Đần độn được
hình thành như thế nào.
“Bạo
lực biến thiện ý thành tà ý”
(La
violence subie transforme la bonne volonté en mauvaise
volonté).
Biểu
tượng của sự thông minh là cái ăng ten của con ốc sên,
nếu chúng ta tin theo Méphistophélès, [con quỉ mà Faust đã từng tin, và
bán
linh hồn cho nó] (Faust, I, V, 4068). Đó là xúc giác và thính giác của
con vật.
Gặp chướng ngại, cái ăng ten liền lập tức co rút lại, tìm sự che chở ở
nơi thân
mình, biến tất cả thành một cụm. Thấy êm êm, nó rón rén thò ra, như là
một bộ
phận độc lập. Nếu sự nguy hiểm vẫn còn đó, nó lại chuồn, và phải lâu
lắm mới
lại dám thò ra ngoài để xông xáo. Thoạt đầu, cuộc sống tinh thần rất ư
là mong
manh. Giác quan của con ốc sên tùy thuộc vào cơ bắp, và cơ bắp trở nên
yếu đi,
mỗi lần bị ngăn chặn hoạt động. Cơ thể tê liệt là do vết thương, tinh
thần tê
liệt là do sợ hãi. Thoạt kỳ thủy, hai phản ứng này, là bất phân ly.
Những
con vật phát triển hơn, chúng được như vậy, là nhờ
được tự do hơn. Cuộc sống của chúng chứng tỏ, hãy đưa cái ăng ten ra
hướng mới,
và đừng rụt lại. Một loài thành công là có bao nhiêu loài khác thất
bại, chỉ vì
không vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu, khi thò cái ăng ten về hướng nó sẽ
phát
triển. Môi trường thiên nhiên tức thời chung quanh con vật tạo sức ép,
sức ép
này len lỏi vào bên trong, nhờ nỗi sợ làm teo những bộ phận trong cơ
thể. Trong
mỗi cái nhìn, đậm nét tò mò của con vật, ánh lên một dạng đời mới, vóc
đời có
thể bật ra từ cái hình hài đang như thế đó. Không phải chỉ do đã được
định
hình, định tính làm cho con vật muốn an toàn trong cái vỏ cũ: khi nhìn,
nó đụng
một sức mạnh, có từ không biết bao đời, từ hàng triệu triệu năm, chính
sức mạnh
này giam cứng nó vào tình trạng tiến hoá mà nó đang có, ngăn ngừa mọi
toan tính
vượt qua một tình trạng mới. Cái nhìn đầu tiên của một con vật, có vẻ
thăm dò,
nhưng thật dễ dàng bị bẻ gẫy. Đằng sau cái nhìn, có thiện chí, có hy
vọng mong
manh, nhưng không chút nghị lực bền bỉ. Khi con vật tránh cái hướng mà
nó bị
ngăn chặn, xua đuổi, nó trở nên sợ sệt, đần độn.
Đần
độn là một vết sẹo. Nó có thể liên quan tới một hoạt
động trong bao hoạt động, hoặc liên quan tới mọi hoạt động, cho dù thể
xác hay
tâm thần. Ở nơi con người, mỗi biểu hiện đần độn cho thấy cái chỗ cơ
bắp - thay
vì được cổ võ, khuyến khích - bị cấm cản, vào đúng lúc bật dậy. Thoạt
kỳ thủy,
chính sự hiện diện của chướng ngại làm bắt đầu sự lập đi lập lại một
cách vô
ích những hành động hỗn độn, vụng về. Trong những vô vàn câu hỏi của
một đứa
trẻ, có triệu chứng của nỗi đau câm, ngầm, khởi từ câu hỏi đầu tiên mà
nó không
nhận được câu trả lời, một câu hỏi mà nó không biết đặt ra như thế nào
cho đúng
cách (Cf. Karl Landauer, Intelligenz und Dummheit, in: Das
Psychoanalytische
Volksbuch, Bern, 1939, p. 172). Trong những lập đi lập lại của đứa trẻ
có điều
gì giống như trò bướng bỉnh của một con chó cứ nhẩy lên nhẩy xuống
trước một
cánh cửa mà nó không làm sao mở được, cuối cùng đành chịu thua, nếu quả
đấm cửa
ở ngoài tầm nhẩy, trong đó có cả sự tuyệt
vọng của một con sư tử đi đi lại lại trong
chiếc chuồng giam, hay
cử chỉ chống đỡ của người loạn thần kinh, mặc dù cử chỉ này đã một lần
tỏ ra vô
hiệu. Nếu nhịp độ của những toan tính giảm dần, ở đứa trẻ, hoặc nếu sự
cấm cản
quá hung bạo, sự chú tâm có thể chuyển qua một hướng khác, đứa trẻ đã
có kinh
nghiệm hơn, như người ta nói, nhưng chuyện xẩy ra là: có một vết sẹo
thật khó
mà nhận ra, ở ngay chỗ mà ước muốn, niềm đam mê, khát vọng của nó bị
bóp nghẹt;
một vùng nho nhỏ bị chai cứng, sờ bên ngoài chẳng còn chút cảm giác.
Những vết
sẹo như thế đó làm méo mó, xiêu vẹo [con người] . Chúng tạo nên những
tính tình
cứng rắn, thô bạo. Chúng cũng làm cho [con người] trở nên ngu ngốc, đần
độn –
theo nghĩa, có một sự suy yếu mang tính bệnh lý, mù lòa tâm thần, bất
lực, nếu
chúng cứ thích mãi cái tình trạng ù lì, đình trệ như thế đó – theo
nghĩa độc
ác, bướng bỉnh, cuồng tín, nếu chúng phát triển thành cục u bướu ở bên
trong
con người. Bạo lực biến thiện ý thành tà ý. Không phải chỉ [vấn đề] cấm
hỏi
tra, mà ngay cả chuyện hạn chế làm theo [người khác], [mày hãy] bớt
khóc lóc,
đừng chơi trò liều lĩnh… cũng có thể để
lại những vết sẹo như trên. Giống như
loài vật, thần kinh của con người, từ những vùng mù lòa – vết tích khi
hy vọng
bị cấm cản – là một bằng chứng ghê rợn, của sự cưỡng bức, đè lên bất cứ
một
sinh vật.
Ghi
chú: Trên đây là chuyển ngữ bài viết “Genèse de la
bêtise”, in trong “La dialectique de la raison”, “Biện chứng pháp của
lý trí”,
tác giả Max Horkheimer và Theodor W. Adorno. Nguyên bản tiếng Đức, còn
có tiểu
đề “Những mẩu đoạn triết học”, in lần đầu năm 1947, dần dần được biết
tới, rồi
tuyệt bản. Trong lần tái bản hai mươi năm sau đó (1969), hai tác giả
giải
thích, đây không chỉ là một đáp ứng những đòi hỏi của độc giả, mà khá
nhiều tư
tưởng ở trong cuốn sách vẫn còn đang hợp thời, và chúng xác định, theo
một
chiều hướng rộng lớn, những nghiên cứu tiếp theo của họ. Ở đây, người
dịch sử
dụng bản tiếng Pháp, nhà xuất bản Gallimard, ấn bản 1996.
Max
Horkheimer đã từng là giám đốc Viện Nghiên Cứu Xã Hội,
tức Trường Phái Frankfurt, thành lập tại Đức vào năm 1923, di chuyển
qua Hoa Kỳ
khi Hitler lên nắm quyền, tới năm 1950 lại trở về Đức. Chung quanh ông
qui tụ
một số triết gia nổi tiếng như Walter Benjamin, Theodor W. Adorno,
Herbert
Marcuse.
Những
tư tưởng về sự
tiến bộ là yếu tố căn bản của triết học trưởng giả Thời Soi Sáng, dưới
bảng
hiệu của Lý Trí. Trong cuốn sách nói trên, hai tác giả phân tích cho
thấy,
chuyển động “hãy tiến lên dưới ngọn cờ của lý trí”, cứ thế tiêu diệt
dần những
giá trị của chính chúng - trong khi chưa đưa ra được một thực hành mang
tính xã
hội - theo một tiến trình mà hai tác giả gọi là “biện chứng pháp của lý
trí”.
Cả hai chứng minh, sự tự hủy diệt của Lý Trí sẽ cứ thế mà tiếp tục
trong tương
lai, và đẻ ra những hình thức mới của chủ nghĩa toàn trị, nếu, sự hàm
hồ, ở
ngay nơi trái tim của ý niệm tiến bộ, không được nhìn nhận một cách rõ
ràng, và
được vượt qua liền liền.
Jennifer Tran chuyển ngữ và
giới thiệu.