm gói trong tay.
Xe còn chạy mưa hoài giòng sông hoang mắt
bỏ cố níu lấy cửa xe.
Nhưng chúng ta không kiếm được một lời nào để mà
nói.
Không tìm thấy bến không đỗ lại
Không kiếm được một lời nào để mà nói
https://www.newyorker.com/…/the-swedish-academy-sex-scandal…
Nhân đọc bài này, và bài
viết của thi sĩ kiêm bác sĩ NDT ca ngợi thơ của TDT, thì
bèn nhớ đến xì căng đan Nobel văn chương Mít của Tông
Tông Diệm.
Bài viết của NDT, như ghi chú, đã
được TDT góp ý, cung cấp tài liệu…
Nếu đúng như thế, thì cái chi tiết
sau đây, cần được làm sáng tỏ:
“Trước 1975, tại Saigon Trần Dạ Từ từng nhiều năm chủ
trương Tuần báo nghệ thuật "Truyền thanh và truyền hình,"
đồng thời là nhà sản xuất chương trình âm nhạc
cho Đài phát thanh.”
Theo GCC, có lẽ NDT nhầm TDT với Nguyễn Đình
Toàn, với chương trình Nhạc Chủ Đề.
Nếu không, thì phải cho biết, cái
tên cúng cơm của chương trình này.
Thơ TDT, theo GCC, sở dĩ còn được nhớ tới, là
nhờ bài thơ độc nhất. nhờ được phổ nhạc, Người Đi Qua Đời Tôi.
Những thơ, được NDT trích dẫn, vẫn theo GCC,
không phải thơ, vì chưa tới được cõi đó, vì
y chang ‘khẩu hiệu’!
Có cái gì đó giống như
phu nhân của ông, Nhã Ca, với Giải Khăn Sô Cho
Huế, về mặt sử liệu, hồi ký, có 1 số sự kiện sai, như tên
nằm vùng Nguyễn Đắc Xuân chỉ ra, và về văn học tệ quá,
và điều này, “đối thủ” của GCC, là Nhị Linh, đã
“khui ra”:
http://nhilinhblog.blogspot.com/…/cham-ngon-viet-o-ria-mot-…
Lại còn Nhã Ca: tại sao lại có
thể nghĩ Nhã Ca là một nhà văn lớn được? Ở Việt Nam
mới chỉ có duy nhất một nữ thánh văn chương mà thôi:
Đoàn Thị Điểm.
Trong Chân Dung 15 nhà văn, khi viết về
Dương Nghiễm Mậu, MT phịa ra giai thoại, nhặt truyện đầu tay của anh, từ
1 sọt rác, của 1 tạp chí văn học ở Sài Gòn,
ra ý, ông là người phát giác ra thiên
tài văn chương Đêm Tóc Rối.
DNM, sau đó, khi được hỏi, cho biết làm
quái gì có chuyện đó, anh gửi bản thảo cho 1
người bạn có quen biết nhóm ST, chi tiết vụ này, Vũ
Hà Tuệ, 1 chuyên gia về sách cũ ở trong nước, cho biết,
trên Blog Nhị Linh.
'Người' cũng phịa ra chuyện đã từng quen biết
TTT, như thế nào - lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ, ở toà
soạn báo Dân Chủ, của Vũ Ngọc Các!
Tuy nhiên giai thoại nhặt thùng rác,
quả có, với giải thưởng văn chương Nobel Mít, của Diệm, trao
cho TDT!
Cú xì căng đan này, được ghi lại
trên tờ Thời Tập của Viên Linh. Năm đó, TTT, phó
tướng, đề nghị cho Trần Tuấn Kiệt, do trốn lính, bị đi lao công
chiến trường, và nếu được Nobel, thì nhờ đó, thoát
chết, đại khái thế, Vũ Hoàng Chương, chủ tướng, và
tất cả các thành viên, nhất trí, ký biên
bản. Sau đó, có 1 đấng đề nghị thử bầu chơi, nếu không
vì kíu người, thì ai được. Bầu chơi TDT được!
Khi TTT ra về rồi, băng đảng TDT, trong có NS, không biết
o bế VHC ra sao, lấy mấy lá phiếu từ thùng rác ra,
làm lại biên bản.
Cả 1 bài viết dài hai kỳ, của nhà
thơ, nhà y sĩ, nhà tà lọt, chuyên nghề châm
đóm cho đại thi sĩ Hoàng Cầm hút thuốc lào, thì
đều là bá láp. Cái đọc, cái hiểu, văn
học thế giới của tên này, rồi sau đó, áp dụng
vào xứ Mít, để đánh bóng 1 đấng thi sĩ như TDT,
hay Hoàng Hưng thí dụ, là quá tởm, và
có thể, làm nhục họ, khi so sánh họ như những kẻ sống
sót… Lò Thiêu:
Khác với các nhà thơ hậu Auschwitz
của châu Âu như Samuel Beckett, các nhà thơ Việt
Nam thời kỳ sau này có nhiều niềm tin hơn vào khả năng
bày tỏ và giao tiếp của thơ ca. Rõ ràng là
trong một bối cảnh kinh hoàng không kém, hỗn loạn không
kém, vì nhiều lý do, các nhà thơ ấy
tin rằng họ có thể vượt qua thời đại khó khăn mà không
gục ngã, bằng sự can đảm của người tin vào các giá
trị mà họ bảo vệ. Tôi cho rằng chính niềm tin ấy trực
tiếp dẫn họ đến niềm tin vào ngôn ngữ, hiện tượng ít
tra vấn đối với nó.
Cánh cửa bứt khỏi cổng. Nhà bứt khỏi người
Trang giấy bứt khỏi mặt bàn
Chữ nghĩa bứt khỏi sách
Đó là hoàn cảnh bên ngoài chống lại
ngôn ngữ. Đó là sự truy vấn hiện thực, một hiện thực
không bình thường. Mặc dù hình như Trần Dạ Từ
chỉ nói về những điều ông biết, sống với chúng, đã
nghiền ngẫm chúng, như tình yêu thời trẻ và
năm tháng tù đầy, sự thật của chúng không phải
là không có gì để bàn cãi nữa.
Sự hoang dã của điều kiện sống trong nhà tù và
điều kiện xã hội bên ngoài, đặc biệt những năm bảy mươi
tám mươi thế kỷ trước, là chống lại văn hóa dân
tộc. Niềm hy vọng của tác giả trong bài thơ "Hòn đá
làm ra lửa" có phải là một ảo tưởng không? Có
phải những năm tháng tù đầy sẽ chấm dứt và tự do sẽ
xuất hiện. Có phải sự đoàn tụ của hai người yêu nhau
sẽ làm nên một ngày mới, có phải sự kết hợp giữa
hai hòn đá sẽ làm ra lửa. Có phải đó
là niềm lạc quan không thực tế? Ngày nay nhìn
lại sau chừng ấy năm, người đọc có thể nghĩ thế, và họ có
thể đúng. Nhưng vào khoảnh khắc ấy của lịch sử, niềm hy vọng
ấy không phải chỉ là hy vọng. Đó là khả năng sống
sót của một nạn nhân, nhờ thế người tù ấy có thể
bước qua mặt đất bùn lầy, giúp họ ngẩng đầu lên trong
buổi sáng tháng Giêng.
Tôi biết bạn bè chúng ta, kẻ thù chúng
ta
Quê hương đẫm lệ và thế giới ngộp khói của chúng
ta sẽ ra sao
Tôi biết chúng ta sẽ gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực tôi
Tôi nghe nó thì thầm
"Chẳng hề hấn gì. Chẳng hề hấn gì"
Và tôi mỉm cười
Thư thái hình ảnh em bước tới
NDT
Note: Coi Beckett, viết sau Lò Thiêu, theo
câu của Adorno, ‘Sau Lò Thiêu làm còn làm
thơ là dã man”, là không đúng.
Kinh nghiệm viết của Beckett, đúng như thơ của ông cho
thấy, “thua, thua nữa, thua cho bảnh”, không mắc mớ đến Adorno. Tên
NDT này không hiểu nổi điều này, theo GCC. Với Beckett,
hư vô, lò thiêu, hố thẳm… là ‘tái sinh’,
chứ không phải là huỷ diệt. Chủ nghĩa anh hùng của cái
gọi là hư vô, như tụi Tẩy vinh danh Beckett. Trong khi đó,
những đấng như TDT, HH, làm thứ làm nhàm, bá
láp, thuở làm thơ yêu em, thì mắc mớ đến Lò
Thiêu, tới tái sinh, tới cái con mẹ gì!
The scandal is a reminder that behind
the mystical Nobel curtain is a small, fairly homogenous group of fallible
Swedes.
newyorker.com
Đọc mấy đấng Mít xeo fi, ca tụng thơ văn Mít, như NDT vái
TDT - Mít sau 30 Tháng Tư, sau Lò Cải Tạo, vưỡn viết
vẫn làm thơ như điên, thì lại nhớ đến nhà văn
hàng đầu hải ngoại Võ Đình.
Đấng này vặc Adorno, mi vung tay quá trán!
Sau Lò Thiêu vẫn có Đêm Tận Thất Thanh, của
Phan Nhật Nam!
Sau Beckett vẫn có Thuở Làm Thơ Yêu Em!
Hay, như TDK khen Tản Văn Thi của NTKM:
http://www.gio-o.com/NguyenThiKhanhMinh/SachKhanhMinh2018.htm
Đó
là đồn lũy cuối cùng của Chí Thiện trước vòng
phong tỏa của muôn trùng Cái Ác. Sự “dị thường”
của việc nhận ra “xứ sở chiêm bao” này là: Cái
Ác không còn khả năng làm ta nao lòng nữa.
Sau khi đọc xong Tản Văn Thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, niềm tin
nơi cái Chí Thiện của chúng ta được xác lập.
(Tô Đăng Khoa)
Khen như thế, là làm nhục họ, theo GCC!
Nên nhớ Cái Ác Á Châu,
trong có Cái Ác Bắc Kít bảnh hơn Cái Ác
Nazi rất nhiều.
Brodsky chẳng cũng đã vặc Ardorno, như Võ Đình, thay
Auschwitz bằng bất cứ 1 cái tên 1 trại tù Gulag, đều
được cả, sợ còn hơn cả!
Cái Ác không còn khả năng
làm ta nao lòng nữa: Thực vậy ư?
Thơ Balan hậu chiến
TWO DROPS
No time to grieve for roses,
when the forests are burning.
-JULlUSZ
SLOWACKI
The forests were on fire-
they however
wreathed their necks with their hands
like bouquets of roses
People ran to the shelters-
he said his wife had hair
in whose depths one could hide
Covered by one blanket
they whispered shameless words
the litany of those who love
When it got very bad
they leapt into each other's eyes
and shut them firmly
So firmly they did riot feel
the flames
when they came up to the eyelashes
To the end they were brave
To the end they were faithful
To the end they were similar
like two drops
stuck at the edge of a face
Zbigniew Herbert : Chord of Light
1956
Hai giọt
Làm gì có thời gian để mà
than khóc những bông hồng, khi rừng đang cháy
-JULlUSZ SLOWACKI
Rừng đang cháy –
Tuy nhiên họ vòng tay ôm cổ
Như những bó hồng
Mọi người chạy vô hầm trú
ẩn –
Anh ta nói, vợ tôi tóc dầy thật dầy và
tôi có thể ẩn náu ở trong đó
Trùm 1 tấm mền
Họ thì thầm những lời chẳng hổ thẹn
Lời kinh của những kẻ yêu nhau
Khi tình trạng trở nên
quá tệ
Họ nhẩy vô mắt nhau
Và đóng chặt lại
Đóng chặt, họ không
cảm thấy ngọn lửa
Khi họ trườn lên tới mi mắt
Tới chót, họ thật can
đảm
Tới
chót, họ thật thương nhau
Tới
chót họ giống như hai giọt
Dính
ở cuối mặt
Bài thơ trên mở
ra Tuyển tập thơ 1956-1998, của Zbigniew Herbert.
Vẫn trong bài Giới thiệu, Adam Zagajewski viết:
EVERY GREAT POET lives between
two worlds. One of these is the real, tangible world of history, private
for some and public for others. The other world is a dense layer of dreams,
imagination, and phantasms. It sometimes happens-as for example in the case
of W B. Yeats-that this second world takes on gigantic proportions, that
it becomes inhabited by numerous spirits, that it is haunted by Leo Africanus
and other ancient magi.
Mọi thi sĩ lớn thì
đều sống trong [giữa], hai thế giới. Một, thế giới thực, sờ mó,
mân mê được, thế giới của lịch sử, riêng tư với một số
người, và công cộng đối với những người khác.
Thế giới kia, là một tầng dầy đặc của những giấc mơ, của sự
tưởng tượng, của những hồn ma bóng quế. Đôi khi xẩy ra điều
này – thí dụ như trong trường hợp của W.B. Yeats – cái
thế giới thứ nhì ham hố quá, chiếm nhiều chỗ quá,
chứa đủ thứ hồn ma, tinh anh, thần thánh, yêu ma… cái thế giới bị ám ảnh bởi Leo Africanus,
hay một vì phù thuỷ cổ xưa khác.
Take the
well-known poem “Apollo and Marsyas." It is constructed on a dense, solid
foundation of myth. An inattentive reader might say (as inattentive critics
have in fact said) that this is an academic poem, made up of elements of
erudition, a poem inspired by the library and the museum. Nothing could
be more mistaken: Here we are dealing not with myths or an encyclopedia,
but with the pain of a tortured body.
Lấy bài thơ nổi tiếng của ông,“Apollo
and Marsyas." Nó được xây dựng trên 1 cái nền
dầy đặc, cứng ngắc, của huyền thoại. Một độc giả gà mờ sẽ nói
- ngay cả Thầy Kuốc, nhà phê bình sắc sảo nhất hải ngoại
"đâu phải thời nào cũng có được", cũng sẽ phán,
đây là 1 bài thơ kinh điển, hàn lâm, của
những người có bằng cử nhân Triết Văn Khoa Sài Gòn,
như… Thầy Đạo, được làm
bằng ba cái trò sao chép bậy bạ, làm ra vẻ
ta đây trí thức, uyên bác; một bài thơ
được gợi hứng từ thư viện và viện bảo tàng.
Nhảm ơi là nhảm: Ở đây,
trên trang Tin Văn của thằng cha Gấu Cà Chớn, chúng
ta đang đụng tới, không phải những huyền thoại, hay bách khoa
toàn thư Wiki VC, nhưng mà là cái đau của một
người dân Mít, một cơ thể Mít, bị VC tra tấn!
Hà, hà!
Bài thứ nhì của
tuyển tập thơ Herbert cũng thật là tuyệt.
TV post ở đây, thay cho 1 chuyến về xứ Mít ăn Tết không
làm sao thực hiện được.
PLACE
I returned years later
perhaps too well-fed
I wanted to check the place
the hills were smaller
and brown water ran
in the rescue trenches
grass mostly the same
angelica remembered
the view contracted
was merely normal
for so much fear
for so much hope
birds were flitting
from lower branches
to higher branches
so even they could not
offer me confirmation
Xứ Mít
Nhiều năm sau Gấu trở lại xứ
Mít
Béo tốt, mập mạp,
Nhờ bơ sữa xứ người
Gấu muốn thăm thú lại
nơi chốn xưa
Những ngọn đồi [Đà Lạt] xem chừng nhỏ hơn
Và một thứ nước mầu nâu
Chảy trong những con mương giải thoát (1)
Cỏ hầu như vẫn như xưa
Mùi hoa lan [ở ngã tư Phan đình Phùng
– Lê Văn Duyệt, Sài Gòn]
Được tưởng nhớ
Cái nhìn làm
co thắt con tim
Thì cũng chuyện bình thường
Bao nhiêu nỗi đau,
Cho biết bao là hy vọng
Chim bay từ cành thấp
Lên cành cao
Ngay cả chúng
Cũng đếch nhận ra Gấu. (2)
(1)
Từ "rescue" này khó dịch quá!
(2) Ngay cả chúng cũng không thể dâng hiến sự
xác nhận.
NQT
Album
Được Yêu
Đâu đó khoảng 1850, theo Roland Barthes, nhà
văn ngưng làm người chứng cho những sự thực phổ cập, và
trở thành lương tâm bất hạnh, đau đau đáu, đau đơn
đớn – chôm chữ của Vẹm – Ông khẳng định, “Người ta viết, để
được yêu”, One writes in order to be loved.
Barthes khăng khăng [claims], “Người bị đọc, không cần, có
thể được yêu”, One is read without being able to be loved.
Bác Gúc dịch qua tiếng Tẩy, On est lu sans pouvoir
être aimé, người ta được đọc, xăng phú cái
chuyện, có thể được yêu.
Tuyệt!
Bèn nhớ ra, Gấu cũng đã từng viết, thực ra là
chôm, 1 câu thần sầu của Bobin, làm của Gấu
Gấu viết, kể từ em của Gấu đọc Gấu.
Ta tình cờ lưót net, vớ được bài
thơ Biển của mi, đọc, và buồn quá. (1)
Trên Tin Văn đã giới thiệu Kadare, Man
Booker. Lần này, là tiểu luận. Sẽ đi liền bài
viết về Hâm Liệt, vì, 1 cách nào đó,
ông này cũng bị THNM, y chang GCC. Nên nhớ Xì
Ta Lỉn rất không ưa Hâm Liệt, con mà cứ hăm he làm
thịt cha
http://www.tanvien.net/tgtp_02/man_booker_05.html
Thơ
Mỗi Ngày
On the counter among many
Much-used books,
The rare one you must own
Immediately, the one
That makes your heart race
As you wait for small change
With a silly grin
You’ll take to the street,
And later, past the landlady
Watching you wipe your shoes,
Then, up to the rented room
Which neighbors the one
Of a nightclub waitress
Who’s shaving her legs
With a door partly open,
While you turn to the first page
Which speaks of a presentiment
Of a higher existence
In things familiar and drab …
In a house soon to be torn down,
Suddenly hushed, and otherworldly …
You have to whisper your own name,
And the words of the hermit,
Since it must be long past dinner,
The one they ate quickly,
Happy that your small portion
Went to the three-legged dog.
—Charles Simic
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRDuhamelBupBe.htm
Bài thơ này, thấy trên
Gió O, cái tít, dịch là, "những tác
văn huyền bí", theo GCC, không đúng, mà phải
là, những bản văn của những kẻ thần bí.
Kinh nghiệm riêng của GCC. Dịch, là phải nắm vững
cấu trúc câu và tự loại, [Grammaire et analyse
: Analyse grammaticale et analyse logique], như Tẩy dậy Gấu. Gấu dịch,
là phải nắm được, chữ đó, từ đó, nghĩa là
gì, và được dùng như thế nào – như danh
từ, như tính từ, hay như trạng từ - trong câu văn.
Đây là cái chết của tiếng Mít, theo
Gấu. Chữ được dùng, như thế nào, với văn phạm Mít,
khó mà biết được!
Dù khó cỡ nào,thì, khi dịch vẫn phải
cho nó 1 tự loại
Còn cái chết thứ nhì của tiếng Mít,
là bỏ động từ "to be", khi viết. “To be or not be, that's the
question”. Cái tay Kadare, khi viết về Hâm Liệt, cho biết,
ở xứ Albania của ông, nó có nghĩa, “to live or not
to live.”
Đúng như thế!
Ui chao, bài essay của ông, về Hâm Liệt thú
vô cùng.
http://www.frenchpdf.com/2016/07/grammaire-et-analyse-grammaticale-et-logique-pdf.html
Khi dịch "những tác văn huyền bí", thì từ
"huyền bí" biến thành tính từ, trong khi ở nguyên
tác, là danh từ.
Bài thơ này, hình như GCC có dịch,
nhưng không nhớ rõ. Bèn lại dịch, hay, dịch lại.
Bản trên Gió O
Những Tác Văn Huyền Bí
Giữa những sách trên ngăn kệ
Những quyển sách được lật xem-nhiều,
Một quyển sách hiếm bạn cần nên có
Ngay lập tức, là quyển sách
Khiến cho con tim bạn bồi hồi xuyến xao
As you wait for small change
With a silly grin
You'll take to the street,
And later, past the landlady
Watching you wipe your shoes,
Vào lúc bạn mong đợi cho sự thay đổi nhỏ
Với nụ cười toe toét mãn nguyện
Bạn sẽ phóng ra đường,
Và sau đó, đi qua mặt bà chủ nhà
Đang nhìn bạn giũ bụi đôi giày,
Then, up to the rented room
Which neighbors the one
Of a nightclub waitress
Who's shaving her legs
With a door partly open,
Rồi, đi lên căn phòng
Nơi có những người chung cư sát vách
Một ả làm nghề chạy bàn trong hộp đêm
Nàng đang cặm cụi săn sóc cặp đùi
Cánh cửa vẫn mở he hé,
While you turn to the first page
Which speaks of a presentiment
Of a higher existence
In things familiar and drab …
Trong lúc bạn lật trang sách đầu tiên
Gồm nhiều đối thoại của linh cảm
Về một cuộc tồn sinh kiêu kỳ
Trong những câu chuyện quen gần và tẻ nhạt ...
In a house soon to be torn down,
Suddenly hushed, and otherworldly …
You have to whisper your own name,
And the words of the hermit,
Since it must be long past dinner,
Trong căn nhà chẳng bao lâu sau bị rách nát,
Thình lình im lặng, và như thế giới bên
kia ...
Bạn phải cất tiếng thì thầm gọi tên mình,
Và những từ ngữ của sự ẩn dật khổ tu,
Kể từ khi bữa ăn tối xa xưa trong quá khứ,
Since it must be long past dinner,
The one they ate quickly,
Happy that your small portion
Went to the three-legged dog.
Kể từ khi bữa ăn tối xa xưa trong quá khứ,
Bữa ăn đó người ta chén thật nhanh,
Thỏa thuê về khẩu phần của bạn
Được dành cho chú chó-ba chân khập
khình.
Những bản văn của những nhà
thần bí
Trên quầy sách, giữa nhiều cuốn đã được xài
nhiều rồi
Cuốn hiếm quí mà bạn phải sở hữu,
Liền lập tức,
Là cuốn làm cho tim bạn nhảy cẫng lên, hay,
nhói 1 phát, hay, chạy 1 keo.
Trong khi bạn đợi 1 tí đổi thay
Với cú cười, đại cù lần, đại cà chớn, toác
ra tận mang tai
Bèn ra phố
Đi qua bà chủ nhà
Nhìn bạn chùi giày
Rồi lên phòng thuê
Trong những phòng kế,
Có 1 em làm bồi bàn
Trong 1 hộp đêm
Em ngồi cạo râu cặp giò
Cửa thì làm như vô tình
Mở hé hé!
Khi bạn giở trang nhất,
Nó bèn thì thầm
Theo kiểu mách bảo, dự đoán, dự cảm
Về 1 hiện hữu cao hơn
Ở trong những điều quen thuộc, xám xịt…
Trong căn nhà sẽ chẳng mấy chốc bị kéo đổ, giật
xập
Bất thình lình chết lặng, thuộc 1 thế giới khác….
Bạn phải thầm thì gọi tên bạn, “tôi gọi tên
tôi cho đỡ sợ”, dại khái thế,
Và, cùng với cái tên Gấu Cà
Chớn đó
Còn vang lên những từ hũ nút khác
Phải quá bữa ăn tối từ khuya rồi
Cái bữa ăn mà bạn ăn thật lẹ
Và rất mừng
Vì phần ăn nhỏ của bạn
Thì đã được thưởng cho con chó ba chân.
Arson
Shirts rose on a neighbor’s laundry
line,
One or two attempting to fly,
As three fire engines sped by
To save a church going up in flames.
People walking back from the pyre
With their Sunday clothes in tatters
Looked like a troupe of scarecrows
The bank had ousted from their farm.
As for the firebug, we were of two minds:
Some kid trying out a new drug,
Or a drunk ex-soldier angry at God
And Country for making him a cripple.
—Charles Simic
Bà Hỏa
Mấy cái sơ mi trên dây phơi quần áo
nhà hàng xóm
Bèn nhoi lên
Một hay hai cái còn tính đi 1 đường
bay lượn
Khi mấy cái xe cứu hỏa la ỏm tỏi, “Cháy! Bà
con ơi! Cháy!
Chúng tính kíu cái nhà
thờ đang được bà hoả thăm viếng
Mọi người ra về, từ giàn hoả
Trong bộ đồ vía Chủ Nhật, rách tả tơi
Chẳng khác chi mấy thằng người rơm
Nhà băng đã xiết mẹ trang trại của họ
À, mà này, về “bọ lửa”
Chúng ta có hai vấn nạn lớn về chúng:
Lũ trẻ, có đứa thử chơi 1 loại ken mới xuất hiện
Hay 1 tên cựu binh Ngụy giận dữ với Chúa Trời
Và Xứ Mít, vì đã làm anh
ta què giò
Note: Firebug chắc là con cánh cam
Charles Simic, a former
Poet Laureate of the United States, is the author most recently of
The Lunatic (poetry) and The Life of Images (prose).
Bếp Lửa,Tựa Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có viết: "Người
ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không tin như thế. Trong nhiều năm sau khi
quyển sách này được xuất bản, dường như tôi đã
hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát
để cho tái bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả
bây giờ, sau mười bẩy năm.
Đây không phải là quyển tiểu thuyết đầu
tay của tôi.
Quyển đầu tay tuy được một nhà xuất bản nhận in năm
1955, vào phút chót tôi đổi ý, rút
lại sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp Lửa rất có thể đã chịu chung số phận
của quyển đầu tay, nếu không may mắn gặp ông Nguyễn Đình
Vượng [chủ báo Văn, chủ nhà in, nhà xuất bản Nguyễn
Đình Vượng].
Được viết một hơi – khoảng đâu hai ba tháng –
được in ngay sau khi viết – không có một quãng cách
nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp Lửa là
quyển duy nhất của tôi chỉ có một lần bản thảo.
Trên trang đầu bản thảo có đề câu của Rimbaud:
Je est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng khi đưa in
tôi đã xóa bỏ.
Sách in lần đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ
bán được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được mang bán "son". Có hai bài viết về quyển sách:
một trên nhật báo Tự Do tại Sài Gòn, một
trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn miền Bắc
ở Hà Nội.
Tiếc là tôi không có thói
quen lưu giữ tài liệu để có thể in kèm vào
sách khi tái bản.
Đại cương hai bài viết đều là lời chê trách
giống nhau: quyển sách bi quan tiêu cực. Bài trên
tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một cột điểm sách
ngắn vài mươi giòng nhưng bấy giờ đã mang đến cho
tôi hãnh diện và sung sướng. Hãnh diện là
thứ có ngày nghĩ lại khiến thẹn thùng. Nhưng sung
sướng lúc nào cũng vẫn là sung sướng, dù cùng
với thời gian có thể lẫn vẻ bùi ngùi.
Tôi sung sướng nghĩ các bạn tôi ở Hà
Nội đọc cột báo ấy, biết được tôi vẫn nhớ họ, đã
viết về họ, về những ngày tháng ấy của chúng tôi.
Họ có thể tức tối căm giận, nhưng chắc họ cũng cảm động bồi hồi.
Mười bẩy năm đã qua.
Kinh nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng.
Tôi đã loay hoay quá lâu với một quyển sách.
Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã đến lúc nên viết những
quyển sách khác.
Tháng 3 – 73
THANH TÂM TUYỀN
Trên
tờ Ba Xu, số Mùa Xuân, The Threepenny Review, Spring
2015, trong mục “Lèm bèm bên ly cà phe &
bạn hiền", Table Talk, Alberto Manguel có đi 1 đường về từ “chung
quyết” này.
Bài cực thú. Với 1 đại gia đọc, như AM này,
bạn yên tâm, khi đọc, vì thế nào có
vớ được 1 chi tiết bạn không ngờ, gây cực khoái,
hà, hà!
Ben scan,
và nhân riện, post thêm 1 bài thơ trong số
báo, Tên
Kép Của Tớ, The Double.
Kép ở đây không có nghĩa là
Thằng Bồ, mà là tên thế thân, theo cái
kiểu mà TTT tính chôm câu của Rimbaud; Tớ
là 1 kẻ khác.
The Double
My double is nothing like me.
They say he smells of lavender,
that he dances elegantly.
But he looks like a cadaver
when he sleeps. Animals can't
tell
he's there. At the park a bird flew
straight into his chest, and fell
as if it hit a closed window.
Men like him are unnatural.
Mothers hold their children closer
when we pass by: original
or copy, we're both a danger.
My double wants to leave this
town.
He tells me he doesn't believe
we're twinned. And he's right; we're not bound
by much. But we don't get to leave.
-Ryan Teitman
Kẻ Kép
Kẻ kép của tớ chẳng giống
gì tớ
Chúng nói, hửi có mùi oải hương
Rằng hắn nhảy đầm rất lịch
Nhưng trông hắn chẳng khác gì cái
xác chết
Khi hắn ngủ.
Lũ thú vật không
thể nói, có hắn đó.
Một con chim ở nơi công viên
Bay đánh bộp một phát trúng ngực hắn ta
Và rớt đánh bịch cũng 1 phát
Như thể đụng vô kính cửa sổ
Người như hắn chẳng giống người.
Mấy bà mẹ ôm chặt con khi hắn - và tớ -
đi tới gần
Bản chính hay bản sao, cả hai đều hiểm nguy
Kẻ kép của tớ muốn rời
thành phố
Hắn biểu tớ, hắn đếch tin hai đứa sinh
đôi
Hắn phán đúng
Hai chúng tôi không mắc mớ với nhau nhiều
Nhưng biết làm sao, thì cũng đành, cứ
thế, cứ thế.
Sách
& Báo
Mới
VIETNAM
Phan Trieu Hai
Forever on the Road
Translated from Vietnamese
by Charles Waugh
Note: Số báo này, mua lâu rồi, vì
cái bài viết của PTH. Sau thì biết ra là ông
con trai của ông bạn Lữ Quỳnh. Chắc chuyến này, đi 1 đường
dịch giọt.
Tờ Paris Match số về xứ Mít, gọi PTH là nhà văn
- thương gia, khác Bắc Kít, khùng.
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/sn_bac_1.html
Hanoi: Les Enragés Désabusés
Loin de tout parallèle... Thật khác xa... Ở phía
bắc vĩ tuyến 17, những nhà văn dấn thân [engagés],
phía nam, dễ mến, ngây thơ [gentils naifs]. Với ký
giả Nguyễn Ái Quốc, sự khác biệt thật khá rõ,
trong tác phẩm của mỗi người trong số họ.
Tuy nhiên, liền sau đó, ông ký giả trùng
tên với Bác Hồ này, gọi những nhà văn của Miền
Bắc, là những kẻ khùng điên đã vỡ mộng [Hanoi.
Les enragés desabusés]. Đó là Dương Thu Hương,
Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp. Những nhận xét của tay ký già
thì cũng giống như chúng ta đã từng đọc về mấy nhà
văn này.
... So với Sài Gòn Giải Phóng: Những đứa trẻ
hư hỏng do được nuông chiều [Les Enfants Gâtés]. Đa
số đều sinh sau khi Sài Gòn thất thủ. Thuộc gia đình
trung lưu đã được hưởng lợi kính tế của xứ sở từ những năm
1990. Khác hẳn với lớp đàn anh kể trên, họ không
tham gia cuộc chiến. Có vẻ như cha mẹ của họ cũng không, tôi
có cảm giác như thế. Vả chăng họ cũng chẳng nói. Họ
chẳng muốn có chuyện với nhà cầm quyền, và những gì
họ viết ra cũng chẳng phản ảnh một sự dấn thân chính trị, cũng
chẳng hề là một suy tư về thân phận của họ. Phan Triều Hải,
29 tuổi, một "businessman" như anh ta thường thích gọi mình
như vậy...
Thương gia PTH và nữ đồng nghiệp e thẹn của anh
chẳng mắc mớ gì tới thực tại Việt Nam hiện nay
VIETNAM
Phan Trieu Hai
Forever on the Road
Translated from Vietnamese
by Charles Waugh
Nhớ ra rồi. Có đọc và có nhớ, 1
câu trong đó, rất tương tự với 1 câu của Thảo Trần
http://www.tanvien.net/sangtac/st_noi_giong_song.html
Uyên đã thực sự rời bỏ
dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều:
biển cả, bởi vì mênh mông, cho nên thật khó
mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm thấy được,
con đường trở về...
Tháng 7 năm l995
Thảo Trần
A leaf blown to the middle of the ocean has no way to find its path
back home. This is a terrible thing. Terrible because when the leaf dies
it knows how many regrets it has.
Phan Triều Hải
Quả đúng như tên số báo:
Địa Ngục Mít - Thiên Đàng [Heaven] - thì
ở đâu đó.
Phan Triều Hải là người dịch "Paris là
ngày hội", của Hemingway. Hội hè Miên Man, theo bản
tiếng Anh, tất nhiên. Cái tít tiếng Tây đúng
hơn, và hay hơn. A Moveable Feast. (1) Hội Hè
Miên Man.
Cà phê lá
me, đường Nguyễn Du. GCC cũng hay ngồi đây, khi còn làm
Bưu Điện, và sau 1975, khi làm thằng thợ viết mướn trước Bưu
Điện.
Cái websie của bạn DTL, hình ảnh tệ quá. Làm
sao so được với những cái hình này, thí dụ:
Ðặng Phú
Phong & GNV
Hemingway, trong
Paris là 1 ngày
hội, viết về
Scott Fitzgerald
His talent was as natural as the pattern that was made by the dust
on a butterfly's wings. At one time he understood it no more than the butterfly
did and he did not know when it was brushed or marred. Later he became
conscious of his damaged wings and of their construction and he learned
to think and could not fly any more because the love of flight was gone
and he could only remember when it had been effortless.
Tài năng của bạn quí của ta thì cũng vô
tư hồn nhiên, và tự nhiên, như những nét hoa
văn được làm bằng bụi ở trên cánh bướm. Có một
thời, chàng hiểu điều này, cũng vô tư hồn nhiên,
và tự nhiên, như bướm hiểu, và chàng đếch thèm
phân biệt, khi nào thì tài năng của chàng
là vàng, khi nào thì là cứt. Sau đó,
khi chàng bắt đầu băn khoăn đến những cánh bướm bị đời gọi
không biết bao nhiêu lần của mình, và muốn tìm
hiểu cấu trúc của bướm, và chàng học suy tư, và
thế là chàng đếch làm sao bay bổng lên được nữa,
ấy là vì tình yêu mong được bay bổng mãi
lên trên cao thì đã bỏ chàng, và
chàng chỉ có thể nhớ lại, khi nào bướm hết còn
là bướm.
[Note: Cái
này là Gấu dịch phóng, dịch ẩu, cho dzui. Muốn có
bản dịch chính xác, xin liên lạc Nhã Nam, nơi xb bản dịch Hội Hè Miên
Man của Phan Triều Hải.
Ui chao, quảng cáo free cho bạn văn-nhà thương gia đấy
nhá! NQT]
Hemingway viết,
như trên, về Scott Fitzgerald mà không... đểu ư?
Đâu thua gì Gấu viết về các đấng bạn quí
của Gấu?
*
Ui chao, lại nói chuyện bạn quí, những cái xác
trôi lều bều trên con sông thời gian, lịch sử những ngày
ở Sài Gòn.
Gấu có cả một lô kỷ niệm, nhớ đến đâu đau đến đó,
về những đấng bạn quí. Sau lần đi gặp Con K nhân sinh nhật
vừa qua, nó biểu Gấu, tao chẳng có gì mà cho
mày hết, chỉ có vài lời nhắn nhủ như thế này
này:
Quãng đời còn lại của mày bây giờ là
'bonus' rồi. Suy Nghĩ Lớn, về Cái Đại Ác Bắc Kít,
thì cũng viết ra rồi. Hoang Vu Lớn thì cũng tàn lụi
theo BHD từ giã mày mà đi trước mày rồi, bi
giờ ta cho phép mi tha hồ mà viết, muốn viết cái đéo
gì thì viết!
Hà, hà!
Source

.
Viết
mỗi ngày
"Miên man", theo Gấu,
không đúng ý của từ 'moveable', di động.
'If you are lucky enough to
have lived in Paris as a young man, then wherever you go for the rest of
your life, it stays with you, for Paris is a moveable feast.'
ERNEST HEMINGWAY to a friend, 1950.
Nếu bạn đủ may mắn để mà sống ở Paris khi là một anh chàng
trai trẻ, thì nó sẽ ở với bạn, cho dù bạn lang thang
chân trời góc bể nào, trong suốt cuộc đời còn
lại của mình, bởi vì Paris là một ngày hội di
động.
Hemingway, thư gửi bạn, 1950.
*
Có lần, ngồi lèm
bèm với Lê Huy Oanh, nhân dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, anh
đưa ra nhận xét, Hemingway viết văn giống như ông ta cầm một
nắm chữ và dùng nội lực bắn chúng lên trang giấy,
và chúng dính cứng vào đúng cái
chỗ mà ông muốn chúng dính cứng, không
thể nào 'di động' đi chỗ khác!
Đúng! Tuyệt!
Gấu, khi dịch Mặt Trời Vẫn Mọc,
đã phải sử dụng cả hai ấn bản, một nguyên tác tiếng
Anh, và bản dịch tiếng Tây, ấy là vì bản tiếng
Tây, tuy không sai, nhưng quên mẹ nó mất một điều,
chữ của Hemingway, khi dịch, là cũng phải để đúng cái
chỗ của chúng.
Bản tiếng Pháp, ông
dịch giả, đọc, và hiểu một câu văn của Hemingway, và
sau đó, chuyển thành 'vài' câu tiếng Tây,
trong khi đúng ra là phải bệ câu tiếng Anh qua câu
tiếng Tây, không được phá vỡ cái thế 'bát
quái' của nó!
Hình như ở Việt Nam có
một ông làm cái nghề di chuyển nhà, theo kiểu
trên?
*
Gấu đọc Faulkner bằng tiếng
Tây, dịch giả Maurice Edgar Coindreau, được Tây khen nhắng lên,
chuyên gia chuyên trị Faulkner! Ông này còn
là chuyên gia số một chuyên trị Hemingway!
Chỉ đến khi Gấu được ông
Nhàn, chủ nhà xuất bản Vàng Son, một chi nhánh
của nhà xuất bản Sống Mới, order dịch cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, thì
Gấu mới té ngửa ra, rằng thì là, me xừ này
dịch Hemingway bằng cách đọc một câu, một đoạn văn, rồi tìm
cách chuyển qua tiếng Tây, trong khi cái tối quan trọng
của văn Hemingway, là: Từng câu văn. Từng câu văn. Từng
câu văn. Cánh buồm nâu. Cánh buồm nâu.
Cánh buồm… nâu].
Gấu nhắc lại, từng câu
văn một.
Theo nghĩa đó, khi chuyển
qua tiếng Tây thì cũng bắt buộc, bệ từng câu qua, chứ
không phải, hiểu, rồi tán phó mát thành
hai hoặc ba câu!
Đây là điều Jean-Paul
Sartre cũng nhận ra, khi đọc Kẻ Xa Lạ của Camus, và nhớ tới Hemingway,
phán, mỗi câu là một hòn đảo, trơ cu lơ, độc
lập. Mỗi câu là một cú, bật ra từ hư vô. Mỗi câu
là một khởi đầu, viết. (1)
Chính vì thế mà
Sartre chơi một cái tít thật hách: Giải thích
Kẻ Xa Lạ! [Explication de L'Étranger]; đâu có khác
chi đàn anh Trung Quốc, dậy cho Việt Nam một bài học.
Bản dịch qua tiếng Anh bỏ đi
từ “Explication”, là quá nhảm!
(1): Quelle est cette technique?
On m'avait dit: "C'est du Kafka écrit par Hemingway". J'avoue que
je n'ai pas retrouvé Kafka
Còn kỹ thuật viết đó
thì sao? Người ta bảo tôi, đây là Kafka, được
viết bởi Hemingway. Thú thực, tôi không kiếm ra Kafka.
Có
thể chính vì, như trên, Camus đã đáp
lại Sartre, bằng những câu sau đây, trong thư trả lời một tay
người Đức muốn dựng Kẻ Xa Lạ thành kịch: ... Nói ngắn gọn,
tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi
Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện (expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không
hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với tôi,
đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác
phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi
người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới tận cùng
của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là
một kiểu cọ mới của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to.
Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không phải
là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó
trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản, nói tóm
gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.
Chúc
mừng SN bạn Khờ. Take Care. NQT
Bài
viết, về con Raccoon, Granta, 142, Winter 2018, Animalia
ROCKY RACCOON
DBC PIERRE
The mask
said everything. This was a thief. A schemer and a thief. Rocky Raccoon.
He arrived from Los Angeles in a small wooden box when he was three weeks
old. A corner of the box was broken open and the tip of his snout stuck
out, trying to get a sense of things. He looked like a drowned rat when
I got him home and set him free. I felt sorry for him because everything
was bewildering. He soon gave up running around the house and curled up
beside me on the sofa. He deeply slept and figured things out. Rocky grew
into a fine raccoon. He was also quite decadent. He had to be woken in the
mornings, he would sleep sprawled on his back like a beer drinker. His
ears would literally slide down the side of his head when he slept. When
you woke him and he figured out who he was, he would hurriedly arrange his
ears back over his head like a lady whose wig had slipped at the vicar's.
Get his eyeholes back over his eyes. Raccoons don't seem very attached to
their skins. They cab. turn inside them like romper suits, spin round in
a flash and bite. Rocky didn't bite, but he could spin in his skin.
His favorite thing was orange cake. It was also my father's favorite
thing. Rocky used to mount daring and ingenious raids on the orange cake,
which was subject to maximum security. I've seen Rocky clung to the back
of my father's armchair, pressed flat waiting for cake to arrive in order
to ambush it. He could whip away whole chunks from my father's opening
mouth and run off laughing.
He also loved water. He had to thoroughly wash all his food. We sometimes
got him back for his crimes by giving him sugar cubes and watching them
wash away.
He got us back by discovering that toilets are waterfalls. Our house
was fed by tanks on the roof. We once arrived home to find there was
no water in the house. I could hear the toilet lever being pulled in
the farthest bathroom down the hall. Rocky had spent the evening standing
on the seat, flushing, then jumping into the bowl to cavort.
That was Rocky. An intelligent wild animal. A thief, a child,
a friend+
DBC PIERRE was raised in Mexico and became a visual
artist before turning his hand to writing. His first novel, Vernon God
Little, won the 2003 Man Booker Prize. At work on a fourth novel, he divides
his time between the UK and Ireland.
Picture: Playboy, March/April 2018
The Mit version will be very soon.
mới renew domain name, 3 niên. Tới đó,
còn sống, renew tiếp!
Style, Isaak Babel claimed,
is "an army of words, an army in which all types of weapon are
on the move.
No iron spike can pierce the human heart as icily
as a full stop deployed at the right moment".
Bà vợ thứ nhất rời bỏ Babel, rời bỏ Nga khi ông
vừa kết thúc Kỵ binh Đỏ. Bà tuyên bố, như một
nghệ sĩ, bà bị nghẹt thở dưới chế độ mới. Nhưng bà
cũng quá suy sụp, vì chồng bà có một
người đàn bà khác, một nữ nghệ sĩ đẹp. Không
phải một mà nhiều người…
Một trong những nhân tình của Babel, theo như
giai thoại trong giới giang hồ, là vợ của ông Trùm KGB.
Nói về văn phong, câu của Babel, quá
bảnh, không thua gì câu của Cioran, “tôi
mơ 1 thế giới, ở đó, người ta có thể chết, chỉ vì
1 cái dấu phảy”. Nhưng câu phán bảnh nhất, vào
cuối đời, Gấu ngộ ra được, là của Kafka, có vẻ như
chẳng mắc mớ gì đến văn phong, và kỳ cục làm
sao, chính là câu thật cũ mèm, “văn tức
là người”.
Nhưng “người” ở đây, phải hiểu theo ý của
Kafka:
Trong cuộc đấu sinh tử tay đôi giữa bạn và thế
giới, hãy ở bên thế giới.
In the duel between you and the world, back the world.
Kafka
Câu của Brodsky, phải được hiểu theo ý đó:
Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh.
Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, là cũng
ý đó.
Nói ngắn gọn, tâm địa của bạn như kít,
thì không làm sao viết văn hay được.
Và cái thứ văn hay nhất này, thì
quái làm sao, đếch cần đến văn phong, “viết như không
viết”, là đạt tới đỉnh của văn phong!
Borges cũng nghĩ như thế. Ông cho biết, truyện
ngắn của ông, truyện nào cũng dính tí
kít, theo nghĩa của từ “trick”, chỉ có mỗi 1 truyện,
ông đếch sử dụng đến ngón nghề, trick, là cái
truyện The Intruder, và truyện này đúng là
câu chuyện cuộc chiến Mít, hai anh em cùng yêu
1 cô gái, và 1 trong hai, giết cô gái,
vì chỉ mỗi cách đó, là cả hai cùng
giữ cô hoài hoài- quên hoài hoài
thì cũng thế - One
thing does not exist: Oblivion. Borges, Everness
Intruder đã được dịch
ra tiếng Mít, và là Những Ngày Ở Sài
Gòn của tên khốn kiếp Sơ Dạ Hương!
[Aleph, là truyện ngắn Borges viết để tặng
người yêu của ông, còn Những Ngày Ở Sài
Gòn của Gấu, thì là để tặng BHD và
Sài Gòn]
Borges on Borges
Jorge Luis Borges
[The Royal Society of Arts, London 5 Oct
1983]
ON 'THE INTRUDER'
It was a brutal story, I'm sorry to say, but it was
meant to be brutal. It shows the contempt men have for women in
my country and in South America generally. It's a story about machismo,
which I thoroughly dislike. It's a very simple story, but I didn't
know how to end it. I was dictating it to my mother (I was already blind)
and I came to the point where the elder brother has to tell the younger
that he has killed the girl. And then I said to my mother, 'The fate of
the story depends on the words he says. Try and help me.' She was taking
down the story, she didn't like it, and she said, 'Let me think.' And then
she said in a quite different voice, 'I know what he said.' It was as
if he had actually said it, but of course it was merely fiction. And then
1 said, 'Well, write it down.' And then she wrote down, 'A trabajar, hermano.
Esta manana la mate. To work, brother, this morning I killed her.' She
found the right words, but she didn't like the story; however, at that
moment she believed in the story. And then she made me promise never to
write about people like that again; she found them utterly uninteresting
and repugnant. 'Don't keep on writing about knives and knife duels,' she
said; 'I'm sick and tired of it all.' She had found her way inside the story
and I hadn't really. She knew far better about the story than I did, since
she found the right words and the right intonation and the right cadence
to the words.
Note: Trong những truyện ngắn của Borges, câu
chuyện “Kẻ Lén Lút Xâm Nhập”, lạ nhất, có
thể nói, và có lần, Gấu, chắc cũng THNM, nên
coi cô gái - bị hai anh em cùng yêu, và
1 tên bèn giết cô gái – là văn chương
Ngụy trước 1975, và sở dĩ thằng anh ruột làm thịt cô
gái, để cả hai anh em sau đó, cùng có chung
1 bổn phận, quên nàng!
Trên đây, là những dòng, của
chính Borges, viết về truyện ngắn đó. Ông kể
là, lúc đó, ông đã mù, và
đọc nó cho bà cụ thân sinh, Bả cũng không thích,
và sau đó, cấm ông con trai đừng bao giờ viết truyện
như thế nữa. Vargas Llosa cũng chê Borges, ưa viết truyện có
tí dao găm, có tí máu.
Borges:
The Intruder
Trong bài viết về
Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New
Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có
nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder.
Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của
Borges.
Tò mò, Gấu kiếm
trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên
net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm:
“The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ
trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh
em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó
mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên
nàng”.
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí
- cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén
vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách
lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD,
tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng
hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít,
cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt
em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang
thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên
bàn!
"The Intruder," a very short
story recently translated into English, illustrates Borges's present
ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so
that their fraternity may again be whole. They now share a new bond:
"the obligation to forget her."
Borges himself compares this
vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing,
but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his
rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home
and found the Aleph in the next patio.
Steiner cho rằng cái
sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như
là 1 sự mất mát riêng tư.
Và theo ông, nó bắt đầu, cùng
với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết đến,
và đọc được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng
này chia nhau giải thưởng Formentor Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cung và
Giả Tưởng của Borges có bản tiếng
Anh.
Vinh danh rớt xuống, như
mưa: Honors rained.
Vào cái tuổi già
chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi,
rằng thì là bi giờ cả thế giới biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì
vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho xb 1
cuốn sách, và
cuối năm, tôi khám phá ra, chỉ bán được
có 37 cuốn!
Beckett thì cũng rứa!
Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân
hận.
TTT cũng thế.
May sau đó, nhờ Nguyễn
Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn,
nhờ thế cuốn sách tái sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất, là, ông già NDV như
tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương của
cả 1 Miền Nam, sau đó, sau 1975!
Gấu là thằng may nhất,
nếu không có cú bán xon của NDT, Gấu
không làm sao được đọc Bếp Lửa!
The Intruder
Note: GCC kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader, mua xôn, từ đời
nào. Bèn post ở đây, và sẽ dịch sau.
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí
- cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén
vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ,
nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách
lạ thường.
Lần đầu đọc, trên net,
Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay
rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh
Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê,
và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng
có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang
thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên
bàn! (1)
THE INTRUDER
2 Samuel 1:26
[JLB 98]
They claim (improbably) that
the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen brothers,
at the wake for Cristian, the elder, who died of natural causes at
some point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must certainly
have heard it from someone else, in the course of that long, idle
night, between servings of mate, and passed it on to Santiago Dabove,
from whom I learned it. Years later, they told it to me again in Turdera,
where it had all happened. The second version, considerably more detailed,
substantiated Santiago's, with the usual small variations and departures.
I write it down now because, if I am not wrong, it reflects briefly
and tragically the whole temper of life in those days along the banks
of the River Plate. I shall put it down scrupulously; but already I
see myself yielding to the writer's temptation to heighten or amplify
some detail or other.
In Turdera, they were referred
to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor
remembered with some astonishment seeing in that house a worn Bible,
bound in black, with Gothic characters; in the end pages, he glimpsed
handwritten names and dates. It was the only book in the house. The
recorded misfortunes of the Nilsens, lost as all will be lost. The
old house, now no longer in existence, was built of unstuccoed brick;
beyond the hallway, one could make out a patio of colored tile, and
another with an earth floor. In any case, very few ever went there;
the Nilsens were jealous of their privacy. In the dilapidated rooms,
they slept on camp beds; their indulgences were horses, riding gear,
short-bladed daggers, a substantial fling on Saturdays, and belligerent
drinking. I know that they were tall, with red hair which they wore long.
Denmark, Ireland, places they would never hear tell of, stirred in the blood
of those two criollos. The neighborhood feared them, as they did all red-haired
people; nor is it impossible that they might have been responsible for someone's
death. Once, shoulder to shoulder, they tangled with the police. The younger
one was said to have had an altercation with Juan Iberra in which he did
not come off worst; which, according to what we hear, is indeed something.
They were cowboys, team drivers, rustlers, and, at times, cheats. They had
a reputation for meanness, except when drinking and gambling made them expansive.
Of their ancestry or where they came from, nothing was known. They owned
a wagon and a yoke of oxen.
Physically, they were quite
distinct from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their
own bad name. This, and other things we do not know, helps to explain how
close they were; to cross one of them meant having two enemies.
The Nilsens were roisterers,
but their amorous escapades had until then been confined to hallways
and houses of ill fame. Hence, there was no lack of local comment
when Cristian brought Juliana Burgos to live with him. True enough,
in that way he got himself a servant; but it is also true that he showered
her with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the poor tenement
fiestas, where the more intimate figures of the tango were forbidden
and where the dancers still kept a respectable space between them. Juliana
was dark-complexioned, with large
wide eyes; one had only to look at her to make her smile. In a poor
neighborhood, where work and neglect wear out the women, she was not
at all bad looking.
At first, Eduardo went about
with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some business
or other; he brought back home with him a girl he had picked up along
the way. After a few days, he threw her out. He grew more sullen;
he would get drunk alone at the local bar, and would have nothing to
do with anyone. He was in love with Cristian's woman. The neighborhood,
aware of it possibly before he was, looked forward with malicious glee
to then subterranean rivalry between the brothers. One night, when
he came back late from the bar at the corner, Eduardo saw Cristian's
black horse tethered to the fence. In the patio, the elder brother was
waiting for him, all dressed up. The woman came and went, carrying mate.
Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the Farias'.
There's Juliana for you. If you want her, make use of her."
His tone was half-commanding,
half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not know
what to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but not to Juliana,
who was an object to him, mounted, and trotted off, casually.
From that night on, they shared
her. No one knew the details of that sordid conjunction, which
outraged the proprieties of the poor locality. The arrangement worked
well for some weeks, but it could not last. Between them, the brothers
never uttered the name of Juliana, not even to summon her, but they
sought out and found reasons for disagreeing. They argued over the
sale of some skins, but they were really arguing about something else.
Cristian would habitually raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without
realizing it, they were growing jealous. In that rough settlement,
no man ever let on to others, or to himself, that a woman would matter,
except as something desired or possessed, but the two of them were in
love. For them, that in its way was a humiliation.
One afternoon, in the Plaza
de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful
"dish" he had fixed up for himself. It was then, I think, that
Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was going to make
fun of Cristiano
The woman waited on the two
of them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference,
unquestionably for the younger one, who, although he had not rejected
the arrangement, had not sought it out.
One day, they told Juliana to
get two chairs from the first patio, and to keep out of the way,
for they had to talk. Expecting a long discussion, she lay down for
her siesta, but soon they summoned her. They had her pack a bag with
all she possessed, not forgetting the glass rosary and the little
crucifix her mother had left her. Without any explanation, they put
her on the wagon, and set out on a wordless and wearisome journey. It
had rained; the roads were heavy going and it was eleven in the evening
when they arrived at Moron. There they passed her over to the patrona of the house of prostitution. The deal had already
been made; Cristian picked up the money, and later on he divided it with
Eduardo.
In Turdera, the Nilsens, floundering
in the meshes of that outrageous love (which was also something
of a routine), sought to recover their old ways, of men among men.
They went back to their poker games, to fighting, to occasional binges.
At times, perhaps, they felt themselves liberated, but one or other
of them would quite often be away, perhaps genuinely, perhaps not. A
little before the end of the year, the younger one announced that he
had business in Buenos Aires. Cristian went to Moron; in the yard of
the house we already know, he recognized Eduardo's piebald. He entered;
the other was inside, waiting his turn. It seems that Cristian said
to him, "If we go on like this, we'll wear out the horses. It's better
that we do something about her."
He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went
off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred his horse
so as not to see them. They returned to what has already been told.
The cruel solution had failed; both had given in to the temptation
to dissimulate. Cain's mark was there, but the bond between the Nilsens
was strong-who knows what trials and dangers they had shared-and they
preferred to vent their furies on others. On a stranger, on the dogs,
on Juliana, who had brought discord into their lives.
March was almost over and the
heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom to
retire early), Eduardo, coming back from the corner bar, saw Cristian
yoking up the oxen. Cristian said to him, "Come on. We have to leave
some hides off at the Pardos'. I've already loaded them. Let us take
advantage of the cool."
The Pardo place lay, I think,
to the south of them; they took the Camino de las Tropas, and then
a detour. The landscape was spreading out slowly under the night.
They skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away the cigarette
he had lit and said casually, "Now, brother, to work. Later on, the
buzzards will give us a hand. Today I killed her. Let her stay here
with all her finery, and not do us any more harm."
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and the
obligation to forget her.
Trang Simone Weil
Note: Bài viết này, Top Ten rất nhiều
tháng, theo như server cho biết. Bạn đọc, song song với 1 số bài,
về Văn Cao, trên tanvien.net Và đối chiếu chúng,
với cas của HPNT, nhân bài viết được tên Bọ Lập
cho post trên blog của hắn. GCC sẽ đi 1 đường về chúng,
khi viết về Sebald, a good German, sau.
Mùa Xuân Đầu Tiên
Những hồi ức về nhạc sĩ Văn Cao trong mùa xuân
năm Bính Thìn, 1976 - khi ông viết ca khúc
Mùa xuân đầu tiên mừng đất nước thống nhất, được con
trai ông, ...
Continue Reading
Bài viết Tại sao tôi viết
Tiến Quân Ca, post trên Tin Văn, bản gốc, là từ Nguyễn
Tiến Văn, khi còn ở hải ngoại, Toronto, Canada. Anh đọc qua phôn.
Bản này, do CP bị hư nhiều lần, bây giờ coi lại, mất tiêu,
chỉ còn những bài viết thêm. GCC nghi, có thể
Văn Cao, sợ sau khi ông chết đi, tổ chức bèn phịa ra 1 bản
di chúc dành cho ông, như trường hợp Vũ Bằng, được
Đảng cho di cư nằm vùng, nhưng thấy Miền Nam, chế độ Ngụy bảnh quá,
bèn giấu mẹ căn cước, chết đi được Đảng khui ra, xoa đầu cái
xác chết.
Sở dĩ bài TQC sắt máu đến như thế, là vì
Văn Cao viết nó, sau khi biết 1 đứa cháu gái của
ông, bị lạc, mất tích, chết, và chắc là vì
đói, trong vụ đói năm Ất Dậu, nhớ đại khái, từ từ
coi lại. Cái gì gì thề phanh thây uống máu
quân thù… Khi ông chết, nhớ là tờ Time phải lôi
câu đó ra, để vinh danh ông, và Vẹm, và
Bắc Kít, bởi vì chưa từng có 1 bài quốc ca
nào, của bất cứ 1 xứ sở nào, sặc mùi máu như
thế. Bài viết quả đúng là di chúc, và
sám hối, và cảnh cáo của Văn Cao, đối với Vẹm, và
xứ Mít: Phải quên mẹ thằng cha già, “Người” viết hoa
đi, thì mới khá được!
Thơ
Mỗi Ngày
http://freds-ramblings.blogspot.ca/2011/12/jorge-luis-borges-possession-of.html
Possession
of Yesterday
I know the things I've lost are so
many that I could not begin to count them
and that those losses
now, are all I have.
I know that I've lost the yellow and the black
and I think
Of those unreachable colors
as those that are not blind can not.
My father is dead, and always stands beside me.
When I try to scan Swinburne's verses, I am told,
I speak with my father's
voice.
Only those who have died are ours, only what we
have lost is ours.
Ilium vanished, yet Ilium lives in Homer's verses.
Israel was Israel when it became an ancient nostalgia.
Every poem, in time, becomes an elegy.
The women who have left us are ours, free as we
now are from misgivings.
from anguish, from the disquiet and dread of hope.
There are no paradises other than lost paradises.
-- Jorge Luis Borges --
(1899-1986)
Đi Học Hả, Hôm Qua Đi Rồi Mà!
Tớ biết những gì tớ mất
Nhiều rất ư là nhiều
Đế nỗi tớ không thể bắt đầu đếm chúng
Và những mất mát như thế đó
Là tất cả những gì bây giờ tớ có
Tớ biết, tớ mất màu đen và màu hồng, trong
BHD
Đó là những màu mà 1 tên mù
dở, già, sắp ngỏm
Không thể nào với tới được
Ông già của tớ bị chết vì họa đảng phái
những ngày đầu Kách Mạng Vẹm, 1945
Và bây giờ, ông đang đứng bên tớ
Khi tớ cố scan mấy bài thơ của ông anh nhà
thơ, họ - trong có ông con trai của ông bạn quí
của tớ, dù chỉ gặp một lần – là DC – nói, mi thuổng
thơ TTT!
Tất cả những người đã chết – ông anh nhà
thơ, bạn quí gặp độc nhất 1 lần, DC, bạn thơ Joseph Huỳnh Văn…
- đều là “của tớ” hết –
Chỉ những người đã chết là của chúng ta,
thằng nào còn sống, kệ cha chúng!
Ilium biến mất, nhưng Ilium sống ở trong những dòng thơ
của Homer
Xứ Ngụy của lũ Ngụy là Xứ Ngụy, khi nó trở thành
nỗi hoài hương cũ mèm, xa xưa, của đám Nam Kít
lưu vong
Mọi bài thơ, như trong Thơ Ở Đâu Xa, khi đã
đến thời, thì trở thành bia mộ của cả 1 thời, như vị
đối thủ của mi, là NL, phán!
Người tình bỏ ta đi, như dòng sông cái
con mẹ gì đó, như họ Trịnh hát,
Thì là của chúng ta,
Tự do như chim trời, như chúng ta,
Trong xao xuyến
Âu lo
Bất an
Và sợ, đến lún hết cả con chim vào trong
người,
Vì hy vọng
Không có thiên đàng, ngoài
thiên đàng đã mất.
Every poem, in time, becomes an elegy
Thơ của tôi không
dành cho bạn!
Xin trao thi sĩ vòng hoa tặng
: Auden, nhà thơ người Anh, khi được hỏi, hãy
chọn bông hoa đẹp nhất trong vòng hoa tặng, ông
cho biết, bông hoa đó đã tới với ông
một cách thật là khác thường. Bạn của ông,
Dorothy Day, bị bắt giam vì tham gia biểu tình.
Ở trong tù, mỗi tuần, chỉ một lần vào thứ bẩy, là
nữ tù nhân được phép lũ lượt xếp hàng
đi tắm. Và một lần, trong đám họ, một tiếng thơ cất lên,
thơ của ông, bằng một giọng dõng dạc như một tuyên
ngôn:
"Hàng trăm người sống không cần tình
yêu,
Nhưng chẳng có kẻ nào sống mà
không cần nước"
Khi nghe kể lại, ông hiểu rằng, đã
không vô ích, khi làm thơ.
Chúng ta đã thắng trước
cuộc đời. [TTT, trong bài tưởng niệm QT]
Cũng trong cuộc phỏng vấn,
khi được hỏi, ông làm thơ cho ai, Auden trả lời:
nếu có người hỏi tôi như vậy, tôi sẽ hỏi lại,
"Bạn có đọc thơ tôi?" Nếu nói có, tôi
sẽ hỏi tiếp, "Bạn thích thơ tôi không?" Nếu nói
không, tôi sẽ trả lời, "Thơ của tôi không
dành cho bạn."
Thơ của tôi không
dành cho bạn!
Tôi tản mạn về một nhà thơ nước ngoài
như trên, là để nói ra điều này: thế
hệ nhà thơ nào cũng muốn chứng tỏ một điều: chúng
tôi không vô ích, khi làm thơ. Nếu
mỗi thế hệ là một quốc gia non trẻ , và, nếu thế hệ
đàn anh của chúng tôi tượng trưng cho nước Việt
non trẻ - vừa mới giành được độc lập - là bước ngay
vào cuộc chiến, và, họ đã chứng tỏ được điều trên:
đã không vô ích khi làm thơ; và
đã thắng trước cuộc đời, cho nên đây là một
thách đố đối với những nhà thơ trẻ như chúng tôi:
đừng làm cho thơ trở thành vô ích. Và
nếu thơ của lớp đàn anh chúng tôi đã làm
xong phần đóng góp cho sự nghiệp chung của dân tộc,
thơ của thế hệ trẻ chúng tôi có lẽ sẽ làm nốt
phần còn lại: thơ sẽ nói lên nghệ thuật của sự tưởng
niệm, và mỗi bài thơ, được viết đúng lúc như
thế đó, sẽ trở thành một khúc kinh cầu. Đó là
tham vọng của thơ trẻ.
Note:
Bài viết này, Gấu có
góp phần mà Bắc Kit gọi là "hiệu đính",
trong đó, Gấu có chôm ý của Borges,
"mỗi bài thơ, tới lúc, sẽ trở thành 1 bi khúc".
Khi viết loạt bài về Thơ Trẻ ở trong nước,
Sến thích quá, bèn hỏi xin. OK .
Vị PHT này, sau bị Sến ra lệnh cho đàn
em đánh tơi bời hoa lá.
“Nguyên đầu bạc” cũng bị đòn hội chợ,
chỉ đến khi Sến ra lệnh ngưng, vì
đụng tới “sinh mệnh chính trị” cái con khỉ gì
đó.
Gấu cũng đâu thoát.
Bị đánh tơi bời, đến nỗi độc giả của Chợ
Cá phải lên tiếng binh vực.
Sến mail, hỏi, sao anh không lên tiếng,
Gấu lắc đầu, Sến phán, hết xít oát rồi ư.
Sến Cô Nương đâu phải thứ thường.
Cũng Đại Ma Đầu trong chốn giang hồ gió tanh mưa máu.
Everness
One thing does not exist: Oblivion.
God saves the metal and he saves the
dross,
And his prophetic memory guards from
loss
The moons to come, and those of evenings
gone.
Everything is: the shadows
in the glass
Which, in between the day’s two twilights,
you
Have scattered by the thousands, or
shall strew
Henceforward in the mirrors that you
pass.
And everything is part of that diverse
Crystalline memory, the universe;
Whoever through its endless mazes wanders
Hears door on door click shut behind his
stride,
And only from the sunset’s farther side
Shall view at last the Archetypes and
the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
This poem was given me by Jacques Felix, in his
comment to my previous post on Borges' The Immortal.
It bears the mark of Borges, all right. The first line unlocks
the door into the Borgesian universe.
Oblivion does not exist, because the universe
is a memory, a consciousness. We are parts of the universe, meaning we are
the universe itself, and are expressions of that memory, that consciousness.
"Everything is".
The blankness of oblivion is mirrored by the sparkly,
shiny image of the stars and moon, by mirrors themselves, and
by crystal - "[a]nd everything is part of that diverse / Crystalline
memory, the universe".
And the last line brings back the everness: the
Archetypes and the Splendors.
This poem is so simple yet so intricate and deep.
Time is nowhere - the universe is a memory, a consciousness.
Bài Everness, nhớ là
đã dịch rồi. Cái tít thuổng Nguyễn Du, Mai sau
dù có bao giờ. Everness, là 1 từ Borges chôm,
để thay cho cái từ đã quá mòn, là
eternity.
Từ từ kiếm sau. Bữa nay dịch bài
Possession of Yesterday.
Cái
Đói Sẽ Cứu Chuộc Thế Giới?
Viết
mỗi ngày
A Critic at Large
The military
historian Max Boot takes on the counter-insurgency
maven Edward Lansdale.
By Louis
Menand
This article
appears in the print edition of the February 26, 2018,
issue, with the headline “Made in Vietnam.”
Note:
Tờ NY điểm cuốn viết về Trùm Xịa ở Miền Nam ngày nào.
Nhiều người đọc Graham Greene, và
nghĩ tiền thân của Người Mỹ Trầm Lặng, là
Lansdale.
Không phải. Nguồn của Người
Mỹ Trầm Lặng rắc rối hơn nhiều, như trong cuốn tiểu
sử của ông cho thấy.
http://damau.org/archives/48835
Trần Vũ: Trước
đây khi viết về Nguyễn Tuân, Hoài từng mô
tả: "Ông là ngọn đồi thấp trên địa hình
bằng phẳng của văn học." Về tổng bí thư Đỗ Mười: "Lời
lẽ thô sơ hơn cả mặt mũi." Còn Alice Munro: " Bà viết nhỏ", tức
không có tác phẩm lớn. Và Hoài
"sẽ không chọn Alice Munro nếu bị lưu đày ra một hòn
đảo vắng mà chỉ được đem theo một cuốn sách." Vô
cùng mềm mại nhưng vẫn là một phi tiêu với
một nhát chùy trong một chiêu pháp tuyệt
mỹ. Nhưng điều tôi muốn biết: Nếu phải ra hoang đảo ngay bây
giờ, và chỉ được đem theo một quyển sách, thì
Phạm Thị Hoài đem gì?
Note: Với riêng GCC, đây là
bài viết ít gà mái gáy nhất
của Sến, giọng chân thực. Đọc nó, Gấu tò
mò tìm đọc Gass nhưng không vô. Còn
Patricia Highsmith, sợ Gấu đọc trước Sến, chưa kể coi phim, với Alain
Delon thủ vai chính
Viết nhỏ
Tháng 10 15, 2013
Phạm
Thị Hoài
Có hai nhà
văn nữ mà tôi đọc dồn dập trong một đoạn đời
đọc và đời sống của mình. Người thứ nhất là
Patricia Highsmith. Người thứ hai là Alice Munro.
Gần chục tác phẩm
của Patricia Highsmith tôi đọc trong hai năm, từ sáu
giờ rưỡi đến bảy giờ rưỡi sáng. Hàng ngày
con trai tôi tập võ buổi sáng từ sáu
giờ đến bảy giờ ở sân vận động gần nhà. Tôi đánh
thức con, đưa đi, về chuẩn bị bữa sáng và trong khi
chờ chàng võ sĩ hoàn thành nghi thức
mở đầu một ngày rồi tắm rửa, ăn sáng và nhảy
chân sáo đến trường, tôi có thời gian
cho vài chục trang tiểu thuyết. Tôi thường kể lại những
tình tiết vừa đọc và nêu thắc mắc. Chàng
thường bình luận, mẹ đừng lo, sáng mai vào
giờ này chúng ta sẽ khôn hơn. Cuối tuần và
những ngày dưới 5 độ âm, thầy trò nhà Thiếu
Lâm nghỉ, sách của Patricia Highsmith dừng theo. Rồi
dừng hẳn, khi chàng trai vẫn quá bé bỏng của
tôi nhất định thấy mình đủ lớn để không cần mẹ
tháp tùng.
Khi bước ngoặt trong cuộc
sống riêng của tôi bắt đầu hiện rõ, tôi
khuân về tất cả Alice Munro tìm thấy trong thư
viện, đặt lên chiếc gối ở phần giường bỏ trống bên
trái cho nó đỡ phồng. Mỗi đêm một câu
chuyện, toàn chuyện về đàn bà, rồi không
có ai xoa lưng giấc ngủ cũng đến. Truyện cuối cùng
của bà, tôi đọc gần sáu năm trước, tên trong
nguyên bản là Runaway. Chiếc
gối bên trái đã có chủ.
Cả hai là những
người kể chuyện. Một người kể về những hành vi đàn ông
khác thường, một người kể về những mảnh đời đàn bà
bình thường nhất. Một người tường thuật sự thản nhiên của tội
phạm, một người diễn tả sự ám ảnh của lỗi lầm. Một người nhìn
sâu vào những đường nứt trong nhân cách, một người
chú mục vào những ngả rẽ chập chờn của số phận. Một người
thăng hoa thể loại truyện hình sự, một người đội lại cho truyện ngắn
chiếc vương miện đã nhiều lần rơi.
Nếu có thể đơn giản
chia các nhà văn thành hai trường phái,
một bên dùng ngôn ngữ để miêu tả thế
giới, một bên dùng ngôn ngữ để dựng nên
thế giới, thì Alice Munro, chủ nhân giải Nobel năm
nay, thuộc trường phái thứ nhất. Tôi nghiêng về
trường phái thứ hai. Bà không biết phải làm
gì với William Faulkner, một trong những tác giả tôi
ngưỡng mộ. Tôi không biết phải làm gì với
Carson McCullers, một trong những tác giả bà cảm phục.
Tôi sẽ không chọn Alice Munro nếu bị lưu đày ra một
hòn đảo vắng mà chỉ được đem theo một cuốn sách.
Nhưng tôi mừng và biết ơn là đã đọc bà.
Thế giới văn chương mênh mông, gặp được một người như bà
là may mắn.
Bà là bậc
thầy của một phong cách: phong cách phi phong
cách, phong cách tác giả giấu mặt. Không
có gì tiết lộ người kể chuyện, người vừa biết
hết vừa không can dự và tự phi tang. Mô hình
đối lập hoàn hảo với bà là William Gass,
cũng một nhà văn Bắc Mỹ, năm nay 89, hơn bà 7 tuổi,
người chủ trương sự hiện diện triệt để của tác giả như yếu
tố thiêng liêng nhất của văn bản văn học. Ông coi
sự giải thể tác giả như tín hiệu suy tàn của một
uy quyền, một thế lực thần học, chẳng khác gì Thần
Zeus bỗng bị lột sạch vũ khí sấm chớp, tuy còn ngự
trên đỉnh Olympus nhưng ngủ trong xe thùng và
đun nấu bằng bếp ga.
Tôi phải thú
nhận, tác phẩm để đời, viết ròng rã 30
năm của William Gass, tiểu thuyết ngàn trang Đường
hầm (The Tunnel), hai năm nay tôi đọc dở và
hứng thú đọc tiếp ngày càng ít đi,
mặc dù có một số điều ở đó – nói ra
thì thật không công bằng – có thể khiến
tôi đánh đổi rất nhiều trang Alice Munro cộng lại. Bà
không có một magnum opus
nào hết. Mọi truyện của bà đều không
quá 40-50 trang, viết khi con ngủ, nghĩ khi gọt khoai tây.
Bà viết nhỏ.
Văn chương, theo Paul Valéry,
là nghệ thuật đùa với tâm hồn người khác.
Có người đùa bằng sức mạnh của ngôn ngữ.
Có người đùa bằng trí tuệ siêu phàm.
Bằng kiến văn bao la. Bằng trí tưởng tượng rực rỡ. Bằng
năng lực đi trước hoặc năng khiếu đi cùng thời đại. Bằng
cảm xúc và cảm hứng. Bằng thủ pháp hay thủ
đoạn. Bằng thử nghiệm hay những mớ thần kinh cách điệu…
Tất cả những thứ ấy không có chỗ trên những trang
viết nhỏ của Alice Munro. Chúng lùi hẳn ra xa, rất
xa, để toàn bộ tâm trí chúng ta, người
đọc, được tập trung vào phần cốt lõi không
trang sức, được cuốn vào những câu chuyện mà
bà kể bằng một giọng văn truyền thống và một ngôn
ngữ hết sức giản dị. Nhiều lần đọc xong một truyện của bà,
tôi thầm ghen tị. Phải bền bỉ, tinh tế quan sát cuộc
đời và tôn trọng mọi khả năng hiện hữu của nó
tới mức nào, phải từng trải và biết kiểm soát
mình tới mức nào, phải tôi luyện tay nghề tới
mức nào mới có thể kể được một câu chuyện như thế.
Hầu hết là chuyện
của những người đàn bà trong những khoảnh khắc
quyết định bước đi này hay bước đi kia của số phận. Hạnh
phúc thì ngắn ngủi và vô định. Bất
hạnh dài gấp đôi. Song với tất cả sự không khoan
nhượng, người kể chuyện lão luyện Alice Munro không
bỏ mặc người đọc cho bi quan. Tôi vốn rất dè chừng với
cái gọi là chức năng nâng đỡ tâm hồn của
văn chương. Nhưng thuở ấy, sau mỗi đêm đọc Alice Munro, sáng
dậy hình như tôi đã nhìn cuộc đời đang
khá vô định của mình điềm tĩnh hơn một chút.
© 2013 pro&contra
Còn Alice Munro: "Bà viết nhỏ", tức không
có tác phẩm lớn.
TV
Bà không có
một magnum opus nào hết.
Bài viết khiêm nhường nhất của Sến,
là vậy.
http://www.tanvien.net/TG_TP/eleven.html
Thần tượng của Gấu Cái, mới ngỏm, báo
Tẩy đi 1 đường cực kỳ hoành tráng về chàng!
http://tanvien.net/thoi_su/nobel_2013.html
Nobel
văn chương 2013
Đỉnh Cao Chói Lọi. DTH: Nobel văn chương?
Ceux qui ne tirent pas
les leçons du passé sont condamnés à
le revivre.
Kẻ nào không rút ra được
những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án
phải sống lại nó.
Hannah Arendt.
Note: Bài viết này,
của GCC, đọc thú quá!
Hà, hà!
Văn
chương Mít sở dĩ không hấp dẫn thế giới, chính
là vì nó là thứ văn chương “tam,
tứ vô”: vô ích, vô hại, vô học,
vô dụng…
Nó là thứ văn chương không
“tham dự lớn vào bản khế ước xã hội”, như Le
Clézio phán. Thứ văn chương "không dám
sống thế nào thì không dám viết thế
đó"!
Ngay
cả thứ văn học dịch ở trong nước, nở rộ, vì là
nhu cầu tất yếu của một xã hội bị bưng bít đủ mọi
đường, cố tìm cách vươn ra ngoài, y chang như
Gấu khi ra được ngoài này, khi làm trang Tin
Văn, khi xin xỏ được viết cho Sến cô nương.
Nhưng
hãy thử nhìn xem, văn học dịch ở trong nước
ra làm sao. Cũng toàn thứ vô hại, vô
dụng… Ngay cả với những tác giả nguy hại, thì cũng
bị lũ thợ dịch hoặc tự ý kiểm duyệt, hoặc cơ quan kiểm duyệt
thiến sạch những đoạn ‘nhạy cảm’!
Đến
Brodsky, khi được ông thợ dịch lừng danh "Butor Mít"
giới thiệu với độc giả Mít, thì cũng biến thành
dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, nữa là!
Bởi thế mà mấy em trong nước, có
em đã từng phàn nàn với bà chị Sến,
sao đọc văn dịch thấy dở quá, chúng em viết còn
hay hơn nhiều!
Gấu
nhớ, hình như là Fuentes có phán
một câu nghe thật khoái lỗ nhĩ, về tiểu thuyết,
và tiểu thuyết gia, đại khái như vầy, có
những tác giả thời nào cũng đọc được, thí
dụ Proust, có những tác giả, mà thời đó
không có ông ta là không được,
thí dụ Kafka. Giả như không có Kafka, làm
sao chúng ta hiểu được chính chúng ta, chính
cái thế kỷ của chúng ta ?
Và, như chúng ta đã từng
biết, Kafka phán, cái thứ văn chương mà
chúng ta cần đọc, nó giống như cái rìu
phá băng, phá tảng băng lạnh giá là cái
đầu vô cảm của chúng ta. (1)
Ấy
đấy, thứ văn chương đó, Mít chưa có.
Vả chăng, cái trò
mê văn học vệ quốc của Liên Xô của đám
Yankee mũi tẹt, theo Gấu chỉ là ‘nguỵ tín’, hay
nói huỵch toẹt, lập lờ, mượn mầu ‘vỏ lựu, máu chó,
mào gà’, ‘đánh lận con đen’, như Tú
Bà dậy Kiều!
Ấy là vì
với chúng, làm đếch gì có "vệ quốc",
mà là ‘ăn cướp’.
Khốn nạn thế đấy!
'It's a wonderful thing for the short story'
Nhân Ngày Tình Nhân
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc
trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên
ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là
ánh sáng
còn tôi thì
làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn
xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có
lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginner
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên
ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là
ánh sáng
còn tôi thì
làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn
xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có
lẽ, sự thương hại.
Note: Đọc 1 phát thì lại nhớ đến
1 nửa linh hồn Bắc Kít của GCC:
Ẩn dụ thơ “Đài gương soi đến dấu bèo” -
không phải của Gấu, tất nhiên - lần đầu Gấu thật ‘cay đắng dã
man’ được thưởng thức, là trong một lá thư tỏ tình, của
một cô gái mà Gấu tưởng là cô ‘thuơn’ Gấu,
nhưng hóa ra ‘thươn’ đệ tử của Gấu!
Gấu đã nói sơ qua
về vụ này một lần rồi. Nay nhắc lại, một phần để
đáp lại tí ‘tri tình’ của một độc giả
Tin Văn, khi đọc câu chuyện tình mắc cỡ của Gấu,
bèn ‘mail’, khen, ui chao ẩn dụ thơ mới đẹp làm
sao, lần đầu tiên tui được nghe, và cuộc tình
của ông Gấu mới tội làm sao!
*
Thời gian trường Bưu Điện đang xây
cất đó, Gấu làm việc bên này,
nhìn qua, thấy trong đám thợ hồ có một
em xinh thật là xinh. Thế là cứ rảnh việc một tí,
là thò đầu ra cửa sổ để ngắm em. Rảnh hơn thì
ra hẳn bên ngoài, ngó cho đã con
mắt.
Thế rồi, một bữa, được em ngó
lại. Ôi chao, hạnh phúc nào bằng.
Cho đến một ngày đẹp trời,
em vẫy tay cho phép gặp.
Gặp, em thẹn thùng đưa cho
một lá thư mầu xanh, thẹn thùng nói,
xin nhờ anh làm con chim xanh, [mấy từ con chim xanh
này là của em, không phải của Gấu], đưa
lá thư xanh này cho cái anh nho nhỏ
đẹp trai, hay đứng kế anh, giùm em.
Trong thư, có câu,
“đài gương soi đến dấu bèo này chăng”?
Đài gương, là ông
nhóc đệ tử Gấu. Dấu bèo là thánh
nữ của Gấu.
Ông già làm
chung, ông Lân, còn phạng thêm
cho một câu, nó là thợ hồ, làm
sao dám ngó lên tới đài gương, là
ông cán sự Bưu Điện!
*
Nhưng thú vị nhất, là
cái lần talawas bị tường lửa, và bà
chủ quán lên BBC than phiền, cái vụ
Gấu này nhanh hẩu đoảng, ăn mừng chiến thắng.
Sến nguẩy 1 phát, chìa đôi môi
dầy, bĩu, cũng 1 phát:
Tôi đâu có muốn được điểm của hải
ngoại!
Và Gấu lại phải lên tiếng thanh minh, hải
ngoại đâu cần điểm, mà cần một "nửa linh
hồn" của nó, bị thất lạc, từ thuở Tây mũi lõ
đánh chiếm Nam Kỳ!
*
“Còn những người, trong những
ngày qua, có lời chúc mừng talawas
đã đạt được cái thành tích là
trở thành món hàng cấm và vì
thế có hương vị ngọt ngào hơn, thậm chí
cả những người cho rằng talawas cố tình bị tường lửa để kiếm
điểm tại nước ngoài, những người ấy sẽ thấy mình đã
kết luận vô lối và vội vàng như thế nào.
Nếu phải thành một huyền thoại thì đó là
bất hạnh lớn cho chúng tôi”.
Phạm Thị Hoài, trả lời BBC, đăng lại trên
talawas.
Trên tờ Gió Đông
ngày nào - mà đa số cộng tác
viên là những cây viết ra đi từ miền
bắc - người chủ trương, Lê Trọng Phương, trong một bài
viết, đã mượn một ẩn dụ của Borges, khi nói về
một bức bản đồ Việt Nam, tỉ lệ xích là 1/1, bị rách
nát, mà những người Việt hải ngoại cố mang ra
ngoài này để khâu vá lại, cho nó
được như xưa.
Một tấm bản đồ "văn học" như thế,
chỉ có một nửa, nếu thiếu những người như Lê
Trọng Phương, những diễn đàn như talawas.
Trong tinh thần đó, Tin Văn
viết, "... và như vậy văn học hải ngoại sẽ không
còn ở trong tình trạng chông chênh,
thiếu tới một nửa 'cuộc đời, linh hồn'... của nó."
*
Bài post lên, NTV đọc,
phôn khen: Hình ảnh một "nửa linh hồn",
mày dùng, đắt lắm !
Gấu, vừa mừng lại vừa lo, hỏi:
-Nhưng liệu bà chủ quán
có biết, có 'đài gương soi đến dấu
bèo'... ?
NTV:
-Làm sao không biết
!
damau.org
online literary magazine, tạp chí văn chương Da
Màu, văn chương không biên giới, văn…
Comments
Tks
Bộ Borges Tám Bó, có hai cuốn, khi
đó, ông 85 tuổi.
Cuốn 1 thần sầu, nhưng cuốn 2 nghe
nói, Người loạng quạng rồi, không biết cho
xb hay không nữa. Tuy nhiên, Borges ở trong đó,
là 1 Borges của Trò Chuyện, Conversations.
Gấu, hung hăng hơn sư phụ nhiều, vưỡn
hăm he đụng ổ kiến lửa!
Viết
mỗi ngày
http://www.nybooks.com/articles/2018/02/22/istanbul-blues/
Re: Pamuk
Trên tờ NYRB số Feb 22,
2018, có bài về Istanbul, nhân cuốn sách
tái bản, bản deluxe. Giả như có 1 “hội chứng Pamuk”,
như Trần Vũ tưởng tượng ra, rồi khoác vào tác
phẩm của Sến, thì cũng không thể. Vì Pamuk không
phải là 1 nhà văn của đi và viết, ông
cứ ngồi ở 1 chỗ, và viết về chỗ đó, là Istanbul,
như GCC, có 1 cú Mậu thân Sài Gòn,
có thằng em tử trận 1 năm trước đó, viết hoài
còn hoài… Đây là lý do GCC
dịch Istanbul, và lạ làm sao, cái tay DTH,
ông chủ nhà xb NN, ở phía Nam, không hiểu
làm sao lại ‘đoán” ra được, và tự động viết mail,
đề nghị dịch. Khi nhận được mail, Gấu quá đỗi ngạc nhiên
phải nhờ em CM của Gấu, khi đó còn ở trong nước, bạn
thân của NL, check giùm, tếu thế!
Đây cũng là 1 dịp để tác
giả nhìn lại Istanbul của mình, như đoạn sau
đây cho thấy [GCC phải mua tờ báo, vì không
cho đọc free] tóm tắt, đại khái, Pamuk viết về
1 Pamuk, bị nhìn bởi lũ mũi lõ, hơn là được
nhìn bởi 1 cư dân của nó, là ông.
Và Istanbul của ông u
ám quá.
Khác Sài Gòn của
Gấu rất nhiều.
Both Pamuk's book and a new history,
Istanbul: A Tale of Three Cities by Bettany Hughes, make
it clear that part of the reason for this distortion is that
the country is so rarely described from within. Hughes, like many
who have written about Istanbul, is a foreigner, and thus prone
to the familiar hyperbole about the glories of the premodern city.
Pamuk, meanwhile, devotes much of his book to addressing foreigners'
perceptions of his native city, and admits he is obsessed with
how Westerners see it. These discussions can have the effect of
keeping one very far from the actual streets of Istanbul.
But much of Pamuk's book is also dark
and intimate, and not at all like foreigners' accounts, which
so often wallow in the city's exotic beauty. In 2017, his memoir
of love does not read like urban hagiography but instead like
a story of disintegration. When we remove our fantasy-inflected
perceptions, what is left of historic Istanbul? What was this great
civilization that Pamuk would say the modern-day Turks were "unfit
or unprepared to inherit," and what did they do to it?
Re: PTH
http://damau.org/archives/48826
Trần Vũ: Vẫn Orhan Pamuk, đã kể
một kinh nghiệm cá nhân: Sinh ra ở Istanbul
nằm vắt lên hai miền Âu-Á, Pamuk bị dằn
xé giữa Đông và Tây, giữa truyền
thống và hiện đại, giữa bảo thủ và cấp tiến, giữa
thế tục và phạm thánh. Trong mình Pamuk thường
xuyên phát vang những đồng cảm với dân tộc bị
thất lạc phải quay về cội nguồn tìm cứu rỗi, cùng lúc
là những trỗi dậy của lý trí giận dữ tệ u mê
sùng bái. Xâu xé tinh thần của Pamuk
dữ dội, vì càng đến gần các giá trị
nhân bản bác ái của Tây phương, Pamuk
càng đến gần Thiên Chúa giáo, trong
lúc bản thân là một tín đồ Hồi giáo.
Tuy nhiên, Pamuk đã tranh đấu duy trì một nhà
nước thế tục và là nhà văn chống tử lệnh
Fatwa của Ayatollah Khomeini xử tử khiếm diện Salman Rushdie. Pamuk
còn công nhận thảm sát dân Kurdes dưới đế
chế Ottoman, khiến bị kết án "sỉ nhục căn cước Thổ", phải lưu
vong sang Hoa Kỳ. Pamuk, cũng là nhà văn thú nhận:
"Những quyển sách của tôi là những ý tưởng
ăn cắp không xấu hổ từ thử nghiệm tiểu thuyết của Tây phương,
rồi pha với cổ tích và truyền thống Hồi giáo. Sự
trộn lẫn nguy hiểm của hai khuynh hướng tương khắc, làm nên
ánh lửa mạnh mẽ." Còn Phạm Thị Hoài? Sống lâu
ở Đức, nhà văn có bị "hội chứng Pamuk"? Những khi nhìn
đồng hương bị lôi ra tòa Bá Linh vì phạm
pháp, làm thông ngôn, Phạm Thị Hoài
có trắc ẩn?
Phạm Thị Hoài: Giữa Việt Nam và
Đức không chỉ là một khoảng cách
về không gian mà trước hết về thời gian. Đa
số người Đức đang sống ở thế kỷ 21, trong khi đa số người Việt
còn ở thế kỷ 20, thậm chí thế kỷ 19, riêng
Bộ Chính trị là đã vọt lên trước,
ở thế kỷ 29, là thời đại thiên đường cộng sản. Hai
xã hội đó vận hành khác nhau căn bản.
Ở Việt Nam, đó là một đám đông vừa
tán loạn vừa dính chặt vào nhau, vừa bịt mồm
nhau vừa chửi nhau, vừa mất tiền vừa làm tiền nhau, vừa giành
nhau từng centimet vừa nhích từng centimet về phía
trước, trên những phương tiện lạc hậu nguy hiểm và
bóp còi inh ỏi. Ở Đức, đó là một tập hợp
lỏng lẻo của những cá nhân tự do nhưng có hình
khối kết nối rõ ràng, rất kềnh càng tốn chỗ,
nhưng trật tự di chuyển trên những phương tiện hiện đại an toàn
và khá yên tĩnh.
Tôi thấy mình rất may mắn được quan sát
cùng một lúc cả hai thế giới đó, cộng đồng Việt ở
Đông Berlin là một xã hội Việt Nam thu nhỏ.
Nhưng người Việt phạm pháp ở
Đức không thấm vào đâu so với ở chính trong
nước. Tôi không hiểu vì sao người ta thấy nhục cho
quốc thể khi đồng bào mình lừa đảo, ăn cắp hay buôn
lậu ở nước ngoài bị phát hiện. Việt Nam đang là đất
nước của lừa đảo, ăn cắp và buôn lậu. Nếu người Việt ra nước
ngoài cũng lừa đảo, ăn cắp và buôn lậu thì
đó chỉ là thể hiện đúng diện mạo dân tộc, không
hơn không kém, họ chỉ trung thành
với bản sắc và căn cước Việt Nam hiện tại.
Note:
Thú thực, viết như thế, là
chỉ nhìn thấy hiện tượng, không thấy cốt lõi.
Cái gọi là bản sắc và
căn cước hiện đại này, chắc chỉ có ở xứ Đức
của những người ra đi từ miền Bắc?
Có 1 nước Mít, người
Mít khác hẳn, trước 1975, ở cả hai miền đất
nước. Người Miền Nam trước 1975, chưa từng bị thế giới coi là
những tên lừa đảo, ăn cắp, và buôn lậu.
Miền Bắc còn bảnh hơn nữa, qua
nhận xét của Brodsky và của Milosz, khi họ
viết về đất nước của họ, và về những người dân
của chúng, mà họ là những đại diện đích
thực.
Có 1 xứ Bắc Kít cực kỳ
tuyệt vời, như 1 cái bát cổ mà một
nhà văn của nó [LMH, qua 1 truyện ngắn đăng trên
tờ Văn Học của NMG] cố gìn giữ, chỉ sợ bể vỡ.
Những dòng sau đây, là
viết về xứ Bắc, người Bắc, khác hẳn nhận xét
tàn nhẫn của Sến.
Gấu bị chửi là chửi Bắc Kít
cực kỳ dã man.
Không đúng.
Coetzee
dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời của
riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew
Herbert.
Ông này phán:
đối nghịch của cổ điển thì không phải là
hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man
rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là
một đối đầu [not so much an opposition as a confrontation].
Với Herbert, đối
nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà
là Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất
văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo
với những láng giềng man rợ, không phải cứ có
được một vài tính cách quí báu
nào đó, là làm cho cổ điển sống sót
man rợ.
Nhưng đúng hơn là như
thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi
tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót,
đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết
không chịu buông xuôi, nhất quyết bám
chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà
con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển
Miền Bắc, sở dĩ tồn tại được là
nhờ cuộc chiến chống man rợ, kể trên, mà Brodsky
diễn tả qua những dòng được Milosz vinh danh:
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa.
Brodsky, chính ông, cũng là một nhà
thơ văn hóa, và có thể chính vì
thế mà ông trước tác hài hòa
với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con
người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống người, đã khám
phá ra quá khứ của nó, như là một mê
cung chẳng hề tận cùng. Nhập vào lòng mê
cung, chúng ta khám phá ra một điều, là,
bất cứ cái chi, nếu mà sống sót từ quá
khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý
‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác mày’, tức nguyên lý dựa trên
đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu hay
nâng bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn
nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ vậy.
Mandelstam, khi ở trong Gulag,
điên khùng, và tìm kiếm đồ
ăn trong đống rác, là thực tại về bạo tàn,
thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc
thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh
khắc thăng hoa hoài hoài.
Cái xứ Bắc Kít đẹp đẽ
đó, giống như 1 cái bát cổ dễ vỡ, sống
sót man rợ, có ở trong những dòng văn chương
của những người như Nguyễn Tuân [Chữ Người Tử Tù,
thí dụ], đúng là xứ sờ quê hương của
Milosz, khi ông vinh danh nó:
It is good to be born in a small country
where nature is on a human scale, where various languages
and religions have coexisted for centuries. I am thinking
here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại
một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so
le với con người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo
cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi
đang nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi
ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Cái gì, làm cho
1 xứ sở đẹp đẽ như thế biến mất?
Theo GCC, cái chết của Bắc Kít,
là do nền học vấn dậy con nít hận thù,
trăm năm trồng cây.
Y hệt Nazi.
NOTES GERMANY & ON THE WAR
A Pedagogy of Hatred
Displays of hatred are even more obscene and denigrating
than exhibitionism. I defy pornographers to show me a picture
more vile than any of the twenty-two illustrations that comprise
the children's book Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und keinem
Jud bei seinem Bid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew
on his Oath] whose fourth edition now infests Bavaria. It was first
published a year ago, in 1936, and has already sold 51,000 copies.
Its goal is to instill in the children of the Third Reich a distrust
and animosity toward Jews. Verse (we know the mnemonic virtues
of rhyme) and color engravings (we know how effective images are)
collaborate in this veritable textbook of hatred.
Take any page: for example, page 5. Here
I find, not without justifiable bewilderment, this didactic
poem-"The German is a proud man who knows how to work and struggle.
Jews detest him because he is so handsome and enterprising" -followed
by an equally informative and explicit quatrain: "Here's the Jew,
recognizable to all, the biggest scoundrel in the whole kingdom.
He thinks he's wonderful, and he's horrible." The engravings are
more astute: the German is a Scandinavian, eighteen-year-old athlete,
plainly portrayed as a worker; the Jew is a dark Turk, obese and
middle-aged. Another sophistic feature is that the German is clean-shaven
and the Jew, while bald, is very hairy. (It is well known that German
Jews are Ashkenazim, copper-haired Slavs. In this book they are presented
as dark half-breeds so that they'll appear to be the exact opposite of
the blond beasts. Their attributes also include the permanent use of
a fez, a rolled cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a lecherous dwarf
trying to seduce a young German lady with a necklace. In another,
the father reprimands his daughter for accepting the gifts and
promises of Solly Rosenfeld, who certainly will not make her his
wife. Another depicts the foul body odor and shoddy negligence
of Jewish butchers. (How could this be, with all the precautions
they take to make meat kosher?) Another, the disadvantages of being
swindled by a lawyer, who solicits from his clients a constant flow
of flour, fresh eggs, and veal cutlets. After a year of this, the
clients have lost their case but the Jewish lawyer "weighs two hundred
and forty pounds." Yet another depicts the opportune expulsion of Jewish
professors as a relief for the children: "We want a German teacher;'
shout the enthusiastic pupils, "a joyful teacher who knows how to play
with us and maintain order and discipline. We want a German teacher who
will teach us common sense." It is difficult not to share such aspirations.
What can one say about such a book? Personally
I am outraged, less for Israel's sake than for Germany's,
less for the offended community than for the offensive nation.
I don't
know if the world can do without German civilization, but I
do know that its corruption by the teachings of hatred is a crime.
[1937]
Jorge
Luis Borges: Selected Non-Fictions, Penguin Books
Người dịch: Suzanne Jill Levine
*
Note: Tình cờ vớ được bài
trên, Sư
Phạm của Hận Thù, đọc, Gấu bỗng nhớ đến bài viết
Còn Lại Gì? của PTH, thí
dụ, những đoạn dậy toán bằng đếm xác Mỹ Ngụy...
I don't know if the world can
do without German civilization, but I do know that its corruption
by the teachings of hatred is a crime.
Cái việc dậy
con nít hận thù là một tội ác.
Cái sự thắng trận và băng hoại sau đó,
chính là cái tội ác vì dậy
con nít thù hận.
Phạm Thị Hoài
Còn lại gì
Như mây đã sẵn ở trên trời, lúc
tôi sinh ra chiến tranh cũng đã sẵn. Tôi
không phải làm quen với nó, nó phải
làm quen với sự xuất hiện của tôi. Mười lăm năm,
ngày ngày ngửa mặt ngắm chiến tranh chầm chậm trôi,
tôi không là một đứa bé bất hạnh. Những
đám mây ấy phần lớn đều mầu hồng. Thỉnh thoảng có
đám mây giông, nhưng chỉ để mầu hồng sau đó
càng rực rỡ. Ngay cả khi chiến tranh ở nơi sơ tán là
chùm bom lao vùn vụt, nhanh hơn mọi vật biết chuyển động
mà tôi từng biết cho đến lúc ấy; ngay cả khi chiến
tranh là những cánh tay và khúc chân
rơi rải rác mà lúc đi nhặt tôi cố đoán
chúng từng thuộc về bạn nào, lớp nào..., thì
với tôi, sinh ra và lớn lên tại miền Bắc Việt
Nam những năm sáu mươi và bảy mươi, chiến tranh tự
nhiên thuộc về cuộc sống, là phần tươi hồng của cuộc
sống. Gắn với cuộc chiến ấy, cái chết cũng lấp lánh,
cũng nháy mắt hẹn ngày mai gặp lại. Nếu không có
thay đổi gì đặc biệt, lúc tôi ra khỏi cuộc đời
thì chiến tranh hẳn vẫn bình thản trôi tiếp,
như mãi mãi là thế, như mây trên
trời.
Mùa
xuân năm 1975, từ giữa tháng Ba với Buôn
Ma Thuột, mỗi buổi sáng trước giờ khai giảng một học
sinh tiên tiến được vinh dự cầm cây cờ đỏ sao vàng
bé xíu lên cắm trên tấm bản đồ đất
nước, đúng ở điểm vừa được giải phóng, vừa “hoàn
toàn thuộc về ta“. Huế 26.3, Đà Nẵng 29.3, Phan Rang
16.4, Xuân Lộc 21.4... Mầu đỏ san sát, tiến ào
ạt xuống phiá Nam
tới mức tôi sợ đến lượt mình thì không
còn đất cắm. Ngày 27.4, cầm lá cờ làm
bằng giấy mầu và tăm tre tiến vào Bà Rịa, tôi
cũng khóc như bao người, nhưng không phải nước mắt
của chiến thắng. Tôi có biết gì đâu về
cái giá của chiến thắng. Đó là nước
mắt của chia tay. Chiến tranh đã làm quen với tôi,
nay tôi phải làm quen với sự ra đi của nó. Ai
sẽ thay nó, nháy mắt chào? Còn lại gì,
sau chiến tranh?
Một
thập kỉ hậu chiến với chế độ phân phối thời chiến,
nếp sống hà khắc thời chiến, tư duy sắt đá thời
chiến, xung đột quân sự ở biên giới phiá Tây
với Cambodia, xung đột quân sự ở biên giới phía
bắc với Trung Quốc và sự tiếp diễn của chiến tranh lạnh
đã biến nền độc lập dân tộc vừa giành được
thành sự cô lập quốc tế, biến đất nước vừa thống nhất
thành một lãnh thổ toàn vẹn của nghèo đói,
lạc hậu và đàn áp từ Bắc chí Nam. Sống ở
Hà Nội đầu những năm tám mươi, tôi đã hình
dung mình sẽ sinh một đứa con, và nó sẽ mở đầu
lí lịch bằng câu: Như mây đã sẵn ở trên
trời, khi tôi sinh ra hậu chiến cũng đã sẵn. Ngày
ngày cúi mặt cho những đám mây hậu chiến
mầu chì chầm chậm trôi... Nhưng giữa thập niên tám
mươi, chính sách Đổi mới bắt đầu. Những người chiến
thắng phải mất mười năm để nhận ra rằng vinh quang không phải
là thứ nhai được thay cơm. Năm 1994, lệnh cấm vận thương mại
với Việt Nam
được bãi bỏ, tiến trình bình thường hoá
quan hệ Việt-Mĩ bắt đầu. Nước Mĩ mất hai mươi năm để kí giao
kèo hoà thuận với quá khứ của chính mình.
Với Mĩ, chiến tranh Việt Nam
đã hoàn toàn thuộc về lịch sử. Nó chỉ còn
được dùng bốn năm một lần làm phép thử không
mấy hiệu nghiệm cho lòng ái quốc và tư cách
đạo đức của các ứng viên tổng thống, hoặc để đối chiếu
với những cuộc chiến khác mà Mĩ đã và
có thể sẽ bận bịu tiến hành. Ba mươi năm sau, người
ta nói ngắn gọn: Lịch sử đã lên sẹo, hãy
cho nó được nghỉ yên, không có lí do
gì để khai quật những chứng tích chẳng còn liên
quan đến hiện tại. Hãy nhìn về tương lai.
Tôi
thuộc về số - có lẽ là thiểu số - những người
không dễ dàng tuyên bố như thế. Ba mươi
năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên
đầu tăm mà tôi cắm vào Bà Rịa trở
nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng,
4 triệu dân thường, 1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu
trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa, hàng
chục triệu người chịu thương tích thể xác và
tâm hồn, 76 triệu lít chất độc hoá học và
13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch
sử, tôi không khai quật những con số. Nhưng các hậu
quả trầm trọng nhất của cuộc chiến tranh đạt những kỉ lục không
thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên,
đơn giản vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh
sách các hậu quả cần khắc phục.
Kết
cục của chiến tranh Việt Nam là sự toàn
thắng của những người cộng sản. Cuộc chiến ấy là nguồn sữa, trường
học và hòn đá thử của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, là
lời biện minh của lịch sử cho quyền lãnh đạo tất yếu của Đảng Cộng
sản, là bằng chứng của sự hoàn thành một Thiên
mệnh. Chủ nghĩa cộng sản đã tìm được con đường đặc biệt của
nó tại Việt Nam để lên ngôi:
thông qua một Thiên mệnh đặc biệt đẫm máu. Song chiến
tranh thì đã qua, Thiên mệnh vẫn còn lại. Từ ấy
đến nay, tính chính đáng của ba mươi năm trước được
ôn lại ráo riết, được khẳng định bền bỉ, được chân lí
hoá và thần thánh hoá; những anh hùng
thời chiến tiếp tục giành độc quyền chỉ huy thời bình; chế
độ chỉ đạo quân sự trong chiến tranh thăng hoa trọn vẹn vào
chế độ lãnh đạo toàn trị trong hoà bình. Hơn
ai hết, Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu rõ rằng mọi thứ đều có
thể đối mới, nhưng huyền thoại về Thiên mệnh ấy không được phép
suy suyển, bởi mọi lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản hoặc đã
bị bản thân những người cộng sản đang cầm quyền phản bội mà
không một lời tự xin lỗi, ít nhất trước chính mình,
hoặc đã hoàn toàn phá sản. [1] Chẳng lẽ có
thể xếp cuộc chiến tranh ấy vào hồ sơ của một giai đoạn lịch sử, nhưng
giấy ủy nhiệm của giai đoạn lịch sử ấy thì giữ vô thời hạn cho
riêng mình? Tại Việt Nam ba mươi năm sau chiến tranh, những
giá trị nền tảng của văn hoá Việt truyền thống đều đã
mất hiệu lực, những giá trị cao cả nhất của lí tưởng cộng
sản đã trở thành trò hề, những giá trị căn bản
nhất của mô hình dân chủ xuất phát từ phương Tây
chưa tìm được chỗ đứng, và những giá trị tích
cực nhất của một thế giới toàn cầu hiện đại chưa thành hình.
Nạn tham nhũng, tình trạng phạm pháp, sự băng hoại đạo đức
và nhân cách, sự sụp đổ của hệ thống y tế và giáo
dục, đà tăng tiến chóng mặt của bất bình đẳng xã
hội, quả bom nổ chậm của xung đột sắc tộc và tôn giáo,
nguy cơ hỗn loạn từ một nông thôn khổng lồ hoàn toàn
bị bỏ rơi, sự tàn phá và ô nhiễm môi trường,
sự nghèo nàn thảm hại của đời sống tinh thần, sự tê
liệt của tầng lớp trí thức, sự vô hiệu hoá khả năng
liên kết của các tầng lớp xã hội, sự khủng hoảng niềm
tin và thiếu vắng hi vọng..., trước tất cả những vấn nạn đó
của thời hậu cộng sản, chế độ toàn trị tại Việt Nam đã có
đủ thời gian và cơ hội để chứng minh xuất sắc rằng mình không
còn thẩm quyền, và nhất là không còn độc
quyền đưa ra giải pháp. Chẳng lẽ có thể tiễn cuộc chiến tranh
Việt Nam vào bảo
tàng, nhưng đi theo chế độ toàn trị Việt Nam vào
tương lai? Chẳng lẽ cái giá xứng đáng cho hoà
bình là một nền độc tài?
Kết
cục của chiến tranh Việt Nam không phải là sự
sụp đổ của Hợp chúng quốc Hoa Kì, mà là
sự tiêu vong của Việt Nam Cộng Hoà, quốc gia từng
hiện diện trên một nửa lãnh thổ Việt Nam không
kém hợp pháp hơn người anh em của nó ở phiá
Bắc, và - bất chấp tất cả sự thối nát của những nội
các cụ thể, sự bất lực của các nhân vật lãnh
đạo cụ thể - là nhà nước đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam thiết lập trên những nguyên tắc căn bản của nền
dân chủ hiện đại. [2] Tôi sẽ không bao giờ gột nổi
thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức hình nổi tiếng của Eddie
Adams ra khỏi trí nhớ, và những lời nói sau của
người phóng viên nhiếp ảnh ấy chỉ tô đậm đường nét
bi kịch quái đản mà Orina Fallaci đã phác hoạ
sau buổi gặp giữa bà và ông Giám đốc Nha Cảnh
sát Sài Gòn, người yêu hoa hồng, Brahms, Chopin,
khinh bỉ nghiệp võ biền, ví một nhà sư tự thiêu
trong phong trào Phật giáo phản kháng với một con
chó say ma tuý và coi Việt Cộng là một lũ
trẻ hư đáng bị ăn đòn [3] . Nhưng nhà tù,
trại cải tạo, tước đoạt tài sản, kì thị trẻ em lai, phân
biệt đối xử và thanh trừng trí thức, huỷ diệt và
cấm đoán các sản phẩm văn hoá văn nghệ, xoá
trắng hàng loạt cuộc đời và sự nghiệp... ở quy mô
bao trùm toàn xã hội miền Nam ngay sau ngày
giải phóng nhất định không phải là những hành
vi xứng đáng với tư thế của kẻ chiến thắng trong chính nghĩa,
không phải là bằng chứng cho tính ưu việt của chế độ
mới so với chế độ mà nó vừa kết liễu. Ba mươi năm sau, Việt
Nam
vẫn chưa một lần chính thức ghi nhận cuộc di tản đau thương của
gần một triệu người Việt miền Nam. Như thể họ không
thuộc về dân tộc Việt và khối đại đoàn kết dân
tộc đã khai trừ họ. Như thể nước Việt
Nam
là của những người Việt này và không
của những người Việt khác. Như thể lúa đã mọc
lại trên chiến hào ra sao thì tình dân
tộc ắt bắt rễ trên miệng hố sâu của chia rẽ và
hận thù như thế, chẳng cần ai khoả lấp. Người ta dễ dàng
nói ngắn gọn: Vết thương đã ăn da non, đừng ngoáy
sâu vào nữa. Nhưng đó không là vết
thương. Đó là khối u mà thời gian không
hề là phép chữa nhiệm mầu. Ngược lại. Sự chia cắt dân
tộc là điểm xuất phát của cuộc chiến, chẳng lẽ điều còn
lại ba mươi năm sau chiến tranh vẫn là chia cắt? Làm sao
có thể hoà giải, nếu không sám hối và
tha thứ? Làm sao có thể khép lại quá khứ,
khi người Việt và người Mĩ đã có thể chìa
tay cho nhau, nhưng người Việt tiếp tục không chìa tay
cho người Việt?
Ba mươi
năm nay, với mỗi ngày một lòng biết ơn không thuyên
giảm tôi làm quen với hoà bình.
Nhưng những cái bóng đen nhất mà chiến
tranh Việt Nam hắt lại vẫn còn
đó. Vẫn chầm chậm trôi, như mãi mãi
là thế, như mây trên trời. Nếu không có
thay đổi gì đặc biệt.
(Phần
chính của bài viết này đã đăng
trong bản dịch tiếng Anh ngày 29.4.2005: http://www.opendemocracy.net/themes/article-1-2464.jsp)
© 2005 talawas
[1]
Tôi muốn dành chú thích này
để bày tỏ lòng tôn trọng với những người
cộng sản còn giữ nguyên ước mơ về một thế giới đại
đồng, lòng kính trọng với những người cộng sản đã
ngã xuống cho ước mơ ấy, lòng cảm phục và hi
vọng với những người cộng sản phản tỉnh và li khai đường lối
toàn trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
[2]
Nhận định này không đồng nghĩa với việc chia
sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà
như thường thấy ở không ít cộng đồng người Việt tị
nạn. Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có
thể viết lại.
[3]
Orina Fallaci, Niente e cosí sia, 1969, chương 3,
ngày 17 tháng 12.
Sến phán, cực
bảnh:
Nhận định này không đồng
nghĩa với việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi
Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít
cộng đồng người Việt tị nạn. Lịch sử không thể làm
lại, mặc dù có thể viết lại.
Đọc văn Sến, thì Gấu bỗng nhớ dến
1 cái mail của 1 vị độc giả Tin Văn, thời gian Gấu,
như 1 con sói đơn độc bị cả 1 bầy chó xúm
lại tính làm thịt, ở, hơn 1 diễn đàn trên
lưới, nào Chợ Cá Bá Linh, nào Đàn
Chim Vẹt, nào Hạ Bộ, nào Da Vàng. Vị này
nhận xét, giọng văn của mi tếu táo, làm ra vẻ
phách lối, mất dậy, nhưng thực sự không phải như vậy.
Tks.
Gấu sợ văn của Sến, giả như gặp vị này,
chắc “không được an ủi như vậy”!
Cái chuyện vực dậy xác chết
VNCH, như Sến phán, không hề có, giả như
có, cũng vô phương. Xã hội Miền Nam, sau
khi bị Bắc Kít đô hộ, đã không còn
như trước nữa, đó là sự thực. Sở dĩ VNCH được như
vậy, là nhờ xã hội Miền Nam, khi có chế độ VNCH.
Người dân nhớ, và thèm, cái nền tảng,
cái quá khứ đẹp đẽ đó, không phải VNCH.
Sến không đọc ra cái nhớ cái thèm, lại
tưởng là họ muốn vực dậy 1 cái xác chết!
A Critic at Large
The military
historian Max Boot takes on the counter-insurgency
maven Edward Lansdale.
By Louis
Menand
This article
appears in the print edition of the February 26, 2018,
issue, with the headline “Made in Vietnam.”
Note:
Tờ NY điểm cuốn viết về Trùm Xịa ở Miền Nam ngày nào.
Nhiều người đọc Graham Greene, và
nghĩ tiền thân của Người Mỹ Trầm Lặng, là
Lansdale.
Không phải. Nguồn của Người
Mỹ Trầm Lặng rắc rối hơn nhiều, như trong cuốn tiểu
sử của ông cho thấy.
"Đại tá Edward Lansdale -
người được coi là khuôn mẫu cho nhân
vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass
Một anh
Xịa cáo già như Lansdale làm sao
lại có thể là nguyên mẫu cho một Mẽo
gà mờ cù lần như nhân vật Pyle trong Người
Mỹ Trầm Lặng?
Như Norman Sherry cho thấy, Pyle
là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale
trong số đó. Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là
một anh Hồng Mao: Pyle is straight out of a good quality public
school - in essence he is
English.
Có thể Ẩn giống Pyle, theo
nghĩa này, bản chất của anh là một Cộng Sản. Một người Bắc
vô Nam trước 1954 và là một Cộng
Sản, làm việc cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác
biệt giữa Trung [phi công ném bom Dinh Độc Lập]
và Ẩn.
Trung là một con người, với
lòng hận thù rất con người của anh. Có
thể, chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này:
Tụi bây giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo
Cộng Sản, chủ nghĩa đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc
chắn, nhờ nó, tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù
hằn gì cái miền đất đã nuôi
dưỡng anh, nhưng, có thể, anh tin rằng, miền đất này
sẽ còn khá hơn thế nhiều, nếu nó được
Bác và Đảng chăm lo. Cái tay Hoàng
Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào Tháo
đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên phản quốc
khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã
nghĩ như vậy, khi "nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả
đò làm việc cho Mẽo, nhưng thực tình thì
là một con ngựa Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm
sự của anh là như vầy:
Từ thuở
mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng
Long!
The Spy Who
Loved Us: Tên Điệp Viên Thươn[g] Chúng Ta.
Ẩn dẫn tôi
qua vườn của anh, một khu vườn nhiệt đới xum xuê
hương hoa cây trái. Dõi theo chúng
tôi, từ bên trong mấy cái chuồng dưới gốc
cây, là một con diều hâu, thứ chim cắt chuyên
săn mồi, và ba con gà chọi của Ẩn. Chúng
tôi ngừng ở giữa vườn để ngắm một bức tượng, bằng sành,
một trong những chú chó săn cừu nòi Đức thân
thương của Ẩn. Ẩn nói, anh học cách dùng
chó trong tình báo từ một tay Xịa: Đại tá
Edward Lansdale - người được coi là khuôn mẫu cho
nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene.
“Tôi huấn luyện chúng, để chúng có thể
báo động, khi mấy anh cảnh sát xét nhà,
khi còn cách xa cả kí lô mét.”,
Ẩn nói. "Nó là một điệp viên tốt".
Bass: The Spy Who Loved Us
Chuyện mấy anh Mẽo hay nhắc tới
Greene khi viết về Ẩn, và Ẩn, khi thú nhận,
mình học từ ông thầy Xịa cách luyện chó
để trị cảnh sát, tất cả đều có nguyên nhân
sâu xa của chúng.
Norman
Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc Đời Greene, của ông,
có đưa ra nhận xét, anh phóng viên
Mẽo nào, trên đường tới Việt Nam, vào
những năm tháng nóng bỏng đó, đều lận
lưng một bửu bối, là cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là
một thứ tự truyện, Cõi Khác, Gấu đã
lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng viết một
cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc
dáng Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn"
như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn
thường tra vấn mình, và sau cùng, nhân
đọc một số tác giả, trong số đó, có Steiner,
Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn,
sau Đệ NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt
Trận Miền Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn
chấm dứt thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như
cuốn của ông. (1)
Đây là điều những nhà
phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc
Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và coi nó
cao hơn Mặt Trận Miền Tây. Cao hơn không phải là
do Bảo Ninh có tài hơn, mà là,
chiến tranh, con người, ở trong Nỗi Buồn Chiến Tranh khác
với chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong Mặt Trận
Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số
phần của Greene, là phải viết Người Mỹ Trầm Lặng.
Những so sánh nhắc nhở tới ông, là vì
ai cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất,
và, thất bại rõ rệt nhất, là trường
hợp cuốn Thời Gian Của Người của Nguyễn Khải. Nó thất
bại, là do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng, theo nghĩa,
lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con
người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như
là một tên điệp viên. Nó thiếu cái
phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn
Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải],
khi ông tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một
tôn giáo để đo lường cái phần quỉ
ma ở nơi tôi”.
Nhân vật Quân [hoá
thân của Ẩn,] trong Thời Gian Của Người "thánh
thiện quá" [theo nghĩa thép đã tôi
thế đấy], nhà văn như Nguyễn Khải, một lòng một
dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng của Đảng, thành
thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói.
[Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].
Một
cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm
Lặng có một vị thế [position,status], của cuốn Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó,
vụ án của thế kỷ.
Tuyệt!
Gấu [tự
xoa đầu Gấu!]
*
(1) ... Steiner, đã chỉ ra
sự khác biệt của văn chương Tây Phương, giữa
hai Cuộc Chiến Lớn. Cuộc chiến 1914-1918 đưa tới những tác
phẩm cổ điển như "Thôi Đừng Diễn Hành" (No More
Parades), của Ford Madox Ford, "Lửa" (Feu), của Barbusse, "Phòng
Lớn" (Enormous Room) của Cummings, "Giã Từ Vũ Khí"
(Farewell to Arms) của Hemingway, âm hưởng chiến trường và
thái độ của người dân ở chương cuối của Proust. Những
tác phẩm lớn về thảm họa thứ nhì là phóng
sự và chứng nhân tức thời: "Bay Đêm" (Vol de
Nuit) của Saint-Exupéry, "Hiroshima" của Hersey, "Nhật
Ký" của Anne Frank, "Ghi Chú từ Ghetto Warsaw" của
Emmanuel Ringleblum. Không một nhà thơ, không
một tiểu thuyết gia nào, cho tới nay, có thể đem đến
cho thực tại trại tập trung, sự sáng suốt nghiêm ngặt,
làm chủ kinh nghiệm, như là chúng ta nhận thấy
ở trong nghiên cứu xã hội "Trái Tim Biết" (The
Informed Heart), của Bruno Bettelheim. Giả tưởng
ngậm câm trước tính lớn lao của sự kiện; trước uy quyền
lồng lộng như thế, chỉ có phóng sự không hoa hòe
hoa sói mới có thể làm bật ra được.
[Đọc
Đó Đây của Trúc Chi]
Coezee, Portrait
Tính tằn tiện dã
man của J.M. Coetzee
Ghi chú về 1 giọng văn:
Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm,
không có tí mỡ, và đe dọa.
Đọc Coetzee thì như bơi
trong 1 biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng
dội từ bờ, mới hung bạo làm sao. Những câu
văn của ông thì còm cõi, những
đề tài, đe dọa [Trên tờ TLS Gấu mới đọc, kiếm
hoài không thấy trong mớ sách báo,
1 bài viết về ông, theo đó, hai đề tài
chủ yếu của ông là race and rape, sắc dân
và hiếp dâm]: quyền lực, sắc dân, quyền của
thú vật, và thú tội. Trong những tác
phẩm sau này, có sợi chỉ tôn giáo và
cứu chuộc. Cuốn tiểu thuyết mới có tên “Tuổi thơ
của Chúa Ky Tô”.
Sinh tại Nam Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi
mươi đau nỗi đau nôn mửa, khi đối diện trang sách
trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng
tinh – Cơn bịnh bớt đi, khi, vào năm 1974, ông
cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Dusklands”. Kể từ đó,
ông viết những tác phẩm thấm thiá về thời kỳ
phân biệt, và hậu phân biệt chủng tộc – bao
gồm “Đời và Thời của Michael K” (1983) và Ô
Nhục, Disgrace
(1999), cả hai đều đợp Booker Prize, cũng
như là những tiểu thuyết quá tiểu thuyết đến
trở thành những tiểu luận, và những hồi ức, memoirs,
quá memoir đến trở thành tiểu thuyết. Ông
đợp Nobel năm 2003.
Trước khi là tiểu thuyết gia, thì là
1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và
câu văn của ông sáng lên nhờ
cái vẻ khắc khổ, và, trong sáng. Vài
chuyên gia phê là cứng quá,
cằn cỗi quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như
Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn “qua 1 xứ sở còi
cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt
vọng”.
Quyết định Chìa Khóa
Đi Mẽo [Austin, Texas]. Vào
năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái
luận án Tiến sĩ. Ở thư viện đại học, ông
vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết “Watt” của
Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm
thấy rồi! Beckett đem đến cho Coetzee một “sound” [âm,
vọng, tiếng, giọng…] Bạn có thể nghe thấy nó,
rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong
những độc thoại "xa rồi, xưa rồi, diễm ơi, nhạt nhòa như
mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977).
Bài học quan trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế,
cố nén. “Tư tưởng thì như con chó thèm
cục kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh
như con chó chạy rông ven bờ], Coetzee viết, “văn
xuôi thì như sợi dây [kìm con chó]
Luật Vàng
Keep it spare [Giữ riêng ra, thật
chặt]. Sợi dây dẫn chó trở thành
cái thòng lọng, và ông
bèn xiết thật chặt, trong Ô Nhục,
đẩy nhân vật của ông, giáo sư David Lurie,
vào đống lửa, bằng, chỉ 1 câu văn: “Quẹt cây
diêm đánh dzẹt 1 phát, và thế là
ông bèn ngập trong một biển lửa, xanh, lạnh”. Nhưng
sợi thòng lọng rung lên, như người đọc run lên,
theo từng trang sách, cùng với những đề tài
khủng khiếp và quyền lực của chúng: “Tôi
ngập ngụa trong ô nhục đến không làm sao cất mình
ra khỏi”, Lucy sau đó nói.
Điểm mạnh
1. Đại từ.
“Tôi”, hay “anh ấy” thì
là những từ đơn giản, ngoại trừ dưới tay
Coetzee, khi ông sử dụng tới chúng. Tuổi thơ, "Boyhood"
(1997), Tuổi Trẻ,
"Youth" (2002), Hạ Thì,
"Summertime" (2009), thì đều là
những tác phẩm tự thuật. Hai cuốn đầu, viết bằng
ngôi thứ ba, thời hiện tại. Trong cuốn thứ ba, Coetzee
ngỏm.
Trò chơi đặt
ra những câu hỏi nghiêm trọng:
Chúng ta biết,
nhiều như thế nào, về chúng ta?
Nghĩa là gì,
nói... sự thực?
2. Hình thức. Thể
dạng.
Xiêu vẹo tới
đây hay tới đó, đó là
hồi ký, đó là Coetzee viết những ẩn
dụ, và thư từ. Trong Nhật
Ký Năm Xấu, "Diary of a Bad Year" (2007),
ông chia 1 trang ra thành 3, mỗi trang nhỏ như thế
treo 1 dòng kể. Kết quả, 1 tẩu khúc cho ba
giọng.
Re:
Tiếng Anh mới tinh [còn trinh] của những đấng
Bắc Kít vs Tiếng Anh có mùi bồi Mẽo
của lũ Ngụy.
Chúng rất khác
nhau. Đừng nghĩ là thằng Gấu khốn nạn, khi
viết như thế, cố tình gieo thêm hận thù
giữa hai miền. Đây là 1 đề tài rất
ư nghiêm chỉnh, Gấu mới ngộ ra, nhân đọc cuốn “Phịa
ra kẻ thù”, “Inventing the enemy” của Eco. Từ từ trình
tiếp
Trên tờ NYRB, Oct 27,
2011, có bài viết, mới tìm thấy, đăng lần đầu, một
tiểu luận của Saul Bellow, “Một nhà văn Do Thái ở Mẽo”, “A Jewish Writer in America”. Ðọc
loáng thoáng trên subway trên đường về nhà,
thấy câu này, thứ ngôn ngữ lưu vong không thể kéo
dài mãi mãi được, the language of the Diaspora will
not last, GCC bỗng nhớ đến những bản nhạc “lưu vong”, “bầy chim bỏ xứ” của
PD, thí dụ, và tự hỏi, PD về rồi, nhà nước OK rồi, và
từ từ sẽ cho hát hết những bài nhạc của ông, nhưng, “bầy
chim bỏ xứ”, thì sao?
Hà, hà!
Căng dữ hà!
Bài viết của Saul
Bellow mới đăng phần đầu. Còn 1 phần nữa. Ðọc
thú lắm. Cũng nhắc tới cái từ thật đểu
để chỉ đám Pháp lai, métèque,
khách trú, dịch sang tiếng Anh, outsider,
resident alien.
Bên Da Màu,
trong bài “lại nói chuyện về thơ”
của cây viết Phan Xuân Sinh có đoạn:
... Phạm Duy có gặp một
số anh em văn nghệ tại Boston, trong cuộc gặp
gỡ nầy có người hỏi Phạm Duy là: “Anh
phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ, có hai thi sĩ lớn như
Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên.
Sao anh không phổ thơ của họ?” Phạm Duy trả lời: “Hai
ông nầy thơ hay thật, thế nhưng thơ của hai ông
lý trí quá khó phổ thành
nhạc được.” Nói thế để chúng ta biết rằng thơ hay
chưa chắc làm rung cảm được người đọc...
Source
PD phán
như thế, theo tôi, là đúng, thực,
theo suy nghĩ của ông, chứ không nhằm che đậy
gì hết. Nhạc PD thiên về tình cảm,
thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ lụy, thí
dụ, giai thoại ăn chè Nhà Bè, nhờ đó
mà dân Mít được thưởng thức bản nhạc phổ
thơ MDHT], không phải thứ tình cảm thanh cao như
trong thơ TTT, hay TTY. Ðây là do cái
tạng của ông, và có thể cũng là do yêu
cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc. Những bài
thơ phổ nhạc của TTT, TTY không có nhiều thính
giả, những nhạc sĩ phổ thơ của TTT, là bạn thân ngoài
đời của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho nên
phổ nhạc thơ của ông.
PD đâu có thuộc
cái giới đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ
nhạc của TTT hay của TTY muốn nhắm tới cái
gọi là không còn chủ âm
trong nhạc, hay tới thứ âm nhạc không
cần lời.
Vấn đề này
lớn quá, chỉ nêu ra đây, như là
1 đề xuất, đặt viên gạch, rồi tính sau.
...
đặt viên gạch, rồi tính sau.
Sách
& Báo
Mới
Introduction
Animalia is the Latin term for the animal kingdom,
and the most powerful animal in that diverse group of
sentient beings is Homo sapiens. Humans in turn have created
new forms of life - or 'life' - known as robots. The term derives
from the Czech robota, denoting drudgery or forced labor, and
was coined in the 1920 play R.U.R. by Karel Capek.
Some robots are builders and some are
servants. The latter are still new, and tend to be gendered:
the 'males' seem often designed to be small and chirpy,
the 'females' to be attractive. The latter are bland machine-creatures
who speak and try to understand. Like the Stepford Wives they
have no emotions, we assume, but perhaps the tangles of logical
thought they are capable of produce after-effects, some kind
of gravel in the system which may be akin to feeling. We know
where that thought goes. As Capek wrote, 'Robots of the world! The
power of man has fallen! A new world has arisen: the Rule of the
Robots! March!'
Animals are rarely part of science fiction,
but we live in the future now, and animals are still with
us. What effect will the age of robotics have on our relationship
with them? Will we still breed animals for food and for experimental
purposes? Will we genetically enhance our pets? Will robots
of the future be animal-based, if the inventors (and investors)
can get past the ethics committees? Will we see hybrid machine life,
gene-edited lambs singing in Alzheimer care homes, purring kittens
kneading preset patterns on human laps, beautiful nightingales
and hummingbirds switched on and off at will? We don't know -
but we do know this: we are transcending animalia. Our lead piece,
'The Taxidermy Museum' by Steven Dunn, is part of a longer work
made up of a number of fictional interviews, mostly with soldiers,
adding up to a surreal and compelling indictment of the US military
machine. In this excerpt, a taxidermist explains the process of
mounting the bodies of soldiers who have died in war (often, we can't
help but notice, from suicide or friendly fire) in military dioramas.
The distinction between humans and animals is erased, and no one really
notices. We end with Joy Williams's bleak and funny animal allegory.
'Be not afraid and be not lonely, Wilhelmina thought, but couldn't bring
herself to say it. She wanted to reflect on her pretty piglets but night
had fallen and she and her friends were once again hopelessly caught
up in trying to comprehend the terrible ways of men.'
As are we all.
In between Dunn and Williams we have
a number of dystopian and/or humorous short stories. Christina
Wood Martinez writes about a mysterious astronaut landing
in a small American town. Yoko Tawada describes a futuristic
Japan, a poisoned world without wild animals, Cormac James's
disturbing short story contemplates the destruction of marine
life. Ben Lasman imagines professional rat hunters in dystopian
America and Nell Zink has written an allegorical tale about immigration
and incarceration.
But there is more, of course. Arnon
Grunberg embeds himself in slaughterhouses in Holland and
Germany, Cal Flyn goes deer stalking in the Scottish Highlands
and Aman Sethi investigates rumors about village responses
to a man-eating tiger on the outskirts of a nature reserve
in Uttar Pradesh. Adam Foulds meditates on swifts and perspective
and John Connell remembers life on a small Irish farm. We have
three photoessays, poetry and some shorter pieces, too.
Most of the issue is about the transition
to the future. But what if you were given a puppy, a tame
evolved being, and it revealed its wild nature? Nadeem Aslam
tells the story. There were moments of anger, he writes, 'something
electric spilling into the air from him, his teeth bare with hate
for me or for what I represented.'
What did he, and all of us, represent?
Dominion over animalia, presumably. Displacement and destruction.
+
Sigrid Rausing
Bài Intro, và cả số báo, về loài
vật, đọc thú lắm. Từ từ, GCC sẽ dịch, và
giới thiệu 1 vài mẩu ngăn ngắn. Khi Đông Phương
lấy mấy con thú tượng trưng cho 12 tháng trong
năm, liệu họ đã tiên liệu ra, 'Robots of the world!
The power of man has fallen! A new world has arisen: the Rule
of the Robots! March!'
Như Marx đã từng hô hoán,
Debout,
les Damnés de la terre,
Vùng lên hỡi những kẻ trầm
luân
Rô Bô Của Thế Giới, Hãy Vùng
Lên!
Quyền Lực của con người đã cáo
chung!
Chú thích hình:
Cast of a Dog Killed by the Eruption of Mount Vesuvius,
Pompeii, c. 1874
© THE J PAUL GETTY MUSEUM
Granta 142: Winter 2018
Animalia
https://granta.com/issues/granta-142-animalia/
Mừng năm chó, tờ Granta số mới nhất đi 1 đường
về Animalia.
https://granta.com/issues/granta-142-animalia/
https://granta.com/dog/
Chuyện chó của Mít, bảnh nhất, theo
Gấu, là của Nam Cao, "Lão Hạc", nhớ đại khái, và
nó mắc mớ đến xứ Đàng Trong và cơn đói dài
4 ngàn năm của xứ Bắc.
Nhớ luôn nhận xét của 1
vị bằng hữu thân thiết của Tin Văn. Bà cho biết,
mấy cơ quan nhận trẻ em mồ côi rất sợ nhận những đứa trẻ
bị bỏ đói lâu quá, vì não bộ
của chúng bị ảnh hưởng nặng nề...
UI chao, nếu thế thì đói 4 ngàn
năm khủng khiếp cỡ nào!
Hà, hà!
Nửa thế kỷ xa xứ Bắc, năm 2001, Gấu trở lại, mang
về đủ thứ kỷ niệm về cái đói, và lẩm bẩm tự hỏi thầm,
không biết bà chị của Gấu có còn nhớ.
Bà nhớ đủ hết.
Nhưng với thằng em, nó trở thành
những viên ngọc quí, còn với bà
chị, nó là những hòn chì bà
nặng nề đeo theo suốt cuộc đời, không làm sao rũ
đi được.
Nhớ,1ần bà cụ đi buôn bán
xa, bà chị lấy gạo nấu cơm, chắc là lấy
quá đô. Nồi đất. Gấu đang ngồi nhìn nồi
cơm sợ nó biến mất, bỗng thấy cái nồi từ từ nứt
làm đôi…
Nhớ hoài hoài, nhớ mãi
mãi!
Về những hòn chì, từ từ kể tiếp!
Vị bằng hữu phán, phục mi sát đất vì
những kỷ niệm thần sầu về cái đói!
Memo
“L'Express”, 15 & Avril 2015
Nhân vật Lara, một cách nào
đó, là bản gốc, “đẻ” ra những nhân vật như Phương,
trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh; Hà, trong Sau Cơn Mưa
của Lý Hoàng Phong; Thanh trong Bếp Lửa, của TTT.
Nếu không có bàn tay lông lá
của Xịa, Pạt chưa chắc đã được Nobel, và cuốn tiểu thuyết
của Pạt có thể cũng không nổi đình nổi đám
đến như thế, đúng như tờ báo Tẩy phán, XỊA là
“agent littéraire” của Pạt.
Bắc Kít không có thứ "traitre"
như Pạt:
Cái sự quảng bá cuốn sách, ký
bản án tử, cho Pạt, tên phản bội, sự ô nhục của
Niên Xô chúng ta. Nhưng chính Xịa làm
cho nó trở thành bất tử.
Và ở trung tâm của nó là Mắt Bão,
của trận bão có tên là Chiến Tranh Lạnh.
Cái thứ văn học, tác phẩm VC được
quảng bá ở Mẽo, do ổ VC ở Mẽo xb, những gì gì,
Nếu Đi Hết Biển, thí dụ, chỉ là kít. Ngay cả những
cuốn sách được lũ lâu la, bộ lạc Cờ Lăng, xb thì
cũng là kít.
Phải có 1 cái gì như Xịa trong vụ này,
mới được, và đấy là “khía cạnh mới mẻ nhất" của
cuốn sách ["Bác sĩ Zhivago"], trong lịch sử tình
báo.... như tờ báo Tẩy viết.
Note: Bài nói chuyện
về thơ sau cùng của TTT, trước 1975, có lẽ là bài
đọc trong ĐÊM THƠ VHC
Thơ là lời
và hơn lời
Tuyệt!
ĐÊM * THƠ
* VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TUESDAY, SEPTEMBER
21, 2010
Đoạn văn dưới đây là phần chính bài
nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm
Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng trà
Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền
Sự hiện diện của các bạn cùng chúng
tôi hôm nay là một cuộc tôn vinh cho thi
sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những cho riêng thi sĩ, người
suốt đời chỉ biết làm thơ - không biết, không thể
làm gì khác - mà còn cho tất cả mọi
thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc tôn vinh
cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ? Thơ quan
hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng ích chi mà
có những người để một đời như Vũ Hoàng Chương để theo
đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết - thật chăng? Có
lẽ cũng chỉ là một cách nói riêng của thi
sĩ. Riêng chúng ta có biết, chúng ta biết tận
trong thâm tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc
đẩy cuộc hội họp tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng
những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng ta biết
rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay:
“Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng
bỏ giống nòi khinh.” Chúng ta biết rằng khi mọi giá
trị thiêng liêng đều chẳng còn đáng gì,
đều bị liệng bỏ dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn lại.
Phải thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các
giá trị thiêng liêng. Không là giá
trị thiêng liêng - có bao giờ thơ như thế? - thì
nó vẫn ở cùng trong đời sống chúng ta - như lúc
này, giây phút này đây - và nó
đủ năng lực để cuốn đời sống chúng ta đến chân trời viễn
vọng. Thơ nhắc rằng chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống
với ta và sống với người.
Chúng ta còn có thể nói đến những
điều ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn có
thể vượt ra ngoài mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên
nói cho đến cùng (biết đâu là cùng?)
Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường của
kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát
bồi.
Và lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống
là Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người
rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào
đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh Hùng
Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây
quần nơi đây nào khác, như giữa đám rừng
dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và tiếng trống
kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời
chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng
gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi,
giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh
qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm
thơ, không biết và cũng không thể làm gì
khác. Giữa chúng ta có một vài người, như
Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm
phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa
đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách
phi lý ấy là chính chúng ta, cõi
phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm
nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng
bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong
chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối
duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì
vẫn là cái “không thể làm” được ở đời người,
ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà
lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự
thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của
thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng
Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ.
Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh
bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói
êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán”
đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không
gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta
không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi
đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng
ta trong giây phút này có biết chúng
ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết
- biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như
đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói
thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm
bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm
bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn
đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm
thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói.
Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là
lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần
nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng
Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
Một bữa, vào thời kỳ đó, giữa
thập niên 1950, Olga Ivinskaya nhận cú điện thoại từ
người yêu, Pasternak. Giọng ông nức nở, đứt đoạn, đầy
nước mắt.
Bà hoảng quá, hỏi dồn, "Chuyện gì, chuyện
gì?"
"Ông ta chết, chết, chết", ông lập đi lập lại.
Ông ta nói về Yuri Zhivago. Đó là
đoạn vị bác sĩ bị bịnh tim quật sụm trên xe điện Moscow,
(cũng không xa nơi sau này con trai của Pasternak bị chết)...
Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn luôn là
suy tư về cái chết từ đó đẻ ra đời sống.
Gấu bỗng nhớ đến cái chết của nhân vật Kiệt
trong Một Chủ Nhật Khác, của Thanh Tâm Tuyền.
Anh chàng này, may mắn được du học, nhưng ngu
si, bỏ về, và chết lãng nhách tại Đà Lạt...
Chương Zhivago bị quất sụm coi như chấm dứt "thời kỳ đó".
Như cái chết của Kiệt.
Không ai có thể ngờ, đời sống lại được bắt đầu
từ những trại tù.
Từ biển cả.
30.4.2015
Đêm chong đèn nhớ Trịnh.
Đọc
bài này, thì bất giác nhớ bài
thơ của Brodsky, “Gửi Con Gái Tôi”, và cái
ước mong, nếu Ông Giời cho tớ một đời nữa, thì tớ sẽ hát
ở 1 phòng trà.
Và tất nhiên, nhớ bài viết của Gấu về
TCS, có lẽ bài viết sớm nhất về chuyện ông đi xa,
và, bảnh nhất, theo Đặng Tiến.
Tuy nhiên, sau này, GCC khui ra, có hai
hình ảnh tuyệt vời nhất, về ông, một, từ nhạc của ông,
và một là từ thơ của Anna Akhmatova, cũng là để
nói về ông.
Một hình ảnh do Le Huu Khoa khui ra khi viết về ông,
trong Mảng Lưu Vong: Chim Thiêng hát lời Mệnh Bạc.
To My Daughter
Give me another life, and I’ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
Yet partly because no century
from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores,
varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower.
On the whole, bear in mind that I’ll be around.
Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always,
for they no doubt will judge you.
Love those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I’ll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines
in our common language.
1994
Gửi Con Gái Tôi
Cho tôi một đời khác,
và tôi sẽ đang hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn
cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng
cuộc đời trước.
Mà có lẽ, một
phần, là còn do điều này:
không một thế kỷ nào kể từ nay, mà lại
có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và
nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu chuyện đó, như cái bàn
cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ bụi bặm trên
mình,
ngắm con gái của bố, trong hai mươi năm, nở hết những
cánh hoa, và trở thành một đóa hoa rạng
rỡ.
Thôi thì thôi,
cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn cái ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố đó
nhất là khi chúng già nua, cồng kềnh,
kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy để mắt tới chúng
bởi vì, không nghi ngờ chi, chúng sẽ
cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó].
Yêu mọi điều, mọi chuyện
ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay
không gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng
vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành
lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô
héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...
Gởi con gái
tôi (Joseph Brodsky)
Cái
tít bài viết của Bọ Lập, là cũng từ 1 bản nhạc
của TCS, Huyền Thoại Mẹ.
Về những cuộc tình của TCS, nhiều thì nhiều
thực, nhưng theo ý riêng của GCC, đều không thực.
Thực, là khi xa nhau, họ đều cảm ơn Ông Trời,
đã cho gặp nhau, dù chẳng để làm 1 chuyện gì.
Và, 1 khi như thế, thì chỉ 1 cuộc tình,
là đủ cho 1 con người. Một khi nó sống thực cuộc tình,
thì những cuộc tình sau đó, nếu có, là
để lập lại – theo 1 nghĩa thật đẹp - cuộc tình thứ nhất, vưỡn
theo GCC, khi ngộ ra 1 lời phán về GCC, của 1 độc giả/thân
hữu/bạn văn.
TCS không có cuộc tình nào thực
cả. Đó là nỗi đau của ông, và nỗi mừng
của những người tình của ông, đau thế.
Em nào cũng khoe, đã từng yêu và
được Trịnh yêu, và đều mừng, vì... an toàn
sau cuộc tình.
Quá đau cho họ Trịnh!
Khác hẳn nhạc sĩ VTA. Hay PD. Cuộc tình nào
của những đấng này đều có cú làm ăn tới
chỉ cả.
Trong Một
Chủ Nhật Khác, khi Oanh từ chối cái hôn của Kiệt, - em
yêu ông thầy của mình, bèn gặp, để nói ra
điều đó, rồi bỏ đi - và Kiệt bèn quê, đếch thèm
làm gì cả, và khi Oanh đi rồi, em mới hiểu ra “chân
ní”, bèn đánh điện, “ới” 1 tiếng, là em lên
liền, thầy muốn “biên tập” - từ này của 1 em nữ thi sĩ ở trong
lước – thầy muốn làm gì thì… làm!
Thê lương nhất, là sau đó, khi nghe 1
cô bạn học, kể lại cuộc tình của Kiệt với Hiền, em thấy
đời mình thừa thãi, bỏ đi, mơ màng đã thành
đàn bà, đếch cần 1 thằng đàn ông nào….
biên tập!
Thê lương hơn nữa, là lần gặp gỡ sau cùng
của họ, ở 1 tiệm ăn, hình như thế, ở phiá bên ngoài, hay hành
lang rạp Rex. Oanh mua tặng Kiệt cái kèn, và chàng
mang về Đà Lạt, để chết. Bạn còn nhớ cái xen
Kiệt thổi kèn cho bạn là Duy nghe, trước khi “bị” ngỏm?
Quái là GCC cũng có 1 cú gặp
gỡ sau cùng với BHD, ở 1 quán, ở đâu đó,
gần Chợ Bến Thành.
Cuộc gặp gỡ của Gấu cảm động hơn nhiều, thực hơn nhiều.
GCC cũng kể đâu đó, vài lần rồi...
-C’est
ridicule, c’est formidable, c’est merveilleux… c’est toi. Oanh. Pleure
pas. Pleure pas.
Thật kỳ cục, thật kinh khủng, thật tuyệt vời, thật em. Oanh.
Đừng khóc, đừng khóc.
Đúng
buổi sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng
mới có quyết định đánh bức điện tín cho Oanh. Chàng
đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên
lỗ tai như tiếng sấm. Chàng viết bức điện tín, tay run
như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết, chàng nhớ đúng
như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ
người ta cứu tôi với. Kiệt. Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn
gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân
viên Bưu Điện vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt:
Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi điên
chớ, rõ ràng là tôi điên đây thôi.
–Ông nhất quyết gửi bức điện này? -Chớ sao nữa, còn
gì nữa. Tôi đang cần tiền, hết tiền tiêu rồi, phải kêu
kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc. Chàng ra khỏi
Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện
lại. Chàng ướt còn hơn buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa
hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ, và quyết
định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động,
dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.
Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình là cái quái
gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường,
thường hết, dễ sống. Không có ai là ghê gớm,
là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn chơi vậy. Em hiểu
không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng
một đồng bạc cắc. Anh đâu có thiết yếu cho em, mà
em đâu có thiết yếu cho anh.
Oanh như bị cái tát trái, tá
hỏa, cứng đơ. Nàng run rẩy lắp bắp không thành
lời.
-Em nghe cho thật kỹ đây. Kiệt như thể được đà.
-Với mọi người đàn bà anh đều nói: đàn
bà là đàn bà, muôn đời vẫn chỉ là
đàn bà không hơn không kém. Anh… (1)
Trịnh Công
Sơn vs Lịch Sử
Milosz, trong một bài
trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin
tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái
Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn
tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông
cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng
chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ đó,
theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da
vàng của TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng
của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ
lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông
nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak,
khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác
sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ
Cầm Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh Công
Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông
nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó,
thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết
nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời
của ông.
Và của loài người.
Hãy hát tình
ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có
thể thay thế cho tình yêu, thì đó là
hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng
nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã
mất.
“Cái từ, giải phóng
chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm
người, là hai chữ: Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...
He has turned into the life-giving
ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành
mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng
hát về nó
D.M. Thomas trích dẫn,
cho chương Death of a Poet,
[trong Solzhenitsyn:
Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
Trịnh Công Sơn:
Chim Thiêng
Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau sacré chante le destin tragique
*
Un jour se noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm
trôi]
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour
Lời Việt::
Nhật nguyệt í-a trên
cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a
còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch
lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à
gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à
dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột
ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh
bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm
ôi-à tiếng tăm
Partir et revenir
[Một cõi
đi về]
Les années écoulées
les départs
Partir tourner la vie les fatigues
Les épaules aux deux bouts de la lune
Le reflet transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera la parole des arbres
Quelle sera la parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère appartient déjà
au passé
Ruine du printemps ruine de l'été
Un jour d'automne l'écho du galop au loin
Nuage couvre la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont les rivières savent rester
\Soudain l'otage de l'amour m'appelle
A l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera chez moi
Les chemins les détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe le côté de rêve
Chaque parole du crépuscule
Chaque parole de la terre des tombes
Voix de la mer des fleuves de leurs sources.
Alors qu'on rentre on se souvient déjà qu'on
partira
Partir vers les monts
Revenir vers le large
Les bras de la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent impossible souffle tout au long de la
jeunesse
Trinh Cong Son
Traduit par Le Huu Khoa
Connu avec Pham Duy comme l'un
des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son
se veut avant tout poète et chante « les rêves en
ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif
de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et
de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa
méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un
lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations
extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme.L'évidence
esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với
Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất
của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước
hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc
mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông
kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù
du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh
Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ
đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương
đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo
nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu
có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái
đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường
của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La
Part d'Exil]
*
Note: Tks
K. Gấu
Conversations with the Dead
Reading has always been for
me a sort of practical cartography. Like other readers, I have an absolute
trust in the capability that reading has to map my world. I know that
on a page somewhere on my shelves, staring down at me now, is the question
I’m struggling with today, put into words long ago, perhaps, by someone
who could not have known of my existence. The relationship between a
reader and a book is one that eliminates the barriers of time and space
and allows for what Francisco de Quevedo, in the sixteenth century, called
“conversations with the dead.” In those conversations I’m revealed.
They shape me and lend me a certain magical power.
Trò chuyện với người chết
Đọc đối với tôi là
1 cách vẽ bản đồ. Như những độc giả khác, tôi có
sự tin vậy tuyệt đối vào khả năng, đọc phải vẽ ra thế giới
của tôi. Tôi biết, trong 1 trang sách đâu đó,
trên những kệ sách của tôi, ngó xuống tôi,
thì là 1 câu hỏi mà tôi đang đánh
vật với nó, bữa nay, được đặt thành những từ ngữ từ lâu
lắm rồi, bởi 1 người nào đó, có thể chưa từng biết
đến có tôi ở trên đời. Liên hệ giữa 1 độc giả
với cuốn sách, là 1 liên hệ triệt tiêu những
biên cương của thời gian, không gian, và cho phép
điều mà Francisco de Quevedo, thế kỷ thứ 16, gọi là “những
cuộc trò chuyện với người đã chết”.
Trong những cuộc trò chuyện như thế, tôi lộ
ra, bật mí. Chúng tạo hình dáng tôi
và cho tôi 1 quyền năng thần kỳ.
Những nhận xét, như trên,
quá đúng, nhưng chỉ với từ ngữ. Với âm thanh, lời
nhạc, GCC nghĩ, sai, như có lần GCC phán, bạn phải sống
cùng thời với TCS, cùng 1 Miền Nam với ông, thì
mới cảm hết nhạc của ông.
Thí dụ, cái lần
GCC vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, lần đầu, đúng
thời gian gần Tết, thời tiết lạnh lạnh, TCS thì mới cho ra lò
bản Tình Nhớ, và trong đêm khuya, 1 tay tân
binh như Gấu cứ huýt sáo hoài bản nhạc đó.
Gấu đau quá, vì cùng với nó, còn là
nỗi đau thằng em vừa mới tử trận - cô bạn vừa mới từ giã,
và cùng với cô, là Sài Gòn
- có thể, từng nằm, đúng cái giường sắt Gấu đang
nằm.
Khủng khiếp lắm. Một Bắc Kít,
sinh ở Bắc Kít, sau 1975, mê nhạc Trịnh, không
thể nào hiểu được nỗi đau này. Một đấng Nam Kít,
bỏ chạy, như Đặng Tiến, thì cũng đếch cảm ra nỗi đau này,
nên ông phán Tình Nhớ mà mắc mớ gì
tới cuộc chiến, phản chiến!
Những
ngày Trịnh Công Sơn
Tôi biết Trịnh Công
Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn,
tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa,
đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là
đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với
đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày
càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi,
nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó,
từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để
nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế,
và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói
với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương
trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài
Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp
nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như
vậy.
Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc
Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm
vào tôi.
Phải tới
khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm
Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường
sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là
quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình
Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết
lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của
anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút
hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói
chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời
điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay
vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ
miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ
lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì
họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người
Mỹ sẽ ra đi.
Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên
đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên
tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh,
chính là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau
vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu.
Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn,
nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải
phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản
địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn,
và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói,
thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc
cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không
phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày
cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau
lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được
đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở.
Trong số những quân cảnh tại thành phố, có
người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân,
khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được
chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.
The Scene of the Crime
Chuyến đi Mỹ Lai của 1 phóng viên và
những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui Duc, a fifty-seven-year-old
writer and journalist who runs a popular bar and restaurant in Hanoi,
fled to America in 1975 when he was seventeen. Thirty-one years later,
he returned. In San Francisco, he was a prize-winning journalist and
documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to come
back and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen
and living as someone else in the United States. I was grateful for the
opportunities in America, but I needed a sense of community. I came to Hanoi
for the first time as a reporter for National Public Radio, and fell in
love with it."
The New Yorker,
My Lai Revisited,
Mar 30 2015
NQD nhà văn Mít 57 tuổi, chủ nhân 1 nhà
hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi.
Tớ luôn muốn về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không
đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi 17 tuổi, và sống như 1 ai đó
ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban cho
tớ. Nhưng cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng
đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.
Born Red
Nga Hoàng Đỏ xây dựng Đế Quốc Xô
Viết quyền lực thứ nhì thế giới bằng cách làm
thịt dân của mình, chừng 20 triệu, cỡ đó. Từ tên
trộm cướp cách mạng, le bandit révolutionaire, biến thành
1 tên bạo chúa khùng. Đại Khủng Bố mỗi ngày
làm thịt 16 ngàn người.
Đế quốc
VC như hiện giờ, "cũng" đã được xây dựng lên, bằng cách
làm thịt dân Mít của nó.
Cuộc chiến chống Pháp đúng ra không xẩy
ra. Nó xẩy ra là vì VC muốn như thế, nếu không
thế không sao làm thịt lũ Việt gian được. Việt gian là
những kẻ không theo VC, những đảng phái quốc gia như VNQD,
thí dụ. Cuộc chiến chống Mỹ cũng không thể xẩy ra, và
nó xẩy ra vì Bắc Kít muốn như thế. Bởi thế, chúng
mới nhử Mẽo vô Miền Nam, khi thành lập MTGP, bằng cách
vu cho Diệm đầu độc tù VC tại trại tù Phú Lợi.
Tuy nhiên, điều chúng ta không biết, là
liên minh ma quỉ giữa Bắc Kinh và Bắc Bộ Phủ. Không
có sự giúp đỡ của Tẫu, cả hai cuộc chiến vô phương
xẩy ra với kết quả như bây giờ. Bởi thế, vào thời điểm 1975,
khi Solzhenitsyn nhận định, Bắc Kít sẽ thôn tính Nam
Kít, và đây là cuộc chiến tranh giành
ảnh hưởng giữa những đế quốc, Paz chỉnh Solz, đây là cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc; chỉ đến bây giờ chúng
ra mới thấy Solz có lý, khi yếu tố Tẫu lộ ra. Bởi là
vì với dân Mít, Tẫu là kẻ thù ngàn
đời của chúng.
Bi giờ, thì Mít mới biết, Bắc Kít dâng
cả vợ con cho Tẫu, để làm thịt cho bằng được thằng em Nam Kít
của nó.
Trước, cũng biết, nhưng giả đò, không.
Gấu về lại đất Bắc, đọc gia phả dòng họ Nguyễn, đấng
nào đấng đó đóng khung những chi tiết, sự kiện
lịch sử, đã từng học tại trường West Point Tẫu!
Bởi thế, Gấu mới phục ông
già của Gấu, đếch theo VC, chỉ là “cảm tình viên”
của Đảng, như cô cháu gái của 1 ông chú,
Chú Cầm, Huyện Uỷ Bạch Hạc, Việt Trì, giải thích
lý do tại sao mấy đứa anh chị em của Gấu ở lại đất Bắc, không
được công nhận là con của liệt sĩ!
Bố của Gấu cực bảnh!
Hà, hà!
Note: Bài viết, theo GCC, nhảm. Bài thơ
này, khủng nhất là câu “đường ra trận mùa
này đẹp lắm”. Còn cái chất trữ tình của
nó, như bài viết ca ngợi – ca ngợi Phạm Tiến Duật luôn
thể– thì Kundera đã phán, thời VC là thời
của Văn Cao, họa sĩ, thi sĩ, đao phủ- tức là thời thi sĩ cùng
ngồi với tên giết người, cùng cai trị thế giới.
Un piège tendu à la poésie
http://www.tanvien.net/gioi_thieu_3/piege_poesie.html
... See More
Son
Lyngoc
QUA RỒI HÌNH ẢNH CÙNG NGƯỜI YÊU
ĐỒNG HÀNH RA TRẬN
Mặc Lâm
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 tại Thanh Ba, tỉnh Phú
Thọ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội ...
See More
Hồ sơ K trên Tin Văn
Gấu kể như là người đầu tiên giới thiệu Kundera
với dân Mít ở hải ngoại, qua mục Tạp Ghi trên báo
Văn Học của NMG.
Nhờ đọc Kundera, Gấu mới viết được bài Mùa
Thu những di dân, và liên kết được hình
ảnh nhà thơ Văn Cao - đóng hai vai cùng một lúc,
vừa là thi sĩ vừa là đao phủ thủ - với hình ảnh
nhà thơ Mayakovsky ngồi ké né bên trùm
mật vụ Nga Dzherzhinsky.
Mít,Yankee mũi tẹt đúng hơn, quả là bảnh
thật!
*
Với tôi, hay nhất ở Phạm Duy, vẫn là những bản
nhạc tình. Ông không thể, và chẳng bao giờ
muốn đến cõi tiên, không đẩy nhạc của ông tới
tột đỉnh như Văn Cao, để rồi đòi hỏi "thực hiện" nó, bằng
cách giết người. Một cách nào đó, "tinh thần"
Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối
với "Mùa Thu", khi mà nhà thơ ngự trị cùng
với đao phủ. Kundera đã nhìn thấy điều đó ở thiên
tài Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga như trùm
cảnh sát, mật vụ Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội).
Nhạc không lời, ai cũng đều biết, mấy tướng lãnh Hitler vừa
giết người, vừa ngắm danh họa, vừa nghe nhạc cổ điển. Cái đẹp bắt
buộc phải "sắt máu", phải "tyranique", (Valéry). Phạm Duy
không nuôi những bi kịch lớn. Ông tự nhận, chỉ là
"thằng mất dậy" (trong bài phỏng vấn kể trên). Với kháng
chiến, Phạm Duy cảm nhận ngay "nỗi đau, cảnh điêu tàn, phía
tối, phía khuất", của nó và đành phải từ
chối vinh quang, niềm hãnh diện "cũng được chính quyền
và nhân dân yêu lắm". Những bài kháng
chiến hay nhất của Phạm Duy: khi người thương binh trở về. Ở đây,
ngoài nỗi đau còn có sự tủi hổ. Bản chất của văn
chương "lưu vong, hải ngoại", và cũng là bản chất của
văn chương hiện đại, khởi từ Kafka, là niềm tủi hổ, là
sự cảm nhận về thất bại khi muốn đồng nhất với đám đông,
với lịch sử, với Mùa Thu đầu tiên của định mệnh lưu vong.
Phạm Duy muốn làm một người tự do tuyệt đối nên
đã bỏ vào thành. Nhưng Văn Cao, chỉ vì muốn
đồng nhất với tự do tuyệt đối, nên đã cầm súng giết
người. Thiên tài Mayakovski cần thiết cho Cách
Mạng Nga cũng như trùm công an mật vụ, là vậy.
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|