Một
sự ngây thơ trọn vẹn - Trước một đứa trẻ chết đói, cuốn
Buồn Nôn chẳng có ký lô nào cả - Một bí
mật nho nhỏ về Koba - Ngài Henry thân mế
Một
sự ngây thơ trọn vẹn.
Phượng,
tên một nhân vật trong phim gián điệp "Người Mỹ
trầm lặng" đang được quay tại Sài Gòn, dựa theo tiểu thuyết của nhà văn
người Anh, Graham Greene, bị một số báo chí Việt ngữ viết sai là
Phương, trong
khi chính tác giả đã giải thích ở trong truyện, đây là tên một loài
chim quí,
phượng hoàng"Phuong," I said – which means Phoenix, but nothing
nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes. "Phượng", tôi
nói, "Phượng có nghĩa là Phượng hoàng, nhưng những ngày này chẳng có
chi
là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của loài chim
đó":
Câu văn như một "lời nguyền" cho một cuộc chiến sắp sửa tái diễn.
Nhưng nói cho cùng, chẳng có chi là huyền hoặc, về chuyện người Mỹ sẽ
hất cẳng
người Pháp, và cuộc chiến sẽ biến tất cả thành tro than, và chẳng có gì
mọc lên
từ đó.
Lời
đề tặng ở trang đầu, là dành cho một nhân vật Phượng
"có thể" có thật ở ngoài đời:
"René
và Phượng thân mến, Tôi xin phép được tặng cuốn
sách này cho các bạn, không chỉ để tưởng nhớ những buổi chiều hạnh phúc
mà
chúng ta đã cùng trải qua tại Sài Gòn, trong hơn năm năm qua, nhưng còn
bởi vì
tôi cảm thật hổ thẹn đã mượn căn hộ của các bạn, làm chỗ trú ngụ cho
một nhân
vật của tôi, và tên của bạn, Phượng, để độc giả dễ dàng theo dõi, bởi
vì đây là
một cái tên giản dị, đẹp, và dễ phát âm, so với những tên đàn bà khác,
của đồng
bào bạn. Cả hai bạn sẽ nhận ra một điều, tôi còn vay mượn thêm chút
đỉnh, nhưng
chắc chắn không phải từ phía Việt Nam.
Pyle, Granger, Fowler, Vigot, Joe – những người này chẳng có chút dây
mơ rễ má
với cuộc đời của Sài Gòn hay Hà Nội, và Tướng Thế thì đã chết: bị bắn
từ phía
sau lưng, như người ta nói. Ngay cả những biến động thực sự xẩy ra,
cũng đã
được dàn dựng lại, ít ra là trong một trường hợp. Thí dụ như vụ nổ lớn
gần
khách sạn Continental, đã xẩy ra trước những vụ nổ do bom cài trên
những chiếc
xe đạp. Tôi chẳng cần phải đắn đo, về những thay đổi nho nhỏ như vậy.
Đây là
một câu chuyện tiểu thuyết, chứ không phải là một mẩu lịch sử, và tôi
hy vọng
câu chuyện về vài nhân vật giả tưởng sẽ mua vui cho đôi bạn được một
vài trống
canh, trong một đêm nóng nực của Sài Gòn."
Và
đây là nhận xét của Fowler về đàn bà
"Annamite", ngay ở đoạn mở đầu, khi anh ta đang chờ Pyle tại căn
phòng của mình ở đường Catinat, rồi Phượng tới: "Ngủ với một người đàn
bà
Annamite là như ngủ với một con chim: họ líu lo và hát bên gối bạn."
(To take
an Annamite to bed with you is like taking a bird: they twitter and
sing on
your pillow).
Như
lời giới thiệu ở trang bìa (nhà xuất bản Penguin):
"Người Mỹ trầm lặng" là một bức chân dung đáng sợ về sự ngây thơ trọn
vẹn. Trong lúc Quân đội Pháp tại bán đảo Đông Dương vật lộn với Việt
Minh, ở
hậu phương Sài Gòn, một người Mỹ trẻ, cao cả (high-minded) lo chuyện
viện trợ
kinh tế cho "Lực lượng thứ ba".
Cao
cả, có thể như vậy chăng, khi người Mỹ thay chân người
Pháp ở Việt Nam?
Như nhân vật Fowler, người Pháp, một ký giả làm theo mùa, nhận xét:
"Tôi
chưa từng gặp một người nào có những động cơ tốt đẹp hơn, [nếu nói] về
những
rối loạn mà anh ta đã gây ra." Và khi rối loạn tiếp theo rối loạn, máu
đòi
máu, tay ký giả già thấy thật khó mà đứng bên lề, như một quan sát
viên. Nhưng
những động cơ của Fowler thật đáng nghi, đối với cảnh sát, với chính
anh ta, và
với độc giả: bởi vì Pyle, "người Mỹ trầm lặng", đã "chôm"
mất người tình của anh Tây già.
"Ngay
từ thời thơ ấu, tôi đã không hề tin vào một cái
gì trường cửu, tuy nhiên tôi lại ước vọng nó. Luôn luôn, tôi sợ mất
hạnh phúc.
Tháng này, năm sau, Phượng sẽ rời bỏ tôi…
-Tha
lỗi cho tôi, vì đã đoạt cô Phượng của anh, giọng Pyle
nói.
-Ô,
tôi không biết nhẩy, nhưng thích ngắm nàng nhẩy.
Người
ta luôn luôn nói về nàng, bằng ngôi thứ ba, như thể
nàng không hề có ở đó. Đôi khi nàng có vẻ vô hình, như thanh bình."
Anh
Tây già nhận xét Pyle, người Mỹ trầm lặng, bằng những
từ: "Tôi ngạc nhiên không biết hai người nói chuyện gì với nhau. Pyle
thì
rất hăm hở, và tôi đã đau khổ vì những bài thuyết trình của anh ta về
Viễn
Đông, mà vốn liếng của anh ta chỉ có chừng vài tháng, trong khi của
tôi, hàng
năm. Dân chủ lại là một đề tài hăm hở khác của anh – anh ta có những
quan điểm
thật quá khích về những gì Hoa Kỳ đang làm cho thế giới. Ngược lại,
tuyệt vời
thay, Phượng nàng chẳng biết gì hết: nếu Hitler tới, nhập vào câu
chuyện, nàng
sẽ chẳng bao giờ ngắt lời, để hỏi, ông ta là ai ("Người Mỹ trầm lặng",
trang 12, ấn bản Penguin)….
"Nếu
Hitler tới nhập cuộc…", liệu câu này, giống
như một thai đố, bao trùm lên cuộc chiến, với những tội ác của nó, thí
dụ như
vụ Thanh Phong đang nóng bỏng trên bàn tay bạn, qua tờ báo mới ra lò?
"Thai
đố", là được "gợi hứng" từ câu trả
lời phỏng vấn của nhà đạo diễn điện ảnh Oliver Stone, tác giả một số
phim nổi
tiếng về Việt Nam, và cũng từng tham gia cuộc chiến tại đây, trên tờ
Time số
May 7, 2001: "Chuyện này (Thanh Phong) làm tôi nhớ rất nhiều tới những
khó
khăn của cuộc chiến, những hàm hồ của nó. Tôi đã ở trong những làng nơi
người
dân quê bị giết và bị lạm dụng. Giận dữ, sợ hãi, từ đó mà ra. Có những
vụ hãm
hiếp, đánh đập, và sát nhân. Tôi nghe được những câu chuyện [như vậy]
từ những
người thân cận với tôi. Bạn ở trong một vùng lửa đạn nóng bỏng. Một
người dân
làng tiến tới từ phía sau bạn, thí dụ như từ một đụn cát. Người đó đầu
hàng,
nhưng đôi khi, một kẻ nào đó nổ súng, và làm toi một mạng người.
Chuyện
xẩy ra với Thượng Nghị Sĩ Kerry, đó là: liệu có tiếng
súng bắn về hướng họ hay là không. Đây là câu chuyện (giống như trong
phim) Địa
Ngục Môn….". Đây là phim nổi tiếng của Nhật, câu chuyện về một cái chết
của người chồng là một kiếm sĩ, qua lời kể của từng nhân vật liên quan.
Mỗi
người nói một cách, và cuối cùng chẳng biết đâu là sự thực.
Người
viết làm quen với Greene những ngày học trung học, qua
tác phẩm "Người thứ ba", câu chuyện về một người đàn ông truy tìm thủ
phạm đã sát hại bạn thân của mình, rút cục khám phá ra, chính cái tay
bạn thân
của mình, đã dùng kế kim thuyền thoát xác, tức là giết địch thủ, rồi để
lại
giấy tờ của mình cho cái xác chết, và tiếp tục giết hàng triệu triệu
trẻ em
trên thế giới, qua trò sản xuất, và tung ra khắp thế giới, loại thuốc
trụ sinh
dởm…
Qua
tin báo chí, viên tướng tình báo Cộng Sản, Phạm Xuân Ẩn,
trước nằm vùng tại miền nam, có gặp gỡ phái đoàn quay phim, và cho
biết, ông có
chứng kiến vụ nổ bom trên, và cho biết thêm, ông biết nhà văn Graham
Greene là
gián điệp Anh. Điều này thế giới đều biết, vì Greene cũng chẳng giấu.
Nhưng chi
tiết trên chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động gián điệp từ lâu. Và cái việc, vào
giờ
chót, ông ta đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời ông Diệm, lên máy bay
ra nước
ngoài, chứng tỏ một điều: hai người có thể đã hiểu rõ nhau từ khuya!
2.
Trước một đứa trẻ chết đói, cuốn "Buồn Nôn"
chẳng là gì cả.
Phụ
trang văn học báo Thế Giới, số tháng Tư 2001, đặc biệt
về triết gia người Pháp, Jean-Paul Sartre ("Người ta đã xong chưa, với
Sartre?"), đã ghi lại câu trên, được phát biểu trong một cuộc phỏng vấn
dành cho báo này, vào năm 1964: "En face d’un enfant qui meurt, la
Nausée
n’a pas de poids": Trước đứa trẻ đang chết…. Nhưng cũng chính trong phụ
trang văn học nói trên, trong cuộc phỏng vấn nhà văn Peru,
Mario Vargas Llosa, câu trên lại là: "… La Nausée ne fait pas de poids
‘face à un enfant qui meurt de faim’: cuốn Buồn Nôn chẳng có ký lô nào
‘trước
một đứa trẻ chết đói’.
Sartre
đã ảnh hưởng tới "một vài" thế hệ những nhà
văn, trong số đó, có Llosa. Khi được hỏi, phải chăng, "Sartre ảnh hưởng
rất nhiều ở nơi ông, cả hai mặt tích cực và tiêu cực", Llosa đã trả
lời,
"Đúng như vậy, Sartre quan trọng số một trong thời trẻ của tôi, cho tới
khi tôi dãn ra, tới độ phủ nhận ông…. Cú sốc đưa đến chuyện đoạn tuyệt
vô
phương hàn gắn, đó là từ câu tuyên bố của Sartre, trong cuộc phỏng vấn
trứ danh
trên tờ Le Monde và năm 1964, như trên. Sartre còn nói thêm, đối với
những nhà
văn thuộc thế giới thứ ba, họ nên từ bỏ viết, lo những công tác giáo
dục hay
chính trị. Đây đúng là một sự phản bội, từ một con người đã từng dậy
tôi
(Llosa) rằng, "những chữ là những hành động." (les mots sont des
actes).
Thật
khó mà nói, "đã xong rồi", với một tác giả
khổng lồ như Sartre. Khổng lồ, cả về hai mặt vinh quang và lỗi lầm. Dấn
thân
hết mình, về cả hai mặt, sống và viết. Như câu tuyên bố của ông cho
thấy,
Sartre không tin tưởng cho lắm vào văn chương. Ở một chỗ khác, ông
viết,
"Ham viết, thèm viết, một cách nào đó, là chối từ sống."
("L’appétit d’écrire enveloppe un refus de vivre."). Tuy nhiên, số
lượng tác phẩm của ông thật khổng lồ, hầu hết do Gallimard xuất bản:
Tưởng
tượng (L’Imagination, 1936); Buồn Nôn (1938) Bức Tường; Phác họa một lý
thuyết
về cảm xúc (1939); Giả tưởng (L’Imaginaire,1940); Những Con Ruồi
(kịch); Hữu
Thể và Hư Vô (1943); Phê bình lý luận biện chứng (1960)… Ông đã ảnh
hưởng tới
rất nhiều nhà văn của hậu bán thế kỷ 20, thường thường, lúc đầu họ đều
mê ông,
như trường hợp nhà văn người Peru
kể trên. Hoặc như trường hợp nhà văn người Đức, Guenter Grass Nobel văn
chương.
Grass cho rằng, khi chọn Camus thay cho Sartre, một cách nào đó, ông đã
đúng,
ít ra là đối với riêng ông: như là một nhà văn. Llsosa, trong một bài
tiểu luận
nhan đề "Giữa Sartre và Camus", đã chọn Camus.
Sau
đây là một vài trích dẫn, từ những tác phẩm của Sartre.
"Phải
viết cho thời đại của mình, như những nhà văn lớn
đã làm. Nhưng điều này không có nghĩa, phải chết cứng ở trong nó. Viết
cho thời
đại không có nghĩa, phản ảnh nó một cách thụ động, mà là, mong muốn nắm
bắt,
hay thay đổi nó, và như vậy có nghĩa, vượt qua nó, về tương lai, và
chính sự cố
gắng muốn thay đổi thời đại đã làm cho chúng ta ngự trị sâu thẳm ở
trong nó; bởi
vì thời đại sẽ không còn giản lược về một tập hợp chết, của những đồ
dùng hay
tập quán, mà là chuyển động nó tự vượt nó, hoài hoài, hoà nhập trong nó
là một
hiện tại cụ thể và một tương lai sống động, của tất cả những con người
làm nên
nó."
(Thời
Mới, tháng Sáu 1948).
"Mỗi
lần tôi phạm lỗi lầm, đó là bởi vì tôi đã chưa đủ
triệt để"
(Nhận
Định X)
Trong
những lỗi lầm của Sartre, có vụ liên quan tới cuộc
khởi nghĩa Budapest của
nhân dân Hungary,
vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào
năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa Liên Xô
đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre,
trong
một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè dặt", sự can
thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng
tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng
vấn.
Lẽ
dĩ nhiên, quyết định của điện Cẩm Linh là "một lỗi
lầm không thể tưởng tượng được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc
nổi dậy "có chiều hướng phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là
"một tội ác", nhưng… "trong những nhóm người này, kết hợp nhằm
chống lại những người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary,
người ta nhận ra, có những thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi
giục"…. "sự có mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của
Liên Xô là "một điều cần thiết"….
Lịch
sử sau đó cho thấy, nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở
cuộc cách mạng Hungary
vào năm 1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm
đỏ cả Âu
Châu, là một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc
phỏng vấn kể trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách
mạng không
mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une
révolution politique qui évoluait à droite).
Tất
cả những khẳng định của Sartre đã được tờ Pravda đăng
tải, cộng thêm những lời ca ngợi cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của
Janos
Kadar, vào ngày 5 tháng 11. Một tháng sau đó, chúng trở thành những lời
buộc
tội những người cầm đầu cuộc cách mạng…
Nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền đã ca ngợi cuộc cách mạng Budapest
bằng những vần thơ sau đây, được thi sĩ trước tác vào tháng 12 năm 1956:
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Anh
một trái tim em một trái tim
Chúng
kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy
cho anh giận bằng ngực em
Như
chúng bắn lửa thép vào
Môi
son họng súng
Mỗi
ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy
cho anh la bằng cổ em
Trời
mai bay rực rỡ
Chúng
nó say giết người như gạch ngói
Như
lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy
cho anh run bằng má em
Khi
chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa
những ngón tay vào nhau
Thân
thể anh chờ đợi
Hãy
cho anh ngủ bằng trán em
Đau
dấu đạn
Đêm
không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng
tấn công hoài những buổi sáng
Hãy
cho anh chết bằng da em
Trong
dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh
sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi
những người kế tiếp
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Cũng
vẫn thi sĩ, trong một, trong những bài thơ đầu tiên, đã
nhận ra sự "thất bại trong chiến thắng", của một miền đất:
Chúng
nó làm phát xít
Chúng
nó làm cộng sản
Chúng
ta làm tù nhân
(Trích
bài thơ Tù Binh, trong tập Tôi Không Còn Cô Độc, Sài
Gòn, 1956)
(kỳ
tới: Sartre và Việt Nam)
3.
Một bí mật nho nhỏ về Koba.
Vào
năm 1915, một lá thư được tuồn qua khe cửa Tòa Lãnh Sự
Nga tại Paris. Tác giả bức
thư, một
nhân viên mật vụ Okhrana của Nga hoàng; và có thể còn là đảng viên
Bolshevik.
Lá thư tiết lộ tin tức quan trọng về quan điểm của những người lãnh đạo
Đảng,
và tác giả bức thư cũng chẳng thèm giấu giếm sự thù hận dân Do Thái của
mình.
Có
điều người này không biết, Toà Lãnh Sự đã dời đi nơi
khác. Không hiểu bằng cách nào, lá thư tìm ra con đường của nó, và tới
tay
Lênin, lúc đó ở Zurich.
Phải tìm ra
tên nằm vùng khốn kiếp này. Thoạt tiên Lênin nghĩ, có thể là "Koba" ở Siberia,
nhưng lại không biết tên
thực của Koba. Ông
viết thư cho Zinoviev để hỏi. Koba là bí danh của Iosif Dzhugashvili,
vào năm
1917, đã đổi thành… Stalin!
Koba
là một trong rất nhiều tên cướp chuyên thực hiện những
việc bẩn (dirty work) cho Lênin. Đã từng bị bắt (và được tuyển dụng)
bởi Tiflis
Okhrana vào năm 1906. Trong sáu năm tiếp theo, Koba đóng vai gián điệp
hai
mang, bán tin tức cho cảnh sát Nga hoàng, về những đồng chí trong Đảng.
Tới năm
1912, Koba cắt đứt liên lạc với Okhrana. Lý do là Koba ghen tức với
Roman
Malinovsky, được Lênin cất nhắc lên hàng lãnh đạo Đảng, trong khi đây
là một
gián điệp của Nga hoàng. Malinovsky đã giữ vai trò chủ chốt, trong việc
phân
hóa nhóm Xã hội Dân chủ ở Duma, đây là một chiến thuật được dàn dựng
bởi
Okhrana (thành thử có thể nói, nhóm Bolsheviks là do cảnh sát Nga hoàng
sáng tạo
ra). Trong khi tìm mọi cách để trừ khử Malinovsky, Stalin (Koba) đã
viết lá thư
trên, cho viên Phụ tá Bộ trưởng Bộ Nội vụ ở Petersburg, một người mà
ông đã
từng cùng dùng cơm trưa. Stalin báo động, Malinovsky là một tên
Leninist đến
tận xương tuỷ; và để thay thế anh ta, là …. tui: trùm gián điệp giữa
những
người Bolsheviks.
Vào
năm 1918, trái chanh Malinovsky cuối cùng cũng bị vắt
cạn, và bị xử bắn, bởi Tòa án bí mật. Nhưng hồ sơ về Stalin vẫn được
giấu kín
trong đống thư khố khổng lồ của Okhrana tại St.
Petersburg.
Trong cuộc Cách mạng tháng Hai 1917, đám đông giận dữ đã nổi lửa thiêu
rụi toà
nhà cảnh sát, hồ sơ ở đây trưóc đó, được gói thành từng bó, phân tán
vào trong
những thư khố khác.
Bây
giờ, câu chuyện trên đây là đề thú vị của cuốn "The
Secret File of Joseph Stalin: a hidden life" (Hồ sơ bí mật của J.
Stalin,
một cuộc đời được giấu kín) tác giả Roman Brackman.
Theo
Orlando Giges, giáo sư sử học tại Birkbeck College,
London, người điểm sách trên tờ TLS số May 4, 2001, cái tựa có thể gây
hiểu lầm,
bởi vì Brackman đâu có kiếm ra hồ sơ thất lạc kể trên. Cho tới giờ, nó
vẫn bị
thất lạc, nghĩa là được đem ra khỏi điện Cẩm Linh, cất kín ở một xó
xỉnh nào
đó. Nhưng tác giả thật có công, trong việc sắp xếp những sự kiện, những
thông
tin, từ nhiều nguồn khác nhau, và cho thấy mức nguy hiểm "khủng
khiếp", cho những ai đã "không may" nhìn thấy nó.
Từ
thập niên 1940, người ta đã được biết những sự kiện cơ
bản những năm khởi nghiệp của Stalin, nhưng ngay cả trước đó, những sự
kiện như
vậy đều bị nghi ngờ, ở cả Liên Xô lẫn Tây phương. Vào năm 1946, Thư Khố
Bakhmeteff thuộc Đại học Columbia, đã mua tài liệu quan trọng nhất về
hồ sơ
Stalin, được lén lút "vượt biên" ra khỏi Liên bang Xô viết, qua một
luật sư và còn là chỉ điểm viên thuộc cơ quan mật vụ NKVD, tên là
Golovachev
(tay này đã được Pasternak "hư cấu" thành nhân vật "như một loài
chấy rận", Komarovsky, trong "Bác sĩ Zhivago"). Đó là một bản
tóm tắt (memo), được viết bởi Alexander Eremin, Trùm Bộ phận Đặc biệt
thuộc
Cảnh sát Nga hoàng. Trong đó có một đoạn về sự nghiệp của ông trùm đỏ,
khi còn
phục vụ trong cơ quan Okhrana, từ năm 1906 tới 1912.
Tài
liệu này sau cùng hoá ra là đồ dởm. Nó chỉ là "bản
sao bậy bạ" của bản memo thứ thiệt, mà, than ôi!, đã được Stalin thu
hồi,
cùng với hồ sơ của ông, vào năm 1937 khi nhân viên NKVD lục lọi căn
phòng của
một sĩ quan Hồng Quân, trong khi sửa soạn tiến hành vụ án Tukhachevsky.
Sợ rằng
kẻ thù sẽ lợi dụng hồ sơ thật về đời mình, Stalin đã cho người ngụy tạo
một hồ
sơ dởm, như vậy mọi tố cáo của kẻ thù, nếu xẩy ra, sẽ trở nên vô hiệu.
Lo
sợ hão. Chẳng ai dám tố cáo, cho dù nhìn thấy nó. Bởi vì,
nó đã được tìm thấy vào năm 1926, khi được chuyển tới Moscow, từ Bộ
Cảnh Sát
cũ, và có một số người đã nhìn thấy nó. Phần cơ bản của hồ sơ sau đó
được một
thư khố viên can đảm, nhưng không có tên, thông báo cho David Shub, Chủ
bút tờ
nhật báo Menshevik ở Berlin; ông này sợ, không dám in ra, nhưng lại
chuyển tới
ký giả Mỹ, Isaac Levine (bản tiếng Anh của memo có thể tìm thấy tại thư
khố
Hoover Institution thuộc Đại học Stanford). Vào năm 1938, ngày thứ nhì
của vụ
án Bukharin, Levine viết một bài báo trên tờ American Journal, đưa ra
gợi ý,
rằng mọi sự trình diễn vụ án như trên, là do Stalin phóng ra, nhằm phủi
sạch
mọi dấu vết của cái quá khứ ô nhục của ông ta. Đây là khởi điểm của
"giả
thuyết" của Brackman: tất cả mọi người biết, hoặc có thể biết, về hồ sơ
Stalin, đều bị thủ tiêu một cách tàn nhẫn, do những mệnh lệnh từ chính
miệng
tay đao phủ ở điện Cẩm Linh, truyền xuống.
Khi
hồ sơ Stalin được phát giác lần đầu tiên vào năm 1926,
nó đã được trao tận tay trùm mật vụ GPU, Dzerzhinsky. Trùm thì trùm,
vẫn sợ đến
té đái, và giấu biệt nó, trong những đống hồ sơ của ông ta. Hai ngày
sau, ông
trùm đi đời, ngay trong lúc đang đọc diễn văn tại đại hội Đảng.
Brackman tin
rằng ông ta đã bị đầu độc, bằng nước uống, ngay trong đại hội. Tuy
nhiên chẳng
có chứng cớ về việc hạ độc, cũng như về việc, rằng Stalin đã biết
Dzerzhensky
nắm được hồ sơ. Nó được tìm thấy trong ngăn kéo bàn ông Trùm và được
trao tay
cho người kế vị, Menzhinsky; ông này phân phát nội dung của nó, tới một
số lãnh
đạo Đảng và quân đội, trong đó có Thống tướng (Marshal) Tukhchevsky.
Theo
Brackman, họ đều dính vào một âm mưu nhằm huỷ diệt Stalin. Menzhinsky
bị chết
vì thuốc độc vào năm 1934. Tất cả những đồng tham dự trong âm mưu đều
bị sát
hại trong cuộc Khủng Bố, đỉnh cao của nó là vụ án Tukhachevsky 1936-38.
Giả
thuyết của Brackman chỉ thuyết phụ được có một nửa.
Dzerzhinvsky, đúng. Menzhinvsky, có thể. Tukhachevsky, may ra. Nhưng
còn
Kamenev, Zinoviev, và Bukharin? Chẳng lẽ tất cả những cuộc trình diễn
vụ án như
trên là để che giấu hồ sơ bí mật của Stalin? Liệu những người như
Trotsky,
Gorky, Mikhoels bị giết, là vì đã biết tới hồ sơ?
Sự
thật là, có quá nhiều vụ sát nhân, vượt lên trên cơn
hoang tưởng mà tác giả dùng nó như là một cái cớ để giải thích trọn
cuộc đời
của ông trùm đỏ. Những vụ sát nhân tập thể, lấy đi hàng triệu sinh
mạng? Chẳng
lẽ chỉ vì một hồ sơ nho nhỏ, về Koba?
4.
Ngài Henry thân mến,
(Dear
Henry,)
Henry
ở đây, là Henry Kissinger, ông vua đi đêm, ảo thuật
gia trong ngành ngoại giao. Nếu Stalin có một hồ sơ nho nhỏ, về những
năm tháng
còn mang bí danh là Koba, và đã tìm đủ mọi cách để cho nó ngủ yên, cùng
với
những người không may biết đến nó, sau đây người viết xin được cống
hiến, khuôn
mặt giấu kín của ông vua đi đêm, qua bài viết "Dear Henry", trên tờ
"Người Quan Sát Mới" (Le Nouvel Observateur), số đề ngày 9 tháng Năm
2001. Theo tác giả bài báo, cần phải đưa Kissinger ra toà án quốc tế.
Bài
báo là một trích đoạn, từ cuốn "Những Tội Ác của
Ngài Kissinger" ("Le Crimes de Monsieur Kissinger", tác giả
Christopher Hitchens, nhà xuất bản Saint-Simons, 206 trang, 99 F).
Trong
mười năm, từ 1969 tới 1977, Henry Kissinger là kiến
trúc sư về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ. Trùm Cố Vấn Quốc Gia về An
ninh,
và, từ năm 1972, Bộ trưởng Ngoại Giao, ông cho áp dụng lý thuyết về
những liên
hệ quốc tế, đã từng được ông điều nghiên và đem ra giảng dậy khi còn
làm giáo
sư môn khoa học chính trị tại đại học Harvard.
Xuất
thân từ một gia đình tiểu-trưởng giả
(petite-bourgeoisie) Do Thái, tị nạn Nazi tại Mỹ vào năm 1938, con
người - được
coi là bộ não chiến thuật của Richard Nixon, và sau đó của Gerald Ford
– đã
từng say mê Metternich và "trật tự Âu Châu" nửa đầu thế kỷ 19. Viễn
ảnh thế giới của Kissinger - ông ta đã cố gắng đem ra áp dụng, từ Việt
Nam tới
Cận Đông, từ Moscow tới Bắc Kinh – là một viễn ảnh dựa trên sự khinh
miệt đối
với những ý thức hệ, và một tiếp cận mang tính thực dụng, những tương
quan
quyền lực. Đi đêm với Bắc Kinh, kết quả, Hoa Kỳ công nhận Trung Quốc.
Đi đêm
với Lê Đức Thọ, kết quả, chấm dứt chiến tranh Việt Nam, người Mỹ ra đi
trong
danh dự; kết quả, đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với họ Lê vào năm 1973.
Luôn
luôn đóng vai trò con người bình dị, khiêm tốn, trên chính trường quốc
tế,
nhưng đằng sau "Ngài Henry thân mến", là khuôn mặt giấu kín, sặc mùi
máu. Chính bộ mặt này đã được ký giả Christopher Hitchens quan tâm. Dựa
trên
những hồ sơ mật tại Bạch Cung, tại Bộ Ngoại Giao, tại CIA, bây giờ đã
được để
cho công chúng coi, ông đã cố gắng chứng minh, thật khác xa con người
được
những kẻ ái mộ coi là một ảo thuật gia trong ngành ngoại giao,
Kissinger đã
chơi một trò chính trị mù mờ (confuse), không đem đến kết quả
(inefficace), và
mang tính tội ác (criminelle), và phải đem ông ta ra tòa án quốc tế.
Bài
báo trích dẫn, là về vai trò của Kissinger, trong vụ làm
thịt tổng thống Salvador Allende của nước Chile, và kết quả là sự lên
ngôi của
nhà độc tài Pinochet.
Từ
năm 1962, tại Chile - cũng như tại Ý và một số quốc gia
khác - CIA đã tài trợ những đảng phái "ngoan ngoãn". Tuy nhiên, trong
cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Chín 1970, ứng cử viên tả phái,
Salvador
Allende đã thắng thế. Chỉ nội tên Dr Salvador Allende không thôi, đã là
một cái
gai đối với những đảng phái cực hữu, những công ty đầy quyền lực như
ITT,
Pepsi-Cola, Ngân Hàng Chase Manhattan, và CIA.
Cái
gai chẳng mấy chốc làm "nhức nhối" tổng thống
Nixon, gì thì gì cũng còn chút ân tình với Donald Kendall, chủ tịch
hãng
Pepsi-Cola, thời gian Nixon không thành công trong chính trị, "đành"
gia nhập một văn phòng luật nơi Phố Tường. Mười một ngày sau khi
Allende chiến
thắng bầu cử, một chuỗi hội họp đã diễn ra tại Washington, số mệnh của
ngài tân
tổng thống tả phái, và tương lai chính trị xứ Chile đã được quyết định.
Sau khi
bàn bạc với Kendall, với David Rockefeller (Ngân Hàng Chase Manhattan),
và với
Richard Helms, trùm CIA, Kissinger cùng Helms tới Văn Phòng Bầu Dục tại
Bạch
Cung. Qua những ghi chú của Helms, Nixon chẳng úp mở gì, cho biết ngay
"ao
ước" của ông: Allende không được rớ tới cái ghế tổng thống (Allende ne
devait pas occuper ses fonctions électives). "Bất kể những rủi ro có
thể
xẩy ra. Không được để dính dáng tới tòa đại sứ. Trước hết là 100 ngàn
đô la
tiền mặt, sau cần nhiêu chi nhiêu. Làm việc ngày đêm. Chọn toàn dân
xịn, thứ cừ
nhất mà chúng ta có. Chương trình hành động: 48 giờ đồng hồ."
Những
tài liệu bây giờ cho thấy, Kissinger, Cố Vấn An Ninh
Quốc Gia, khi đó chẳng biết gì về Chile, một xứ sở mà ông ta mô tả,
"mũi
dao nhọn nhắm thẳng vào trái tim Nam Cực". Nhưng gì thì gì, Sếp muốn là
Trời muốn. Một nhóm người được triệu tập tại đại bản doanh CIA ở
Langley, và
một kế hoạch "đòn kép" được đề ra: một đòn "dương", nghĩa
là công khai, về mặt ngoại giao, và một đòn "âm": đòn đánh lén. Bộ
Ngoại Giao và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Chile coi như không biết tới đòn này.
Mục tiêu:
tạo bất ổn định, bắt cóc, ám sát…. nhằm đưa tới một cú đảo chánh bằng
quân sự.
Kế
hoạch gặp một số trở ngại, ngắn và dài hạn, nhất là trước
khi Allende làm lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Trở ngại dài hạn, là
do
truyền thống của đất nước Chile, quân đội vốn giữ vị trí trung lập, đối
với
quyền lực chính trị. Trở ngại ngắn hạn nhắm vào Tướng René Schneider.
Với chức
năng Tổng Tư Lệnh Quân Lực, ông công khai bầy tỏ sự chống đối, bất cứ
một âm
mưu dùng quân đội đảo ngược kết quả bầu cử. Chính vì vậy, sau một cuộc
họp vào
ngày 17 tháng Chín 1970, một quyết định được đề ra: phải cho ông Tướng
đi chỗ
khác chơi.
Kế
hoạch "đốt nhà" được giao cho những sĩ quan cực
đoan, rồi đổ tội cho những phần tử tả phái, ủng hộ Allende, là "đích
danh
thủ phạm". Phải làm sao tạo được một sự hỗn loạn khiến quốc hội không
chấp
nhận Allende làm tổng thống. Tiền thưởng 50 ngàn đô sẽ chi cho một,
hoặc một
nhóm sĩ quan chịu chơi. Helms và viên phụ tá đặc trách chiến dịch đòn
ngầm,
Tomas Karamessines, giải thích cho Kissinger họ không được lạc quan về
chiến dịch.
Thành phần sĩ quan tỏ ra ngần ngại, hoặc chia rẽ, hoặc trung thành với
Tướng
Schneider và hiến pháp Chile. Như ghi chú của Helms cho thấy: "Chúng
tôi
cố gắng làm cho Kissinger hiểu chuyện thành công là rất mỏng manh".
Kissinger ra lệnh thật là minh bạch cho Heilms và Karamessines, tiếp
tục chơi,
với bất cứ giá nào.
Ngày
15 tháng Chín 1970, Kissinger được thông báo, đã kiếm
ra viên sĩ quan chịu chơi, tướng (général) Roberto Viaux; tay này có
những liên
lạc mật thiết với nhóm cực hữu Patria y Libertad, bản thân ông ta cũng
là một
tay cực hữu. Ông chấp nhận lấy 50 ngàn đô để trừ khử tướng Schneider.
Danh từ
được sử dụng để chỉ viên sĩ quan chịu chơi là "kẻ bắt cóc", tuy nhiên
lại có lệnh hãy cung cấp súng máy, và lựu đạn cay cho những cộng sự
viên của
Viaux, họ cũng chẳng hề hỏi lại đàn anh, sau khi bắt cóc tướng
Schneider, thì
phải cư xử ra sao với ông ta.
Sau
đây là trích đoạn, một "thông điệp mật" của
CIA, đề ngày 16 tháng Mười, sau cuộc họp mật cấp cao của viên chức Hoa
Kỳ, vào
ngày 15 tháng Mười, nhằm kiểm tra đánh giá những hoạt động của bọn chủ
mưu.
Thông điệp này được coi là "hướng dẫn chiến dịch", gửi cho những nhân
viên CIA ở Santiago:
…
Allende phải bị lật đổ bằng một cú đảo chánh… Tốt nhất là
trước ngày 24 tháng Mười (ngày tổng thống chính thức nắm quyền). Nhưng
những cố
gắng nhằm đạt được mục đích vẫn tiếp tục sau thời hạn trên. Chúng ta
phải tạo
áp lực tới mức tối đa, sử dụng mọi phương tiện thích ứng.. Bắt buộc
phải hành
động trong bóng tối, phải làm sao cho chính quyền Hoa Kỳ không bị mang
tiếng…
[Viaux
và đám đệ tử, theo như đánh giá sau đó, là không thể
kiểm soát được, có thể gây phiền nhiễu cho CIA và Cố Vấn An Ninh Quốc
Gia, cho
nên bị loại bỏ, và kế hoạch Schneider được giao cho một bộ phận quân
đội được
kính trọng hơn, cầm đầu bởi tướng Camilo Valenzuela, sĩ quan trưởng đạo
quân ở
Santiago.]
Chiều
ngày 19 tháng Mười 1970, nhóm Valenzuela, được tăng
cường bởi vài người thuộc nhóm Viaux, với lựu đạn cay do CIA cung cấp,
đã toan
bắt cóc tướng Schneider khi ông rời một bữa ăn tối. Thất bại, do
Schneider
không dùng công xa như thường lệ, mà lại dùng xe riêng. Sau cú bắt cóc
hụt này,
CIA Washington ra lệnh phải khẩn cấp hành động, bởi vì phải trả lời cấp
trên
vào sáng ngày 20 tháng Mười, và hai phong bì, mỗi cái 50 ngàn đô, được
trao cho
Valenzuela, và phụ tá chính của ông, với điều kiện phải thực hiện bằng
được mục
tiêu. Cú thứ nhì diễn ra vào chiều ngày 20 tháng Mười, nhưng cũng thất
bại.
Ngày 22 tháng Mười, những khẩu súng máy "đã được sát rrùng" (có nghĩa
là không thể nào tìm ra xuất xứ), được trao cho nhóm Valenzuela nhằm
thực hiện
cho được âm mưu kể trên, nhưng trong cùng ngày, tướng René Schneider đã
bị nhóm
Roberto Viaux ám sát.
Cuộc
đảo chánh đẫm máu lật đổ tổng thống Salvador Allende
xẩy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1973, trong lúc Ngài Henry thân mến đang
điều
trần trước Thượng Viện, trước khi được phong chức Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Ông ta
đã nói dối, khi quả quyết chính quyền Hoa Kỳ không có mắc mớ gì tới
chuyện làm
thịt tổng thống Allende. Những hồ sơ bây giờ được cho công chúng coi,
cho thấy
ngược lại. Trong số đó, có một, của tùy viên quân sự (thuỷ quân lục
chiến) Hoa
Kỳ, Patrick J. Ryan. Viên sĩ quan này đã ghi lại từng chi tiết, những
liên hệ
chặt chẽ giữa ông ta với những viên sĩ quan phản loạn dính líu vào âm
mưu lật
đổ tổng thống Allende. Viên sĩ quan này đã coi ngày 11 tháng 9 năm 1973
là
"Ngày J", tương tự như ngày đổ bộ Normandie của quân đội Đồng Minh
chống lại Quốc Xã, và nhận xét một cách hoàn toàn thỏa mãn, là "cú đảo
chánh tại Chile gần như hoàn hảo" ["le coup d’Etat (sic) au Chili
était presque parfait).
Jennifer Tran