Tin
Văn
1.
Thiên Đàng và Bệnh Than
Chuyện
khoa học giả tưởng, loài người đã từng đổ bộ lên một
hành tinh có sinh vật. Đoàn quân viễn chinh của “chúng ta”, do những
yếu tố bất
ngờ, hoặc do vũ khí tối tân, mặc tình sát hại “địch quân”, và chiếm
trọn được
hành tinh trên. Sau đó, họ cứ thế nằm xuống, và hiểu ra được một sự
thực thê
thảm: cái chết chính là một truyền nhiễm ghê gớm nhất tại hành tinh
này. Hãy
thử tưởng tượng hành tinh đó là… Thiên Đàng! Và chỉ cần một con người
bị giết
là Thiên Đàng bị tiêu diệt!
Trong
một bài viết trên một tờ báo hàng ngày ở Bắc Mỹ, tác
giả đưa ra một lời khuyên, hãy tạm quên trong giây lát những gì bạn
đọc, hay
nhìn thấy, hoặc nghe nói về bệnh than, và hãy nhớ điều này: những con
người ở
Bắc Mỹ, như bạn, đã được chúc phúc, vì chưa có, hoặc chỉ có chút chút
kinh
nghiệm về những bệnh truyền nhiễm. Chưa từng gặp cái cảnh tượng như
Camus mô
tả: Có một lần một trận dịch đã đóng chặt mọi cánh cửa của một thành
phố, làm
cho nó cách biệt hẳn với hơi ấm của đời sống, vốn là nguồn của lãng
quên.
Ký
ức con người vốn làm việc theo kiểu này: quên! Chính vì
vậy những môn như sử ký, hay văn chương được “bịa đặt” ra để giúp cho
con
người: nhớ!
Chữ
[giúp con người] nhớ. Nó khiển trách con người khi lạm
dụng trò xa xỉ: quên. Nó suy tưởng. Nó căn dặn, dậy bảo [con người].
Rằng, hệ
thống miễn nhiễm không phải là cái áo giáp tuyệt hảo đâu. Thoạt kỳ
thuỷ, có
những mầm, những phôi, những bào tử. Sự sống bắt đầu từ đó. Và cái chết
cũng
bắt đầu từ đó.
Hãy
bắt đầu bằng Kinh Thánh. Kinh Thánh ghi nhận bệnh dịch
(pestilence) “lâu lâu” lại viếng thăm con người. Bốn Chàng Kỵ Mã (Lời
của Chúa,
Chiến Tranh, Nạn Đói, và Bệnh Dịch, hay là Thần Chết) cứ thế mà xào nấu
lịch
sử, với những đề tài quen thuộc, cũ mòn, như cách mạng, hạn hán, lũ
lụt, mùa
màng thất thu… Trong số đó, những chiến công của chàng kỵ mã thứ tư
(Bệnh
Dịch), là hiển hách nhất!
Lịch
sử cho biết, trước khi Kha Luân Bố kiếm ra Mỹ Châu, dân
số ở đây đông đảo lắm. Nhưng người Âu Châu xuất hiện, và mang theo cùng
với họ
những mầm bệnh như đậu mùa. Thế là thổ dân cứ thế mà nằm xuống, vì
trong người
chưa có miễn dịch với bệnh trên.
Vào
thế kỷ thứ 14, nhà thơ người Ý Giovanni Boccaccio quan
sát phản ứng kỳ cục của những người chung quanh ông, khi xẩy ra bệnh
dịch. Theo
ông, họ chia thành bốn nhóm: Nhóm thứ nhất, sống riêng ra, và ăn uống
ngon
lành. Nhóm thứ nhì, chẳng thèm nhắc tới bệnh dịch. Nhóm thứ ba, uống
như hũ
chìm, ca hát ỏm tỏi. Nhóm thứ tư, thu gom đồ đạc, và chuồn. Bệnh dịch,
nói theo
khía cạnh tâm lý, đã chẳng ảnh hưởng gì tới nhà thơ. Và đây là trận
dịch đã
tiêu diệt ba phần tư dân chúng (chừng 30 triệu người), làm tan hoang đế
quốc
Hồi giáo, và tiêu huỷ luôn chế độ phong kiến.
Bệnh
dịch luôn luôn đóng vai một tên khủng bố dân chủ (a
democratic terrorist) với vũ khí tuyệt hảo của nó: bất ngờ, lặng lẽ vô
nhà bạn,
mà chẳng cần thông báo! Một người khách không bình thường (no ordinary
visitor), giống như một tên trộm ban đêm. Nhưng nó có một trợ thủ khủng
khiếp
vô cùng: sự sợ hãi. Trong Dịch Hạch, của Camus, khi Thần Chết Đen viếng
thăm
một ngôi làng ở Algeria, nó nuốt tất cả, bất cứ cái gì cựa quậy, và lẽ
dĩ
nhiên, cùng với nó: hơi ấm của sự sống. “Chẳng còn những số phận cá
nhân. Chỉ
còn một số phận tập thể, do Thần Chết ban phát, và những cảm xúc do nó
mà có,
và được chia sẻ bởi tất cả cái tập thể có cùng chung một số mệnh đó.”
Nhưng
văn chương dậy con người điều gì, trước bệnh dịch?
Đại
khái, là những điều này: một niềm tin vào Thượng Đế. Một
cảm quan về bi kịch, như là số phận của con người. Và một trân trọng,
dành cho
tình yêu.
“Cái
từ giải phóng
chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình Yêu.”
Hay
nói như Camus: “Có trốn lên trời, khi có bệnh dịch.
Chúng ta phải chọn, hoặc yêu thương, hoặc thù hận: Thượng Đế.”
(There
is no escape in a time of plague. We must choose to
either love or hate God).
2.
Nói thêm về Nobel 2001.
Năm
nay cũng là kỷ niệm lần thứ 100 giải thưởng Nobel văn
chương. Naipaul, người thắng giải, như kỳ trước đã loan tin, đã ngỡ
mình ra
rìa. Tuy sinh ra và lớn lên ở Trinidad, ông
hiện nay là
công dân của Vương Quốc Anh. Xứ sở này chắc là sẽ rất vui mừng chia sẻ
niềm
vinh quang với vùng đảo Caribbean. Naipaul là
người Anh
đầu tiên được giải, nếu tính từ William Golding (Nobel 1983). Nhưng sự
tình lại
không phải như vậy.
Trung
Quốc, năm ngoái, đã tỏ ra hết sức giận dữ, khi người
Pháp gốc Trung Quốc là Cao Hành Kiện, một nhà văn lưu vong đoạt giải
Nobel.
Nhưng ít ra, nhà nước cũng đã chính thức lên tiếng, cho dù là để tố
cáo, Nobel
bị chính trị hoá. Năm nay, nhà nước Anh vờ luôn chuyện công dân của họ
đoạt
giải, theo như tờ TLS, số đề ngày 19 tháng 10, 2001.
Tòa
soạn báo nói trên đã gọi điện thoại tới Dinh Thủ Tướng,
Phòng Báo Chí (The Downing Street Press Office), để hỏi thăm Ngài Thủ
Tướng có
bình luận gì không về giải thưởng.
-Như
chúng tôi được biết, thì chưa nghe Ngài nói gì hết.
Giải thưởng công bố khi nào vậy?
-Ngày
11 tháng Mười…
Nhân
viên trả lời điện thoại hứa kiểm tra và gọi lại tòa
báo, nhưng vờ luôn. Tòa soạn quay qua Bộ Văn Hóa, Thông Tin, và Thể
Thao. Và
sau đây là nội dung cuộc đàm thoại:
-Đây
là báo TLS. Chúng tôi gọi điện thoại là về chuyện nhà
văn V.S. Naipaul được giải thưởng Nobel văn chương.
Ngưng
một lát.
-Xin
giữ máy…. Chắc là ông đang nói về giải thưởng [của Anh]
The Booker?
-Không.
Giải Nobel văn chương.
-Right.
Xin giữ máy.
Ngưng
thật lâu.
-Thường
thì chúng tôi không đưa ra những lời bình luận về
những giải thưởng như vậy.
-Nhưng
đây là giải thưởng văn chương cao quí nhất trên thế
giới, và đây là lần đầu tiên người Anh được giải kể từ 18 năm nay.
-Như
vậy, theo như cảm nghĩ của tôi, ngài bộ trưởng thể nào
cũng đưa ra lời bình luận…
Bà
ta hứa sẽ theo dõi, và hiển nhiên đã cho chìm xuồng luôn.
Cách
đây chừng trên một năm, Naipaul đã phóng ra một đợt tấn
công (launched an attack) nhắm ngay chính phủ của ngài thủ tướng Blair,
“cái
chính quyền chán mớ đời” (this appalling Governement: Chính quyền kinh
khiếp
này). Ông chỉ trích tính “phàm phu tục tử” (philistine), “hạ lưu” của
nó, đưa
tới “một nền văn hóa tâng bốc chính nó, ta là một thứ văn hóa hạ lưư”.
Và nhà
nước Anh đã không thèm lên tiếng.
Tờ
báo TLS tự trả lời: có thể sự im lặng lần này, là một đáp
ứng muộn màng của nhà nước Anh, trước cuộc tấn công trước đây của
Naipaul.
Trong
một kỳ tới, người viết sẽ trở lại với dòng văn chương
viết bằng tiếng Anh của những người di dân, và câu hỏi: nếu không có
họ, liệu
văn chương Anh có thể sẽ trở thành “phàm phu tục tử, hạ lưu”? Nói một
cách
khác, đợt tấn công của Naipaul liệu có thực sự nhắm vào chính quyền Anh
của thủ
tướng Blair, hay là nhắm vào toàn thể cõi văn chương viết bằng tiếng
Anh, trước
khi có thế hệ nhà văn di dân thời kỳ hậu thuộc địa.
Jennifer Tran