Tin
Văn
1. Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho nhà
văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh tại Chaguanas,
gần
Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã nhập làm một - một lối viết tự sự
mẫn cảm
và một cái nhìn soi mói đừng hòng mong mua chuộc – vào trong những tác
phẩm bắt
chúng ta nhìn vào những cuộc đời bị vùi giập” (bản tiếng Anh: “… for
having
united perceptive narrative and incorruptible scrutiny in works that
compel us
to see the presence of suppressed histories”).
Một
tác giả gây tranh luận (“Controversial author”) đã thắng
giải văn chương Nobel, theo như một ký giả. Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã
đặc biệt
nhấn mạnh tới cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “The Enigma of
Arrival” (tạm
dịch “Bí ẩn khi tới”, 1987), coi đây là “hình ảnh, cứ thế mà lặng lẽ
suy sụp,
của văn hoá thực dân cũ, và sự suy tàn của những xóm làng Âu Châu” (“an
unrelenting image of the placid collapse of the old colonial ruling
culture and
the decline of European neighbourhoods”. Luôn cả “cái nhìn soi mói
không thể
nào bị mua chuộc” đối với xã hội hậu thuộc địa, và những nhận định gay
gắt đối
với Hồi giáo chính thống (Muslim fundamentalism).
Naipaul
được chọn, trong một danh sách chót gồm năm người.
Tên những người còn lại phải 50 năm sau mới được công bố, nhưng theo
tin tức
hành lang, trong đó có nhà văn người Israel, Amos Oz, nhà văn Nam Phi,
JM
Coetzee, nhà văn người Canada, Margaret Atwood, và nhà văn người Mỹ,
Philip
Roth.
Trên
VHNT, người viết đã từng giới thiệu Naipaul, trước khi
ông được Nobel, nay xin đăng lại, và tiếp đó, xin cống hiến bạn đọc một
số nhận
xét, và phản ứng của một số tác giả, và của chính Naipaul, trước tin
ông được
Nobel.
***
“Con
người và nhà văn là một. Đây là phát giác lớn lao nhất
của nhà văn. Phải mất thời gian – và biết bao là chữ viết! – mới nhập
một được
như vậy.”
(Man and writer were the same person. But
that is a writer’s
greatest discovery. It took time – and how much writing! – to arrive at
that
synthesis)
V.S. Naipaul, “The Enigma of Arrival”
Trong
bài tiểu luận “Lời mở đầu cho một Tự thuật” (“Prologue
to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân Ấn độ ở Trinidad.
Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo xơ nghèo xác của thế kỷ 19, họ
“đăng
ký” làm công nhân xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh quốc là
Trinidad.
Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn, về một miếng đất cắm
dùi sau
khi hết hợp đồng, hay một chuyến trở về quê hương miễn phí, để xum họp
với gia
đình. Nhưng đã ra đi thì khó mà trở lại. Và Trinidad tràn ngập những di
dân Ấn,
không nhà cửa, không mảy may hy vọng trở về.
Vào
năm 1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn di dân về
Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad, nó chỉ kiếm được một ngàn, trong số hàng
ngàn
con người không nhà nói trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới cảng
Calcutta, bến
tầu tràn ngập những con người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn trở lại
Trinidad, bởi vì bất cứ thứ gì họ nhìn thấy ở quê nhà, dù một tí một
tẹo, đều
chứng tỏ một điều: đây không phải thực mà là mộng. Ác mộng.
“Em
ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách ghé thăm Bắc
Ấn, nơi những di dân đợt đầu tiên tới Trinidad để lại sau họ, nó chẳng
khác gì
ngày xa xưa, nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác, vẫn những con đường đầy
bụi, những
túp lều tranh vách đất, lụp xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh
đồng cũng
vẫn cảnh người cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông nội của Naipaul đã
được mang
tới Trinidad, khi còn là một đứa bé, vào năm
1880. Tại
đây, những di dân người Ấn túm tụm với nhau, tạo thành một cộng đồng
khốn khó.
Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul, và bà mẹ, sau khi đã hoàn tất
thủ tục
hồi hương, đúng lúc tính bước chân xuống tầu, cậu bé Seepersad bỗng
hoảng sợ
mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công cộng, len lén nhìn ra biển, cho
tới khi
bà mẹ thay đổi quyết định.
Chốn
cũ vẫn như xưa, nhưng chốn mới chẳng hơn gì; cha của
Seepersad, chết trẻ; gánh nặng gia đình chuyền qua ông anh lớn, còn là
một đứa
nhỏ, đã phải lăn lưng vào đời, lãnh 8 xu mỗi ngày, tại một trại trồng
mía – nửa
thế kỷ sau, kỷ niệm ấu thời làm ông bật khóc trước mặt đứa cháu của
mình là
Naipaul. Bà chị của Seepersad, một cô gái mù chữ, bị gửi đi xa, làm
việc cho
một người bà con trong gia đình; bà chịu đựng hai cuộc hôn nhân bất
hạnh. Quãng
đầu đời của Seepersad cũng chẳng hân hoan thơ thới gì. Ông sống với
người
chị/em của mẹ mình, ngày đi học, đêm làm việc tới khuya trong một cửa
tiệm. Sau
này, khi đã có vợ, có thời gian ông phải sống bám vào gia đình bà vợ
giầu có.
Mãi sau đó, ông cố kiếm đường ngoi lên, bằng một việc làm tại một tờ
báo ở Trinidad,
tờ Guardian; bà mẹ vẫn sống, và sau cùng chết, trong nghèo nàn cùng cực.
Chính
cái nền đó, – những thảm kịch nho nhỏ của một nhóm
người nghèo đói, bị đánh bật ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, túm tụm với
nhau
tại vùng West Indies, Trinidad – đã làm cho “Một căn nhà cho Ông
Biswas” (1961)
- nhân vật chính lấy khuôn mẫu từø người cha của Naipaul - trở thành
một trong
những cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh tuyệt vời nhất của thế kỷ
20. Hơn
thế nữa, nó còn là một tài liệu giá trị, về một phần đất không ai thèm
ngó tới
- theo nghĩa tinh thần – của thế giới. Không thèm ngó tới, bởi vì đôi
khi, nó,
và những phần đất tương tự như nó, có vẻ như chẳng có gì đủ quan trọng,
để được
nhân loại để ý ghi chép, về mặt chính trị cũng như văn hóa, và thường
ra, những
vùng đất như thế đó chẳng thể nào đẻ ra được những nhà văn, nhà trí
thức: chính
những người này [mới] có thể ghi nhận sự thịnh suy của chúng.
Naipaul
đã mượn luôn những câu chuyện về thời thơ ấu ông bố,
như là một đứa trẻ nhà quê Ấn Độ, rồi những năm tháng đầu tiên sống đời
di dân
tại một vùng quê Trinidaa, một cuộc đời mà Seepersad đã cố gắng ngoi
lên, và
rồi viết về nó. Viết, đối với ông bố của Naipaul, là “tất cả, cho dù
nghịch
cảnh”: nó là hứa hẹn về một phẩm giá con người, một “từ chối bị tiêu
diệt”. Ông
đã truyền lại cho người con, và với cả hai, là mong ước “một sự công
chính, ở một
tương lai nào đó”. Trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, Pankaj Mishra, khi điểm
những lá
thư nhà (“Giữa Cha và Con: Thư Nhà”,
“Between Father and Son: Family Letters”.
V.S. Naipaul, nhà xb Knopf) đã coi nghèo đói, nỗi sợ
bị tiêu diệt
(extinction), hy vọng một sự công chính (justice), và viết như một cứu
chuộc,
là những đề tài trao đổi giữa Naipaul và gia đình (Seepersal Naipaul,
ông bố là
tác giả tập truyện “Những cuộc phiêu lưu của Gurudeva”, được xuất bản
“một cách
riêng tư”, privately, vào năm 1943, tái bản có sửa chữa và mở rộng thêm
vào năm
1976, rồi năm 1995), bắt đầu vào năm 1950, khi Naipaul tới Anh làm sinh
viên
tại Oxford, nhờ học bổng toàn phần của nhà nước thuộc địa. Ông bố lúc
này coi
như hết còn làm việc được nữa; Kamla, bà chị của Naipaul, là sinh viên
tại đại
học Benares Hindu University tại Ấn Độ, cô đơn, và bất hạnh (unhappy),
nhưng
không làm sao có phương tiện rời bỏ. Naipaul, 18 tuổi đầu, mang trên
mình không
chỉ trách nhiệm cứu thoát gia đình khỏi nỗi khốn khó, mà còn đèo thêm
tham vọng
văn chương, chưa biết nó sẽ ra làm sao, và chưa biết sẽ thực hiện như
thế nào.
“Bí ẩn khi tới” (1987) thoát thai từ những lá thư nhà này, một cuốn
tiểu thuyết
mang tính tự thuật về một thanh niên nhà quê hết sức ngu ngốc
(profoundly
ignorant) bị đánh bật gốc, nỗi sợ hãi, chết khiếp, tứ cố vô thân không
nơi
nương tựa, tại Anh Quốc.
Và như độc giả có thể đoán ra được, vượt lên những bức thư,
là một bức điện tín, gửi cho gia đình, vào đầu năm 1956: TIỂU THUYẾT
ĐƯỢC CHẤP
NHẬN=YÊU, và liền sau đó, ông viết thư cho người chị: “Đó là bức thư mà
em hằng
mong được viết về cho gia đình, kể từ ngày rời Trinidad. Một bức thư về
cuốn
sách của em.”
***
Chính
trị hay không chính trị, không ai có thể phủ nhận tính
chất văn học của những tác phẩm của Naipaul. Năm nay 69 tuổi, nhà văn
người
Anh, gốc Ấn, sinh tại Trinidad, hiện đang sống ở Anh, trong vòng trên
45 năm đã
cho ra đời tổng cộng 26 tác phẩm, nhưng tuyệt phẩm của ông là cuốn “Căn
nhà cho
Ông Biswas” (A House for Mr. Biswas). Những tiểu luận, những tác phẩm
phi-giả
tưởng của ông thật sống động, và cũng thật khiêu khích (provocative).
Horace
England, chủ tịch Hàn Lâm Viện Thụy Điển, người gọi
điện thoại cho Naipaul báo tin ông được giải, cho biết, “Ông thực sự
ngạc
nhiên, và tôi không nghĩ là ông giả đò. Ông thực sự ngạc nhiên, bởi vì
cho
rằng, như là một nhà văn, ông chẳng đại diện cho một ai, ngoại trừ
chính mình.”
Đây có lẽ cũng là một trong những lý do, ông được giải văn chương cao
quí
nhất của nhân loại, cùng với Cao Hành
Kiện, năm ngoái. Nhà văn người Pháp gốc Trung Quốc này cho rằng, câu
chuyện văn
chương chỉ là tri âm tri kỷ giữa những con người chẳng cần phải gặp gỡ,
hoặc
chẳng thể nào có duyên được gặp gỡ, mặt nhìn mặt, tay cầm tay nên chỉ
còn trông
mong vào mớ chữ nghĩa… Có vẻ như Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã phá bỏ
truyền thống
ban giải thưởng cho những công trình văn học lớn lao, hoặc đề cao vai
trò nhà
văn với một nhiệm vụ cao cả nào đó…
“Tôi
đã tưởng rằng mình ra rìa rồi.” (“I thought I was no
longer in the running, you know? I thought I had fallen away”), Naipaul
nói với
thông tín viên thông tấn xã AP. Đã từ lâu, thiên hạ xì xào về ông, như
là một
“chuẩn Nobel”; ông là nhà văn người Ấn đầu tiên được Nobel, kể từ
Tagore, vào
năm 1913. Ông nói, sự kiện ông được Nobel là “một dâng tặng cho cả hai,
Ấn Độ,
quê cha đất tổ của tôi và những đất nước khác trong tiểu lục địa.”
Caryl
Phillips, tiểu thuyết gia người Anh mà gia đình cũng
tới từ vùng Caribbean, cho biết, ông “ngưỡng mộ
tính
tổng hợp giả tưởng và phi-giả tưởng của Naipaul”. “Ông ta ôm gọn cả hai
dạng
văn học, thông minh tài tình, và tràn trề sinh lực, như nhau”. Nhưng
Phillips
nói thêm, “Naipaul không ưa những người gốc Phi Châu, điều này theo tôi
không
thể giải thích, chỉ bằng sự kiện ông gốc Ấn. Ông ta cũng ‘thật là không
ưa’
người Hồi giáo. Ông ta là một con người có đủ thứ vấn đề, với những con
người ở
ngoài cái vòng tròn mà ông ta gọi là “trung tâm mang tính lịch sử”. Và
cái
trung tâm này được đóng rễ ở Âu Châu.
“Giữa
những tín đồ: Một chuyến đi về vùng đất Hồi” (1981),
là một ghi nhận về chuyến đi Iran,
Pakistan,
và Indonesia.
Đây là một bức chân dung thật cay nghiệt, về những tín đồ quay lưng về
phía
tiến bộ và thế giới hiện đại. Ông kết án Hồi giáo chính thống, mà với
nó, “lịch
sử phải làm đầy tớ cho thần học, luật pháp tách khỏi ý tưởng về sự bình
đẳng và
học vấn tách khỏi học vấn (learning is separated from learning).”
Mới
hồi đầu tháng (10, 2001), Naipaul đã gây phẫn nộ trong
thế giới Hồi giáo, khi so sánh những hậu quả của đạo này trên thế giới,
cũng
chẳng khác gì của chế độ thực dân thuộc địa. “Nó tạo một hậu quả thê
thảm
ở những người cải đạo”, ông nói, đặc
biệt nhắm vào Pakistan,
“Muốn cải đạo, bạn phải huỷ diệt quá khứ, huỷ diệt đời mình (your
history).”
Ông mô tả việc “quên mình”, “bỏ ngã” (abolition of the self) mà Hồi
giáo đòi
hỏi còn tồi tệ hơn sự huỷ diệt căn cước của một con người dưới chế độ
thực dân
thuộc địa. Một thành viên của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, Per Wastberg, đã
nói với
hãng tin Reuters, Naipaul chỉ trích tất cả mọi tôn giáo. “Ông ta coi
tôn giáo
là tai họa cho nhân loại, nó thui chột mọi ước ao, nó làm con người hết
dám suy
nghĩ, kinh nghiệm (nguyên văn: He considers religion as the scourge of
humanity, which dampens downs our fantaisies and our lust to think and
experiment). Trên mục này, bạn đọc chắc còn nhớ bài phỏng vấn George
Steiner
của tờ L’Express, và câu khẳng định của ông, “nếu thế kỷ 21 là một thế
kỷ của
tín ngưỡng thì nó sẽ tiêu luôn” (xem bài “Văn hóa không làm tăng tính
người”.)
Thật
khó mà tin được, rằng Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã không
để ý đến biến cố 911, những diễn biến theo sau, và sự kiện Naipaul luôn
tỏ ra
“thù nghịch” (hostility) Hồi giáo chính thống. Cũng khó mà có thể tin
được, họ
đã quên một điều, rằng họ vờ đi không lên tiếng khi cái đầu của nhà văn
Rushdie
bị ra giá, trước đây, nhân vụ Quỉ Thi.
Tarek
Fateh, chủ trì chương trình TV “Ký sự Hồi giáo”, đã tỏ
ra không thoải mái (uneasy) về chuyện Naipaul được Nobel, mặc dù ông
cho biết
rất ngưỡng mộ những khả năng văn học của ông ta. “Tôi thực sự tin rằng,
việc
ông ta được Nobel sẽ gây ra những rắc rối sâu xa hơn nhiều, vượt ra
khỏi tầm
tay văn chương”. “Nó gây tổn thương, do quá nhiều những tình cảm chống
Hồi
giáo.”
Một
nhà văn gây tranh luận. Đúng như vậy. Ngay trong giới
văn học, ông ta cũng không tỏ ra nương nhẹ những “văn hữu”. Nói về
James Joyce:
Tôi không thể hiểu nổi tác phẩm của một người mù. Về Dickens: Ông ta
cắn phải
luỡi (tự nhại lại tác phẩm của chính mình)…
***
Hình
như Borges có nói, người ta không thể sử dụng từ ‘con
dao’ trong một thai đố mà câu trả lời là ‘con dao’; Rushdie viện dẫn
nhà văn Á
Căn Đình, khi viết về cuốn “Bí ẩn khi tới” của Naipaul; và từ mà ông
không thể
nào kiếm thấy ở trong cuốn sách đó, là “tình yêu”. Và một cuộc đời
không có
tình yêu, hay một cuộc đời mà trong đó, tình yêu bị chôn sâu tới nỗi
không thể
nào ló đầu ra, đó là điều cuốn sách của Naipaul nói tới. Bởi vậy, nó
thật buồn,
thật quá buồn.
Rushdie
gọi, đó là nỗi buồn đồng quê, trong bài viết về cuốn
sách, trên tờ The Guardian số ra ngày Thứ Sáu, 13, tháng Ba, 1987, khi
nó vừa
được xuất bản; sau được in lại trong tập tiểu luận “Quê hương tưởng
tượng”.
Khung cảnh của cuốn tiểu thuyết, là đồng quê Anh, một thứ “khung rêu”
(tên một
tác phẩm của Thụy Vũ), hay là câu chuyện về sự tàn tạ của một gia đình
miệt
vườn ở miền nam nước Anh, với quá khứ thuộc địa, như là gia tài của mẹ
để lại,
và rồi mang theo ra nước ngoài, của người chủ đất. Rushdie cho rằng,
thật có ý
nghĩa, vì trái ngược với đa số di dân khác, Naipaul đã chọn cho mình
một vùng
quê Anh, với những trang viên (manoirs) và những con sông lượn lờ chung
quanh,
để mà tái định cư.
Rushdie
viết: “Di dân phải bịa đặt ra miếng đất ở dưới chân
mình”. (L’immigré doit inventer la terre qui se trouve sous ses pieds).
2.
Khi nào bạn bắt đầu làm thơ?
Những
người lính chuyên nghiệp kể cho Jennifer tôi một kinh
nghiệm như thế này: sau khi ăn một quả pháo mà không chết, nói rõ hơn,
ngay sau
khi một quả pháo nổ kế cận bên họ, là nhẩy vào cái hố vừa mở ra, biết
chắc chắn
một điều, quả pháo kế tiếp không thể nào nhè chỗ đó mà nổ.
Những
cư dân của một thành phố Sài Gòn thời kỳ chiến tranh
chắc còn nhớ kinh nghiệm này: khi nghe tiếng hoả tiễn réo xèo xèo ngang
đầu, là
biết rõ một điều, trái hoả tiễn đó không dành cho mình.
***
Richard
Murphy, trên tờ Granta số Mùa Thu 2001, đã tự hỏi,
không hiểu mình bắt đầu làm thơ vào lúc nào, và ông nhớ ra là đúng vào
thời kỳ
ăn bom bay của Đức quốc xã. Ông viết: Trong trí nhớ của tôi, cái tham
vọng mần
thơ đã tóm lấy thằng bé vào đúng cái tuổi xốn xang vừa mới lớn, khi học
thuộc
lòng mấy vần thơ Shakespeare tại trường trung học Wellington
College. Đó là
năm 1944. Người Đức
đang trút bom bay như mưa xuống Anh Quốc. Khi bạn nghe thấy tiếng,
giống xe
bình bịch (xe gắn máy) nổ, ở trên trời, là biết, bạn an toàn. Khi nó
không nổ
nữa, có nghĩa hết nhiên liệu, và “cáùi” thời gian bạn hết nghe tiếng xe
gắn máy
nổ, biết trái bom sắp rớt, biết đâu lại không ngay trên đầu mình, đó là
lúc
hứng thơ dâng trào!
Ấy
là Jennifer tôi hơi “bị” cường điệu. Đúng ra, tác giả nhớ
lại là, vào lúc đó, ông mê một người bạn cùng một tuổi với ông, một tay
điền
kinh “mà số phận” (… who was destined) là phải vô Hải quân Hoàng gia.
Sợ bom
gần chết, lại thêm một ông quản gia vốn sống sót sau vụ “the Somme”
(địa danh,
nơi xẩy ra những vụ làm thịt người đầu tiên, vì tín ngưỡng) thúc thêm
vô, thế
là tôi tìm một chỗ ẩn núp, trong cái quan niệm về tái sinh, theo đó,
một bài
thơ, nếu được làm cho tới nơi tới chốn, nó sẽ thọ hơn người làm ra nó,
sẽ đem
lại đời sống sau cái chết, cho chính anh ta, và những người thân
thương, ở
trong trí tưởng của người đọc.
(Liệu
có phải đây là lý do, văn minh “nhân loại” bắt đầu
bằng những trận đánh, đầu tiên là giữa những vị thần, những bán-thần,
rồi tới
người trần mắt thịt. Bởi vì, hết chiến tranh thì lấy đâu hứng mà bắt
đầu làm
thơ! Tưởng chuyện đùa, nhưng hãy thử hỏi, tại sao văn học Tây phương
bắt đầu
bằng “Iliade”? Hãy “thử” đọc Simone Weil, “Chiến tranh hay là Bài thơ
của Sức
Mạnh”, viết về “Iliade”.)
Tác
giả kể tiếp, một năm sau đó, cỡ chừng vậy, khi là một
sinh viên 17 tuổi ở Oxford, đói sex gần chết, ông lại quanh quẩn với ý
nghĩ trở
thành một thi sĩ. Kết quả là, ông trượt kỳ thi kiểm tra.
Murphy,
tác giả bài viết ‘Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi” trên
số Granta nói trên, sinh năm 1927 tại Tây Ireland.
Cuốn tự thuật của ông, “The Kick”, sẽ được Granta Book xuất bản vào năm
tới
(2002). “Tuyển tập thơ” của ông đã được xuất bản ở Ireland
và ở Mỹ. Hiện đang sống ở Dublin,
Durban
và Nam Phi. Trong bài viết, ông kể lại những kinh nghiệm đói sex, đói
thơ, và
những cuộc gặp gỡ những nhà thơ. Sau đây là trích đoạn, cuộc gặp gỡ thi
sĩ W.H.
Auden.
Barbara
Epstein, biên tập viên của tôi ở tờ Điểm Sách Nữu Ước,
mời tôi ăn tối tại căn phòng của bà ở Nữu Ước, vào bữa 22 tháng 11,
1975. Người
khách độc nhất còn lại kia, là W.H. Auden. Cách đó vài năm, tôi đã gặp
ông, ở Stratford-upon-Avon,
trong một buổi đọc thơ, và nó để dấu ấn ở trong tôi, bởi vì ông thuộc
lòng
những bài thơ của mình. Khi ông ngần ngừ ở một dòng, trong một bài thơ
dài, ông
chẳng thèm mò mẫn cuốn thơ của mình, mà lại nhắm mắt lại, ngẩng mặt
lên, như
hỏi ông Trời, hãy nhắc giùm ông điều gì ông muốn nói, khi mần thơ. Và
một khi
trở lại với bài nói chuyện, ông như được tạo hứng từ cuộc gặp gỡ ngắn
ngủi với
ông Trời như thế đó, và cứ thế chuyển những ý tưởng của mình thành lời.
Đó là
điều làm cho bài thơ thật là thú vị.
Barbara
kể lại, một lần mời nhà thơ, ông lầm phòng, bấm
chuông, và được một cặp, chẳng phản đối phản điếc gì cả, mời vô, ông
ngồi bệ vệ
trong chiếc ghế bành, đòi một ly martini vodka. Tay
cầm
ly rượu, ông cứ thế độc thoại, và cặp vợ chồng ngớ người, không dám lên
tiếng
ngắt cuộc độc thoại, cho tới khi ly rượu cạn. Như nhận ra sự vắng mặt
của chủ
nhà, Auden hỏi, và được trả lời, vợ chồng Epsrein ở căn phòng tầng lầu
bên
trên.
Murphy
kể lại, cuộc gặp gỡ chẳng thú vị gì, vì bất cứ chuyện
gì, hễ chủ nhà và ông vừa mới mở miệng là bị nhà thơ ngắt lời. Khi “bị
gợi ý”,
rằng nhà thơ là một tay lang chạ, Auden phản đối, “Các bạn có vẻ không
hiểu,
tôi luôn luôn tìm kiếm một người bạn thứ thiệt”. Và giải thích thêm:
“Mọi lang
chạ trên đời là để tìm kiếm một người bạn lý tưởng.” [Ghi chú thêm ở
đây: Auden
là một nhà thơ đồng tình luyến ái].
Sau
bữa ăn, ông nói: “Tôi hy vọng ông Trời cho tôi đi ở tuổi
bẩy mươi. Đừng sống quá khoảng đời tự nhiên của mình.” Ông muốn mọi thư
từ của
ông được đốt bỏ, khi ông chết, như ông đã từng đốt bỏ thư của người
cha, mà
không đọc, khi cha ông mất; ông muốn bạn bè đốt bỏ thư của ông gửi cho
họ, và
điều này được ghi trong di chúc. Bằng cách đốt bỏ mọi giấy tờ như vậy,
ông hy
vọng chẳng ai có thể viết về cuộc đời của ông. Như những y sĩ của một
thời xa
xưa, giấu kín mọi khám phá y học, ông hy vọng mọi bí mật về đời mình sẽ
cùng đi
với ông xuống mồ.
***
Và
câu chuyện nàng Hélène thành Troie liệu có giông giống
chuyện hai ông thần Sơn/Thủy tranh nhau một cô công chúa con vua Hùng?
Nhưng
Hélène đâu còn đáng kể gì nữa, khi Troie sẵn sàng quì
mọp trước những người thắng trận:
Bây
giờ người ta chẳng thèm những của cải Pâris
Kể cả Hélène; bằng ấy kẻ, dù là tên ngu
xuẩn nhất, đều nhận
ra,
Troie
bây giờ đang bên bờ thất thủ…
“Qu’on
n’accepte à présent ni les biens de Pâris,
Ni Hélène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie à présent sur le bord de la perte.”
Như
vậy là chúng ta lại trở lại với nỗi chết không rời,
những trái hoả tiễn, và câu hỏi khi nào bạn bắt đầu làm thơ.
Simone
Weil viết:
“Điều mà họ muốn, phải là tất cả: Tất cả những của cải của
Troie, như là chiến lợi phẩm; tất cả những dinh thự, đền đài, nhà cửa:
tro bụi;
tất cả những đàn bà, trẻ em: nô lệ; tất cả những người đàn ông: xác
chết.”
Jennifer Tran