Hỏi nát lương tâm hề... - Nhật ký thời chiến - Giả và thật trong văn chương 2 - Khúc kinh cầu cho cuộc chiến Việt Nam 

Hỏi nát lương tâm hề, nhân loại…
Mỗi lần lịch sử sang trang, nó bỗng tối sầm lại, giống như cảnh trời đất lúc sắp sửa bắt đầu một ngày. Bởi vậy, nhân loại vẫn muốn nhìn ngoái lại những đau thương của một thời, bằng tiếng cười, trước khi bước vào thời sắp tới. Khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ở Miền Nam chấm dứt, người dân Việt đã từ giã nó, không phải bằng cái chết đau thương của ông Diệm, ông Nhu, mà bằng nụ cười "hóm hỉnh" trước cái trò mạt cưa mướt đắng, kẻ cắp bà già… của hai cú đảo chính Bravo 1, Bravo 2. Và khi Miền Nam sắp sửa đi đoong, tổng thống Mỹ đang bận chơi golf, ký giả hỏi, phát ngôn viên của Người đã tỉnh bơ trả lời: tổng thống không chơi golf thì biết làm gì… bi giờ? Mới đây thôi, khi xẩy ra thảm kịch Kursk, ngài tổng thống Nga đang bận nghỉ xả hơi tại một bải biển (hình như vậy). Nhưng cái chết âm thầm của trên trăm thuỷ thủ đoàn đã gây nhức nhối, làm bật lên những câu thơ, những bài viết, ở một số nhà thơ, nhà văn… Jennifer xin ghi lại ở đây, một bài thơ bằng tiếng Anh, của tác giả Ian Bui, và sau đó, là hai bài dịch, một của chính tác giả, và một của bạn của ông, đăng trên tuần báo VHNT trên lưới do nhóm Ô Thước chủ trương, và do Phạm Chi Lan chủ biên.

Bài thơ dịch của chính tác giả đã gây nên một cuộc "tranh luận nho nhỏ", chung quanh một ý thơ.
Và sau hết, là trích đoạn bài viết của ký giả Mỹ, David Remnick, trên tờ The New Yorker, số Sept 11, 2000

Kursk!
From once a fabled battleground,
your name now lives in tragic infamy!
One hundred plus eighteen, drowned
one hundred metres under the sea.
Their gasping cries, though never heard,
would not deny their bravery
in that enclosed, eutrophic hearse
their last moments before release.
Let there be war-if that's man's end,
unfathomed shall our anguish be
knowing each one had died in vain,
but to protect whose secrecies?

We the living have no answers
to give (nor lame apologies
for what was our moral failure
to rise above old tendencies)
Mothers and sisters, lovers and wives
their pain is graver than that sea
which stole these swift but fated lives
when its dark crypt had them buried.
Fare thee well, men and sons of Kursk,
your battle's donẹ Done are your days.

 One hundred plus eighteen, cursed
one hundred metres beneath the waves.
Ian Bui

 Kursk!
Chiến địa lưu danh! Kursk huyền thoại!

trầm trong bể nhục kể từ đây:
Một trăm mười tám người nằm xuống.
Một trăm thước nước, vực trần ai!
Những tiếng gào vang trong tuyệt vọng.
Biển dang tay đón cỗ quan tài
như chiếc nôi, đưa người cảm tử
lên đài vĩnh quyết phút xuôi tay.
Thế chiến sang trang hề, ta đứng
ngậm ngùi xem thế kỷ đầu thai.
Những trái tim không người bảo chứng
sống vì ai? Chết bởi vì ai?
Hãy hỏi đời sau, và sau nữa,
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai,

Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây?
Hỏi chị, hỏi em vàn yêu dấu,
Hỏi mẹ già nua, bé thơ ngây
Niềm đau không đáy trời soi thấu
Là đêm biển lạnh kẻ vùi thây.
Vĩnh biệt anh, đàn con của Kursk!
Địa chiến mang tên. Chứng tích này:
Một trăm mười tám người thiên cổ.
Một trăm thước nước, mộ vừa xây 

Ian Bui

 (tác giả dịch sang Việt ngữ)

 Kursk!
Huyền thoại xưa,
bi kịch bây giờ ...
Một trăm mười tám người,
đại dương mênh mông ...
Những tiếng khóc tắt nghẹn,chẳng tạo nổi âm vang
Nhưng vinh quang vẫn còn trong chiếc tầu ma đóng kín phút sau cùng ...
Chiến tranh ơi ...thà đây là định mệnh !!!
Còn hơn những khổ đau không đáy của cái chết vô danh
bảo vệ cho một bí mật nào?
Người sống không trả lời, không ân hận, cho một đạo đức điêu tàn ...
Đã quen cúi đầu theo thói cũ !!!
Hỡi những người đàn bà tang chế
nỗi đau có đầy hơn nước biển đã cướp đi mạng người
Trùng dương tối âm thầm chôn xác ai ...
Vĩnh biệt thôi, những đứa con của Kursk
chiến trường xưa đã tàn ...trăm lẻ mười tám người,
một định mệnh, đại dương mênh mông ...
(Phạm Thiên Mạc chuyển ngữ)
 

Thư thân hữu VHNT: Hỏi nát lương tâm hề nhân loại… 

Đã lâu rồi, trên một số báo VHNT, tôi được đọc một bài thơ. Cao ngạo, đầy chất nam nhi trượng phu! Nhưng bút hiệu cho thấy, đây là một nữ sĩ. Hỏi qua email: how to explain it?

Mấy bữa sau, đọc một truyện ngắn, của cùng tác giả. Nhân vật nữ ở trong truyện, khi được chồng hỏi, khi sắp sửa ra phố, tại sao em không mặc áo dài? Người vợ đáp (tôi nhớ đại khái): em mặc, nhưng thấy cũng không làm giảm được cái dáng vẻ cứng cỏi của em…

Một cách trả lời thật kín đáo. Thật VHNT! 

Mới đây, đọc bài thơ của Ian Bui, dịch bài Kursk, trong có đoạn:

Hãy hỏi đời sau, và sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây? 

Tôi mê ba câu đầu quá! Thật cao ngạo ngất trời! Nhưng câu thứ tư, tôi thấy không chở nổi ba câu trên (giá nào thì cũng thua thôi!). Cứ tưởng tượng hỏi tác giả, có thể ông sẽ trả lời: sao, ông chê thơ tôi hả? Vậy thử thay bằng một câu khác, coi được không?

Tôi liều lĩnh thay bằng câu:
Hãy hỏi đời sau, đời sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại,
Lạnh lẽo nào hơn huyệt mộ này?
 

Đinh Hùng có câu:
Nằm trong đáy mộ chắc em sầu?

Bài thơ đề tặng Liêu Trai của Vương Ngư Dương (?) mà Vũ Hoàng Chương dịch, tôi nhớ mài mại:
Chuyện đời chán ngấy người lên được,
Nghe quỉ mồ ma khóc thấy ưa
(nguyên tác: Ái thính thu phần quỉ xướng thi)

Liệu có phải Kursk cũng là một "chuyện đời chán ngấy người lên được"? Biết đâu bài thơ của Ian Bui, là mở đầu cho những dòng thơ, từ trong mồ… Kursk ngàn đời sau vọng lên?
(Một thân hữu VHNT)

Chú thích: Sự thực tôi có hỏi, ông trả lời, thật lịch sự:

"… thật ra ý tôi trong đoạn đó rất đơn giản…. Cũng có thể câu đó là điểm yếu trong toàn bài, hơi bấp bênh, không chắc như những câu khác. Chỉ sợ nếu sửa câu thơ một tí mà làm sai ý của nguyên bài thì hỏng. Quả thực là việc nguy nan…"

Ôi chao, thật nguy nan, cái việc sửa thơ, và thật vô cùng nguy nan, cái việc sửa thơ của người khác!
 

Phong Hỏa Đài 

Đời xưa, một ông vua (Trụ Vương), vì muốn mua một tiếng cười của Người Đẹp (Đát Kỷ), đã ra lệnh nổi lửa trên Phong Hoả Đài. Chư hầu thấy hiệu lửa cầu cứu, vội vàng kéo quân tới. Nhìn thấy những đoàn quân ùn ùn tới, rồi tẽn tò lui, Người Đẹp quả nhiên bật cười. 

Không hiểu ký giả người Mỹ, David Remnick có biết tới nụ cười La Joconde đã biệt tích theo hạc vàng của Đông Phương hay không, nhưng trong bài viết về thảm kịch Kursk, ông đã liên hệ tới ngọn lửa cháy trên tháp cao nhất của nước Nga, (và của Âu Châu?). Ông viết: Nước Nga là một xứ sở lớn lao của… ẩn dụ (Russia is a great country for metaphor), chính vì vậy mà tuần lễ vừa rồi, khi tháp truyền hình Ostankino bốc cháy trên nền trời Moscow, người ta cố tìm cho được ý nghĩa của nó. Liệu có thể coi đây là ngọn đuốc tưởng niệm những người con của nước Nga, nằm dưới đáy sâu biển cả, trong nấm mồ lạnh lẽo là tiềm thủy đỉnh nguyên tử Kursk? Hay đây là ngọn lửa bùng lên vào phút cuối cùng, báo trước sự cáo chung của một chế độ? Hay đây là ngọn lửa cho thấy cơn giận dữ của chính quyền, trong nỗ lực bóp nghẹt tự do báo chí? 

Nhật Ký Thời Chiến

Khi nhà văn Ba lan gốc Do thái Mihail Sebastian quyết định viết nhật ký, vào năm 1935, ông 28 tuổi, và đã nổi tiếng như là một ký giả, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia. Là một Do thái "hội nhập", ông cảm thấy quá chán chủ nghĩa bộ lạc, và tỏ ra hoài nghi những khẩu hiệu, theo kiểu "yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa", hay rõ hơn, "những sự nghiệp lớn lao mang tính ý thức hệ". "Tôi có niềm tin ở con người cá nhân (the individual man), nhưng niềm tin ở đây cũng chỉ là một thoả thuận giữa hai con người", ông viết vào năm đó (1935). Là một thành viên trong một nhóm gồm toàn thứ dữ: Mircea Eliade, Eugène Ionesco, Camil Petrescu, E. M. Cioran, nhưng đến khi, nhiều bạn bè của ông ăn phải thuốc lú, cập kè với một nhóm cực tả có tên là Vệ Binh Sắt, ông bèn giãn ra. (Eugène Ionesco, "giáo chủ" trường phái Kịch Phi Lý, là người độc nhất "không thèm chơi với hủi" (the only one who refused to embrace totalitarianism: người độc nhất từ chối ôm ấp chủ nghĩa toàn trị).

Trong thời kỳ khủng hoảng chính trị-xã hội của thập niên 1930, chủ nghĩa bài Do thái nở rộ, ở đám đông cũng như trong số những thành phần được coi là tinh hoa của xã hội. Ngay đầu năm 1938, chính quyền Octavian Goga (một nhà thơ có tài), đã ra lệnh thu hồi thẻ công dân của hàng trăm ngàn người Do thái. Vào tháng Chín, 1940, nhóm cực tả Vệ Binh Sắt, có khuynh hướng phò Nazi, bài Do thái, lên cầm quyền. Tướng Ion Antonescu, một trong những đồng minh của nhóm, trở thành nhà "dìu dắt" đất nước. Tuy nhiên, chỉ mấy tháng sau, ông đập tan cú đảo chánh của Vệ Binh Sắt, và ban hành chế độ độc tài riêng của ông ta.

 Chiến thuật bài Do thái của chế độ Antonescu rất "uyển chuyển": thật cứng rắn trong những năm đầu, thận trọng hơn khi chiến thắng của Đức không còn "chắc ăn"; cực kỳ dã man tại những vùng biên giới phía đông với Bessarabia và Bukovina, nơi người Do thái bị tống xuất hàng loạt tới những trại tập trung ở Transnistria, bị Romania chiếm đóng. Phần đất nước còn lại, là một chính sách đỡ hiểm độc đi một chút. Tuy nhiên, ngay ở Bucharest, nơi Sebastian trải qua những năm tháng chiến tranh với bà mẹ và em trai, thường xuyên xẩy ra những đợt hung hăng xuống đường bài Do thái, làm nhục họ, chơi trò blackmail, và những đợt cưỡng bức lao động.

 Nhật ký của Sebastian cho thấy: đây là một trong những chứng liệu quan trọng nhất về thảm kịch Do thái trong giai đoạn trên, có thể so sánh với "Sống sót tại Auschwitz" của Primo Levi, hay nhật ký của Anne Frank. Không như Levi và Frank, là những người viết từ bên ngoài Địa Ngục, miêu tả cuộc sống ở những trại tập trung hay trong khi ẩn trốn, Sebastian viết, với một sự chân thành và một cái nhìn sắc bén, từ lò luyện ngục, là chính căn phòng riêng của mình ở Bucharest, nơi ông "sống với nỗi chết không rời", trong sợ hãi có thể bị gõ cửa mời đi bất cứ lúc nào, tới một nơi là trại tập trung, hay tử thần. Trong những lúc tạm cho mình thoải mái, ông tra hỏi đời mình: thú nghe nhạc, những cuộc tình, đọc, viết, hay học tiếng Anh.

 Khi ông mất vào năm 1945, môät trong những anh em của ông đã giấu nhật ký, gồm 9 cuốn sổ tay, sợ chính quyền theo Stalin tịch thu. Nhật ký được lén đưa qua Israel, rồi đưa lại cho một người anh/em ông, đã dời đi Paris sau thời kỳ trên. Mãi tới năm 1997 gia đình ông mới đồng ý cho xuất bản.

 (Sebastian bị xe tải cán, mất vào ngày 29 tháng Năm, 1945).

 Trên đây là tóm tắt bài giới thiệu nhật ký của Sebastian, đăng trên tờ The New Yorker (Người Nữu Ước, số Oct 2, 2000). Tác giả bài giới giới thiệu là Norman Manea, nhà văn Romania đào thoát qua Tây phương; Jennifer tôi đã giới thiệu ông với độc giả Tin Văn, qua bài "Số phận một nhà văn lưu vong".

 Dưới đây là một vài trích đoạn, từ nhật ký của Sebastian, dưới nhan đề "Bạn và Phát xít" (Friends and Fascists) trên tờ The New Yorker số đã dẫn.

1936
Ngày 3 tháng Năm: Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?… 

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature). Tại sao mình không làm một nghề bình thường – luật sư, công chức? Tại sao không chọn phần số, một con người được sinh ra là để có một căn nhà của riêng mình, một đời của riêng mình, một tình yêu của riêng mình – mà chẳng có một tí rắc rối nào hết?

Ngày 25 tháng Sáu: Tôi gặp Camil Petrescu sáng nay. Ông lập lại những gì ông nghĩ, về những vụ tấn công người Do thái mới xẩy ra.

 -Thật đáng tiếc, bạn già ơi. Nhưng tất cả những người Do thái đều có trách nhiệm về chuyện xẩy ra.

 -Thế là thế nào, Camil?

 -Bởi vì có quá nhiều Do thái.

 -Nhưng cũng có quá nhiều người Hung Gia Lợi vậy?

 -Có thể, nhưng ít ra họ cũng ở cùng một chỗ, một vùng.

 Ông cứ thế tiếp tục, "Bạn thân ơi, những người Do thái gây ra hết. Không thể tin họ được, đã vậy lại hay xía vô chuyện chẳng liên quan tới họ.

 Đó là Camil Petrescu nói. Ông là một trong những bộ óc tuyệt vời nhất ở Romania. Một trong những con người đa cảm nhất ở Romania.

 Ngày 25 tháng Chín. Chiều hôm qua, đang trò chuyện êm ả với Mircea [Eliade] về chính sách ngoại, ông bất thình lình trở giọng hung hãn.

 -Titulescu? [Một vị bộ trưởng ngoại giao bài Đức]. Ông ta đáng bị xử tử. Kéo ông ta ra trước đội hành quyết.

 Chẳng lẽ tôi mất một người bạn chỉ vì những chuyện không đâu như vậy? Làm sao tôi quên nổi mọi điều tuyệt vời ở ông: ngây thơ, trẻ con, thành thật…

 Ông bạn của tôi có thể làm việc thoải mái cho nhật báo bài Do thái Vremea. Chuyện bình thường, chẳng có chi là ghê gớm.

 Dù sao tôi cũng cố giữ cho được người bạn của mình.

 1937

 Ngày 8 tháng Giêng. Sinaia. Trong cỡ chừng 4 tiếng đồng hồ, tôi nặn ra được ba trang, nhưng vẫn còn cả lố phải sửa chữa.

 Hôm qua, trong lúc đi dạo núi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Tôi thiếu tính tự phát (spontaneity), mà thiếu nó gần như thiếu tất cả, Thành thử, tôi chỉ có thể viết những câu chuyện chừng hai trăm trang, với giọng điệu nhật ký riêng, chẳng ra vẻ tiểu thuyết. Tôi cũng nghĩ, mình có thể viết kịch, mà món này sẽ khá hơn nhiều….

 Ngày 15 tháng Giêng. Bucharest. Đã hơn nửa tháng, tôi chưa đi coi Marietta [một nữ nghệ sĩ]. Bà vừa mới giáng một đòn cho đám Do thái: "Tụi khốn giật bánh mì khỏi miệng chúng ta; chúng bóc lột chúng ta, làm chúng ta nghẹt thở. Đuổi chúng ta khỏi đây. Xứ sở này là của chúng ta. Không phải của họ. Romania là của người Romania."

 Ngày 25 tháng Hai. Chiều qua, có một bữa xum họp bè bạn tại chỗ tôi ở. Có vợ chồng Mircea, Marietta và chồng… Tôi tự hỏi không biết có phải đây là lần họp bạn cuối cùng. Thật khó mà kéo dài sự giả dối, kể từ khi họ chơi với đám Vệ Binh Sắt. Liệu có thể có tình bạn với những người mà những ý nghĩ, tư tưởng thật xa lạ với mình? Xa lạ đến nỗi, vừa thoáng thấy bóng tôi, là họ ngưng câu chuyện, trong dáng điệu tủi hổ và bối rối?…

 Nếu tôi không phải là một tên Do thái, những vở kịch của tôi có thể được trình diễn, và tôi sẽ là một "kịch tác gia", được như vậy là hết xẩy, tôi đâu còn muốn gì hơn thế nữa cơ chứ!…

 Lương tâm nhà nước (The national conscience) không cho phép một vở kịch của Mihail Sebastian được trình diễn tại nhà hát Bucharest…

 Tôi phải thú nhận, tôi chẳng thèm đặc biệt lo lắng cho những bản thảo của tôi. Chuyện tôi lo, là những cuốn sách không thể viết ra được nữa, nhất là cuộc đời này, cho tới nay, tôi vẫn chẳng làm được một chuyện gì cho ra hồn…

 Giả và thật trong văn chương (2)

 Kỳ trước Jennifer giới thiệu nhà văn Nga, Andrei Makine, viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải thuởng văn chương lớn của Pháp, Goncourt và Médicis, trong cùng một năm (1995), cùng một tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament francais); chưa kể giải Goncourt của giới học sinh trung học. Khi chưa nổi tiếng, ông đã phải bịa ra những "nguyên bản ma", tức là coi những tác phẩm của ông, là những bản dịch, từ tiếng mẹ đẻ, bởi vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự chú ý ở giới xuất bản và độc giả Pháp: Họ muốn tin rằng, đây là một "Kẻ Xa Lạ" (tên một tác phẩm của Camus), viết văn bằng tiếng Pháp, về nước Pháp! Và nước Pháp "của chúng ta" sẽ còn tuyệt vời tới mức nào, ở trong nguyên bản bằng… tiếng Nga!

 Nhưng trái với quan niệm thông thường, theo đó, dịch là phản, nhà văn người Argentina, Jorge Luis Borges, cho rằng: nguyên tác không trung thực bằng bản dịch (the original is unfaithful to the translation).

 Chứng cớ cũng nhiều: Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn, "bản dịch" ăn đứt nguyên bản, của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyên bản bám chặt vào "hiện thực" của một thời đại Gia Tĩnh nhà Minh. Phó bản vượt ra khỏi những câu thúc mang tính lịch sử, thời đại, và nhập vào một cõi người, như là một nơi chốn tương tranh, mà sau cùng cái đẹp sẽ cứu chuộc nó (thế giới). Cũng vậy, những tác phẩm của Garcia Marquez đã vượt hẳn nguyên bản, của Faulkner. Nói một cách khác, Garcia Marquez làm sống lại Faulkner, nhưng không phải một Faulkner của cuộc nội chiến Nam Bắc nước Mỹ, mà là một Faulkner của vùng đất Nam Mỹ với những vấn nạn của nó.

 Trường hợp James Joyce cũng vậy. Những phó bản của Ulysses, nói rõ hơn, dòng văn chương độc thoại nội tâm, vốn thật tối tăm, thật khó hiểu, ở Joyce, đã được "tục hoá", bởi những nhà văn như Faulkner, Hemingway, Claude Simon… Theo nghĩa đó, Borges cho rằng, chính học trò khám phá ra thầy: mỗi nhà văn ‘sáng tạo ra’ những tiền thân của riêng mình. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như nó sẽ sửa đổi tương lai (every writer ‘creates’ his own precursors. His work modifies our conception of the past, as it will modify the future).

 Nhận định "bản dịch trung thực hơn nguyên tác" của Borges, là do thuở nhỏ, ông học tiếng Anh trước khi có thể đọc được tiếng Tây Ban Nha. Ông sống trong cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh là để nói chuyện với bố mẹ, tiếng Tây Ban Nha, trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, sau này, khi đọc Don Quixote bằng nguyên bản Tây Ban Nha, ông thấy đây là một bản dịch dở, so với bản tiếng Anh của thời thơ ấu. (When later I read Don Quixote in the original, it sounded like a bad translation to me). Và, "thừa thắng xông lên", ông bèn coi tác phẩm Don Quixote, của Cervantes, là một tác phẩm giả. Ông chứng minh, đồ "zin", là của một tác giả tên là Pierre Menard (do ông bịa ra). Ông được coi là một trong những người kể chuyện vĩ đại nhất của thế kỷ 20: một người viết những bài điểm sách, về những cuốn sách không hề có, của những tác giả "giả" (a man who wrote book reviews of nonexistent books by imaginary authors).

 Truy tìm thật giả trong văn chương quả là một công việc nguy nan. Mới đây thôi, một cây viết hải ngoại la bai bải, "tài liệu giả, bà con ơi!", khi đọc một số bài viết ở trong nước. "May quá", đây chỉ là một báo động hoảng!

 Và cũng mới đây thôi, báo chí Tây Phương, tờ Time chẳng hạn, đã ‘thông báo" về một mất mát trong giới văn chương: chuyến tầu suốt, vào ngày 12 tháng Chín, 2000, của nhà văn Konrad Kujau. Còn tờ Người Kinh Tế (The Economist, số Sept 23-29, 2000), thì đi cả một đường ‘cáo phó’.

 Nhưng Konrad Kujau là ai vậy?

 Xin thưa, đây là người đã ngụy tạo tác phẩm: Nhật Ký của Hitler.

 Qua bài cáo phó, đối với ông vua xài bạc giả này, thế giới đúng như Shakespeare nhận định, "một sàn diễn lớn của những tên khùng" (The world is a ‘great stage of fools’). Bởi vậy cho nên, ông chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, khi đám khùng rối rít khen nhặng cả lên tác phẩm của ông: Nhật Ký Hitler, đã được vồ vập (bought), bởi báo Stern (Đức), Thời Báo Chủ Nhật (Sunday Times, Anh), và Tuần Tin Tức (Newsweek, Mỹ). Theo họ, đây là một ‘tin động trời’ (a scoop), của thế kỷ. Nó còn được một trong những chuyên gia số một thế giới về thời kỳ Hitler, là Hugh Trevor-Roper ca ngợi. Ông la bai bải: thứ thiệt, thứ thiệt! Tuy nhiên, sau đó, người ta khám phá ra rằng, thứ giấy dùng để viết nhật ký, được chế tạo sau khi Ông Trùm Nazi đã ngỏm củ tỏi. Ông vua xài bạc giả đã nhuộm nó bằng nước trà cho có vẻ… xa xưa!

 Chuyện thiên hạ vồ vập nhật ký của ông trùm Nazi, cũng dễ hiểu: Hitler đã, và sẽ mãi mãi còn là một trong những con quỉ ‘hớp hồn’ (intriguing) người đọc. Người ta còn tò mò muốn biết, người đẹp của ông trùm, là Eva, có ‘sexy’ không?

 Konrad thực có tài, (he did have a gift), theo bài viết trên Người Kinh Tế. Ông có thể vẽ, và có một con mắt tốt (a good eye), về chi tiết, theo thuật ngữ của giới hội họa. Khi còn trẻ, ông học nghệ thuật ở Dresden, khi đó còn thuộc Đông Đức. Dời qua Tây phương vào năm 1957, làm ba việc vặt vãnh, dành dụm tiền bạc, và mở được một cửa tiệm ở Stuttgart. Mỏ bạc giả của ông: hồi tưởng, hình ảnh tướng lãnh, những nhân vật nổi tiếng thời Nazi. Mấy thứ này dễ ợt, làm kèm với phiếu ăn trưa (luncheon vouchers). Ngửi thấy mùi, thiên hạ mê những món dính tới chính Hitler, ông bèn chế tạo dăm ba bài thơ, một vở opera, tranh mầu nước Fuhrer là tác giả. Rồi tới nhật ký về vài tháng trong năm 1935. Gerd Heidermann, một nhân viên của tờ Stern, và cũng là người đỡ đầu tiệm của Mr. Kujau, rất quan tâm tới nhật ký. Ở đâu ra vậy? Còn nhiều nữa hay chỉ có ngần này?

 Ông này sau đó đã thuyết phục Stern, và vài chục triệu đô la đã được tờ báo chi ra, tiền hoa hồng cho người trung gian cũng khá bộn, và sau đó ông cũng đi tù vì tội đồng lõa.

 Konrad Kujau bị kết án 4 năm rưỡi, nhưng gỡ ba cuốn lịch thì được thả. Hầu hết mọi người cho rằng, ông ta chẳng làm hại ai (no real harm). Chính ông ta cũng rất tự hào về tài năng của mình, và sẵn sàng đưa ra một bài học, khi được phóng viên hỏi. Ông rất bực, khi một nhà chuyên môn nghiên cứu thư khố, cho rằng ‘tác phẩm’ của ông ‘hời hợt’. Ông đã mất hai năm trời cặm cụi, tại căn phòng ở phía sau cửa tiệm. Chính cái bề dầy của nó, 62 tập, đã làm những chuyên gia choáng váng. Hugh Trevor-Roper ghi nhận: chúng tạo nên một toàn thể hài hòa. Đủ thứ ở trong đó: nào là những tiểu sử của Hitler, những nhật báo thời kỳ đó… Đôi khi, trong khi viết, tác giả thắng bộ đồ ‘hành quân’ của một tướng lãnh Nazi, để nhập đồng, và có lúc ông cảm thấy, mình chính là Hitler! "Khi viết về Leningrad, tay tôi run run,", tác giả thú nhận. Đây là một kinh nghiệm những tay chuyên môn xài bạc giả đã từng trải qua. Một trong những bậc thầy trong ngành, là Thomas Chatterton, một nhà văn thế kỷ 18, đã giả mạo những bài thơ của một Thomas Rowley, một nhà sư thời trung cổ, và được rất nhiều người đọc ái mộ.

 Ở  Việt Nam, sau đảo chính ông Diệm, và sau 1975, cũng có những tài liệu ngụy tạo về gia đình họ Ngô, nhất là về Trần Thị Lệ Xuân. Nào nhật ký, nào hình "khỏa thân" khi đang tắm biển, hoặc đang làm tình. Có thể, kẻ thắng trận còn e sợ những tình cảm luyến tiếc nhà Ngô, ở người dân Miền Nam. Nhưng do ngụy tạo quá lộ liễu, đầy sơ hở (thí dụ như khi ghép mặt bà Lệ Xuân với một thân hình khoả thân khác…), cuối cùng đã gây phản ứng ngược: người dân càng thương nạn nhân, và càng tởm chế độ. Người viết còn nhớ, ngay khi nhà Ngô sụp đổ, tại một phòng triển lãm ngay đường Tự Do, một ông làm phòng thông tin đã cho chơi một bản nhạc chế nhạo miền Bắc, đúng ra là chế nhạo ông Hồ, nhại theo điệu "son son son, mì son đố mì, son mì son mình yêu nhau đi, nhờ Bác Hồ mà ta mê ly", nhưng chỉ được một hai bữa, là có lệnh dẹp, vì người dân không có thói quen sỉ nhục đối phương. 

Khúc Kinh Cầu cho Chiến Tranh Việt Nam

Tin từ Úc châu cho biết, The Vietnam War Sonatina (xin tạm dịch là Khúc Kinh Cầu cho Cuộc Chiến Việt Nam), của nhạc sĩ Nguyễn Phước, đã được trình diễn "trong một cuộc đua marathon về âm nhạc tại Úc" (in a marathon of Australian Music) tại ABC’s Eugene Goosens Hall vào ngày 22 tháng Mười, 2000. Đây là một "audiovisual work", của một nhà soạn nhạc người Việt; qua lời giới thiệu bằng Anh ngữ (The Program Note) cho biết, "một nhìn lại những biến động lịch sử của cuộc chiến bi thảm; nhưng vượt qua đó, là một hy vọng về tương lai". Qua lời tâm tình của tác giả, "chiến tranh vẫn luôn nhắc một điều: rằng tự do và nhân quyền là những gì quí giá nhất trong tất cả mọi điều. Chính điều này đã gây hứng khởi cho tôi tạo nên khúc ‘sonatina’, cho xứ sở của tôi, cho người Việt đau khổ chúng tôi… Khúc Audio Visual này chỉ là một khởi đầu, của một ước mơ lớn lao hơn nhiều… (The war is still a reminder to people who remember it that freedom and human rights are the most precious things of all. This inspired me to create a "sonatina" for my country and for my people who, despite what happened, unwillingly suffered the most… This Audio Visua was the very beginning of a bigger project that I intend to do in the future, to describe such suffering…"

Van P. Nguyen (Nguyễn Phước) sinh tại Hà Nam, miền bắc Việt Nam. Vào Nam năm 1954, học trung học và sau đó, tốt nghiệp Nhạc Viện Sài Gòn năm 1970. Nhập ngũ, chức vụ Trung Uý. Sau 1975, đi cải tạo 5 năm. Ra trại tù năm 1980. Ở Trại Cấm Thái Lan 3 năm. Định cư tại Úc tháng Tám 1993. Học nhạc tiếp và là một sinh viên về soạn nhạc (Composition Unit) tại Nhạc Viện thuộc Đại học Sydney.

Tôi quen Nguyễn Phước tại trại tù "quốc tế" Bangkok. Chúng tôi đến "nước tạm dung" Thái Lan sau "deadline", ngày cuối cùng được công nhận là tị nạn (hình như là ngày 14 tháng Ba năm 1990). Do xâm nhập Thái Lan bất hợp pháp, chúng tôi bị kết án tù ba tháng. Hết hạn tù Cao Uỷ cho xe tới "rước" về Trại Cấm, chờ thanh lọc.

Tôi tin rằng, Khúc Kinh Cầu của bạn tôi còn là thành quả của những ngày tù Bangkok, giữa những người tù thuộc nhiều quốc gia khác nhau, đủ thứ thành phần: trộm cướp, giết người, buôn lậu, giấy thông hành hết hạn, chính trị gia, kháng chiến quân thuộc các lực lượng chống đối nhà nước quân sự Miến Điện, nhà nước Cộng Sản Việt Nam… và của ba năm trời dòng dã trong trại tị nạn Panat, trại cấm Sikiew, và những ngày chờ đợi phái đoàn phỏng vấn, chờ đợi ngày đi địh cư…

Thay lời chúc mừng, trong Tin Văn kỳ tới, người viết xin được gửi tới người bạn, và bạn đọc, hồi ức về một chuyến đi dài chạy trốn quê hương, và những ngày ở trại cấm Thái Lan.

NQT