Dấu
chân của một cái bóng.
"Tôi chẳng là cái quái gì
Tôi luôn luôn chẳng là cái quái gì
Tôi muốn là cái quái gì cũng không được
Nhưng tôi có trong tôi tất cả những giấc mộng của thế gian…"
Fernando Pessoa
"Đám đông độc giả" có lẽ chỉ
biết tới tên nhà thơ
Fernando Pessoa, lần đầu tiên, qua Saramago. Khi được giải Nobel văn
chương
(1998), ông cho biết, đây là tác giả ruột của mình. Nhưng phải đợi tới
khi Cao
Hành Kiện vinh danh nhà thơ người Bồ đào nha, trong bài diễn văn nhận
giải
Nobel văn chương (2000), "Lí do của văn học", "nhà thơ thâm trầm
nhất của thế kỉ 20 là Fernando Pessoa", thiên hạ mới tá hỏa!
Tá hoả, đúng như vậy, không chỉ
với Đông phương mà luôn cả Tây
phương, nhất là cõi văn viết bằng tiếng Anh. Eugénio Lisboa, một trong
hai người
biên tập cuốn "Fernando Pessoa: A Centenary Edition" (nhà xb
Carcanet, Manchester) ghi nhận: khi Harold Bloom cho xuất bản cuốn "Cõi
Văn Tây" (tạm dịch từ "The Western Canon", 1949), và để Pessoa
vào trong danh sách 26 tác giả hàng đầu, một tay điểm sách trên tờ
Time, (vì lịch
sự, W.S. Mervin, tác giả bài viết về Pessoa, "Dấu chân của một cái
bóng", trên tờ Điểm Sách New York, số đề ngày 3.12.1998, đã không nêu
tên), đã "bực mình" cho rằng, vị giáo sư đáng nể này chiều theo sự yếu
đuối riêng tư, khi tự cho mình có cặp mắt tinh đời, nhận ra được những
tác giả
hũ nút mang tính hàn lâm.
Hơn sáu chục năm sau khi
ông mất, bẩy tác phẩm của ông, hoặc của
thiên hạ viết về thơ ca của ông, đã được xuất bản, bằng tiếng Anh, ở cả
hai bờ
Đại Tây Dương, liên tiếp trong cùng một năm (1998): "Trăm năm
Pessoa", Eugénio và L.C. Taylor biên tập; "Thơ Pessoa", dịch thuật
và biên tập: Edwin Honig và Susan M. Brown, nhà xb City Lights;
"Fernando
và Công ty: Tuyển tập thơ" (biên tập, dịch thuật: Richard Zenith, nhà
xb
Grove); "Luôn luôn ngỡ ngàng: Tuyển tập văn xuôi" (biên tập, dịch
thuật,
giới thiệu: Edwin Honig, nhà xb City Lights; "Người Chăn Cừu",
Fernando Pessoa, dịch giả: Edwin Honig và Susan M. Brown, nhà xb The
Sheep
Meadow Press; "Dẫn vào Fernando Pessoa: Chủ nghĩa hiện đại và những
nghịch
lý về nguồn gốc tác giả", Darlene J. Sadlier, nhà xb Đại học Florida;
"Sự hiện diện của Pessoa: Những đáp ứng văn học Anh, Mỹ và Nam Mỹ",
George Monteiro, nhà xb Đại học Kentucky.
"Hôm nay, tôi bị đánh gục, như
thể tôi biết được chân lý
Hôm nay, tôi sáng suốt, như thể tôi sắp lìa đời"
Fernando Pessoa
Vào năm 1935 khi Pessoa
qua đời, thực sự, ông ít được biết tới,
tuy đã cho xuất bản chừng 300 bài thơ, 130 mẩu tản văn trên những tạp
chí định
kỳ, và một tập nhỏ những bài thơ đầu đời bằng tiếng Anh (ông song ngữ,
và đã trải
qua những năm học tại Nam Phi). Một vài nhà phê bình Bồ đào nha đã ca
ngợi ông
như là kẻ tiên phong của chủ nghĩa hiện đại về ngôn ngữ. Ông mất khi
được 47 tuổi,
do bệnh gan (cirrhosis), theo L.C. Taylor, trong bản in Carcanet nói ở
trên,
nhưng theo Honigh, trong "Luôn luôn ngỡ ngàng", ông nhập viện là do
viêm gan (hepatitis). Thi sĩ, còn là chiêm tinh gia, ông tin rằng mình
còn hai
năm nữa mới lìa đời. Và ông hy vọng dùng hai năm đó để sắp xếp cái
rương gỗ chứa
25 ngàn mẩu tản văn của mình.
Miguel Torga, vào lúc đó là một
y sĩ, và kể từ đó, trở thành một
trong những khuôn mặt văn chương sáng giá ở Bồ đào nha, đã viết trong
nhật ký
như sau:
"Fernando Pessoa đã mất. Vừa
nghe tin trên báo, tôi đóng cửa
phòng bệnh, và chui rúc vào vùng núi. Giữa rừng cây và đá tảng, tôi
khóc cái chết
của thi sĩ vĩ đại nhất thời đại chúng ta. Bồ đào nha nhìn con người nằm
trong cỗ
quan tài, trên đường tới bất tử, và chẳng thèm hỏi, con người đó là
ai."
Người thi sĩ "cô đơn, nghèo, chẳng được biết tới", chỉ có được vinh
quang, sau đi đã rời khỏi nơi này.
Pessoa đã từng viết về sự nổi
tiếng:
"Đôi khi tôi nghĩ về những con
người nổi tiếng, và cảm thấy tất
cả nỗi phiền hà vì nó. Nổi tiếng là chuyện tầm phào. Nó gây tổn thương
tới cảm
tính của bất cứ một ai…. Một người trở thành nổi tiếng là mất tiêu luôn
cuộc đời
riêng tư của mình… Những bức tường bảo vệ sự riêng tư biến thành những
tấm
gương… Một khi trở thành nổi tiếng, là mất tiêu luôn cơ may trở lại với
cõi u tối.
Nổi tiếng là hết thuốc chữa. Như thời gian, làm sao có chuyện đảo
ngược?"
Pessoa, tiếng Bồ đào nha có
nghĩa là "person" (con người).
Trong cõi trăm năm chỉ còn bốn mươi bẩy đó, "con người" được gọi là
Pessoa hóa ra là một chuỗi "personae", một vòng tròn nội tại, và những
khuôn mặt ở bên ngoài vòng tròn này, là những phóng chiếu, hoặc bị
phóng chiếu,
của chính Pessoa, cho dù khuôn mặt đó là của bất cứ ai. Vào năm 1910,
khi 22 tuổi,
ông viết, "Trọn cái tinh anh của tôi, chỉ là ngần ngại, nghi ngờ. Chẳng
có
gì là rõ rệt ở nơi tôi, mọi thứ đều giao động quanh tôi, và tôi với
chúng, một
bất chắc ở trong tôi."
Cùng năm, ông viết:
"Thơ ca là ngỡ ngàng, là chiêm
ngưỡng, như một sinh vật rớt từ
những cõi trời, biết rõ rằng mình đang rớt, và ngỡ ngàng về mọi điều
mọi chuyện."
Chẳng có gì ngạc nhiên khi con
người mà chúng ta gọi là Pessoa
trung tâm (the central Pessoa) cứ chúi mãi vào cõi u tối. Chẳng có gì
ngạc
nhiên, khi chúng ta nhìn lại thuở còn là học sinh trung học ở Durban
High
School (Nam Phi), chàng thi sĩ đã chọn cho mình bút hiệu Alexander
Search
[search: tìm kiếm, truy lùng], khi viết những bài thơ tiếng Anh, và đây
có lẽ
là một trong những tự-phóng (self-projections) đầu tiên, mà ông gọi là
những
"heteronyms" [đồng âm dị nghĩa, thí dụ như lead, dẫn dắt, và lead,
chì, một thứ kim loại], tập thể "môn phái" của mình. Gần cuối đời,
ông viết cho Adolfo Casais Monteiro:
"Từ ấu thơ, tôi đã có khuynh
hướng tạo ra chung quanh tôi một
thế giới giả tưởng, bao quanh chính tôi bằng những bạn bè, những thân
quen chẳng
hề hiện hữu. (Tôi không hiểu, lẽ dĩ nhiên, họ, hay là chính tôi, không
thực sự
hiện hữu)."
Vào năm 1913, sau một thời kỳ
viết như vũ như bão những cuốn sổ
ghi (notebooks), đôi khi viết nhanh đến nỗi sau đó ông không làm sao
"giải
mã" được những từ của chính mình, trong khi cùng lúc, ông không làm sao
giữ
liên tục việc viết (work), và ông bắt đầu điều ông gọi là "Book of
Disquietude", (Cuốn sách của sự bất an), gồm những mẩu đoạn dài ngắn
không
đều nhau, một số sau được in trên những tạp chí. Trong cùng năm ông
viết cho
Mário Sá-Carneiro:
"… Tôi đang trải qua một trong
những cơn khủng hoảng như
trong nông nghiệp người ta thường gọi… khủng hoảng bội thu… những câu
thơ bằng
tiếng Anh, tiếng Bồ đào nha, những suy tưởng, ý nghĩ, dự phóng, mẩu
đoạn, mà
tôi chẳng hiểu gì hết, ngoại trừ sự hiện hữu của chúng, những con chữ
chẳng bắt
đầu mà cũng chẳng chấm dứt, những lóe sáng phê bình, những thì thầm
siêu hình…
Trọn một nền văn chương, Mário thân mến của tôi ơi, đến từ một cõi mù
sương, đi
qua một cõi sương mù, biến mất vào trong cõi mù mù…"
Trong cùng năm, tính đùa cùng
người bạn nói trên, Pessoa viết cho
ông ta, ông đã tạo ra (make up) một "thi sĩ đồng quê thuộc loại rắc
rối",
mà ông muốn trình diện thi sĩ này, như là một người thực; và trước đó,
ông đã dự
định viết một vài bài thơ "ngoại đạo" theo cung cách mà ông muốn gán
cho một "đồng âm dị nghĩa" của mình [có tên là] "Ricardo
Reis"
Thiên hà nho nhỏ [được gọi là]
Fernando Pessoa, xẩy ra trong năm
tiếp theo (1914), là một "trở thành hiện thực gây chấn động"; ông mô
tả nó, trong thư gửi Casais Monteiro, và đây không chỉ là dấu ấn trong
đời ông,
mà còn của cả lịch sử văn học Bồ đào nha hiện đại:
"Một bữa – đó là ngày Tám tháng
Ba, 1914 – tôi tới một giá
sách cao, lấy một mẩu giấy, và cứ thế đứng viết, như tôi thường làm,
khi có thể.
Và tôi viết chừng ba chục bài thơ, bài nọ tiếp bài kia, như trong tình
trạng
lên đồng, hay gì gì đó, mà tôi không thể nào định nghĩa nổi. Đây là một
ngày hiển
hách của đời tôi… Tôi bắt đầu với tựa đề "O Guardator de Rebanhos"
(Người chăn cừu). Điều xẩy ra tiếp theo, là sự xuất hiện một người nào
đó ở
trong tôi, liền lập tức, tôi cho người đó cái tên Alberto Caeiro. Hãy
tha thứ
cho tôi, [về] câu văn ngu ngốc này: Trong tôi xuất hiện sư phụ của tôi…
Vừa mới
viết xong ba mươi bài thơ kỳ cục như vậy, tôi lấy thêm giấy và lại viết
không
ngừng, sáu bài thơ tạo thành "Chuva Obliqua" (Mưa nghiêng), bởi
Fernando Pessoa…. Đây là sự trở về của Fernando Pessoa với Fernando
Pessoa
chính hắn… Một khi Alberto Caeiro xuất hiện, âm thầm, theo trực giác
mách bảo,
tôi cố gắng kiếm những đệ tử cho sư phụ. Từ tính ngoại đạo dởm của ông
thầy,
tôi làm bật ra đệ tử tiềm tàng của ông là Ricardo Reis… Cứ thế tôi tạo
ra một
môn phái không hiện hữu. Tôi lôi ra, nào là những ảnh hưởng, những liên
hệ; tôi
lắng nghe, ở bên trong tôi, những cuộc thảo luận, những khác biệt về
chuẩn mức,
và trong tất cả môn phái, hình như tôi, kẻ sáng tạo ra, lại mờ nhạt hơn
hết…."
Môn phái trên đây ở với Pessoa,
hay "là" Pessoa, trọn cuộc
đời còn lại của ông. Lá thư được viết 21 năm sau khi "biến động" xẩy
ra, và chỉ vài tháng, trước khi ông mất.
Hãy mở giùm tôi cánh cửa
này...(1)
Vào
một ngày thứ Năm, tháng Mười, một người đàn ông tên là Sture
Allen sẽ cử hành một nghi lễ nho nhỏ. Liền sau buổi trưa, ông ngồi
trước cái
bàn thời Louis thứ XV, trong một văn phòng với những đồ vật vốn thuộc
hoàng gia
Thụy-điển. Và khi chiếc đồng hồ bằng vàng của ông gõ một tiếng, ông mở
cánh cửa
thông qua Đại sảnh, Viện Hàn Lâm Thụy-điển.
"Năm nào tôi cũng chỉ làm
như vậy". Ông mở cửa bước vào
Đại sảnh, gặp gỡ báo chí. Họ đang đợi ông. Sự thực họ đang chờ thông
báo, ai là
người trúng Nobel văn chương, từ người thư ký thường trực của Hàn Lâm
Viện.
Allen, năm nay 69 tuổi, chẳng phải học giả, thi sĩ hay văn sĩ. Ông chỉ
là nhà
ngôn ngữ học được huấn luyện để làm việc với những chiếc máy tính
(computer),
nhưng chức vụ "người truyền giao thông điệp" của ông là một ân sủng đối
với đồng sự. Và thông đìệp của ông, thời giá của nó: trên một triệu
đô-la.
"Hàng năm cứ vào cuối
thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên
không có những đám mây bàng bạc"... là giới báo chí lại xôn xao, xì
xào,
ai sẽ là người được Nobel văn chương.
Thường là đoán trật. Năm
nay (1998), những tên tuổi được nhắc nhở,
là Bei Dao, nhà thơ lưu vong Trung-hoa. Hugo Claus, người cùng chạy đua
với
ông, là một thế giá từ bấy lâu nay của nền văn chương viết bằng tiếng
Flemish.
Còn hai cột trụ của văn chương Bồ-đào-nha hiện đại, một là José
Saramago [giải
thưởng sau cùng vào tay ông]; cuốn tiểu thuyết "Năm Từ trần (The Year
of
the Death of) của Ricardo Reis" của ông được coi như một đại tác phẩm;
người
kia là Antonio Lobo Antunes, một nhà tâm thần học, tác phẩm của ông dựa
trên
kinh nghiệm khi ông làm việc với Quân đội Bồ-đào-nha tại Angola vào
những năm
1970.
Chưa nhà văn viết bằng tiếng
Flemish đoạt Nobel. Cách đây ba năm,
Claus đã tưởng rằng (mistakenly told), ông là người đầu tiên được vinh
dự này.
Michael Specter, tác giả bài viết tóm tắt ở đây (Hội chứng Nobel, the
New
Yorker Oct 5, 1998), kể lại, hai năm trước, ông viếng thăm nhà văn
người
Estonian, Jaan Kross. Ông này đã từng nghe xì xào nhiều lần, và đã một
lần được
báo trước (advance warning) rằng, lần này đúng là ông đấy! "Người ta
bảo
tôi đừng rời máy điện thoại. Ôi chao chuyện đó dễ ợt! Thời giờ cứ thế
trôi, rồi
tôi hiểu ra, chưa tới lượt mình. Cũng chẳng sao, nhưng đã có đôi lúc,
tôi mơ
màng sờ được nàng!"
Người mơ sờ được nàng, lâu
nhất, qua những nét chữ bằng vàng trước
tên mình: FNPW (Famous Nobel Prize Winner, Nhà văn đoạt giải Nobel nổi
tiếng),
có lẽ là nhà văn người Mỹ, Norman Mailer. Sau hai mươi mốt năm lăn lộn
với
tình, giữa chốn giang hồ, ông như có một cái máy dò Geiger, ở trong
đầu, về những
đợt phóng sạ, từ những giải thưởng này nọ. Nhưng ông không phải là nhà
văn
Hoa-kỳ độc nhất, ôm ấp giấc mơ tuyệt vời như vậy. Khi tôi (M. Specter)
gọi điện
thoại cho Joyce Carol Oates, cách đây không lâu, để hỏi bà có ý nghĩ gì
về giải
thưởng, bà hào hển: "Sao, sao, ông nghe thấy gì?"
Danh sách chót, thường là năm
người, năm nay sáu. Những tờ thăm được
bỏ vào một chiếc lọ cổ bằng bạc.
Cuộc chiến đấu giữa mấy ông
hàn, cũng gay go ngoạn mục vô cùng. Nhất
là trong việc gạt bỏ một số thế giá văn chương dư sức đoạt giải, thí dụ
như
Jorge Luis Borges. Ông không được, chỉ vì lý do: Borges đã từng được
(nhà độc
tài) Pinochet ban giải thưởng, như một ông già (as an old man). Vậy là
đủ để gạt
nhà văn vĩ đại nhất của Mỹ-châu La-tinh, vĩnh viễn, khỏi giải thưởng.
Tuy thường được giải thích,
cuộc chiến đấu giữa mấy ông mang tính
hàn lâm, nhưng thực sự chỉ là cá nhân. Họ bị cấm không được xì ra cho
báo chí,
nhưng giả sử cho phép, họ cũng chẳng có thì giờ, vì còn quá bận rộn lo
cấu xé lẫn
nhau!
Giải thưởng, lẽ dĩ nhiên, đã
được trao cho một số tác giả thật tuyệt
vời của thế kỷ chúng ta: Yeats, Mann, Faulkner, Hamsun, và Beckett,
nhưng không
phải như thế là đủ. Joyce, và Nakokov, thí dụ vậy, đã chẳng được vinh
dự này,
và người "vừa đập cánh cửa vừa khóc", chắc phải là nhà văn Nga, tác
giả cuốn sách, và cuốn phim đã và đang gây chấn động, Lolita. "Vladimir
Nabokov có lẽ là người than van nhiều nhất, về chuyện hụt giải" (one of
the most-lamented non-laureates, The New Yorker). Khi Nobel về tay
Solzhenitsyn, ông tức giận tuyên bố, đại khái, cái trò "chống Cộng đầu
tiên" phải thuộc về tôi. Hai người từ chối, một, Pasternak, là do chính
quyền Xô-viết làm áp lực. Còn người kia là Jean-Paul Sartre. Ông từ
chối, vì
theo ông, "vô nguyên tắc". (Sau khi ông mất, 'hậu duệ' của ông đã nài
nỉ mấy ông hàn cho lại họ nhưng bị từ chối).
Omerta, luật là vậy, nhưng đôi
khi cũng đến tai công chúng. Người
đầu tiên phạm luật là Artur Lundkvist; gà của ông là nhà thơ Neruda.
Ông đã thề
sống dai hơn nhà văn Anh, Graham Greene, chỉ để gạt tên ông này ra khỏi
Nobel.
Ông cũng là người không chịu William Golding, Nobel 1983, "một hiện
tượng
Anh nho nhỏ, chẳng có chi đặc biệt". Tuy nhiên chuyện thực sự xấu xa
xẩy
ra vào năm 1989, khi Ature Allen, lấy quyền thư ký thường trực, ngăn
chặn Viện
Hàn Lâm tỏ thái độ, khi cái đầu của Salman Rushdie bị ra giá, qua vụ
Quỉ Thi.
Việc này đã làm hai ông hàn "quit job". Chủ tịch PEN Thụy điển tuyên
bố: "Chuyện quá đơn giản. Một quốc gia lớn kết án tử một nhà văn chỉ vì
dám bầy tỏ quan điểm của mình, vậy mà một trong những thế giá văn
chương lớn
lao nhất thế giới như Nobel đã chẳng dám lên tiếng. Bởi vì Mr. Allen là
một tay
thư ký bàn giấy. Sau việc này, uỷ ban Nobel chỉ là một trò hề đối với
tôi."
Thành lập năm 1786, thời gian
bốn mươi năm đầu, chỉ có hai người, ở
bên ngoài Âu và Mỹ-châu được giải, nhưng từ Cuộc Chiến Lớn II, được nới
rộng.
Năm 1968 về tay nhà văn Nhật Kawabata; Nigeria: Wole Soyinka (1986); Ai
cập:
Naguib Mahfouz (1988); Nam Phi: Nadine Gordimer (1991). Toni Morrison,
nhà văn
Mỹ gốc Phi châu đầu tiên được giải (1993), nói với tác giả bài viết:
Nếu một
người da trắng được giải, họ sẽ không nói, đây là chính trị. Bởi vậy
tôi chẳng
để tâm đến chuyện phê bình. Giả dụ một nhà văn Mỹ gốc Phi, hay một
người thuộc
Thế Giới Thứ Ba - một người không ở Mỹ, trung tâm của vũ trụ - được
giải, vậy
là có vấn đề chính trị. Chính trị là một từ thực, nó có một cái nghĩa.
Nhưng
dùng ở đây, nó chỉ là một từ phân biệt sắc tộc.
Trường hợp nhà thơ CS Neruda,
cũng có nhiều điều thú vị, qua kể lại
của Per Wastberg, người năm ngoái được bổ sung, khi có hai ghế trống.
Ông năm
nay 64, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, vốn được coi như nhà ngoại giao,
hoạt động
nhân quyền, và cũng là nhà văn Thụy điển đầu tiên công khai lên tiếng
yêu cầu
nhà nước rút đại sứ ra khỏi Iran, khi xẩy ra vụ Rusdhie.
"Là một người Thuỵ-điển cũng
căng lắm," ông nói,
"Đi bất cứ nơi đâu, khi được giới thiệu đây là nhà văn Thuỵ điển, thế
là mọi
người nhẩy bổ lên!", ông nói, không hoàn toàn có vẻ diễu cợt. Ông kể
lại lần
gặp gỡ đầu tiên với nhà thơ ý thức hệ lớn CS Pablo Neruda: Tôi gặp ông
ta vào
năm 1965, tại Bled. Khi biết tôi là một người Thuỵ điển, ông liền mời
dùng cơm.
"Nhà thơ nhà nước" CS này sống như một ông hoàng xa xỉ. Ông ta hoàn
toàn bị Nobel hành, và luôn nghĩ, ông có một địch thủ, ở trong uỷ ban,
qua
Gunnar Elelof. Ông này tin rằng Neruda có một vai trò, trong chuyện thủ
tiêu
Trotsky. Neruda khi đó là lãnh sự tại Mexico, đã lên tiếng phủ nhận. Có
lần ông
nói, ông nguyện sống dai hơn Elelof, để được giải. Và lời nguyện của
ông đã
thành!
Thành viên Hàn Lâm Viện luôn
nhấn mạnh, Nobel không dính dáng gì đến
chính trị, nhưng chạy trời không khỏi nắng. Nhà văn Phần-lan Frans
Eemil
Silanpaa được Nobel năm 1939, chỉ vì Liên bang Xô viết có dự định xoá
sổ xứ sở
này. Milosz ăn giải 1980, cùng năm với sự ra đời của công đoàn Đoàn
Kết. Trường
hợp Borges: một điều không thể tha thứ được, theo nhiều người. Lẽ dĩ
nhiên có
chính trị ở đây. Hãy coi danh sách những người đoạt giải. Nếu bạn tôn
vinh
Stalin ở Thuỵ-điển, chẳng sao, bạn có thể được Nobel. Nhưng nếu bạn lỡ
mặc bộ đồ
đồng phục Nazi, khi còn là một đứa bé, như vậy là kể như xong.
Chú thích:
Hãy mở giùm tôi cánh cửa này,
tôi đập, và khóc ròng.
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant.
Thơ Apollinaire
Jennifer Tran