[CHAPTER 5]
Albert Einstein, Superstar
HE BRITISH ANNOUNCEMENT
that Einstein's theories had been vindicated was a watershed not just
in Einstein's life but also in the history of the world. He was
accustomed by that time to being a prominent figure within the
specialized and even somewhat occult field of physics. But now his fame
would make an exponential leap into a realm of worldwide celebrity,
even among people who had only the foggiest grasp of what relativity
was all about. "The world is a curious madhouse," Einstein wrote to his
mathematician friend Grossman. "At present every coachman and every
waiter argues about whether or not the relativity theory is correct."
Người
của thế
kỷ & Nhà văn của Thế kỷ
Thời gian,
không gian, và cái răng cái tóc
Peter D.
Smith dự triển lãm Albert Einstein, Người Của Thế Kỷ, Viện Bảo Tàng Do
Thái,
Camden Town [TLS 11 Tháng Một 2005].
Tuyệt vời nhất,
là bức hình, nhỏ hơn tấm postcard, rõ ràng để dùng cho một album gia
đình. Chụp
khi ông đi thăm Thượng Hải vào năm 1922-3. Một Einstein không giống như
những
Einstein mà mọi người từng nhìn thấy, hay tưởng tượng ra: nhỏ thó, lanh
lẹn,
trong bộ đồ thể tháo, với một cái mũ đen kiểu cọ. Vào những năm đầu của
tuổi bốn
mươi, nhà khoa học trông thật tự hào, giữa bức hình, chung quanh ông là
cộng đồng
Do Thái địa phương. Ông vừa được Nobel, và đang băng băng đi trên con
đường trở
thành "một người Do Thái vĩ đại nhất trên quả đất", như
David Ben-Gourion gọi ông sau đó. Hay như ông
khôi hài về mình, một "ông thánh Do Thái".
Tài liệu
trưng bầy trong cuộc triển lãm là từ Thư Khố Albert Einstein tại Đại
Học Hebrew
ở Jerusalem. Mặc dù thiếu những vật dụng hoàn toàn cá nhân, cuộc triển
lãm quả
là đã cho người coi một cái nhìn tuyệt vời vào cuộc đời của một thánh
tượng
khoa học.
Có một cái
thư của một anh chàng Ăng lê, xin ông trấn an anh ta, về tác động, và
ảnh hưởng
của trọng lực lên con người trong lúc trái đất quay. Anh ta viết,
'trong khi một
cá nhân chổng đầu xuống đất, tức là lộn tùng phèo, liệu có phải, chính
vào lúc
đó, anh ta mê gái, và có thể còn làm nhiều trò khùng điên khác?",
Einstein
lịch sự trả lời, "Mê gái mê trai, nói cho cùng, không phải là điều ngu
xuẩn
nhất con người làm, nhưng trọng lực [sức hút của trái đất] không có
trách nhiệm
gì về chuyện này".
Nhìn thấy
hình của ông trên nhật báo, một em bé sáu tuổi, Ann G. Kocin, đã viết
thư,
"Ông nên đi cắt tóc, như vậy trông ông sẽ còn đẹp hơn".
Những bức
thư của trẻ em như thế chứng tỏ ông ngày càng nổi tiếng, trở thành một
bậc hiền
giả, nửa tiên tri, nửa phù thuỷ.
Theo huyền
thoại thời hậu chiến, ông là một Prometheus, ăn cắp lửa của Thần Mặt
Trời cho
nhân loại, nhưng nhân loại ngu quá, hay ác quá, thay vì dùng để nấu
nướng, lại
dùng vào việc chế tạo bom nguyên tử!
Có trưng bầy
thư ông viết cho tổng thống Mỹ, đưa đến thành lập dự án Manhattan
Project và
sau đó, bom nguyên tử ra đời, và hai trái bom được thả xuống đất Nhật.
Ông nhìn
nhận, ký tên vào thư là "sai lầm lớn nhất trong đời tôi". Sự thực, do
ông quá sợ trước viễn tượng Nazi sẽ có bom nguyên tử.
Thư ông từ
chối tranh cử tổng thống nước Israel, khi được mời, mới thú vị, tuyệt
vời làm
sao. Đúng là một cái thư khó viết! Khi nhận được thư, me-xừ Thủ Tướng
Do Thái
Ben-Gourion mừng quá, nói với đệ tử ruột: "Mày biểu tao, tao phải làm
gì,
nếu ông ta nói, ừ, tớ sẽ ra tranh cử tổng thống?"
Tuần báo
Time đã chọn nhà bác học Einstein là Người của Thế kỷ. Bên cạnh ông, là
thánh
Cam Địa (Gandhi). Thật ra, bất cứ một lựa chọn nào cũng không hoàn
toàn. Có người
cho rằng, Einstein chỉ có thể coi là "Người của nửa đầu thế kỷ", do
ông đã không hiểu một số lý thuyết khoa học sau ông. Câu nói nổi tiếng
của
Einstein: Thượng Đế không chơi xí ngầu (I am convinced that He [God]
does not
play dice), là do Einstein tin vào định mệnh thuyết, trong khi một số
khoa học
gia tin rằng thuyết xác xuất, hay nói nôm na, chính là do cơ may, mà có
loài
người, và những chủng loại. Chúng ta tin tưởng có một Thượng Đế, nhưng
trong
khoa học, một định mệnh thuyết như vậy, đã tỏ ra không đúng. Trong cuốn
"Những tư tưởng gia đích thực của thời đại chúng ta" (Les vrais
penseurs de notre temps), tác giả Guy Sorman đã phỏng vấn Mooto Kimura,
một
khoa học gia người Nhật. Ông này tin rằng Darwin (cha đẻ của thuyết
tiến hoá
đưa tới chủ nghĩa Cộng Sản) đã sai lầm. Chính cơ may mới là chìa khóa
của tiến
hóa. Cũng theo ông, Einstein là nhà bác học cuối cùng còn tin rằng
Thượng Đế
không chơi xí ngầu và Thiên Nhiên tuân theo những định luật mang tính
định mệnh.
(Tiến hoá không có tận cùng mang tính đạo đức: L'évolution n'a pas de
finalité
morale, Stephen Jay Gould). Theo Kimura, cũng như theo Ilya Prigorine
(nhà tư
tưởng này cho rằng trật tự phát sinh từ hỗn mang: L'ordre est né du
chaos): Thượng
Đế chơi xí ngầu, mà chơi rất hay!
Nhìn lại những
ngày cuối thế kỷ, và cơn hoang mang, nỗi sợ hãi về một tận thế vào năm
2000, về
con bọ Y2K, mọi người đều thở phào, khi ngồi trước máy truyền hình,
chứng kiến
từng nơi trên mặt địa cầu đón thiên niên kỷ, theo vòng quay của trái
đất. Có thể,
trước đó, hầu hết mọi người đều lo lắng, hoang mang, nhưng thâm tâm, họ
vẫn tin
rằng sẽ chẳng có chuyện gì xẩy ra hết. Đây không phải là lần đầu, lẽ dĩ nhiên. Nhược điểm, biết đâu, đây chính là hạnh
phúc của con người, đó là trí nhớ của nó ngắn ngủi lắm! Vào những ngày
nhân loại
sắp tiến đến điểm zero (countdown), có mấy ai nhớ gì, về cuối thế kỷ
trước đó?
Đa số đều nghĩ, "rồi cũng rứa", cho dù cũng sửa soạn rối rít, cũng ra
nhà băng rút mớ tiền mua thức ăn dự trữ, hy vọng sống dôi ra vài ngày,
sau... tận
thế!
Nhưng sự thực,
thế kỷ chấm dứt không như nhau. Nhà khoa học Stephen Jay Gould, trong
cuốn Tra
Hỏi Thiên Niên Kỷ (Questioning the Millennium: A Rationalist's Guide to
a
Precisely Arbitrary Countdown, nhà xb Harmony Books, 1998), ghi nhận
rằng, vào
những ngày tháng cuối năm 1799, người Mỹ đã cùng nhau than khóc cái
chết của
George Washington. Nhưng thay vì âu lo về "chấm dứt chế độ cũ" (the
fading of an ancien regime), ngược lại, cái chết của một con người đã
mở ra một
điều gì thật sự mới mẻ: đây là một xứ sở trẻ trung tưởng niệm một người
hùng của
đất nước. Thời kỳ Cách mạng Pháp, Robespierre và những bạn bè của ông
đã coi những
năm 1790 không phải là thập niên cuối cùng của một thế kỷ, nhưng mà là
đầu
tiên. Ngày cả từ "chấm dứt thế kỷ" (fin du siècle), trước năm 1890
chưa có trong tự điển tiếng Anh. Nó cũng chẳng già nua gì lắm, ngay cả
đối với
chính tiếng Pháp. Điều mà Gould thích thú nhất, khi tra hỏi thiên niên
kỷ, đó
là văn hóa đại chúng (pop culture) đang thắng thế văn hóa cao (high
culture).
Về đề tài
văn hóa đại chúng thắng thế văn hóa cao, chữ điện tử (như các bạn đọc
trên máy
điện toán, trong "trang nhà" trên lưới internet) thắng thế chữ in ra
giấy, có mùi thơm của mực, người viết xin hẹn một dịp khác. Ở đây, chỉ
xin đưa
ra câu hỏi: ai là nhà văn của thế kỷ vừa qua?
Đa số đều
cho rằng, ba nhà văn đại diện cho thế kỷ 20 là James Joyce, Marcel
Proust, và
Franz Kafka. Trong ba nhà văn này, người viết xin được chọn Kafka là
nhà văn của
thế kỷ 20.
Thế kỷ 20
như chúng ta biết, là thế kỷ của hung bạo. Những biểu tượng của nó, là
Hitler với
Lò Thiêu Người, và Stalin với trại tập trung cải tạo. Điều lạ lùng ở
đây là:
Kafka mất năm 1924, Hitler nắm quyền vào năm 1933; với Stalin, ngôi sao của ông Thần Đỏ này chỉ sáng rực lên
sau Cuộc Chiến Lớn II (1945), và thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bằng cách
nào Kafka
nhìn thấy trước hai bóng đen khủng khiếp, là chủ nghĩa Nazi, và chủ
nghĩa toàn
trị?
Gần hai chục
năm sau khi ông mất, nhà thơ người Anh Auden có thể viết, không cố tình
nói ngược
ngạo, hay tạo sốc: "Nếu phải nêu một tác giả của thời đại chúng ta,
sánh
được với Dante, Shakespeare, Goethe, và thời đại của họ, Kafka sẽ là
người đầu
tiên mà người ta nghĩ tới." G. Steiner cho rằng: "(ngoài
Kafka ra) không có thể có tiếng
nói chứng nhân nào thật hơn, về bóng đen của thời đại chúng ta." Khi
Kafka
mất, chỉ có vài truyện ngắn, mẩu văn được xuất bản. Những tác phẩm quan
trọng của
ông đều được xuất bản sau khi ông mất, do người bạn thân đã không theo
di chúc
yêu cầu huỷ bỏ. Tại sao thế giới-ác mộng riêng tư của một nhà văn lại
trở thành
biểu tượng của cả một thế kỷ?
Theo
Steiner, sự kiện-chìa khoá về Kafka là như thế này: ông bị chế ngự
(possessed),
bởi một linh cảm đáng sợ, rằng ông nhìn thấy, từng li từng tí, cơn kinh
hoàng
đang tích tụ lại... Kể từ khi Kafka viết, tiếng đập cửa ban đêm cứ thế
tới muôn
nhà, những con người bị lôi ra, chết "như một con chó", cứ thế nhân
lên mãi. Huyễn tưởng biến thành sự kiện cụ thể: Thân quyến gần gụi nhất
của
Kafka chết trong phòng hơi ngạt. (Người yêu) Milena, và Miss Grete B
(người có
thể đã có với Kafka một cháu nhỏ), chết trong trại tập trung. Chúng ta
tự hỏi:
Làm sao ông có thể tiên tri như vậy?
Tóm ngay lấy
một câu nói bóng gió trong "Ghi Chú Dưới Hầm" của nhà văn Nga
Dostoevsky, Kafka mô tả con người bị giản trừ thành một con bọ quằn
quại. Cuộc
hóa thân của nhân vật Gregor Samsa này, thoạt đầu được một số người
hiểu như là
câu chuyện về một giấc mơ ghê rợn, là số phận "theo nghĩa đen", của
hàng triệu con người. Từ "con bọ", Ungeziefer, tiếng Đức, chính nó là
một tiên tri bi đát, bởi vì đám Nazi đã dùng để chỉ những con người
chúng đẩy
vô phòng hơi ngạt. Tác phẩm "Xứ Trừng Giới" của Kafka thông báo,
không chỉ một kỹ thuật học về lò sản xuất cái chết (Lò Thiêu), mà luôn
cả nghịch
lý lạ lùng của chế độ toàn trị hiện đại: sự hợp tác thật chi ly, thật
tục tằn
giữa nạn nhân và kẻ tra tấn. Như Vaclav Havel chỉ ra, chế độ toàn trị
đặc biệt ở
chỗ: khác hẳn chế độ phong kiến, hay bạo chúa truyền thống, ở đây không
có chuyện
một thiểu số áp bức đa số, mà là, mỗi cá nhân đều bị cuốn hút vào guồng
máy, đều
trở thành một bộ "nạn nhân-đao phủ", "tù nhân-cai ngục".
Ngay cả mấy ông Trung Ương Đảng cũng không thoát khỏi "qui luật" này:
một phần thân thể, tôi chịu đựng hệ thống, phần kia tôi điều khiển nó.
Nhà phê bình
Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của
Kafka, có những
dấu vết đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn
ảnh của ông về một hy vọng triệt để, thật u tối: đằng sau bước quân
hành của cuộc
cách mạng vô sản, ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa,
hay kẻ mị
dân. Cuốn tiểu thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn
hành chánh mà "Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người
thừa kế nhà văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng
định chế
(bộ máy kỹ nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông
còn thừa
hưởng luôn cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột
người.
Chọn Kafka
là tiếng nói chứng nhân đích thực, nhà văn của thế kỷ hung bạo, là chỉ
có
"một nửa vấn đề". Kafka, theo tôi, còn là người mở ra thiên niên kỷ
mới,
qua ẩn dụ "người đàn bà ngoại tình".
Thế nào là
"người đàn bà ngoại tình"? Người viết xin đưa ra một vài thí dụ: một
người ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài, nhưng không thể nào quên được
tiếng mẹ
đẻ. Một người di dân phải viết văn bằng tiếng Anh, nhưng đề tài hoàn
toàn là
"quốc tịch gốc, quê hương gốc" của mình. Một người đàn bà lấy chồng
ngoại quốc, nhưng vẫn không thể quên tiếng Việt, quê hương Việt. Một
người Ả Rập
muốn "giao lưu văn hóa" với người Do Thái...
Văn chương
Việt hải ngoại, hiện cũng đang ở trong cái nhìn "tiên tri" của Kafka:
đâu là quê nhà, đâu là lưu đầy? Đi /Về: cùng một nghĩa như nhau?
Jennifer
Tran