Cha
già dân tộc
Cha
già dân tộc ở đây là Adenauer. Dân tộc, dân Đức sau Lò Thiêu. Một
nước Đức mới. Và đó là tựa đề cuốn sách của Charles Williams,
“Adenauer: The Father of the New Germany” (nhà xb Wiley, 584 trang
$35.00).
Dưới đây là tóm tắt bài điểm cuốn sách trên, của Gordon A. Craig,
trên tờ NYRB số đề ngày 1 tháng 11, 2001.
Mùa
thu năm 1944, Konrad Adenauer bị Gestapo bắt giữ vì bị tình nghi dính
vào
vụ gài bom tính làm thịt Hitler. Ông bị đưa đến nhà tù ở Brauweiler.
Sau khi bị lột hết quần áo, những vật dụng dính vào người như thắt
lưng, dây giầy, dao nhíp, ông bị tống vào một phòng giam chật hẹp
không có hệ thống sưởi ấm; viên cai tù, chắc là cám cảnh cho thân
phận ông, và cũng sợ rắc rối, đã ân cần căn dặn: Bẩy mươi tuổi
đầu, sắp xuống lỗ rồi, đừng bầy đặt tự tử, chỉ làm khổ thằng này
thôi.
Ở
vào hoàn cảnh như trên, một câu khuyên như vậy là hợp tình hợp
cảnh. Có điều, cả người khuyên lẫn người được khuyên, đều không
ngờ, quãng đời còn lại của người tù già được “ông Trời” trao cho
một trách nhiệm lớn lao: hai mươi năm trời tiếp theo sau, Adenauer, khi
được giao chức vụ chancelor (thủ tướng), đã đưa đất nước vượt qua nỗi
đau, và cũng là nỗi nhục, như là di sản của chế độ Nazi, và cùng
với nó, Lò Thiêu, biến đổi nước Đức, từ kẻ thù bại trận thành
đồng minh đáng kính trọng.
Theo
Craig, nhan đề cuốn tiểu sử về ông, Người cha sáng lập nước Đức
mới, thật xứng đáng đối với Adenauer. Williams, tác giả cuốn tiểu sử
nói trên, viết, Adenauer sử sự trước đám đông như một nhà độc tài,
nhưng thêm vô, trách nhiệm mà ông ôm lấy, trên toàn thể, đã được
hoàn tất.
Konrad
Adenauer sinh tại Cologne vào tháng Giêng năm 1876, là con trai thứ ba,
cha phục vụ 15 năm trong quân đội
Phổ, được huy chương dũng cảm tại Koniggrat, rồi cố gắng vượt lên,
trở thành viên chức cao cấp tòa án trong chính quyền Phổ. Con cái
trưởng thành qua một giáo dục rất nghiêm và rất ngoan đạo (Catô
giáo), đây là nguồn gốc sự tự tin của Konrad ngay từ những năm mới
lớn. Học luật tại Freiburg, ra trường và kiếm được việc làm (junior
prosecutor) tại một văn phòng nhà nước tại Cologne, vào năm 1902.
Cùng
năm đó, ông gặp Emma Weyer, thuộc một gia đình giầu có, và hai năm
sau, hai người thành hôn. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng người
chồng ngày càng cảm thấy không được thoải mái, với vai trò luật sư
lương lậu có phần khiêm tốn của mình. Nhờ ảnh hưởng gia đình bên vợ,
một phần, và nhờ tài tranh cãi nơi pháp đình, ông được đắc cử vào
chức vụ hội đồng thành phố, mặc dù chẳng có một chút kinh nghiệm
chính trị. Ông bỏ hết nghị lực vào công việc, và vào năm 1909, khi
chức bí thư thứ nhất của thị trưởng trống chỗ, đảng Center Party đẩy
ông ra nắm lấy.
Thời
gian này, nước Đức đang trên đà lao vào cuộc chiến. Khi phải nhìn
lại, ông nói, “… cuộc chiến 1914-18… là ‘thành quả’ của sự ngu xuẩn,
của tất cả mọi người”.
Williams
rõ ràng cho rằng, Adenauer đã không hiểu Hitler, và luôn luôn coi chủ
nghĩa cộng sản là một đe dọa thực sự cho một nước Đức như là ông
tin tưởng. Đúng ra là vào tháng Chạp năm 1932, những ngày cuối cùng
của chế độ Cộng hòa Weimar, ông viết thư cho người cầm đầu Center
Party, cho rằng, giải pháp khẩn yếu, đó là coi việc gia nhập của
Quốc xã vào chính quyền Reich [được] giải quyết theo đường hướng tích
cực (positive sense). Nhưng cho dù nguyên nhân nào chăng nữa, tình
huống ngày một vuột khỏi tầm nhìn của ông. Một khi Hitler lên cầm
quyền, bản chất dã man của những chính sách của ông ta tự nó lộ ra,
và Adenauer thấy rằng, để tránh nguy hiểm, càng thu mình lại chừng
nào tốt chừng đó. Ông cũng tránh không liên lạc với lực lượng
kháng chiến. Khi Carl Goerdeler, cựu thị trưởng Leipzig, và là nhân vật
then chốt trong âm mưu chống lại Hitler muốn nhận ông vào nhóm, ông
đã từ chối gặp. Tuy nhiên, chắc chắn tên của ông đã nằm trong một
danh sách đen, của một người nào đó, và ông bị Gestapo bắt hai lần,
một vào năm 1935, và lần sau vào năm 1944, khi xẩy ra vụ gài bom.
Rõ
ràng là, trong khi thu mình lại, ông đã mơ tưởng tương lai của một
nước Đức sau Hitler. Tuyệt vời, là đoạn Williams mô tả Adenauer miệt
mài với hai tác phẩm “Rerum Novarum” và “Quaragesimo Anno”, trong đó
xác
định đường hướng, thái độ của Nhà Thờ La Mã khi phải ứng xử với
những vấn đề hàng ngày mang tính xã hội và chính trị. Willimas viết,
Adenauer đã tìm kiếm một trụ cột mang tính lý thuyết và quyền thế,
làm cơ sở cho những chính sách chính trị mang tính thực hành, trong
tương
lai. Thật rõ rệt, trong những năm chiến tranh do Hitler gây nên, ông
đã suy tư hoài về một tương lai nước Đức, tương lai đó sẽ chẳng mắc
mớ gì tới những điều ghê rợn đang trải ra trước mắt ông, và ông là
người đầu tiên nhận ra rằng nước Đức tương lai phải được cai trị bởi
nhiều nguyên lý (principles), và chính sách khác nhau, không như trong
quá khứ.
Ngay
khi lực lượng thắng trận cho phép đảng phái chính trị hoạt động ở
Tây Đức, mặc dù tuổi đã cao, Adenauer lao vào chính trường. Tuy thoạt
đầu ngần ngại, lực lượng đồng minh đã chọn ông, thay vì người cầm
đầu đảng Xã hội Dân chủ (SPD: Social Democratic Party), Kurt
Schumacher,
một người can đảm nhưng giáo điều. Đối với Adenauer, quan trọng là
tạo được liên minh giữa Hiệp hội Kytô Dân chủ, (CDU: Christian
Democratic Union), tức Đảng của ông, với Hiệp hội Kytô Xã hội
(Christian Social Union) bảo thủ hơn. Liên minh đã thắng cuộc bầu cử
hạ viện năm 1949, và khả năng trở thành thủ tướng đối với ông đã
bắt đầu ló dạng.
Những
năm đầu trong chức vụ thủ tướng, ông giao kinh tế cho đồng sự Ludwig
Erhard, với ông này, kế hoạch thị trường tự do (free market) đã có
những thành công đầu tiên; còn Adenauer chú tâm vào ngoại giao. Ngay
từ khởi đầu, nó đã mang tính cách mạng, bởi vì ông tin tưởng, cựu
lục địa Âu Châu với những quốc gia của nó đã hết còn đáp ứng
những nhu cầu và hy vọng của thế hệ hậu chiến, và chẳng thể còn
những quyền lực lớn lao ở Âu Châu, theo nghĩa cũ của từ này. Mục
tiêu của ông là một Tây Âu hợp nhất (integration), và trong lần
viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1953, ông nói rõ ra điều này trong bữa ăn
trưa tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia: Mỗi thời đại có riêng những
nhiệm vụ của nó. Tại Âu Châu, ý kiến của bất cứ một cá nhân
hiểu biết nào, đều chỉ ra một điều, một ngày nào đó, sẽ có một
Hiệp Chúng Quốc của Âu Châu. Không ai hiểu rõ điều này hơn là
những người trẻ tuổi của lục địa của chúng tôi.”
Hy
vọng một Âu Châu hợp nhất đã gặp một cú dội, vào năm 1954, khi
Quốc hội Pháp từ chối chấp thuận Cộng đồng Phòng thủ Âu Châu (The
European Defence Community). Trong một cuộc nói chuyện bị ký giả báo
Der
Spiegel nghe lén, ông tỏ ra lo sợ, chuyện nước Pháp rẫy ra sẽ đưa tới
hậu quả, là sự sống lại chủ nghĩa quốc gia và trọng binh tại Đức.
Nhưng Anh và Mỹ đã thuyết phục Pháp bằng lòng cho Đức gia nhập Nato,
như là một thành viên với đầy đủ quyền hạn của nó. Đây là một
thắng lợi ngoại giao quá sức lớn lao. Một tờ báo ở Thụy Sĩ đã cho
rằng, không thể tưởng tượng được, về những thành quả như vậy, nếu
nhìn lại một nước Đức vào năm 1949, và cũng không thể ngờ được
chuyện, Adenauer đã lèo lái đất nước trở thành một quốc gia theo
đồng minh. Nhưng rất nhiều người Đức lại tỏ ra lo ngại, điều này
càng làm cho chuyện thống nhất nước Đức tỏ ra xa vời nếu không muốn
nói là không tưởng.
Trong
một cuộc thảo luận nhằm phê chuẩn hiệp ước Nato, Audenauer đã thuyết
phục những người chỉ trích ông, rằng một chính sách
về sức mạnh dựa trên tái vũ trang và
liên kết Tây Phương, sau cùng sẽ khiến cho Liên Xô nhận ra sự thực,
là việc thống nhất nước Đức là không thể tránh được. Viễn mơ đấy,
nhưng không phải không có cơ sở. Khi tới Moscow vào năm 1955, nhận
thấy nước chủ nhà tỏ ra khinh khỉnh khi ông cố gắng nêu ra vấn đề.
Thực sự, nhằm thuyết phục Liên Xô bảo đảm việc thả mười ngàn tù
nhân chiến tranh vẫn bị cầm giữ tại đây, Adenauer đã đồng ý ký một
thoả ước nhằm tái lập liên lạc ngoại giao giữa Liên Bang Đức với
Liên Xô, một thoả ước làm đồng minh “bực mình”, bởi vì nó có thể
đưa tới hệ quả là thừa nhận Cộng Hoà Dân Chủ Đức.
Lo
sợ của đồng minh trở nên hiển hiện khi xẩy ra cuộc khủng hoảng kênh
đào Suez, và cuộc nổi dậy tại Hung vào năm 1956, cho thấy, những thế
lực Tây Phương tỏ ra bất lực, không có hiệu quả. Liên Xô nắm lấy
cơ hội này, và vào tháng Mười Một năm 1958 Nikita Khruchchev gửi một
tối hậu thư cho London, Paris và Washington, cho biết, chính sách bốn
quyền lực chia nhau kiềm soát Berlin đã hết thời và một chính sách
mới phải đưa ra trong vòng 6 tháng, nếu không Liên Xô sẽ xé lẻ, ký hiệp ước với Cộng Hoà Dân Chủ
Đức. Tối hậu thư gây khủng hoảng kéo dài tới 1962, và đây là thời
kỳ cho thấy Adenauer ở vào những phút vinh nhục nhất trong cuộc đời
chính trị của ông. Ông tỏ ra không tin cậy tất cả những đồng minh,
và thường xuyên, sự mất tin tưởng này hoàn toàn không dựa trên
những chứng liệu có cơ sở. Ông tỏ ra chắc chắn, ngoại trưởng Dulles
của Mỹ, trong những ngày cuối cùng của mình, đã muốn một cuộc chiến
tranh nguyên tử. Rằng thủ tướng Anh, Macmillan, là một “thằng ngu
đần”, chỉ khoái được Liên Xô nịnh bợ. Rằng tổng thống Kennedy, mà
ông gọi là “điểm gặp gỡ giữa một tên hải quân bé con và một gã
hướng đạo sinh Catô La mã”, đã giấu không thông báo cho ông biết
những cuộc trao đổi với Liên Xô. Cuối cùng chỉ còn trông cậy được
vào tướng de Gaulle, vào tháng giêng năm 1963 ông ký một hiệp ước
với nhà lãnh đạo nước Pháp, mà ông coi là người bảo đảm cho tương
lai của Âu Châu.
Sự
kiện không mất Berlin vào thời kỳ này phụ thuộc vào những yếu tố
phức tạp. Một trong số đó, là De Gaulle từ chối ký kết hoặc thoả
thuận, dưới sức ép của tối hậu thư. Nhờ vậy mà đồng minh đã không
đi đến quyết định đành nhả Berlin cho phe đỏ. Nhưng phần nhiều là do
những hành động của Khruschev: bỏ hội nghị thượng đỉnh vào naam 1960,
một cuộc họp chắc là sẽ đem đến cho ông hầu hết những gì mà ông
đòi hỏi về Berlin, trong đó bao gồm việc kiểm soát Berlin sẽ thuộc
về Đông Đức; quyết định chiếm một nửa bằng cách dựng Bức Tường vào
tháng Tám 1961, và lầm lẫn tiếp theo sau, khi từ bỏ chiến thuật nhắm
vào Đức và lao vào cuộc phiêu lưu đặt hoả tiễn tại Cuba. Tuy nhiên,
vai trò của Adenauer không phải không quan trọng, nếu nói về những
yếu tố quyết định. Ông tiếp tục góp phần vào việc kiểm soát Tây
Bá Linh, do khăng khăng chống lại những kế hoạch nhằm thoả hiệp với
Liên Xô, vẽ chi li những giải pháp của riêng ông, tuy thật khó thực
hiện nhưng nhằm kéo dài thời gian, luôn cả sự đe dọa, nếu tình hình
trở nên quá sức tồi tệ, ông sẽ xé lẻ nói chuyện thẳng với
Khruschev, cho đồng minh ra rìa… đã
khiến mấy ông bạn phát hoảng!
Trong
thời gian đó, ông tiếp tục làm mưa làm gió trên chính trường trong
nước. Cuộc bầu cử toàn quốc vào năm 1957 còn thành công lớo lao hơn
so với năm 1953. Nhờ kinh tế phát triển, tăng 7% mỗi năm, nhờ kế
hoạch sửa đổi hưu bổng cho người già, trong 87% người đi bầu, liên
minh của ông (CDU/CSU) chiếm 50.2%. Chưa từng có một độc đảng chiếm
được số phiếu cao như vậy, trong lịch sử bầu cử tại Đức. Và tác giả
cuốn tiểu sử về ông, Williams, viết: Vào tuổi 81, Adenauer là vị
hoàng đế không vương miện của nước Đức. Nhưng đây là chiến thắng
cuối cùng của ông.
Sự
kiện, ông coi như chẳng có gì xẩy ra, khi Bức Tường “ô nhục” được
dựng lên, đã gây bất mãn trong dân chúng, trong khi đối thủ của ông
là Willy Brandt đã đích thân tới Berlin to tiếng phản đối. Những tấn
công mang tính cá nhân của ông vào Brandt cũng gây ra những hậu quả
đáng tiếc. Và trong cuộc bầu cử vào năm 1961, ngay sau khi bức tường
được dựng lên, số phiếu dồn cho đảng của ông xuống dốc thê thảm,
mất quyền kiểm soát đa số. Những sự kiện tiếp theo sau đó càng làm
ông mất uy tín, và sau cùng đảng đã chọn người thay ông, là Ludwig
Erhard.
Jennifer
Tran