Lien Hoang Nguyen shared Kafka Bookstore's photo.
Viết xong sợ bị
tác giả bảo xời đây không phải là Đà Lạt
của tui :((
Phải của anh không anh Nguyên
?
America’s new president
The Trump era http://www.economist.com/news/leaders/21709951-his-victory-threatens-old-certainties-about-america-and-its-role-world-what-will-take Cái vụ Trump trúng quả
này, Philip Roth đã tiên đoán ra được, khi viết
Cú Độc Chống Anh Mẽo
https://en.wikipedia.org/wiki/The_Plot_Against_America Sách
& Báo & Thời Sự Văn Học
Funny Man by David Grossman Funny manHow David Grossman draws laughter from tearsA Horse Walks into a Bar. By David Grossman. Translated by Jessica Cohen. Jonathan Cape; 197 pages; £14.99. To be published in America by Knopf in February 2017. L' Appel Du Mort Tin Văn sẽ dịch tiếp Call For The Dead Ấn bản mới, có cái intro, viết năm 1992, của tác giả.
Có thể nó là cuốn đầu tiên của
Le Carré, mà Gấu đọc, khi Saigon tràn ngập
sách Tẩy, thứ sách bỏ túi, Livre de poche,
qua chương trình IC, Thông tin & Văn hóa,
bán bằng giá ở Tẩy.
Đọc nhưng lại bỏ qua. Phải đến khi vớ được cuốn Gián điệp đến từ miền đất lạnh, cũng qua bản tiếng Tẩy, ở nhà sách Xuân Thu, mới sững sờ. Có thể nói, lúc đó, chưa tên Mít nào biết đến Le Carré. Phải đến khi ở tù Bangkok, thì mới lại gặp nó, qua bản tiếng Anh. Với GCC, cuốn này bảnh hơn nhiều, so với Gián điệp về từ miền đất lạnh, do hai đòn, phải nói là của bậc thầy, trong nghề viết trinh thám điệp viên nghẹt thở. Đành phải mua, vì mấy cuốn cũ Cô Út đem cho nhà thương, làm từ thiện! Bố đừng đọc sách nữa, vui với cháu chẳng sướng hơn ư! Pour
la première fois, un Américain remporte le
Man Booker Prize
Le mercredi 26 octobre 2016 http://www.magazine-litteraire.com/prix/pour-la-premi%C3%A8re-fois-un-am%C3%A9ricain-remporte-le-man-booker-prize Mardi 25 octobre à Londres, Paul Beatty a remporté le Man Booker Prize pour son roman Moi contre les Etats-Unis d’Amérique (Cambourakis), satire sur la vie urbaine américaine. « Un livre très dur à digérer », a confié à la BBC l'auteur qui a empoché un chèque de 52000 livres, soit 59000 euros. Âgé de 54 ans, Paul Beatty est le premier écrivain américain à être le lauréat de ce prix créé en 1968, parmi les plus prestigieux en langue anglaise, au départ réservé aux romanciers britanniques, irlandais et ressortissants du Commonwealth. En effet, il a fallu attendre 2013 pour que son champ s’étende à l’ensemble du monde anglophone. Phỏng
vấn nhà văn Nguyễn Thanh Việt:
Author Viet Thanh Nguyen Discusses 'The
Sympathizer' And His Escape From Vietnam
(KERA 4-11-16) -- Phỏng vấn dài,
đáng đọc. (Như tôi đã nghi ngờ, tác
giả xác nhận là ông nhớ đến trường hợp
Phạm Xuân Ẩn khi viết cuốn này!) ◄
My Old SaigonNote: Ngay từ khi cuốn sách vừa xuất hiện, do thấy đấng này khoe đọc Sebald, Gấu đã tìm đọc, và giới thiệu, hoá ra cũng 1 thứ đệ tử PXA, và đề nghị đổi tên sách, không phải Cảm Tình Viên, mà là Kẻ Phản Thùng, vì, giả như Bắc Bộ Phủ không sợ PXA, ăn bơ sữa Mẽo lâu quá, biến thành Mẽo, hủy bỏ lệnh di tản, bắt ở lại xứ Mít, đi học tập tẩy não, thì cuốn sách sẽ do chính PXA viết! Tên chủ trang net này, cũng là 1 tên Miền Nam bỏ chạy nhờ chính sách du học của Ngụy. Khi cuốn sách của cái tay này, được Pulitzer, rồi lại thấy anh ta khoe, Sebald là my"hero", GCC mừng quá. Hóa ra đồ dởm, và thay vì, Cảm Tình Viên, thì Gấu bèn dùng đúng cái từ dành cho nó: Tên Phản Thùng. Cái tên dịch bài viết này, lại càng 1 tên phản thùng. Tên này, như đã từng lèm bèm, đệ tử của Cao Bồi, bố là Ngụy, giám thị Chu Văn An, được Ngụy cho du học rồi làm Cớm cho VC tại Paris. Không phải tự nhiên mà hắn dịch bài viết nói lên quan điểm của tác giả cuốn sách. Cũng 1 cách chạy tội, như cả 1 lũ nằm vùng làm mất Miền Nam. V/v cuộc chiến Mít. Trên 40 năm rồi, đã bắt đầu cho thấy nguyên nhân đích thực của nó. Trước hết, nó không phải là 1 cuộc chiến giải phóng của 1 đất nước cựu lục địa của Pháp. Cái sự lệ thưộc đến trở thành bồi Tẫu của Bắc Bộ Phủ như bây giờ, cho thấy, đây là cuộc chiến giữa các thế lực đế quốc ngoại bang, Pháp, Mẽo, và Tẫu "nằm vùng", đúng như Solz, là người đầu tiên, ngay từ những ngày 1975, phán, trong 1 chương trình trả lời phỏng vấn văn học trên 1 đài truyền hình Pháp. Ông bị Octavio Paz chê, hiểu sai, nhưng bây giờ, lịch sử cho thấy, Solz cực kỳ sáng suốt. Làm sao mà ông ta nhận ra được 1 cách sớm sủa như thế? TTT, khi từ giã gia đình, khăn gói quả mướp, mang theo 10 ngày đường lương thực lao động cải tạo, nói với thằng em, GCC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này. Có điều, ông không làm sao nhìn ra, vào những ngày ngay sau 30 tháng Tư 1975, xứ Mít sẽ có nguy cơ, bị "biến mất" vì chiến thắng này đỉnh cao chói lọi này, mới đúng "con cào cào, chuồn chuồn, châu chấu"! Cái “thuật ngữ”, “Tháng Tư Đen”, lúc thoạt đầu được đám Miền Nam hải ngoại sử dụng, nó có 1 ý nghĩa hạn hẹp và bị những tên phản thùng như lũ này, vin vào đó, để viết nhảm, đúng ra phải được dùng để chỉ xứ Mít như là hiện nay, bắt đầu từ ngày 30 Tháng Tư 1975. Như GCC đã từng viết, "Bức Tường Lòng", của Mít, như Bức Tường Bá Linh của Đức, chỉ bắt đầu có, kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975. Không phải trước đó. Cuốn tiểu thuyết Kẻ Phản Thùng, đúng ra - vẫn "đúng ra" - người viết phải là Cao Bồi, giả như anh được Bắc Bộ Phủ cho di tản tiếp, tiếp tục nằm vùng ở Mẽo. Một số những nhà hoạt động ở trong nước, mà GCC không tiện nêu tên, vì sợ làm họ khốn đốn thêm với VC, đã nhìn ra sự kiện, như GCC trình bày, trên đây. Cái cực kỳ thê lương khốn kiếp của cuộc chiến Mít, là không thể nào có 1 hồi ức nào về nó, kể cả những hồi ức tù của đám Ngụy, mà đa số là đồ dởm. Không thể hồi ức, tưởng niệm, kể cả ở lũ VC! Một tên già, tay đầy máu Ngụy, như tên NN, thí dụ, cái hành động, cái ý thức "tự kiểm" [mauvaise conscience] cao nhất của hắn ta, là cởi mặt nạ, nhìn 1 tên Mẽo, kẻ thù ngày nào của hắn. Hắn đâu biết -tất nhiên làm ra vẻ đếch biết - Ngụy là gì? Nếu nói về thái độ chính trị, thì cứ tạm gọi như vậy, tay này thua xa Nam Lê, tác giả Con Thuyền, The Boat. Nhớ, Sến có lần ngỏ ý khen chế độ Ngụy, nhưng cảnh cáo liền, đừng có nghĩ ta có ý vực dậy cái xác chết, cái thây ma đó Giả như Sến muốn như thế, cũng vô phương. Cái chế độ Ngụy là chế độ đẹp nhất của xứ Mít, và sở dĩ như thế, là do nền của nó là 1 thiên đàng, tức 1 Miền Nam, 1 Sài Gòn, đúng như nó được gọi, 1 hòn ngọc Viễn Đông, và vẫn sở dĩ được như thế, không phải vì nó nguy nga to tát, bề thế hơn Bangkok, như tên ngu đần Thái Dúi đi 1 đường chọc quê trên Bi Bì Xèo, mà là do khí hậu được thiên nhiên ưu đãi, do dân tình hiền hòa, do cái gọi là mentalité, hay văn minh, vivilisé, của dân Nam Bộ, và còn do thằng Tẩy không hề có phân biệt đối xử với lũ cô lô nhần Nam Kít, điều này, 1 số nhà văn nổi tiếng, như Graham Greene, hay Maugham, xác nhận, như Tin Văn đã từng trưng ra, như là những bằng chứng có thiệt. Một khi Bắc Kít ăn cướp được, nó trở thành bửn, y hệt xứ Bắc Kít, như nó từng bửn, do cái độc, cái ác gây nên. Kafka phán, con người bị đá đít ra khỏi thiên đàng, nhưng không vì thế mà thiên đàng bị hủy diệt. Than ôi, Ngài chết sớm quá. Nếu giờ này, mà còn sống, chắc Ngài phải làm 1 cú hiệu đính, như thói quen cực bửn, của đám nhà văn Bắc Kít! Cựu chủ [Time] viết về nhân viên cũ. (1) DIED.
Pham Xuan An, 79, Viet Cong colonel who worked during the Vietnam War as
a highly respected journalist for TIME while spying for the communists—a double
life kept secret until the mid-'80s; in Ho Chi Minh City. The first Vietnamese
to become a staff correspondent for a [Từ trần.
Phạm Xuân Ẩn, 79 tuổi, đại tá Việt Cộng, trong chiến tranh Việt
Nam, là một ký giả rất được kính trọng của tờ Time, cùng
lúc còn làm công tác gián điệp cho
Cộng Sản - một cuộc sống kép được giữ kín cho tới giữa thập
niên 1980, tại Thành Phồ Hồ Chí Minh. Người Việt Tẫu có câu: PXA biết, nhưng không biết,
cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc
lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam,
ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không
còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái
tim ông hoàn toàn là Bắt Kít,
một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái
chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước
thành một Miền Nam tuyệt vời. Năm học
Đệ Nhất
Có một lần ông kể chuyện, về mấy anh Tây mũi lõ, ở bên chánh quốc, thất nghiệp, đói rã họng, bèn kiếm cách xuống tầu tới Đông Dương, tới Hà Nội, không phải để kiếm việc làm, thiếu gì, nhưng mà là để làm “cái bang”, mỗi khi cần tí tiền, là ra nhà hàng Godard, lấy cái nón trên đầu xuống, lật lên, xin tiền đám Mít quí phái, và đám Tây Đầm. Lũ Tây Đầm ngượng lắm, vừa thấy cái nón lật lên, là thẩy tiền liền. Thấy "đường được", là tếch. Nhất định không chịu kiếm việc làm. Thế mới thú. Đám Mẽo làm hùng hục, chỉ mãi đến khi quá chán cuộc chiến Mít, mới nghĩ ra trò này: Ăn xin thay vì làm việc! Liệu Cao Bồi biết kỳ tích đó, và anh sử dụng đòn ăn xin - không phải xin đám Bắc Bộ Phủ [mày cho tao bao nhiêu cho xứng công lao gian khổ “nằm Time [Tai, không phải Gai], nếm XO”, làm một tên cớm VC nằm vùng, bán đứng cả một miền đất đã từng cưu mang mấy đời họ Phạm, gốc Hải Dương, Bắc Kít - mà xin mấy anh bạn báo chí cũ, một công đôi ba việc: Tao xin tiền tụi bay, vì tao lỡ lừa tụi bay, và chỉ có cách xin tiền tụi bay, chịu nhục chịu nhã như thế, thì mới phần nào chuộc tội, với cả tụi mày, và cả đồng bào của tao. Tuyệt
chưa?
[Dirck là Sếp UPI của GCC] Jean Améry: Par-delà
le crime et le châtiment
http://www.tanvien.net/notes_1/par_dela.html "La catastrophe nazie est désormais la référence
absolue et radicale de toute existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để, tất cả hiện hữu Do Thái. Tai ương 30 Tháng Tư 1975, và cùng với nó, Lò Cải Tạo... từ nay là điểm qui chiếu, tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít. Il n'est pas bon de ne pas avoir de patrie Thư tín, Đừng lèm bèm chuyện về Hà
Nội không còn nhà. Note:
Đọc Améry, cực kỳ thê
lương. http://www.tanvien.net/dich/kertesz_lire.html Ông thấy ông đứng ở đâu so với các chuyện do Elie Wiesel hay Primo Levi kể? I.K. Chỉ vừa mới gần đây tôi
mới được đọc Đêm Đen - La Nuit, của Elie Wiesel, bởi vì
vào năm 1960, quyển sách này không có
ở Hung. Tôi choáng váng khi đọc: tôi khám
phá hóa ra lúc đó chúng tôi cùng
ở Buchenwald. Wiesel để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng.
Còn Primo Levi thì khác. Ông ta chưa tận căn
cho đủ. Tôi muốn nói ông không bao giờ rời tầm
nhìn nhân văn của sự việc mà đối với tôi điều
này thật hoàn toàn xa lạ. Với tôi, kiệt nhân
của trại tập trung là văn sĩ người Pháp: Jean Améry.
At the Existentialist Café:
Freedom, Being and Apricot Cocktails.
By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99. Bài Tạp Ghi đầu tiên
của GCC, là viết về Quán Chùa Saigon.
Và về đám bạn hữu Tiểu Thuyết Mới, Hiện Sinh và
không khí văn chương của thời mới lớn của GCC
@ Saigon
Vào cái "thời
bây giờ", cả ba tờ báo, Người Kinh Tế,
Văn Học Tẩy, và tờ Điểm Sách Ăng Lê, đều
viết về cái mùi hiện sinh thời đó,
ở Paris, toát ra từ bướm de Beauvoir!Có 1 thứ triết học, là, hiện sinh, mà cái mùi của nó, là, mùi bướm! EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Sài gòn bảnh hơn nhiều, có hơn 1 bướm "de Beauvoir" Bướm "em lên anh nhé, mưa không ướt đất, bướm "mèo đêm, lao vào lửa", bướm "vết thương dậy thì, vòng tay học trò" Bài trên tờ Điểm Sách Ăng Lê tuyệt nhất. Đi trước bài trên Người Kinh Tế At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails. By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99. EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the city’s liberation in 1944. Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”. Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd. Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”. It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that. Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period. When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities. The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them. Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things. Bàn của Gấu, hè đường Lê Thánh Tôn, nơi người bộ hành qua đường. Cái Honda thường dựng trên hè đường, đầu chiếc xe tải... manhhai SAÏGON - Rue Catinat đường Catinat, nơi ngã tư Lê Thánh Tôn - Đồng Khởi ngày nay Avec le salon de thé "La Pagode" sur la droite ! https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/5203227375/in/photostream/
Bên kia đường, phiá bên phải, là Quán Chùa,
La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68 Photo by Henry Bechtold https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/ ELEGY FOR A PARK
The
labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus, the summer awnings, and the watchful eye of the ever-seeing mirror, duplicating every expression on every human face, everything brief and fleeting. The stopped clock, the ingrown tangle of the honeysuckle, the garden arbor with its whimsical statues, the other side of evening, the trill of birds, the mirador, the lazy swish of a fountain, are all things of the past. Things of what past? If there were no beginning, nor imminent ending, if lying in store for us is an infinity of white days alternating with black nights, we are living now the past we will become. We are time itself, the indivisible river. We are Uxmal and Carthage, we are the perished walls of the Romans and the vanished park, the vanished park these lines commemorate. -A.R. J.L. Borges: Poems of the Night If
Tristes Tropiques is, therefore, among the first
classics of the current ecological anguish, it is also much more, being,
in the final analysis, a moral-metaphysical allegory of human failure.
It looks forward with haughty melancholy to the image of the globe–cooling,
emptied of man, cleansed of his garbage-that appears in the coda of
Mythologiques. There is melodrama in this
anticipation and a touch of pomp (it is beautifully right that the
chair Levi-Strauss will in a few weeks occupy at the French Academy
should be that of Montherlant). But there is also a profound, authentic
sorrow. "Anthropology," says Levi-Strauss in concluding Tristes Tropiques,
can now be seen as "entropology": the study of man has become the study
of disintegration and certain extinction. There is no darker pun in modern
literature.
June 3, 1974 Steiner: The Lost Garden (on Levi-Strauss) Những
dòng Steiner vinh danh Levi-Strauss, Khu Vườn Đã
Mất, cùng bài thơ của Borges, Bi Khúc dành
cho công viên, được lôi ra ở đây, là
để vinh danh Quán Chùa: Nghiên cứu con người trở
thành nghiên cứu 1 sự phân hủy, và tiệt giống:
Quán Chùa
Cuốn trên, sách gối đầu của GCC, Cô Út đem làm từ thiện, đành phải order cuốn mới, mới về. Đã giới thiệu vài bài rồi. Tuyệt nhất, là bài về Simone Weil, được vị bằng hữu O. dịch. Tks Trang Simone Weil Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay? Khg biet co ai kien nhan doc? Phúc đáp: Cần gì ai đọc! Tks. Take care. NQT * Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua... * Thi phai phach loi nhu vay, gia roi. * Gia roi phai hien ma chet! Đa tạ. Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét! Phỏng Vấn Steiner Tuy cũng thuộc băng đảng thực
dân [mới, so với cũ, là Tẩy], nhưng
quả là Sontag không đọc ra, chỉ
ý này, của Steiner, trong Bad Friday: Với Weil, những “tội ác”
của chủ nghĩa thực dân có hồi đáp liền tù
tì theo kiểu đối xứng, cả về tôn giáo và
chính trị, với sự thoái hóa ở nơi quê nhà,
tức “mẫu quốc”. Nhưng Bắc Kít, giả như
có đọc Weil, thì cũng thua thôi, ngay cả ở những
đấng cực tinh anh, là vì nửa bộ óc của chúng
bị liệt, đây là sự thực hiển nhiên, đừng nghĩ là
Gấu cường điệu. Chúng làm sao nghĩ chúng cũng
chỉ 1 thứ thực dân, khi ăn cướp Miền Nam, vì chúng
biểu là nhà của chúng, vì cũng vẫn nước Mít,
tại làm sao mà nói là chúng ông
ăn cướp được. Chúng còn nhơ bẩn hơn cả tụi Tẩy mũi lõ, tụi Yankee mũi lõ. Dong Trinh liked this.Một năm nhìn lại! Thế mới thấy, suốt 40 năm gian dối, xuyên tạc, dựng việc, dựng nhân vât... bóp méo lịch sử chỉ để ca ngợi một nhóm người, một tổ chức... đề rồi hôm nay ta nhận được quả đại bác bắn thẳng vào. Chỉ là mới bộ Giáo dục nhận trước phát đầu thôi, còn nhiều phát nữa. Vậy mới thấy "vải thưa che mắt thánh", sự thật muôn đời vẫn là sự thật! Steiner còn bài
“Thánh Simone-Simone Weil”, trên TV cũng đã giới
thiệu. For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality" theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take seriously, existentially, the question of the significance of human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or futility of political action and social design is not merely to risk personal health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The two individuals who have in our time not only taught or written or generated conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.
Đối với Simone Weil, những “tội ác”
của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu
tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo
lẫn chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil
lập ngôn – những lập ngôn này dù được trích ra từ văn chương
cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới
tim vấn nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ.
Bà không chùn bước trước mâu thuẫn, điều không
sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh
nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp
người là một cõi xé lòng, và, đây
là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như
thế, thì, những cuộc thảo luận thần học, những định đề triết học
chỉ là ba trò tầm phào giữa đám khoa bảng.
Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn,
câu hỏi về ý nghĩa đời người và cái chết trên
hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi
hỏi về đáng hay không đáng, một hành động chính
trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn đòi hỏi
như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân,
cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà
nó còn gây họa cho chính cái gọi là
lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.
Le poète intraitable Il ne peut toutefois adhérer
au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit en polonais)
a joué à cet égard un rôle capital dans son
évolution intellectuelle. Elle aura été la première
à dévoiler la contradiction dans les termes que représente
le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée
intégralement matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire
est le produit de forces entièrement étrangères
à l'individu, et l'avènement de la société
communiste, une conséquence logique de l'histoire; la liberté
n'y a aucune place. En y introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme
que l'action des individus est malgré tout nécessaire pour
qu'advienne la société idéale: mais cette notion amène
avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à
elle seule le matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire
les sociétés « socialistes" à tenir l'individu
pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il
adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire.
Mais la philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz
que cette critique: elle lui livre les clés d'une anthropologie
chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme
écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce
". Nhà thơ không làm
sao “xử lý” được. Tuy nhiên, ông không
thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil
[mà ông dịch qua tiếng Ba Lan] đã đóng 1
vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của
ông. Bà là người đầu tiên vén màn
cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ nghĩa
duy vật biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật
[như của Engels], lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh hoàn
toàn xa lạ với 1 cá nhân con người, và cùng
với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu
lý của lịch sử; tự do chẳng hề có chỗ ở trong đó. Khi
đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng định hành
động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì
đều cần thiết để đi đến xã hội lý tưởng: nhưng quan niệm
này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý
tưởng của Hegel, và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa
duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới sự kiện, những
xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là
thành phần chẳng đáng kể, bọt bèo của lịch sử, [như
thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân, phải
tất yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến
cho Milosz quá cả nền phê bình đó: Bà
đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân
bản học Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con
người như bị chia xé giữa “trọng lực” và “ân sủng”.
Đọc cú chót http://www.lrb.co.uk/v38/n20/sheila-fitzpatrick/vodka-plus-caesium LRB điểm hai cuốn Nobel năm ngoái.
Cũng đâu phải.... văn chương? TV sẽ scan & post và lai rai ba sợi về hai cuốn này. Tuyệt lắm, đúng như vậy. Thà rằng thứ này, còn hơn là thứ âm nhạc phản chiến! Hứng viết của Bà là từ phim Lò Thiêu của Claude Lanzmann, có thể nói như vậy Svetlana Alexievich won the Nobel Prize for Literature in 2015, but some people still don’t think her books are literature. In fact, they are collective oral histories, of similar genre, though completely different in tone, to those of Studs Terkel in the United States, whom she has probably never read. Her main influence as far as genre is concerned was the Belorussian writer Ales Adamovich, who in the 1970s (with Daniil Granin) collected the testimonies of wartime Leningrad survivors in Blokadnaia kniga, but that’s not very helpful in a Western context since nobody has heard of him. Lately, Alexievich has taken to citing Claude Lanzmann’s Shoah as an inspiration. Her first book, with methodology already honed, was finished before Shoah was made, so that obviously can’t be taken literally. But it’s a way of letting a Western audience know that what she’s doing is exploring suffering and loss through the voices of the sufferers.
"And this time you're going to Stockholm."
Và lần này, là Stockholm PRIMO LEVI
In the spring of 1987, Primo
Levi's literary reputation had never been higher. All over the world,
translators were preparing his work for publication. There were even
rumors that he might win a Nobel. "You'd better get ready to travel
again," Levi's publisher teased him over the phone on Friday, April
10. "And this time you're going to Stockholm." Around ten o'clock
the next morning, Iolanda Gasperi, the concierge of Levi's building,
at 75 Corso Re Umberto in Turin, rang the bell of his fourth-floor flat
and handed him the mail. "Dr. Levi had a tired look," she recalled, "but
that was nothing unusual. He was gentle. He took the mail, a few newspapers
and some advertising brochures, and greeted me cordially." A few minutes
later, she heard a loud thud in the stairwell and rushed out of her
lodge. ''A poor man was lying crushed on the floor. The blood hid his
face. I looked at him and-my God, that man!-I recognized him right away.
It was Dr. Levi." Lucia Morpurgo, Levi's wife of forty years, had
been out shopping. Her arms were full of groceries as she pushed open
the glass door. The concierge tried to hold her back, but she flung herself
down beside her husband and tried to lift his head. Their son, Renzo, had
also heard the commotion and hurried down the wide staircase. They were
joined by Francesco Quaglia, a dentist who had known Levi since high school
and had an office in the building. Levi's wife embraced him. "Era demoralizato,"
she said tearfully. "He was demoralized. You knew it, too, didn't you?"
THE SURVIVOR'S SUICIDE by James Atlas JANUARY 1988 Trong bài viết về Dương Nghiễm Mậu, có thể là do đọc Koestler, Gấu đã mường tượng ra cõi văn của lũ con hoang của Miền Bắc, thứ chuông, đúc ở Đất Bắc, và phải đợi cái cơ may vô được Miền Nam, thì mới được đánh, được kêu lên, những tiếng rền rĩ, vừa nhớ Đất Bắc, vừa mừng thoát được Cái Ác Bắc Kít! Lịch sử lập lại, với những người như Xuân Sách, Nguyễn Khải. Nói rõ hơn, cả 1 lũ đau cái đau, sinh ra là 1 tên Bắc Kít. Do Thái cũng có cái hạnh phúc được Chúa chọn như thế đó! Koestler? "The final rout of the Soviet imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon" David Cesarani: [Tiểu sử] Arthur Koestler: Một cái đầu không nhà, The homeless mind. 1989 – 1990 - thời kỳ cáo chung của quyền uy tối thượng của Xô Viết, bắt đầu vào năm 1940, khi Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler ra lò Đúng là đòn Cách Sơn Đả Ngưu của Kim Dung. Note: Khi Xuân Sách vẽ chân dung Chế Lan Viên, ông hỏi bức biếm họa của mình, điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn? Một cách nào đó, ông nhìn ra cái xứ Mít bây giờ, quá cả điêu tàn, mà mấp mé bờ địa ngục. Đâu có khác gì Koestler, khi viết Đêm Giữa Ban Ngày, 1940, là đã đọc lời ai điếu cho Đế Quốc Đỏ, mà phải đến 1989 -1990, "the final rout" mới xẩy ra. Nên nhớ Đêm Giữa Ban Ngày là dựa vào sự kiện thực. Như thế, nhìn những bộ mặt thực của đám viết lách Bắc Kít, Xuân Sách nhìn ra số phận của cả 1 miền đất, và của cả 1 dân tộc? Khi ông bỏ Miền Bắc, vô Vũng Tàu, ông có tiên tri ra được số phận ông và gia đình? Sách
& Báo & Thời Sự Văn Học
Tên Yankee mũi lõ đầu tiên được Man Booker Pour
la première fois, un Américain remporte le Man Booker
Prize
Le mercredi 26 octobre 2016 http://www.magazine-litteraire.com/prix/pour-la-premi%C3%A8re-fois-un-am%C3%A9ricain-remporte-le-man-booker-prize Mardi 25 octobre à Londres, Paul Beatty a remporté le Man Booker Prize pour son roman Moi contre les Etats-Unis d’Amérique (Cambourakis), satire sur la vie urbaine américaine. « Un livre très dur à digérer », a confié à la BBC l'auteur qui a empoché un chèque de 52000 livres, soit 59000 euros. Âgé de 54 ans, Paul Beatty est le premier écrivain américain à être le lauréat de ce prix créé en 1968, parmi les plus prestigieux en langue anglaise, au départ réservé aux romanciers britanniques, irlandais et ressortissants du Commonwealth. En effet, il a fallu attendre 2013 pour que son champ s’étende à l’ensemble du monde anglophone. By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99. Ôi chao, thật nguy
nan, cái việc sửa thơ, và thật vô cùng
nguy nan, cái việc sửa thơ của người khác!
Mỗi lần lịch sử sang trang, nó
bỗng tối sầm lại, giống như cảnh trời đất lúc sắp sửa bắt
đầu một ngày. Bởi vậy, nhân loại vẫn muốn nhìn
ngoái lại những đau thương của một thời, bằng tiếng cười, trước
khi bước vào thời sắp tới. Khi
chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ở Miền Nam chấm dứt, người dân
Việt đã từ giã nó, không phải bằng cái
chết đau thương của ông Diệm, ông Nhu, mà bằng nụ
cười “hóm hỉnh” trước cái trò mạt cưa mướp đắng,
kẻ cắp bà già… của hai cú đảo chính Bravo
1, Bravo 2. Và khi Miền 1.
From once a fabled battleground, Their gasping cries, though never heard, Let there be war-if that's man's end, We the living have no answers Mothers and sisters, lovers and wives Fare thee well, men and sons of Ianbui Chiến địa lưu danh! Những tiếng gào vang trong tuyệt
vọng Thế chiến sang trang hề, ta đứng Hãy hỏi đời sau, và sau
nữa, Hỏi chị, hỏi em vàn yêu
dấu, Vĩnh biệt anh, đàn con của Kursk! Kursk! Huyền thoại xưa, 2.
Thư thân hữu VHNT: Hỏi nát lương
tâm hề nhân loại… Đã lâu rồi, trên
một số báo VHNT, tôi được đọc một bài thơ.
Cao ngạo, đầy chất nam nhi trượng phu! Nhưng bút hiệu cho
thấy, đây là một nữ sĩ. Hỏi qua email: how to explain
it? Mới đây, đọc bài thơ của Ian Bui, dịch bài Kursk, trong có đoạn: Hãy hỏi đời sau, và
sau nữa Tôi mê ba câu đầu quá! Thật cao ngạo ngất trời! Nhưng câu thứ tư, tôi thấy không chở nổi ba câu trên (giá nào thì cũng thua thôi!). Cứ tưởng tượng hỏi tác giả, (1) có thể ông sẽ trả lời: sao, ông chê thơ tôi hả? Vậy thử thay bằng một câu khác, coi được không? Tôi liều lĩnh thay bằng câu: Đinh Hùng hình như có
câu: Bài thơ đề tặng Liêu Trai của Vương Ngư Dương (?) mà Vũ Hoàng Chương dịch, tôi nhớ đại khái: Chuyện đời chán ngấy người lên
được,
(1) Chú thích: Sự thực
tôi có hỏi, ông trả lời, thật lịch sự: 3.
Phong Hỏa Đài https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
THIS MAY, in
a visit to Vietnam, President
Obama announced he was lifting the embargo
on selling lethal arms to Hanoi as part of an effort
to normalize relations long after the Vietnam War.
While celebrating Vietnam’s deepening economic and
security ties to the United States, Mr. Obama cautioned
that to really get ahead, it should respect freedom of expression,
assembly and religion. “There are still folks who find
it very difficult to assemble and organize peacefully
around issues that they care deeply about,” he said.
It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing. On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.” Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook. When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.” When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear. Tháng Năm này, trong lần thăm xứ Mít, tông tông Mẽo thông báo, tháo bỏ cấm vận liên quan tới việc bán võ khí giết người như là 1 phần trong cố gắng bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vốn tắc tị dài kể từ sau cuộc chiến. Trong khi ăn mừng xứ Mít kết thân đậm đà với Mẽo, về kinh tế và về an ninh, Ô Bá Mà cảnh cáo, rằng, để mọi chuyện thực sự trơn tru tiến hành về phiá trước, phải đạt được, điều này, phải có tôn trọng tự do phát biểu tư tưởng ý nghĩ, phải có tụ tập, lèm bèm chát chiếc, quá nữa, phải có quốc hội, lập hiến, phải có tôn giáo. "Dân chúng vưỡn bị khó khăn, rất ư là khó khăn tụ tập và tổ chức những cuộc bàn luận một cách ôn hòa về những vấn đề mà họ thực sự quan tâm”, Ô Bá Mà phán. Rõ ràng là, Anh Cu Vẹm đếch thèm quan tâm, thì cứ nói thẳng ra ở đây, chúng quẳng câu cố vấn, advice, của anh da đen Tông Tông Mẽo vô sọt rác! Vào ngày 7 Tháng Mười, chúng phán rằng Việt Tân, một nhóm ủng hộ dân chủ có trụ sở ở Cali, là một tổ chức khủng bố, và cảnh cáo, sẽ trừng phạt thật nặng nề, thật tới chỉ, bất cứ một ai dám liên lạc với tổ chức này. Nhóm này, tự miêu tả về chính họ, như là một tổ chức hô hào dân chủ, công lý xã hội và nhân quyền, qua những phương tiện không bạo động, cho biết, đây là lần đầu tiên họ được nhà nước VC công khai, chính thức chụp cho họ cái mũ phản động, theo luật rừng của chúng. Ba thành viên của họ đã bị tù dài dài vì viết blog và tổ chức, sinh hoạt cộng đồng Bài đăng trên tờ báo lừng danh Washington Post về Mẹ Nấm, có tựa đề đầy mỉa mai về nền tư pháp nói riêng và chế độ chính trị nói chung ở Việt Nam, như sau: "Tại Việt Nam, nói lên sự thật là tội 'tuyên truyền'." Không thể đúng hơn! Câu nói ngắn gọn mà sức mạnh hơn cái tát vào giữa bản mặt. Policemen block the road to a High People’s Court before the appeal trial of a prominent Vietnamese blogger. (Nguyen Tien Thinh/Reuters) By Editorial Board October 21 at 7:04 PM Note: Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt. Đây là 1 bài editorial, của báo này Nói "sự thực" là "tuyên truyền" hình sự. Chúng coi đây là tội sát nhân, như trộm cướp, giết người! https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
THIS MAY, in
a visit to Vietnam, President Obama announced
he was lifting the embargo on selling lethal arms
to Hanoi as part of an effort to normalize relations
long after the Vietnam War. While celebrating Vietnam’s deepening
economic and security ties to the United States, Mr. Obama
cautioned that to really get ahead, it should respect freedom
of expression, assembly and religion. “There are still folks
who find it very difficult to assemble and organize peacefully
around issues that they care deeply about,” he said.
It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing. On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.” Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook. When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.” When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear. Bài viết này, là bài quan điểm, lập trường của tờ báo, và phải đọc nó trong tinh thần đó. Nó phán rằng, ở xứ Mít, nói lên sự thực là tuyên truyền, và bị nhà nước khép vào tội hình sự. Không mỉa mai, không cái tát, mà là lời kết án, buộc tội. Tháng Năm này, trong lần thăm xứ Mít, tông tông Mẽo thông báo, tháo bỏ cấm vận liên quan tới việc bán võ khí giết người như là 1 phần trong cố gắng bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vốn tắc tị dài kể từ sau cuộc chiến. Trong khi ăn mừng xứ Mít kết thân đậm đà với Mẽo, về kinh tế và về an ninh, Ô Bá Mà cảnh cáo, rằng, để mọi chuyện thực sự trơn tru tiến hành về phiá trước, phải đạt được, điều này, phải có tôn trọng tự do phát biểu tư tưởng ý nghĩ, phải có tụ tập, lèm bèm chát chiếc, quá nữa, phải có quốc hội, lập hiến, phải có tôn giáo. "Dân chúng vưỡn bị khó khăn, rất ư là khó khăn tụ tập và tổ chức những cuộc bàn luận một cách ôn hòa về những vấn đề mà họ thực sự quan tâm”, Ô Bá Mà phán. Rõ ràng là, Anh Cu Vẹm đếch thèm quan tâm, thì cứ nói thẳng ra ở đây, chúng quẳng câu cố vấn, advice, của anh da đen Tông Tông Mẽo vô sọt rác! Vào ngày 7 Tháng Mười, chúng phán rằng Việt Tân, một nhóm ủng hộ dân chủ có trụ sở ở Cali, là một tổ chức khủng bố, và cảnh cáo, sẽ trừng phạt thật nặng nề, thật tới chỉ, bất cứ một ai dám liên lạc với tổ chức này. Nhóm này, tự miêu tả về chính họ, như là một tổ chức hô hào dân chủ, công lý xã hội và nhân quyền, qua những phương tiên không bạo động, cho biết, đây là lần đầu tiên họ được nhà nước VC công khai, chính thức chụp cho họ cái mũ phản động, theo luật rừng của chúng. Ba thành viên của họ đã bị tù dài dài vì viết blog và tổ chức, sinh hoạt cộng đồng Bài đăng trên tờ báo lừng danh Washington Post về Mẹ Nấm, có tựa đề đầy mỉa mai về nền tư pháp nói riêng và chế độ chính trị nói chung ở Việt Nam, như sau: "Tại Việt Nam, nói lên sự thật là tội 'tuyên truyền'." Không thể đúng hơn! Câu nói ngắn gọn mà sức mạnh hơn cái tát vào giữa bản mặt. Policemen block the road to a High People’s Court before the appeal trial of a prominent Vietnamese blogger. (Nguyen Tien Thinh/Reuters) By Editorial Board October 21 at 7:04 PM Note: Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt. Đây là 1 bài editor, của báo này Nói "sự thực" là "tuyên truyền" hình sự. Chúng coi đây là tội sát nhân, như trộm cướp, giết người! https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
THIS MAY, in
a visit to Vietnam, President Obama announced he was lifting the
embargo on selling lethal arms to Hanoi as part of an effort to
normalize relations long after the Vietnam War. While celebrating
Vietnam’s deepening economic and security ties to the United States,
Mr. Obama cautioned that to really get ahead, it should respect freedom
of expression, assembly and religion. “There are still folks who find
it very difficult to assemble and organize peacefully around issues
that they care deeply about,” he said.
It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing. On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.” Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook. When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.” When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear. Quoc Tru Nguyen shared a memory.1 Year Ago
See Your MemoriesDTH trả lời Minh Tran Huy trên tờ Books, Sept 2011: Cấm xb tại tại VN, nhà ly khai DTH cho ra mắt tại Pháp cuốn mới của bà Giáo đường của con tim. Bà trình bày,... See MoreMemoir
Song of Africa Ngugi wa Thiong’o recalls his upbringing in colonial Kenya Note: Xừ này, cũng có tên trong bảng phong thần Nobel năm nay Thiền
sư Phan Tấn Hải
& họa sĩ Nguyễn Đình Thuần @ Phở Nguyễn Huệ
https://vietbao.com/p112a259413/ngay-do-oi-sinh-nhat-15-tuoi-trang-van-hoc-gio-o Thật
khó viết một bài thơ hay để đọc lên
cho người tri âm… Thật khó sáng tác
một ca khúc hay để hát cho người tri kỷ… Thật
khó có một giọng ca xuất sắc để cất cao âm
vang ngợi ca cuộc đời… Thật khó luyện được tiếng đàn
độc đáo và rất mực sáng tạo… Thật khó
có trình độ thẩm âm tinh tế để phân biệt
giữa nhạc Jazz và không-Jazz… Thật khó có
đủ nhạy cảm ngôn ngữ để biện biệt các dị biệt
vùng miền và chuyển biến của tiếng Việt… Và thật
khó để mời những tài năng văn học nghệ thuật viết bài
trong nhiều năm, và rồi 15 năm sau từ nhiều tiểu bang
cùng về hội ngộ. AUTUMN AFTERNOON
I REMEMBER a beautiful afternoon I once had. I walked over the country with the stump of a cigar snug in my mouth. Sunlight beamed over the green region. In the fields men, children, and women were working; on my left flowed a golden canal and on my right I had a view of farmland. I dawdled along. A bakery truck blasted past. It's strange that I recall so clearly every detail as if it were a treasure. There must be a great strength within my memory, I'm so happy. Memories are life. Then I continued on past many considerably cheerful and prosperous farmhouses; a farm woman shushed her dog that had the idea of barking at the strange pedestrian passing by. It's delightful to walk quietly and leisurely over the land and be greeted friendlily by solemn, sturdy country women. Such a greeting does one good, like the thought of immortality. A heaven opens when people are kind to one another. The afternoon and soon evening sun strew liquid love and fantasy gold over the road, and it glowed reddish. On everything was a touch of violet, but only a delicate, barely visible tint. A suggestion has nothing as thick as a finger to grip, but gropes around and hovers just above the visible and invisible totality as an ominous shimmer, tone, sensation. I went by a tavern without entering; I thought I might do that later. At a comfortable pace I strolled on, not unlike a calm, gentle pastor or teacher or messenger. Many a human eye looked upon me curiously in order to unriddle who I might be. In the wonderfully resounding countryside, everything became more and more beautiful. Each step led into another loveliness. It was as if I were writing, dreaming, fantasizing. A pale, beautiful, dark-eyed farm girl, whose face had been sweetly tanned by the sun, looked at me questioningly with the sparkling dark magic of her eyes and said good evening. I returned her greeting and went on into an orchard whose trees thickly dangled with the red and golden fruit of paradise. Through the dark green of the leaves the beautiful apples were wonderfully lit by the evening sun, and over the verdant fields rang the warm buoyant chiming of bells. Magnificent cows, brown, white, and black, lay and stood about in graceful groups scattered across lush meadows stretching down to a silver canal. I didn't have eyes enough to look at all there was to see, nor ears enough to hear it all. Looking and hearing joined to make one pleasure, the entire wide green and golden landscape resounded-the bells, the fir forest, the animals, and the people. It was like a painting conjured up by one of the masters. The beech forest was brown and yellow; the green and the ellow and the red and the blue made music. Colors flowed into sound, and sound played with the divinely beautiful colors like boyfriends with sweet girlfriends, like gods with goddesses. I walked forward only slowly under the light blue and between the green and brown, and gradually it turned dark. Several shepherd boys came up to me wanting to know the time. Later, in the village, I went past an old, large, venerable rectory. Someone was singing and playing in the house. They were glorious sounds, at least so I imagined. How easy it is to imagine something beautiful on a quiet evening walk. An hour later it was night, the sky glittered black. Moon and stars came out. ROBERT WALSER https://literaryreview.co.uk/the-dialectical-man
Full Marx Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin The Russian revolution Missed connection Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history Lenin
on the Train. By
Catherine Merridale. Tình
báo Anh phán
về Mác và cộng sự của ông,
một lũ cuồng tín và thiển cận
Nhưng vào thời gian đầu 1917, quyền lực ở
Nga thì sẵn sàng chờ Người tiếp quản.
Tháng Hai năm đó, 300 năm trị vì
của các vì vua chúa dòng Romanov
chấm dứt trong vài ngày phù du,
trong khi mọi thứ mọi việc chưa được đặt vô đúng
vị trí của chúng, Nga xô, mệt nhoài
và tuyệt vọng từ ba năm trời vì 1 cuộc
chiến tàn khốc với Đức và đồng minh của nó,
đang được cai quản bởi những con người ôn hoà,
bất lực. Lê nin biết chắc ông muốn cái
gì, và ông muốn ném hết mình
vô, cả về nghị lực lẫn sự tàn nhẫn, để thực hiện.
Nhưng trước hết, phải ở đó. Nhà lãnh đạo tương lai của Xô Viết đã trải qua cuộc chiến ở Thụy Sĩ. Khi tin tức ở quê nhà bùng nổ tới tai, ông quá tuyệt vọng. Ông đã tính dùng thông hành giả để tới Nga, như là 1 anh chàng Thụy Điển câm điếc. Nhưng bà vợ quá đảm đang nhắc ông, không được đâu, vì ông chồng có thói quen, ưa sửng cồ về chính trị, bằng tiếng Nga, trong khi ngủ. Cuốn "Tới Ga Phần Lan", của Wilson là cũng viết về chuyến đi này. Tin Văn đã giới thiệu. Bài viết của Steiner, "Dưới cái nhìn Đông Phương" cũng dành nhiều trang cho Lenin, thời gian ở Thụy Sĩ http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today Theo
GCC, xứ Mít không
có Mác Miếc gì
cả. Chỉ là cái bình phong,
1 thứ dê tế thần, để Cái Ác
Bắc Kít nhân đó phát
tác.
Đây cũng là điều mà Tolstaya nhận ra về Liên Xô của Bà, khi đọc Conquest. Nhân đây, giới thiệu 1 số bài viết mới về ông. Tin Văn sẽ giới thiệu mấy bài về Marx. Bài trên Người Kinh Tế, và trên tờ Điểm Sách của Anh. Bài trên tờ này, thường không dài, nhưng cực bảnh, nếu phải so với NYRB, thí dụ.
The Man Who Invented the Drug Memoir:
Kẻ phịa ra Hồi Ức Ken Thomas De Quincey’s intoxicating prose derived its power from the writer’s opium habit. By Dan Chiasson http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/17/the-man-who-invented-the-drug-memoir Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế. Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có! manhhai
Saigon Street Scene 1967 - Đường Ngô Đức Kế, nhìn về Nguyễn Huệ https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29813129434/
UPI office, 19 NDK, phía bên
kia hè đường. Có 1 bà cũng gánh
1 cái gánh như thế, bán đồ ăn sáng,
hình như là cơm tấm, ở phía trước văn phòng,
thời gian, chắc cũng vào giờ này, khi tấm hình
này được chụp
Saigon Street Scene 1967 -
Đường Nguyễn Thiệp, đường ngang phía trước là
Nguyễn Huệ
Cái
tay Phương, manager tiệm radio International,
là chồng Bích Hợp, nổi danh 1 thời.
Tay Phương có thời cũng rất mê ngồi Quán Chùa, với…. GCC. Nhớ, 1 lần, nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài đi vô, chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn mưa, chàng kéo cái cổ áo mưa lên, tay Phương nhìn, mê quá, phán, đúng là văn sĩ! Lần đầu tiên Gấu nghe Bích Hợp hát, là trong 1 vở cải lương, Tình Vương Ý Nhạc, hình như thế, và là bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....", "cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời, y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa, hẳn thế! Nghệ thuật làm dáng? Cùng thời gian bức hình đưọc chụp? (1)
Gõ Bác Gúc:
Hẹn Hò GCC
chưa từng được gặp Bích Hợp, nhưng nhớ là,
tay Phương này, rất mê vợ mình, và
hình như là, BH do cảm động quá, bèn
gật đầu
Lenin
on the Train. By Catherine Merridale. Tình
báo Anh phán về Mác và cộng sự của
ông, một lũ cuồng tín và thiển cận Nhưng
vào thời gian đầu 1917, quyền lực ở Nga thì sẵn sàng
chờ Người tiếp quản. Tháng Hai năm đó, 300 năm trị
vì của các vì vua chúa dòng Romanov
chấm dứt trong vài ngày phù du, trong khi mọi
thứ mọi việc chưa được đặt vô đúng vị trí của chúng,
Nga xô, mệt nhoài và tuyệt vọng từ ba năm trời
vì 1 cuộc chiến tàn khốc với Đức và đồng minh
của nó, đang được cai quản bởi những con người ôn hoà,
bất lực. Lê nin biết chắc ông muốn cái gì,
và ông muốn ném hết mình vô, cả về
nghị lực lẫn sự tàn nhẫn, để thực hiện.
Nhưng trước hết, phải ở đó. Nhà lãnh đạo tương lai của Xô Viết đã trải qua cuộc chiến ở Thụy Sĩ. Khi tin tức ở quê nhà bùng nổ tới tai, ông quá tuyệt vọng. Ông đã tính dùng thông hành giả để tới Nga, như là 1 anh chàng Thụy Điển câm điếc. Nhưng bà vợ quá đảm đang nhắc ông, không được đâu, vì ông chồng có thói quen, ưa sửng cồ về chính trị, bằng tiếng Nga, trong khi ngủ. Cuốn "Tới Ga Phần Lan", của Wilson là cũng viết về chuyến đi này. Tin Văn đã giới thiệu. Bài viết của Steiner, "Dưới cái nhìn Đông Phương" cũng dành nhiều trang cho Lenin, thời gian ở Thụy Sĩ http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today Theo GCC, xứ Mít không có Mác Miếc gì cả. Chỉ là cái bình phong, 1 thứ dê tế thần, để Cái Ác Bắc Kít nhân đó phát tác. Đây cũng là điều mà Tolstaya nhận ra về Liên Xô của Bà, khi đọc Conquest. Nhân đây, giới thiệu 1 số bài viết mới về ông. Tin Văn sẽ giới thiệu mấy bài về Marx. Bài trên Người Kinh Tế, và trên tờ Điểm Sách của Anh. Bài trên tờ này, thường không dài, nhưng cực bảnh, nếu phải so với NYRB, thí dụ.
Hanoi
Hannah Hà
Nội ơi ta đã mất người trong cuộc đời! Viết Mỗi Ngày
Sách
&
Báo
Mới
https://www.threepennyreview.com/current.html Số này, có bài thơ Charles Simic, đã giới thiệu rồi. Tuy nhiên, còn bài viết về Raymond Carver, cũng thật OK. Có vẻ như Mít không đọc được cả thơ lẫn truyện ngắn của ông này. Nhớ có đọc 1 bài trên Blog NL, chê suốt. Tin Văn sẽ đi bài về Carver. Bài khá dài, từ từ tính. Post trước đoạn liên quan tới tay biên tập Carver BOOKS
The Art, Magic, and Blues of Raymond Carver Clifford Thompson IF
YOU'RE telling the story of Jesus, there is no avoiding the crucifixion.
In much the same way, what we talk about when we talk about Carver's
sentences must include Gordon Lish. As an editor at Esquire, Lish worked
on the stories of Carver's that appeared in the magazine in the early
and mid-1970s; he helped secure McGraw-Hill's publication of Will You
Please Be Quiet, Please? and edited the book's stories; and after
moving to Alfred A. Knopf, which brought out What We Talk
About When We Talk About Love, he served as that volume's
editor, too. Lish did not simply insert a comma here and there and gently
suggest deleting a sentence or two. He changed wording within sentences,
he axed whole paragraphs, he cut some stories by half or more, and he retitled
a few of them. If the substance of the stories was Carver's, Lish was a full
partner in their style, and there were times when even the substance didn't
come through intact. Carver: Collected Stories (2009),
published by Library of America, includes the work as it was originally published
as well as the versions of the stories that Carver submitted to Knopf as
the manuscript titled Beginners. Comparing the stories in Beginners with
what they became in What We Talk About is revealing, but it doesn't
settle the question of whether Lish helped or hurt Carver's writing.
Charles SimicThe shortest possible answer is: sometimes one, sometimes the other. There is no question in my mind that the Lish- edited version of "Tell the Women We're Going" is more potent than the original, with perhaps the most stunning ending of any Carver story. On the other hand, reading "Mr. Coffee and Mr. Fixit," which is what was left of "Where Is Everyone?" when Lish was through, brings to mind a car after a head-on collision. There is a line, and occasionally, like the driver of said car, Lish wound up on the wrong side of it. But there was a core of Carver that even Lish couldn't touch, and the proof is in the slight shift in themes from Quiet, Please? to What We Talk About, which represents a progression, one that corresponds roughly to the contours of Carver's own life. The troubles that the first book hints at erupt in the second. The marital ten- sions of Quiet, Please? become separation and divorce in What We Talk About; the drinking, once done casually, has taken over characters' lives; the suggestion of violence has become the real thing. The difference in focus is consistent, and for me that answers the other inevitable question about this peculiar writer-editor relationship: when all the evidence is in, the stories belong to Carver. Ultramarine
... sick - DEREK MAHON
from "Mt Gabriel" in Antarctica (1985) Siêu Biển .... bịnh
Lưu vong, Gấu bèn nhớ nhà, và bèn nhìn về quê nhà may mắn bỏ chạy, thoát. Ngôi sao đầu tiên, chọc thủng màn đêm nơi hồ Georgian, Phản chiếu trên những làn sóng đen thui đang đổ xô tới liếm chân Gấu Hà, hà! An Afternoon As he writes, without looking
at the sea, Một buổi xế trưa Khi viết, đếch thèm nhìn
biển Raymond Carver Where Water Comes Together Where Water Comes Together with Other Water: I love creeks and the music they
make. Raymond Carver Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với Nước
Khác
Tôi mê những nhánh
sông và âm nhạc nó tạo nên Seeing Things A wind toy on a string. Saw a street in hell and one in paradise. Saw a room with a light in it so ailing It could’ve been leaning on a cane. Saw an old man in a tailor shop Kneel before a bride with pins between his lips. Saw the President swear on the Bible while snow fell around him. Saw a pair of lovers kiss in an empty church And a naked man run out of a building waving a gun and sobbing. Saw kids wearing Halloween masks Jump from one roof to another at sunset. Saw a van full of stray dogs look back at me. Saw a homeless woman berating God And a blind man with a guitar singing: “Oh Lord remember me, When these chains are broken set my body free.” Nhìn sự vật
Tớ tới đây hồi trẻ Cái chong chóng trên sợi dây [Cái diều trên sợi dây] Nhìn con phố, địa ngục Nhìn con khác, thiên đàng Nhìn căn phòng với 1 tia sáng ở trong đó, èo uột làm sao Nó có thể tựa lên 1 cái gậy Nhìn ông già trong tiệm may Khoá môi bằng đinh ghim Quì trước cô dâu Nhìn Tông Tông thề bồi với cuốn Kinh Thánh Trong khi tuyết rơi quanh Xừ Luỷ Nhìn cặp tình nhân hôn nhau trong ngôi nhà thờ rỗng Và 1 người đàn ông trần truồng chạy ra khỏi 1 toà biu đing Tay cầm súng vẩy vẩy, miệng sụt sùi khóc Nhìn con nít đeo mặt nạ Halloween Nhảy từ mái nhà này qua mái nhà khác vào lúc hoàng hôn Nhìn 1 chiếc xe van đầy chó hoang ngoái nhìn lại tớ Nhìn 1 bà không nhà riếc móc Chúa Và 1 anh mù với chiếc đàn ghi ta, và hát: "Ôi Chúa, hãy nhớ tới con Khi những chiếc ghế này gãy, giải thoát thân thể con" [Khi những sợi xiềng này gãy, giải thoát thân thể con] Erratas: wind toy, ở đây, là con diều, đi với cái tít là seeing things. Câu chót, chains, những sợi sên, xiềng, không phải những chiếc ghế. Sorry. NQT A Critic at Large October 10, 2016 Issue Karl Marx, Yesterday and Today The nineteenth-century philosopher’s ideas may help us to understand the economic and political inequality of our time. By Louis Menand http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today
The Russian revolution Missed connection Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html Mác học Kinh Nghiệm Nguyễn Đình Thi Hôm nay nhân loại nói chung một thứ tiếng Tư tưởng gia tân thế kỷ [thế kỷ 21]: Marx Tới Ga Phần Lan Ông
ta trở lại: He's back.
Cái tít bài viết của Louis Menand mới đáng sợ làm sao! Marx cũng là người mà Michel Foucault gọi là người thành lập nên 1 bài "đít cua" Still, Marx was also what Michel Foucault called the founder of a discourse. An enormous body of thought is named after him. “I am not a Marxist,” Marx is said to have said, and it’s appropriate to distinguish what he intended from the uses other people made of his writings. But a lot of the significance of the work lies in its downstream effects. However he managed it, and despite the fact that, as Sperber and Stedman Jones demonstrate, he can look, on some level, like just one more nineteenth-century system-builder who was convinced he knew how it was all going to turn out, Marx produced works that retained their intellectual firepower over time. Even today, “The Communist Manifesto” is like a bomb about to go off in your hands. Ngay cả bây giờ bản "Tuyên ngôn CS" vẫn là 1 trái bom nếu bạn cầm trong tay, và sẵn sàng đoàng 1 phát! Thù Ngụy Một, Thù Đệ
Tứ, Mười Ý tưởng viết "To the Finland Station", ("Tới Ga Phần Lan", một cuốn sách về chủ nghĩa CS), đến với Edmund Wilson, khi ông đang trên đường xuống phố, vào đúng lúc Cơn Suy Thoái lớn về kinh tế đang ở đỉnh cao. Ông khi đó đang ở cuối tuổi "tam thập nhi lập", đã có được tí tên tuổi, như phê bình gia và phóng viên nhà báo, đã cho ra lò hai tác phẩm, một, về mấy ông nhà văn hiện đại (Axel’s Castle, 1931), và một, những chuyến đi thực tế vùng xưởng, mỏ (The American Jitters, 1932). Tham vọng của ông lớn hơn nhiều: phải cho ra lò một cuốn tiểu thuyết! Trước đó, vào năm 1929, ông đã thử tay nghề, với cuốn "Tôi nghĩ về Daisy", nhưng chẳng ma nào thèm đọc (not a success). Thành thử, ông ngạc nhiên với chính mình, cớ sao lại tham vọng cùng mình, dám đụng tới - những nhân vật lịch sử như là... Quang Trung, Nguyễn Huệ - ấy chết xin lỗi - vị cha già của chủ nghĩa CS, Lê nin, và xuyên xuốt cuộc đời cha già, là cả một thời kỳ lịch sử nóng bỏng của tư tưởng CS, từ Cách Mạng Pháp tới Cách Mạng Nga. Nhưng ông thấy mờ mờ hiện ra, sau bức màn hoành tráng của lịch sử đó, là hình ảnh của... một cuốn tiểu thuyết! "Tôi quýnh lên, vì cuộc thách đố" (I found myself excited by the challenge), ông cho biết sau đó. Chút men say – của cuộc thánh đố – như sôi lên cùng câu văn bỗng hiện ra ở trong đầu Wilson, "I go to encounter for the millionth time the reality of experience and to forge in the smithy of my soul the uncreated conscience of my race." (Câu nói của Dedalus, ở cuối cuốn Chân Dung, của Joyce, tạm dịch: Tôi tới chỗ hẹn lần thứ một triệu, với thực tại kinh nghiệm, và trong cái lò cừ là linh hồn tôi, rèn đúc ý thức nòi giống của mình, vốn chưa từng được tạo ra). Còn cái tựa đề (như một ẩn dụ nói lên Ngày Mai Ca Hát?), mượn đỡ tên một tác phẩm của người đẹp thành London, Virginia Woolf, "To the Lighthouse" (Tới Ngọn Hải Đăng). Đã từng có kinh nghiệm từ những chuyến đi thăm công nhân mỏ tại vùng Appalachia và Detroit, (Do an ủi, và tiếp tế lương thực cho những người thợ đình công tại Pineville, Kentucky, ông đã bị nhà cầm quyền địa phương cầm lá chuối lót tay, đá đít, cấm cửa), Cơn Suy Thoái làm ông mừng (Cho chết mẹ mày, hỡi con quái vật nhà máy tư bản chủ nghĩa!). Mặc dù hoài nghi Đảng CS, ông hân hoan hồ hởi ôm lấy Chủ nghĩa Mác. Ông bỏ phiếu cho ứng cử viên CS, William Z. Foster, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, và cùng năm, ký tên vào bản tuyên ngôn kêu gọi "một chính sách độc tài tạm thời có tính giai đoạn của những công nhân có ý thức giai cấp" ("a temporary dictatorship of the class-conscious workers.") Tuy chẳng bao giờ thò bút ký đơn xin gia nhập Đảng, nghĩa là chẳng bao giờ là một tay CS, nhưng ông tin tưởng, chỉ những người CS mới thực tình giúp đỡ giai cấp công nhân. Vào năm 1935, khi bắt đầu lao vào việc viết "To the Finland Station", ông còn cố dụ khị ông bạn của mình là nhà văn Dos Passos, rằng Stalin đúng là một tay CS thứ thiệt, "làm việc cho chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô" (a true Marxist, "working for socialism in Russia."). Chẳng bao lâu liền sau đó, ông "bèn" đi Nga. Và sau đó, viết về những chuyến đi thăm Quê Người, xen lẫn những chuyến đi thăm Quê Mình (Mỹ), nhan đề đầy ấn tượng, "Những chuyến đi giữa Hai Nền Dân Chủ" "Travels in Two Democracies." Tuy nhiên, ông đã tự kiểm duyệt, bỏ những chi tiết ghi trong nhật ký về nỗi sợ và sự áp bức, kìm kẹp mà ông chứng kiến tại Liên Bang Xô Viết. Và đến năm 1938, ông đành không cho phép mình giả đò nữa, và cho lật tẩy con bài xã hội chủ nghĩa: Họ chẳng những chưa bắt đầu xây dựng những định chế dân chủ. Chưa kịp bắt đầu thì đã trật đường rầy rồi", ông thú nhận với một người bạn. "Họ có sự thống trị mang tính toàn trị, bởi một bộ máy chính trị" ("They have totalitarian domination by a political machine."). Ông hiểu rõ, cuốn sách của mình sẽ rất "đoạn trường". Vào tháng Mười 1939 ông buồn bã báo cho Louise Bogan, "Liên Xô đang tính nuốt Phần Lan, còn tôi đang cố tới đó, (cố kết thúc cuốn sách).
To the Finland Station được nhà Harcourt Brace xuất bản tháng Chín, 1940. Không đúng thời điểm tốt đẹp cho một cuốn sách với nhân vật chính của nó là Vladimir Lenin. Một tháng trước đó, tại Mexico, ông trùm của Đệ Tứ Quốc Tế, Leon Trotsty bị chẻ đôi cái đầu bằng một cái dìu chặt đá lạnh (ice axe). Một năm trước đó, Liên Bang Xô Viết đã ký với Đức Nazi bản hiệp ước bất tương xâm, mặc nhiên cho phép Hitler xâm lăng Ba Lan. Năm năm trước đó, Stalin đã đi một đường quét dọn sạch sẽ đối lập chính trị bên trong Liên Bang Xô Viết. Cuộc dọn sạch cỏ "dại" này, là tiếp nối của chương trình tập thể hóa mà hậu quả của nó là cái chết của trên năm triệu người. Vào năm 1940, trí thức Tây Phương kể như vỡ mộng chủ nghĩa CS. Andre Gide, George Orwell, và Dos Passos đã viết những bản kết toán mới tinh (firsthand accounts) về sự tàn bạo và đạo đức giả của chủ nghĩa CS đương thời – Gide và Dos Passos, sau khi đi Nga về, Orwell, sau khi chiến đấu cùng với những phần tử Loyalists tại Tây ban Nha. Tạp chí Partisan Review (Mỹ), trở thành "tiền đồn" chống Cộng. Vào tháng Giêng, 1947, "Tới Ga Phần Lan" chỉ bán được 4,527 bản. Nhà xb Doubleday mua lại bản quyền, và tái xuất bản cùng năm, nhưng sách bán ra chỉ lèo tèo. Số mệnh chỉ mỉm cười với nó, với ấn bản bìa mỏng, và cũng là cuốn đầu tiên của nhà sách Anchors, vào năm 1953. Mãi lực khá hẳn ra, vào thập niên 1960, vào năm 1972, tức là năm Wilson từ giã cõi đời, nhà sách Farrar, Straus & Giroux cho ra lò một ấn bản mới, với lời tựa của chính tác giả, "Nhìn Lại Những Trang Viết Cũ", đúng ra là nhìn lại Chủ Nghĩa Cộng Sản Xô Viết. "Cuốn sách của tôi," ông giải thích, "cho thấy, qua nó, là một bước tiến bộ quan trọng đã được thực hiện, một ‘đột phá’ đã xẩy ra, và lịch sử nhân loại chẳng còn như trước nữa. Có điều, tôi không ngửi ra được, mùi của thảm họa, rằng Liên bang Xô Viết sẽ trở nên một trong những chế độ bạo tàn ghê tởm nhất của nhân loại, và Stalin, một trong những hoàng đế độc ác nhất, và không hề có mảy may tính người, của nước Nga. Cuốn sách của tôi do đó, có thể đọc, như là một bản kết toán khả dĩ tin cậy được, nếu nói về cơ bản, về điều, mà những nhà cách mạng nghĩ rằng, họ đang làm, là vì những quyền lợi cho một thế giới ‘tốt đẹp hơn’." [Với cuộc chiến Iraq hiện đang nóng bỏng, khét lẹt, liệu, những "nhìn lui" của Wilson, là những "nhìn tới", của chúng ta?]. Những nhìn lại của Wilson thực ra cũng chưa "tới đâu vào đâu" cả, với chỉ một độc giả "thường thường bậc trung", là chúng ta bi giờ. Nói rõ hơn, Wilson biết, chuyện gì xẩy ra tại Liên Bang Xô Viết vào thập niên 1930, như những trang của ông về Stalin ở trong "To the Finland Station" cho thấy. Nhưng vấn đề, không với Stalin, mà là với Lênin: típ người lý tưởng dâng hết đời mình cho nghĩa cả, người của hành động, đúng như định nghĩa của Marx, đừng giải thích, hãy thay đổi thế giới. Khi vẽ chân dung Lênin, Wilson thừa nhận ông dựa vào tài liệu của Đảng và Nhà Nước, (vào thời kỳ này, đã có những tài liệu "ngoài luồng", thí dụ như cuốn "Lenin" của Mark Landau-Aldanov, một di dân, do Dutton xuất bản, 1922). Lênin có thể gây ấn tượng, như là một người dâng hết đời mình cho nghĩa cả, (cho lòng nhân từ quên cả thân mình), nhưng ông còn là một chính trị gia thủ đoạn tàn nhẫn, hay dùng từ của nhà văn Nga, Vladimir Nabokov, vào năm 1940, trong một lá thư gửi cho Wilson, ngay sau khi đọc xong cuốn sách của bạn mình, "To the Finland Station": a "pail of milk of human kindness with a dead rat at the bottom" (một xô sữa, tức cái chất người ‘người ơi là người’, với một con chuột chết ở dưới đáy". Trong lời tựa, cho ấn bản 1972, tác giả Wilson cũng đưa ra một cái nhìn về con chuột chết đó. Nhưng ông vờ đi, một thực tại hiển nhiên, rằng, hầu hết những nét nổi cộm nhất của chế độ Stalin – sử dụng khủng bố, trình diễn những tòa án nhân dân, và những trại tập trung cải tạo - đều do Lênin đầu têu, và khánh thành. "To the Finland Station" bắt đầu với sự phản bội những nguyên lý, những lý tưởng Cách Mạng Pháp, của Napoleon, nó phải "nên" chấm dứt với sự phản bội của Lênin, với Chủ Nghĩa Xã Hội của Âu Châu. Wilson tin rằng, ông đang viết về sự thành công của những tư tưởng trong hành động ["tri" biến thành "hành", ideas in action], về sự chuyển dịch cái tưởng (tượng) thành cái thực. Dựa vào câu nói của Vico, như là điểm mở ra tác phẩm của ông, "thế giới xã hội là tác phẩm của con người" ("the social world is the work of man"), thì, câu chuyện ông chọn lựa, là một câu chuyện về sự thất bại. Sự thực, theo như người viết hiểu, Wilson không phải là đảng viên CS, nhưng ông rất mê CS Đệ Tứ, của Trotsky, chứ không phải Đệ Tam. Bà vợ của ông, Mary McCarthy, theo Đệ Tứ. Và tờ Partian Review có khuynh hướng Đệ Tứ, chứ không phải tiền đồn chống Cộng. Trotsky thường vẫn cho rằng, mình trung thành với chủ nghĩa CS, của Lênin. Thành thử Wilson không thể nào nói ngược về Lênin được. Thất bại của cuốn sách còn là ở chỗ đó. Về câu nói của Nabokov, và hình ảnh, "xô sữa với một con chuột chết ở dưới đáy". Theo như người viết được nghe kể lại, Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, thuộc nhóm Hàn Thuyên, [với những thành viên như Trương Tửu, Đặng Thai Mai], theo Đệ Tứ, khi chạy trốn Đệ Tam (bỏ đất bắc vào nam, từ trước 1954), cũng đã từng so sánh Quốc Gia và Cộng Sản, bằng một hình ảnh khá tương tự, [tôi tin rằng ông chưa hề đọc câu của Nabokov]: Cộng Sản giống như một bát cơm gạo tám thơm, nhưng trộn thuốc độc, còn Quốc Gia, một bát cơm gạo hẩm, mốc, mà còn có vị thum thủm, vì trộn phẩn ở trỏng! Sở dĩ miền nam có được sự cởi mở, so với miền bắc, ngay cả ở những người theo CS, là do ảnh hưởng Đệ Tứ, với hai lãnh tụ nổi cộm là Hồ Hữu Tường và Nguyễn Đức Quỳnh (những người đã mất không nói tới, thí dụ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Nguyễn An Ninh không theo nhưng có cảm tình với Đệ Tứ). Ngoài ra còn những người nổi tiếng khác, như Trần Văn Ân, Tam Ích chẳng hạn. Nên nhớ, cái chất văn nghệ tự do của miền nam, không phải đợi tới Ngô Đình Diệm hoặc chính thể Cộng Hòa, mới có, mà là có công lao của những người Cộng Sản Đệ Tứ. Chúng ta hiểu tại sao người Cộng Sản ở trong nước thù ngụy thì một, mà thù Đệ Tứ, thì mười, là vậy. Trotsky bị điệp viên của Stalin làm thịt ngày 20 tháng 8 năm 1940. Trong một bài viết tuyệt vời về ông, "Trotsky và cơn tưởng bi thương" (Trotsky and the tragic imagination, in trong Lời và Câm, Language and Silence), George Steiner mô tả cảnh tượng hùm thiêng khi đã sa cơ vẫn... bảnh như thường: "Sọ vỡ, mặt bạnh, hùm nhẩy lên, ném bất cứ thứ gì vớ được vào tên giết người, sách, lọ mực, luôn máy ghi âm, và sau cùng ném luôn thân hình hùm vào hắn. Chỉ chừng ba hoặc bốn phút... Cuộc chiến đấu cuối cùng của Trotsky. Ông chiến đấu như một con hùm. Ông vật lộn với tên sát nhân, cắn tay hắn, cố giật lấy hung khí, là cái rìu phá băng." "Sách, lọ mực, cái máy ghi âm trở thành kho vũ khí của nhà văn"... Đọc tới đây, tôi chợt nhớ đến cái chết của Tam Ích, một "Trốt-kít": ông dùng kho vũ khí của chính mình, là những cuốn sách, làm bậc thang, trèo lên tới cái thòng lọng, và sau khi thò đầu vào trong, ông đạp đổ đống sách.... Jennifer Tran Tài liệu tham khảo: -THE HISTORICAL ROMANCE by LOUIS MENAND Edmund Wilson’s adventure with Communism. Issue of 2003-03-24 (Tạp chí Người Nữu Ước, trên lưới) -To the Finland Station, Một Nghiên Cứu về Viết và Hành Lịch sử (A Study in the Writing and Acting of History). Nhà xb Anchors. Edmund Wilson sinh ngày 8 tháng
Năm, 1895, tại Red Bank, New Jersey. Học Princeton. Tác giả
những cuốn: I Thought of Daisy (1929), tập truyện ngắn, Memoirs of
Hecate County (1946), một tập thơ, Poets, Farwell (1929), và
một số kịch phẩm. Ông nổi tiếng như là nhà phê
bình, với những tác phẩm như Axel’s Castle (1931), The
Triple Thinkers (1938), The Wound and the Bow (1941)... Note: Chỉ đến khi đến được Trại Tị
Nạn Thái Lan, đọc bài viết của Tolsataya mà sau này
Gấu biết được, đó là bài điểm cuốn sách
của Robert Conquest, thì Gấu mới vỡ ra là, làm
đếch gì có chủ nghĩa CS ờ xứ Mít, mà nó
chỉ là 1 thứ dê tế thần. Cái Ác Bắc Kít
mới đích danh thủ phạm. Cuốn của Tolstaya, order, bữa nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu trên TV, đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21, nhưng không thấy. (1) (1) Kiếm ra rồi: Bài điểm cuốn của Robert Conquest: The Great Terror (Oxford University Press, 1990): “The Great Terror and the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này, đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.Cuốn này, cũng làm từ thiện mất rồi!
Thơ
Mỗi
Ngày
Bob Dylan: Nobel văn chương 2016 Bob Dylan wins Nobel prize in literature 2016 – live The 2016 Nobel prize in literature will be announced today at 1pm CET (that’s midday in the UK). Follow the build up and all the reaction after the announcement here Guardian Live 8m ago 12:01 And the winner is... Bob Dylan “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”. Như vậy là Mẽo được Nobel, nhưng đếch phải nhà văn, mà là 1 nhạc sĩ https://www.theguardian.com/books/2016/oct/13/bob-dylan-wins-2016-nobel-prize-in-literature Bob
Dylan was named the surprise winner of the Nobel prize for literature
in Stockholm today “for having created new poetic expressions within
the great American song tradition”.
Speaking to reporters after the announcement, the permanent secretary of the Swedish Academy Sara Danius said she “hoped” the Academy would not be criticised for its choice. “The times they are a’changing, perhaps”, she said, comparing the songs of the American songwriter, who had yet to be informed of his win, to the works of Homer and Sappho. “Of course he deserves it – he’s got it,” she said. “He’s a great poet – a great poet in the English speaking tradition. For 54 years he’s been at it, reinventing himself constantly, creating a new identity.” Danius said the choice of Dylan may appear surprising, “but if you look far back, 5000 years, you discover Homer and Sappho. They wrote poetic texts which were meant to be performed, and it’s the same way for Bob Dylan. We still read Homer and Sappho, and we enjoy it. We can and should read him.” The winner of the Nobel prize for literature is chosen by the 18 members of the Swedish Academy, who are looking for “the person who shall have produced in the field of literature the most outstanding work in an ideal direction”, according to Alfred Nobel’s will. The award itself admits on its website that “Alfred Nobel’s prescriptions for the literature prize were quite vague”, adding that “in fact, the history of the literature prize appears as a series of attempts to interpret an imprecisely worded will”. Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami. Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of my generation – today I’m a fan of Bob Dylan,” she said. Dylan becomes the first American to win the Nobel prize for literature since Toni Morrison took the prize in 1993. His triumph follows comments in 2008 from Horace Engdahl, then permanent secretary of the Nobel prize jury, that “the US is too isolated, too insular. They don’t translate enough and don’t really participate in the big dialogue of literature ... That ignorance is restraining.” Today, a jury now headed by his successor has obviously changed their mind. Hy vọng Nobel năm nay không bị chỉ trích. Lẽ tất nhiên xứng đáng. Ông ta là nhà thơ lớn, trong dòng tiếng Anh. Có thể có tí ngạc nhiên, nhưng nhìn lại coi, 5 ngàn năm trước, có Homer, có Sappho. Người Mẽo đầu tiên được Nobel, sau Toni Morrison, 1993. Mẽo quá cô lập, một hòn đảo, đâu phải 1 đại lục, đếch chịu dịch dọt, đếch thèm tham dự vào những cuộc lèm bèm lớn lao về văn học, viên thư ký thường trực Horace Engdahl chẳng đã dè bỉu, nhưng uỷ ban Nobel sau ông có thể đã thay đổi cái đầu. Thay đổi cái đầu, có, nhưng vưỡn đếch cho nhà văn Mẽo! The choice of Dylan follows speculation about disagreement amongst the judging panel. The prize was expected to be announced last week, in the same week as the science medals, and the Academy’s Per Wästberg said the different date was a matter of logistics. But Bjorn Wiman, cultural pages editor at Sweden’s Dagens Nyheter, told the South China Morning Post that “if you ask me, it’s absolutely not a ‘calendar’ issue. This is a sign there’s a disagreement in the process to select a winner.” Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami. At Ladbrokes, where the singer was at 16/1 from 50/1 when betting was suspended, spokesman Alex Donohue said that “a lot of people scoffed when his odds came in to 10/1 from 100/1 in 2011. Looks like there was something blowin’ in the wind after all.” Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of generation – today I’m a lover of Bob Dylan,” she said. Đúng ra Nobel văn học được công bố tuần trước, nhưng có 1 sự không đồng thuận giữa mấy ông Hàn. Sara Danius, nữ thư ký thường trực cho biết, hồi còn trẻ, bà không thích ông này, nhưng già thì lại mê. Trong nước, tờ VHTT net phán, cho Bob Dylan, vì là 1 Einstein của quần chúng. Đây là 1 ví von, khi anh ca sỡi được Ô Bá Mà vinh danh, không mắc mớ đến Nobel. Thứ nào thứ đó. Vòng hoa Nobel là vòng hoa Nobel, “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”, đã sáng tạo ra những cách diễn tả mới trong truyền thống lớn lao của dòng ca nhạc Mẽo. Nhảm http://www.dw.com/en/the-einstein-of-pop-music-bob-dylan-at-75/a-19278557
Culture
"The Einstein of pop music:" Bob Dylan at 75 As Bob Dylan's birthday is widely noted, music experts wonder whether there could ever be a worthy successor to him as poet, musician and cult figure. Bob Dylan has two honorary doctorates and was awarded the Pulitzer Prize in 2008 in recognition of his enormous influence on pop culture. In 2012, US President Barack Obama awarded him the country's highest civil distinction: the Presidential Medal of Freedom. Now he is also a Nobel Prize laureate. Note:
Để an ủi, FB post lại bài diễn văn Nobel của Kertesz
Quoc Tru Nguyen shared a memory.1 Year Ago
See Your MemoriesTôi phải bắt đầu bằng một lời thú nhận. Một lời thú nhận lạ kỳ, có thể, nhưng mà là chân thiệt. Từ lúc bước lên phi cơ làm chuyến đi tới đây, Stockholm, để nhận giải Nobel văn chương năm này, tôi có cảm giác, một cái nhìn đăm đăm, bình thản, bám chặt ở sau lưng. Ngay cả vào giây phút trang trọng như lúc này, ở nơi nhĩ mục quan chiêm, tôi cảm thấy mình gần gụi với người chứng điềm tĩnh đó, hơn là với người văn mà tác phẩm đột nhiên được đọc trong cõi năm châu bốn bể. Và tôi chỉ mong rằng, biết đâu, nhờ dịp này, qua bài nói chuyện mà tôi có vinh dự đọc lên, sẽ giúp tôi rũ khỏi tình trạng nhập nhằng, và nhập được cả hai con người nói trên, vào làm một.
Viết Mỗi Ngày
The Russian revolution Missed connection Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html Viết Mỗi Ngày Frederic Dard, a master of French noirThis prolific novelist
is little known to English-language readers. A new series
of translations will introduce them to his sinister work Dard, like Simenon,
relished his status as a best-selling provincial outsider.
“Neither of them had much connection with the literary world,”
Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French
intellectual’: both left school at 15.” However, as much as
his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the
implacable collision of desire and destiny. That deadly machine
can feel as classically French as a play by Racine or a novel by
Balzac. Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo) Iceland’s penis museum pulls it offOpened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors From: To: Cc: Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru. Chao anh Tru Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay? pcl ----- Original Message ----- From: To: Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru. Xin cha`o ca'c ba.n, Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta. Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng? Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n. Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu. Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo. Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời. Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách cám ơn HNH. Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu? Subject: Re: Texts Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800 From: To: Ca?m o+n anh Tru. Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't. DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n va` lo`ng tho+ mo^.ng. Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i dda~ no'i ho^`i anh ghe' bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i. Tha^n a'i PTH Việt Báo Đa tạ NQT Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy, cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà! Lê Công Định commented on this.Follow
Cơ quan an ninh
bắt Blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) vào thời điểm
này là ngầm dằn mặt Công Giáo vì
Mẹ Nấm là gia đình theo Đạo. Lê
Công Định and 768 others
Note: Đúng quá. Cái cú di cư, nếu không có công giáo, thì cũng không biến thành biến động lịch sử. Chúa vô Nam, bây giờ đúng là lúc Chúa trở lại Đất Bắc. Bắc Kít rất cần 1 thứ tín ngưỡng như Thiên Chúa Giáo, thứ mà Bắc Kít thù nhất. Đây cũng là lời tiên tri mà Steiner lọc ra, khi viết về Liên Xô: Lịch sử Nga là một lịch
sử của đau khổ và nhục nhã gần như không
làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai -
quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn
hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ,
một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này
có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the
Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga
là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là
cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào
khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của
Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. http://tanvien.net/Tribute_1/30.4.14_2.html
Steiner có hai bài
viết trên tờ The New Yorker, [sau in lại trong
Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một,
“De Profundis”, về Gulag, và một về Solz
và những nhà văn Nga khác: Dưới
cái nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết, những đòi hỏi
của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông
[bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây
Phương, thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông
biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người
đọc Tây Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về
sự khổ đau ở xa, distant suffering, của họ. Ông rành chúng
ta, hơn là chúng ta rành ông. Và
như thế, ông là một tác giả hướng ngoại, a searcher-out,
một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể xác của
con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác
giả gây bực. Every time a human being is
flogged, starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in
the fabric of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness,
to blanket the irreparable fact of individual agony with anonymous categories
of statistical analysis, historical theory, or sociological model-building.
Consciously or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious,
or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable
concreteness of the death by torture of this man or that woman, of the death
by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the
minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade
from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we
must commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant
requiem of nomination. Dưới con mắt Đông phương Có một nghịch lý
về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak,
những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế
giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què
quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và
những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không
có chúng là không xong. Chúng ta
không thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những
cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói
chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn
gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn
học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn
học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên,
với một độc giả không phải là người Nga, khi đọc Pushkin,
Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là
một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác
mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói
chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao,
sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê
bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất,
vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái
gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga
ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi.
Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn
ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái,
hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của giới quê
mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và
Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những
trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra,
nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con nhím
xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có
thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn
ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó,
những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng
"quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha
và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình,
hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị
em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng
như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào
một bản văn thì đã làm méo mó,
sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói,
thì không thể chỉ là do khoảng cách về
ngôn ngữ. Ngồi ăn sáng mà
Lenin buỗn nẫu ruột. Người quậy tứ lung tung cố moi ra tiền
vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người nhức
đầu vì một người đàn bà khác trong cuộc
đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm
rùng mình, và chấp nhận “lệch pha ý
hệ” ra khỏi nàng, và điều này có
nghĩa là một đệ tử của Thầy bị ăn đòn! Ngoại trừ điều
này: Người đếch có
tí quyền lực cần thiết. Người có thể đứng trên
đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi Zurich.
Người đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố
gắng của Người đều vô ích, chẳng có gì
thay đổi. Và, kìa,
chúng lại sắp hội hè nữa kìa! * Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tá Giới
thiệu Đà Lạt qua mấy trang viết.
Cách
Mạng Vô Sản của Lê NinViết về Đà Lạt mà bỏ qua không nhắc tới MCNK thì nhảm quá, và đọc như thế là hư cả Đà Lạt, do thiếu cái giai thoại nền tảng của nó, Đà Lạt là nghĩa địa của voi, đây cũng là ý nghĩa tương tự như Cội Rễ Nhà Trời, Les Racines du Ciel, của Romain Gary http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/10/da-lat-et-jentends-siffler-le-train.html
Lu Tử D. Tuyệt kú nick. Đúng là chàng! Hà, hà! Đâu phải vô tư mà Lê Cự Phách biến thành Du Tử Lê. Chàng biết chàng là ai, 1 kẻ làm thịt gái. Đúng là tên tìm tên, người tìm người, trâu tìm trâu, chó chơi với chó…. Bất giác lại nhớ đến 1 tay phóng viên, hỏi Naipaul 1 câu, Người sướng quá, cám ơn lia chia: - Vào năm 1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng nói: "Tất cả những tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người: dở dang". Phải chăng, đây là định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie, tác phẩm của Naipaul]. - Vâng, đúng như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này. [Tạp Chí Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn]. Tên nhân vật, tên cuốn sách, số phận của 1 xứ sở, 1 dân tộc, là… 1. Tuyệt! Cà, Lê, Táo…. Không thể so được với DÊ! Tuyệt! Trên TV có 1 bài viết về lần chàng về gặp lũ Cớm VC, từ 1 bài ở trong nước. Mới đây coi lại bài trong nước đã bị gỡ bỏ 2515.
Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà
Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013
do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện
|