Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
The Holocaust survivor Elie Wiesel
seared the memory of the Holocaust on the world’s conscience.
En
attendant SN
Hihi, a2a rule No.#1 :
K
Tks and Best Regards and Take Care
GCC
Thượng Thọ
tính theo tuổi ta ông bước vào tuổi
tám mươi. thượng thọ eve. (ngày trước new year là
new year’s eve)
tin văn là sơn lâm của ông. ông
ngang dọc với những tiếng gầm rền vang đương thời và sẽ được
nhắc đến sau này dầu ông có muốn hay không.
muốn phỏng vấn ông. không phải. muốn hỏi chuyện
ông. cũng không nốt
để một mâm thức ăn ăn ngon cùng rượu ngon để vị
trưởng lão khề khà. rồi cùng ngồi xuống với ông
ở tin văn gia trang và rồi bắt đầu nghe ông lèm
bèm về câu chuyện giang hồ văn chương xưa và nay
lời mở: đây không phải là bài phỏng vấn.
đây là bài tự vấn. với dẫn nhập không
phải từ người tự vấn. người tự vấn là một
trụ cột văn chương đương thời. người đã ở với chữ nghĩa
tự lâu lắm. người đã và đang đi cùng văn chương cùng những
vàng son cùng những hệ lụy của nó.
muốn viết về một người có
phải cách hay nhất là để người ấy tự nói
về mình?
và như vậy xin mời bang chủ xuất chiêu
cùng mời quý đọc giả thưởng thức
những dẫn nhập không số
(ông trả lời bất cứ câu nào không
cần theo thứ tự, ông không cần trả
lời những câu ông không thích. mỗi tháng
sẽ gửi ông khoảng chục câu. now let’s have some fun.
ông nhé!)
. ông đến với giang hồ văn chương ra sao? ai truyền
võ công văn chương cho ông? giang hồ văn chương
lúc ấy như thế nào hả ông?
có bao nhiêu môn phái bấy giờ?
những trưởng môn của những môn phái đó?
ông có thể cho biết những vị cao thủ trong chốn giang
hồ bấy giờ?
. tại sao lại tin văn? ông có thể cho biết
sự ra đời của nó? và cách cầm viết mới (đòn mới)
của ông trên tin văn?
. cây - rừng - rồi lại cây (đôi khi cây
khác) ông có thể giải thích miếng võ
(công thức viết) này của ông?
. ông dùng loại chỉ nào để may văn
chương lại với văn chương?
. làm sao một phiên bản văn chương có
tính phi thời gian theo ông? hỏi như vậy để bạn đọc có
thể hiểu được thêm phần nào những bài viết của ông
trên tin văn
. núi lửa trong ông phải đợi hơn 50 năm mới
phún ra thơ và thơ dịch, như mai thảo vậy, ông
có thể cho biết tại sao?
. ông có thơ được đăng trên báo
chí tạp chí trước 75? bắt đầu với nghiệp viết sao ông
chọn truyện?
. rồi đến phê bình ông áp dụng
việc giải toán vào phê bình (vì
ông học toán khá xuất sắc)? tại sao phải soi vào
chữ nghĩa đến như vậy?
. 5 đầu sách và 20 năm (nếu không đúng
ông sửa dùm) gầy dựng tin văn cái nào nặng
ký hơn thưa ông? và tại sao cái kia lại
nhẹ ký?
. tuổi thơ - mồ côi - nghèo khổ hiếm thấy
trong văn chương ông? ông không nhớ? ông
không màng? hay vì một điều gì khác? và tại
sao lại như vậy?
Đài Sử
Tks. NQT
TTT 10 years Tribute
Canvas
I stood in silence before a dark
picture,
before a canvas that might have been
coat, shirt, flag,
but had turned instead into the world.
I stood in silence before the
dark canvas,
charged with delight and revolt and I thought
of the arts of painting and living,
of so many blank, bitter days,
of moments of helplessness
and my chilly imagination
that's the tongue of a bell,
alive only when swaying,
striking what it loves,
loving what it strikes,
and it came to me that this
canvas
could have become a winding-sheet,
too.
Canvas
Tôi đứng im lặng trước bức hình tối
thui
Trước tấm vải bố
Có thể là
Áo khoác, áo sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì vậy thì biến thành
Thế giới
Tôi đứng im lặng trước tấm vải bố tối thui
Tẩm trong nó là thích thú,
đam mê và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật vẽ và sống
Tới những ngày trống rỗng, cay đắng
Tới những khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi lắc lư
Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt tôi ngộ ra rằng thì
là
Tấm vải bố này, cũng, có thể trở thành
tấm vải liệm.
Tưởng niệm 10 năm TTT cũng là
tưởng niệm Đinh Cường vừa mới mất, với riêng Gấu. Họ là
bạn của nhau, theo cái nghĩa, chỉ cần 1 người bạn là
đủ ở trong cõi đời này, như Gấu chỉ có Joseph
Huỳnh Văn, vào lúc cần nhất, và ông Trời
bèn gật đầu, lời khẩn cầu của mi, đã được chấp thuận.
Đấng này,
cũng bạn quí của TTT, khi thấy thư/thơ Lỗ Bình Sơn
gửi cho Đảo Xa xuất hiện trên net, mừng quá,
bệ ngay về blog, la lớn, ơ hơ, tưởng Người vĩ
đại cỡ nào, hóa ra cũng có bồ nhí,
như mình!
A HISTORY OF SOLITUDE
Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam Zagajewski
Chuyện Tình Buồn
Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái
máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo. (a)
Cái tít Chuyện Tình Buồn này, thay
vì Một chuyện về nỗi cô
đơn, là do Gấu nhớ đến cô bạn, và những ngày
Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện
Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa, 1 buổi tối văn
nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội,
và khi 1 anh tù hát lên bản này, một
anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp, Gấu bèn
nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên
ngoài, trong bóng tối nhìn vô căn nhà
cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi thủi ra về. Trưa
hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô
trường Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình Triệu, vừa hết cữ vã,
là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng trốn
Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
En Route
GULLS
Eternity doesn't travel,
eternity waits.
In a fishing port
only the gulls are chatty.
Hải Âu
Vĩnh cửu không du lịch,
Vĩnh cửu đợi
Tại một cảng đánh cá
Chỉ hải âu thích tán gẫu.
In memory of my mother
Phi
trường AMSTERDAM
Tưởng nhớ Mẹ
Hoa hồng vào Tháng
Chạp, ước muốn trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói
dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài
trời ngày hôm qua, tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người
khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên
nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của
mẹ nên được tổ chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát
nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một con người nên
lo lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái
áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật
sau chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.
Những chiếc lá bạc hà
làm dịu cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật
lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp
xướng tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi
lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Có những bài để
lại ấn tượng thật lâu, sâu đậm như bài Phi trường Amsterdam...
DV
Tks
Bài này, khi Gấu
dịch, không mấy xúc động, nhưng khi đọc lại, bồi hồi nhớ
Mẹ, nhất là khổ thơ sau cùng:
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi
lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Brodsky cũng có ba búa
TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông.
Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống,
thông qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo
Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ
cái đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban
cho nó hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng
sống sót, không phải là nhờ đạo hạnh mà
nhờ bửn quá, do óc bị thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này
có cái gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận
ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ
lung tung, một phần là do đang bấn xúc xích bởi
1 đề tài, tại sao Mít không thể tưởng niệm, nhân
đọc Sebald viết về văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu,
và, tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực kỳ thông
minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có
1 bài viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông
bố quá khôn, bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào
tay Nazi, nhờ vậy gia đình ông sống sót Lò
Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót,
là do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong
chuyện dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra
trước tai họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1
Steiner, là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu
chuyện về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần
đạo hạnh rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của
bạn ló ra, thay cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là thứ văn chương
tiên tri và văn chương hồi ức, như thế, là đều
liên quan tới cái đuôi của con người đã bị
mất đi theo đà tiến hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the mice in it, and
the martens also, forestall its collapse and emigrate. This, you
know, is what they say happened at Helike, for when the people of Helike
treated so impiously the Ionians who had come to them, and murdered
them at their altar, then it was (in the words of Homer) that "the gods
showed forth wonders among them. “For five days before Helike disappeared
all the mice and martens and snakes and centipedes and beetles and every
other creature of that kind in the town left in a body by the road that
leads to Keryneia. And the people of Helike seeing this happening were
filled with amazement but were unable to guess the reason. But after the
aforesaid creatures had departed, an earthquake occurred in the night; the
town collapsed; an immense wave poured over it; and Helike disappeared, while
ten Lacedaemonian vessels that happened to be at anchor close by were destroyed
together with the city I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher of rhetoric,
Aelian earned the nickname Meliglottos, meaning "honey-tongued,"
based on his fluency with Greek. In addition to his seventeen-volume
work on animals, Aelian published Indictment of the Effeminate, a posthumous
attack on the emperor Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of
fictional letters about Attic country life. Elsewhere in Animals, he
describes the tradition of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom
they called "Averter of Disaster," asking for neither swordfish nor dolphin
to destroy their nets.
I am above the weakness of seeking to establish a sequence
of cause and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một
tiếp nối về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương
và sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng
ở Helike đối với dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà
cũng ngạc nhiên giữa họ, như thế, không mắc mớ gì
đến tai ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi
người, trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi
tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the end of
the world to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải
sống, trong khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen,
D.H. Lawrence, 1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì
một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng
ta hãnh diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary human disaster
that lasted too long must be born a society of which all humanity
will be proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện,
sau tận thế, chăng?
GCC
Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria Tsvetaeva,
Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này,
phản ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là
hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây
giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng
xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một
cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và
nếu, bạn lại đứng lên được, thì lúc đó, bạn
sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng,
the phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với
nó.
Thơ
Mỗi
Ngày
Thực ra
thì là thơ không đề, nhưng vì chữ đầu
tiên trong bài là Hoa bất tử, nên mình
gọi thế. Đây cũng là một bản dịch theo đơn đặt hàng
chuyển qua chị Sonata :)
* * * Анна Ахматова Бессмертник сух и розов. Облака На свежем небе вылеплены
грубо. Единственного в этом парке дуба [ 160 more words. ]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/hoa-bat-tu-tho-khong-d…
Bản tiếng Anh:
An immortelle
An immortelle is bone dry.
Broken clouds, a chill sky.
In the park the maple
Leaves curl and crimp le.
Daybreak dawns at midnight.
I'm cocooned in my cell!
Birds talk to me in mid-flight
Of how lovers elsewhere excel.
I am happy here. Yes. But I dreamt
Of a wild wood, a weed-grown crescent,
An old bridge, humpbacked and rent,
And of freedom, mine, immanent.
Note: Những bài thơ trong cuốn này, có
bản tiếng Nga kèm.
TV nhờ mấy người bạn rành tiếng Nga dịch thẳng
từ nguyên tác.
This craft of ours, sacred and bright,
Has lasted too many years to tell
...
The world is lit by it without light,
But, still, a poet has yet to dwell
On the thought that there's no wisdom
or hell,
No age and, perhaps, no death as
well.
1944
Anna Akhmatova
[Translated by Lyn Coffin]
Nghề thơ, ngón thơ của chúng
ta
Thiêng liêng và sáng ngời
Còn hoài với năm tháng, để kể....
Thế giới được chiếu sáng nhờ nó, chẳng cần tới
ánh sáng
Nhưng, nhà thơ vưỡn miệt mài
Với cái ý nghĩ
Làm đếch gì có minh triết, hay địa ngục
Hay tuổi tác, và có lẽ,
Đếch có luôn cả
Cái gọi là cái chết!
Thêm
một bài được đặt hàng. Có lẽ là mình
chưa thấm được bản gốc, nên bản dịch hơi lủng củng Thánh Lót
ở đây là thánh Lót trong Kinh Thánh. Khi
Chúa trời quyết định trừng phạt hai thành phố Sô-đôm
và Gô-mô-rơ đầy dẫy tội ác, thì chỉ có
Lót và gia đình được cứu thoát - hai thiên
sứ dẫn Lót và gia đình ra khỏi thành phố này,
và dặn họ cứ đi, không được nhìn lại. [ 288 more words.
]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/vo-cua-thanh-lot-anna-…
Vợ của
thánh Lót – Anna Akhmatova
Thêm một bài được đặt hàng.
Có lẽ là mình chưa thấm được bản gốc, nên bản
dịch hơi lủng củng
Thánh Lót ở đây
là thánh Lót trong Kinh Thánh. Khi Chúa
trời quyết định trừng phạt hai thành phố Sô-đôm và
Gô-mô-rơ đầy tội ác, thì chỉ có Lót
và gia đình được cứu thoát – hai thiên sứ dẫn
Lót và gia đình ra khỏi thành phố này,
và dặn họ cứ đi, không được nhìn lại. Tuy nhiên
vợ của thánh Lót đã lỡ nhìn lại thành
phố Sô-đôm bốc lửa, và bị biến thành tượng muối
(Sáng thế ký, chương 19).
Thánh Lót chạy khỏi
Sodom. Tranh của Gustave Dore.
Лотова жена
Анна
Ахматова
И праведник
шел за посланником Бога,
Огромный и светлый, по черной горе.
Но громко жене говорила тревога:
Не поздно, ты можешь еще посмотреть
На красные башни родного Содома,
На площадь, где пела, на двор, где пряла,
На окна пустые высокого дома,
Где милому мужу детей родила.
Взглянула – и, скованы смертною болью,
Глаза ее больше смотреть не могли;
И сделалось тело прозрачною солью,
И быстрые ноги к земле приросли.
Кто
женщину эту оплакивать будет?
Не меньшей ли мнится она из утрат?
Лишь сердце мое никогда не забудет
Отдавшую жизнь за единственный взгляд.
(1924)
|
Vợ của thánh
Lót
Anna
Akhmatova
Và
thánh Lót bước đi sau thiên sứ của Chúa trời
Cao lớn, sáng ngời, theo núi đen từng bước
Nhưng nỗi lo lắng nói to cùng người vợ:
Vẫn còn chưa muộn, em hãy nhìn nữa
Những tháp đỏ thành phố Sodom thân thương
Nơi ngày xưa em hát ở quảng trường
Nơi kéo sợi ngoài sân, khung cửa sổ ngôi
nhà.
Nơi những đứa con em đã sinh ra.
Nàng nhìn lại, và cơn đau chết chóc.
Khóa lấy người – mắt không còn nhìn thấy;
Thân thể nàng trở thành muối trong suốt
Cặp chân nhanh gắn chặt xuống đường.
Ai
sẽ khóc cho người đàn bà ấy?
Mất mát của nàng có phải cũng ít thôi?
Nhưng có điều không quên được trong tôi
Cuộc đời hiến dâng vì cái nhìn duy nhất.
(1924)
|
Lot's wife
A man of God, he followed in the afterglow
Of an angel's footsteps across a black hill.
An anxious need nettled at his wife;
"It's never too late to look back on
The red towers of your birthplace, Sodom,
The square in which you sang, the spinning shed,
The window in the upper room, the bed
In which you birthed your children."
She stole an almost inadvertent look
And, unsuspecting, was struck stone blind;
Her body turned to translucent salt,
Her feet were rooted in desert grit.
No one mourns a single death by firestorrnl
What does such a dying woman signify?
She simply wanted to whisper goodbye.
For that alone, that last look, she had to die.
Tks All. NQT
Bản tiếng Anh có tí khác.
Vợ Lot
Một người của Chúa, anh ta đi theo, trong ánh chiều,
Những bước chân của vì thiên thần, qua ngọn đồi đen
Người vợ như muốn 1 điều gì thật là khẩn thiết;
“Chẳng bao giờ quá muộn khi nhìn ngoái lại
Những cái tháp đỏ nơi em ra đời, Sodom
Quảng trường nơi em đã từng hát, nơi em kéo sợi
Cửa sổ căn phòng bên trên
Cái giuờng nơi em cho ra đời những đứa con "
Nàng lén 1 cái nhìn hầu như vô thức,
thiếu cẩn trọng
Và, không hồ nghi, nàng bị quất thành đá
mù.
Thân thể nàng, 1 khối muối trong suốt
Chân dính chặt vào sỏi đá sa mạc
Chẳng ai khóc than một cái chết đơn độc, bởi sét
đánh!
Cái chết của 1 người đàn bà như thế có ý
nghĩa gì?
Nàng đơn giản chỉ muốn thì thầm 1 lời giã biệt.
Chỉ nội cái đó thôi, cái nhìn sau
cùng, nàng phải chết.
Marina
Tsvetaeva
Ta nâng niu một nhánh
u thảo:
Thơ Marina Tsvetaeva
I won't fall behind you.
I'm the guard.
You-the prisoner. Our fate is the
same.
And here in the same open emptiness
they command us the same-Go away.
So-I lean against nothing.
I see it.
Let me go, my prisoner,
to walk over towards that pine tree.
JUNE 1916
Trầm tư 1 mình - độc thoại nội tâm
- của 1 con chó
PHOTOGRAPH FROM SEPTEMBER 11
They jumped from the burning floors-
one, two, a few more,
higher, lower.
The photograph halted them in life,
and now keeps them
above the earth toward the earth.
Each is still complete,
with a particular face
and blood well hidden.
There's enough time
for hair to come loose,
for keys and coins
to fall from pockets.
They're still within the air's reach,
within the compass of places
that have just now opened.
I can do only two things for them-
describe this flight
and not add a last line.
Wislawa Szymborska
Những hình ảnh của ngày 11/9
Họ nhảy từ những tầng lửa cháy
một, hai, thêm vài người nữa
cao hơn, thấp hơn
Những bức hình kiềm giữ họ như thế đó, trong đời sống
Và bây giờ,
Giữ họ ở bên trên mặt đất, về phía trái đất
Mỗi cái thì vẫn đầy đủ,
với khuôn mặt đặc biệt
máu được giấu thật kín
Có đủ thì giờ
Cho mớ tóc xổ tung ra
Chìa khóa, tiền đồng
Rớt ra khỏi túi
quần áo
Họ vưỡn cứ như thế
Ở lưng chừng trời
Ở lưng chừng những cái la bàn
Lúc này được mở ra
Tôi chỉ có thể làm hai điều cho họ -
Mô tả chuyến bay
Và không thêm dòng chót
Bài thơ này, mượn
hoa tiến Phật, cũng có thể mô tả Mít chết vì
tai họa biển như cá chết:
GCC cũng chỉ có thể làm hai điều cho họ
Mô tả số phận, chuyến tàu chót của họ
Và không thêm dòng chót
Cuộc họp báo công
bố nguyên nhân thảm họa biển Việt Nam giới thiệu rõ
một màn trình diễn thô vụng. Formosa Hà Tĩnh
đột nhiên trở thành…
Và
không thêm dòng chót:
Xứ Mít bị bán nhiều lần rồi, kể từ lúc ông
Hồ, ở Paris, thoát được sự canh chừng của Cớm Tẩy, qua Moscow, được
Xì tha chết, trong chiến dịch thanh trừng cựu trào, và
cho về TQ.
Hẳn là phải có cú phôn của Xì cho
Mao, coi chừng thằng này.
The Holocaust survivor Elie Wiesel seared the memory of the Holocaust
on the world’s conscience.
Cái câu vinh danh Elie Wiesel, khi ông vừa mất,
giải thích điều Tin Văn từng lèm bèm.
Những người như E.W, Primo Levi… đã dùng 1 cái
giùi sắt, nung đỏ, rồi chơi 1 phát lên lương tâm
Âu Châu, và phán, đừng bao giờ quên Lò
Thiêu, nhờ vậy họ thoát Quỉ Đỏ CS.
Giả như ông Hồ cứ ở Paris, thì Mít thoát
họa CS.
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|