Tin Văn: Nobel văn
chương 2000 và chiếc kiềng bếp.
Nhà
nhân học người Pháp, Claude Lévi-Strauss, giản lược văn
minh nhân loại vào hình ảnh chiếc kiềng ba chân, hay cái tam giác bếp
núc; nói
rõ hơn, văn minh nhân loại chỉ quanh quẩn xó bếp: thoạt tiên ăn sống
nuốt tươi
như loài vật, rồi khám phá ra lửa, biết mùi vị của thịt chín. Chín là
hiện
tượng đuổi nước ra khỏi sống. Cộng thêm nước, thành rữa thúi.
Thế kỷ 20 cũng có một tam giác ma quỉ của nó: Lò Thiêu Nazi,
trại tù Stalin, và đỉnh thứ ba: trại tù Mao Xếng Sáng. Tam giác ma quỉ,
hay là
chiếc kiềng, dùng để “nướng người”. Từ tam giác ma quỉ, ra tam giác văn
chương
với ba đỉnh của nó: Solzhenitsyn (Nobel văn chương 1970), Guenter Grass
(Nobel
1999) và năm nay, là Cao Hành Kiện.
Giải văn chương Nobel trao cho Solzhenitsyn, là hồi chuông
báo tử gióng lên trước khi Vương Quốc Ma Quỉ xụm xuống. Với Guenter
Grass: ngôn
ngữ Đức đã lành bịnh, 50 năm sau Lò Thiêu.
Bây giờ với Cao, chúng ta có thể uớc vọng: đây là hồi chuông
báo tử cho chủ nghĩa toàn trị ở phương đông.
Trên
tờ TLS (The Times Literary Supplement, Phụ trang văn
học báo Times, London), số Oct 20, 2000, qua bài viết “Nobel Prize for
Literature
2000”, Julia Lowell đã trích dẫn lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trung
quốc,
“Giải thưởng văn chương Nobel đã được sử dụng vào những ẩn ý chính trị,
và
chẳng đáng bàn tới.” (The Nobel Literature Prize has been used for
ulterior
political motives, and is not worth commenting on.” Oct 13, 2000). Không riêng
nhà nước Trung hoa
coi là chuyện “không đáng bàn tới”, mà ngay cả ở Anh, mục Ghi Nhận,
(NB), trên
cùng số báo cho biết, trong ấn bản mới của cuốn “The new Oxford
Companion to
English Literature” không có tên Gao Xingjian. Và “không phải đây là
lần thứ
nhất, tin công bố giải thưởng đã được đón nhận bằng một sự ngạc nhiên
tại xứ sở
Anh đa văn hóa mới (the new multicultural Britain).
Gao đã sống tại Pháp từ năm 1987, và đã được vinh danh qua tước vị
Chevalier de
l’Ordre des Arts et des Lettres.”
“Trung
quốc có nhiều nhà văn nổi tiếng, [vậy mà] họ chọn thứ
người đó”, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao tuyên bố. “Tôi tin họ có ẩn ý
chính
trị”. “Ông ta có thể đúng. Trên tờ báo Anh, Guardian, người ta xì xào,
lần này
là của Salman Rushdie, Margaret Atwood, Ben Okri. Người ta xì xào ở
Trung quốc
nữa, có thể. Nhưng chắc chắn chỉ có hai nơi đó thôi.”
Theo
Jennifer Tran tôi, không thể không có chính trị, với
giải thưởng văn chương cao quí nhất của nhân loại; nhưng chính trị ở
đây, là
thứ chính trị ở mức cao nhất của nó: văn chương. Và như cái tam giác
bếp núc
của Lévi-Strauss cho thấy, đây là lúc Tây phương công nhận chiếc kiềng
bếp của
Đông phương, như nhận định của Julia Lowell, trên TLS: “Với Trung quốc,
được giải
thưởng Nobel văn chương lần đầu tiên là một biểu tượng, theo đó, đối
với toàn
thế giới, văn chương Trung quốc đã được nhìn nhận, như là một nền văn
chương
hiện đại.” (For China,
winning a Nobel Prize for Literature for the first time has been a
symbol of
achieving global recognition as a modern literarure). Nhưng vẫn theo
tác giả,
việc Gao nhận Nobel chưa đủ để cho độc giả Tây phương hết ngỡ ngàng với
hầu hết
văn chương Trung quốc. Và thách đố thực sự đối với Văn Chương Thế Giới
vẫn còn
nguyên: làm sao xây dựng cây cầu tới văn chương Trung quốc đương đại.
Độc
giả Anh ngữ hầu như chỉ biết tới tác phẩm Linh Sơn, hay
Núi Linh Hồn của Gao. Đây là một điểm rất quan trọng, của giải thưởng
Nobel văn
chương năm 2000, theo Jennifer Tran tôi. Trước đây, giải thường được
trao cho
những tác giả có nhiều tác phẩm được biết tới, có khi trao cho toàn bộ
tác
phẩm… Lần đầu tiên Nobel gần như chỉ để vinh danh “một” tác phẩm.
Đó
là ý nghĩa lớn lao của Nobel văn chương mở ra tân thiên
niên kỷ. Nó cho phép những tác giả, thí dụ như một tác giả người Việt,
có quyền
hy vọng: chỉ cần một tác phẩm cho ra hồn, là có thể mang vinh dự về cho
đất
nước!
Nhân đây, Jennifer xin cống hiến vài trích đoạn, từ một bài
tiểu luận của Gao.
Kỹ thuật đương đại và Nhân vật đất nước trong Tiểu thuyết.
Nguyên tác: Gao Xingjian
[Jennifer
Tran chuyển ngữ, theo bản tiếng Anh, Contemporary
Technique and National Character in Fiction, dịch giả Ng Mau-sang, đăng
trên
báo Renditions Nos 19/20, Spring & Autumn 1983, trên
Webpage Nhân Văn.]
1.
Thế nào là nhân vật đất nước trong văn chương? Khi Turgenev
nói “đất nước” của ông là ngôn ngữ Nga, như vậy thật rõ ràng. Nhà văn
sáng tạo
qua ngôn ngữ; nhân vật đất nước trong tác phẩm của ông, trước hết và
sau chót,
có nên hình nên dạng hay không, là do khả năng của nhà văn, trong việc
khai
thác tiềm năng nghệ thuật của ngôn ngữ.
Trung Hoa là một xứ sở có nhiều dân tộc, nơi chữ Hán được sử
dụng phổ thông nhất. Chúng ta có thể nói, bất cứ một tác phẩm được viết
bằng
chữ Hán, hay bằng những ngôn ngữ của các sắc dân khác, đều phản ảnh,
theo những
mức độ thay đổi, nhân vật của đất nước (the character of the nation).
Ngôn
ngữ là phương tiện diễn đạt qua đó chúng ta suy nghĩ và
chuyên chở những tư tưởng ý nghĩ của chúng ta. Một tác phẩm được viết
bằng ngôn
ngữ mẹ đẻ của một đất nước, tự nhiên là sẽ phản ảnh truyền thống văn
hóa của
đất nước đó, cách sống, kiểu suy nghĩ (mode of thought). Cho dù vay
mượn những
cách viết, kỹ thuật ngoại, nếu một nhà văn Trung Hoa, viết bằng tiếng
Trung
Hoa, và viết cho ra hồn, thể nào cũng có mùi vị đất nước ở trong tác
phẩm của
anh ta. Anh ta càng chắt chiu sàng lọc văn hóa đất nước được bao nhiêu,
nhân
vật đất nước của anh ta càng có hồn bấy nhiêu. Nước Ý được mô tả bởi Gorky
sẽ trở nên -trong-văn-chương-Nga (Ytaly-in-Russian-literature). Cũng
như vậy,
là một nước Mỹ được nhìn bởi những nhà văn Trung Hoa.
2.
Chừng
nào nhà văn còn mô tả cuộc sống đất nước, bằng tiếng
mẹ đẻ, cách mô tả của anh ta càng sống động bao nhiêu, nhân vật đất
nước của
anh ta càng giầu có bấy nhiêu. Kỹ thuật sử dụng chỉ là phụ thuộc.
“The
Goddess”, một tuyển tập những bài thơ đầu của Guo
Moruo, hiển nhiên là đã được viết ra bằng hứng khởi khi đọc nhà thơ Hoa
Kỳ Walt
Whitman. Tuy nhiên, chẳng có ai nghĩ, đây là những bài thơ ngoại…. Lỗ
Tấn còn
hung hăng tới độ, đưa ra nguyên lý cứ tha hồ “ăn cắp”, bất cứ thứ gì có
ích
(principle of taking whatever is useful). Trong tác phẩm của ông có đủ
thứ, nào
là chủ nghĩa hiện thực phê bình tây phương, chủ nghĩa lãng mạn, ấn
tượng, biểu
tượng và ngay cả chủ nghĩa siêu thực.
Trong
“Nhật Ký của Người Khùng”, Lỗ Tấn thâm nhập Kafka; ông
mượn Gogol, điều được gọi là “kỹ thuật của sự lố lăng, kệch cỡm, quái
dị”
(technique of the grotesque). Bài thơ xuôi “The Passer-by” “chẳng khác
gì mấy”
(differ little), về hình thức, từ những kịch của Pirandello, và được
viết ra
vài năm trước khi có những vở kịch của Ionesco và Beckett. Ông sử dụng
kỹ thuật
biểu tượng trong tác phẩm “Medicine” và “Revenge”, kỹ thuật ấn tượng
trong “The
Story of the good”, “Snow”, “The beggar” và “Autumn night”; và kỹ thuật
của chủ
nghĩa siêu thực (vừa mới ra lò ở Tây Phương lúc đó) trong “Dead fire”,
“The
epitaph” và “Vibration”. Cách viết “Câu chuyện thực về A Q” (The true
story of
Ah Q): trước đó, ở Trung Hoa chưa hề có ai viết như vậy.
Bởi vì Lỗ Tấn xoáy mãi vào nỗi
đau, và tinh thần phản kháng
của người dân Trung Hoa, và bởi vì ông là một tay cự phách, trong việc
làm chủ
ngôn ngữ, tác phẩm của ông lóng lánh tinh thần hiện đại, tinh thần cách
mạng của
một dân tộc tỉnh thức sau giấc ngủ, quyết tâm giải phóng chính mình ra
khỏi chủ
nghĩa thực dân và phong kiến.