nqt
 
Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  1  2  3  4  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]


Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
Chân Dung Nga

  James Joyce: Eveline
Liu Xiaobo Elegies
Nobel văn chương 2012

Anh Môn

Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

IN MEMORIAM W. G. SEBALD
Tuyệt tác thế giới
2015 Nobel prize in literature
http://tapchivanhoc.org
SN_GCC_2017
Đảo Xa

Mùa thu ở đây
đẹp não nùng


Nghe Nói Mùa Thu
Ở Đây Đẹp Lắm

Trang
Thanh Tâm Tuyền

TƯỞNG NIỆM
Thanh Tâm Tuyền
1 2 3 4

TTT 5 năm, 2011

Giỗ đầu

Bản tin trên Việt Báo
Bản tin trên Người Việt
Bài của Trần Khải
trên Việt Báo, mục Thời Cuộc


Nguyễn Lương Vỵ:
Tôi không còn cô độc

Tạp Chí Thơ
tưởng niệm TTT


Đặng Tiến viết về sự ra đi  của
Thanh Tâm Tuyền


Prelude

Bùi Vĩnh Phúc
viết về TTT
1, 2
Thảo Trường:
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

Trang
Thanh Tâm Tuyền

Ngày Xưa Xóm Gà

Kiệt Tấn:
Tôi có còn cô độc?


Phả Khói Trắng

Đọc Bếp Lửa
Bếp Lửa trong văn chương

Tưởng nhớ TTT

Kỷ niệm với nhà thơ

TTT, bạn chung giường

La Part d'Exil

Le Huu Khoa _TTT

5 năm TTT ra đi

TTT 2011

TTT 2012

Đảo Xa

TTT trong
 Ký Ức Sơ Sài

 7 năm TTT mất

Mưa Đầu Mùa

Tác phẩm đầu tay

*

From Russia With Love

 

  TIN VĂN TRÊN ART2ALL
Ung Thư
SN/GCC [2018]




 

Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Sáng tác | Chuyện văn| Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác |
 Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường| Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi |
Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn| Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn |
Tiểu thuyết | Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết| Chân Dung | Jennifer Video
 Thơ Mỗi Ngày|Viết mỗi ngày| Sách & Báo Mới/ Lướt TV/Memo
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1
Ung Thư

Last Page  

Album

manhhai

Vietnam Photo (10)

(Original Caption) Split seconds after a U.S. Caribou transport plane had been hit by American artillery, UPI photographer Miromichi Mine recorded this remarkable picture as the plane plummeted to earth at Ha Phan, 45 miles north of Duc Pho. The three crew members were killed.

August 03, 1967

https://www.flickr.com/…/134764…/44523546032/in/photostream/

http://www.tanvien.net/tg/tg07_ten_cua_cuoc_chien.html

Làm cho UPI, dần dần trong tôi nẩy sinh một tình cảm quái gở. Mỗi lần có một phóng viên, nhiếp ảnh viên mới, là tôi tự hỏi, tay này chịu được bao lâu? Lần nhiếp ảnh viên người Nhật, tên Mine, mới tới Sài-gòn, tôi lắc đầu tự nhủ thầm, đúng là tên tiền định! Chân ướt chân ráo, anh đã được "đãi ngộ": đang ở một đồn binh Mỹ, một chiếc C.130 bay ngang, bị ngay pháo bên dưới cắt thành hai mảnh. Hai năm qua đi, hết hạn, anh trở về Tokyo. Tưởng là thoát, không ngờ anh phải qua Việt Nam, thế hai tuần, cho một đồng nghiệp đi phép. Anh bị chết cháy, trong thiết vận xa M.113, khi trúng mìn.

Note: Bữa nay,1o.9.2018  Gấu mới biết tên đầy đủ của anh!
NQT

Image may contain: mountain, sky, outdoor and nature


Thơ Mỗi Ngày


Xóa  ;  Ngọt ?  ( Đặng Lệ Khánh )

XÓA
( để trả lời một bài thơ )



Người muốn xóa nhau thật ư
Này đây: khăn, giấy, đủ chưa hở người
Xóa từ ngọn tóc buông lơi
Trên vai người rộng... biển trời rất xanh

Xóa đôi mắt ngẩng lên nhìn
Giữa đen lay láy có hình người thương
Xóa đi nước mắt rưng rưng
Môi run khe khẽ không dưng mà hồng

Xóa luôn vòm ngực cong cong
Chứa tim vẫn nhịp trong lòng nhói đau
Xóa da còn vướng hương nhau
Nhưng xin nhè nhẹ ... kiếp sau nhớ hoài

Nhớ, mà chẳng biết nhớ ai ...

  NGỌT ?

( Để trả lời một bài thơ )

 

Tình

Như ly chanh đường

Chua chua ngòn ngọt, xưa thương lạ kỳ


Tình

Rượu rót đầy ly

Cay cay mà đậm, khép mi uống mềm


Tình

Chiều xuống êm êm

Ly kem dừa lạnh bên thềm phố vui


Tình

Bánh nướng đậu bùi

Trà thơm nghe gió trăng ngoài đùa nhau


Tình

Viên kẹo nhiệm mầu

Ngậm rồi... nghe đắng lòng đau


Chẳng thà ...

 

 

Đặng Lệ Khánh




CHARLES SIMIC
(b. 1938)

Charles Simic was born in Yugoslavia, and memories of war-torn Europe haunt his imagination. He emigrated to the United States with his family in 1949, later served in the army, and graduated from New York University. Since 1947 he has taught at the University of New Hampshire and in 1990 was awarded the Pulitzer Prize. His poems seem to have emerged from the dark forest of folklore; their deceptive simplicity is the medium for Simic's unnerving attention to objects, his dream images and cognitive traps. Simic's darkly gnomic poems have made a world for themselves-a world, he says, "where magic is possible, where chance reigns, where metaphors have their supreme logic." His surrealistic technique demands that "meaning is a function of proximity. An archangel is much more interesting in the company of a pig than a saint in prayer." Angel and pig, the fabulous and the familiar-Simic's startling juxtapositions offer new definitions of reality.

Tapestry

It hangs from heaven to earth.
There are trees in it, cities, rivers,
small pigs and moons. In one corner
the snow falling over a charging cavalry,
in another women are planting rice.

You can also see:
a chicken carried off by a fox,
a naked couple on their wedding night,
a column of smoke,
an evil-eyed woman spitting into a pail of milk.

What is behind it?
-Space, plenty of empty space.
And who is talking now?
-A man asleep under his hat.
What happens when he wakes up?
-He'll go into the barbershop.
They'll shave his beard, nose, ears, and hair
To make him look like everyone else.


Charles Simic, sinh năm 1938, tại Yugolavia, Nam Tư cũ, và những kỷ niệm ấu thời về một Âu Châu rách nát vì chiến tranh ám ảnh trí tưởng tượng của ông. Ông qua Mẽo như di dân cùng gia đình, sau đó, phục vụ trong quân đội, và tốt nghiệp Đại Học NY. Từ 1947, ông dậy tại Đại Học New Hampshire và năm 1990 được trao giải Pulitzer Prize.
Thơ của ông như vọt ra từ khu rừng âm u của văn học dân gian; cái sự giản dị bề ngoài nhằm đánh lừa người đọc là cõi đồng vọng, nơi bày ra sự chú tâm chẳng chút dễ chịu, về những sự vật, những hình ảnh mơ mộng, những cạm bẫy có tính nhận thức, của tác giả. Những bài thơ châm ngôn tối tăm của tác giả làm thành 1 thế giới cho riêng chúng - một thế giới mà như ông nói – “nơi, mà sự thần kỳ khả hữu, cơ may ngự trị, và ẩn dụ có cái lô gíc tối thượng của chúng”. Cái kỹ thuật siêu thực của ông đòi hỏi, “ý nghĩa, là chức năng của gần gụi - a function of proximity- Một tổng thiên thần - an archangel - thì thú vị hơn nhiều, khi làm bạn với một con heo, thay vì một vì thánh đang cầu nguyện”  Thiên thần và con heo, cái thần kỳ siêu tuyệt và cái quen thuộc - sự đặt kề bên nhau quái đản của Simic dâng hiến, mời gọi những định nghĩa mới mẻ của thực tại


Tấm thảm

Nó treo, từ thiên đàng tới trái đất
Trong nó, có cây cối, thành phố, sông ngòi
Những con heo nhỏ, và những mặt trăng.
Ở 1 góc, tuyết rơi tơi bời xuống bầy kỵ binh đang tấn công
Ở 1 góc khác, mấy bà đang trồng lúa

Bạn cũng có thể nhìn thấy:
Một cặp trần truồng, trong lễ cưới của họ
Một cột khói
Một người đàn, mắt quỉ mị, nhổ 1 phát vào 1 xô sữa

Đằng sau nó, có chi?
-Không gian, đầy một trời rỗng tuếch
Ai đang nói vào lúc này?
-Một người đàn ông, ngủ, dưới cái nón của anh ta
Chuyện gì xẩy ra, khi anh ta thức dậy?
-Anh ta đi tới 1 tiệm hớt tóc
Và họ cạo bộ râu, cái mũi, hai cái tai, và một mớ tóc của anh ta
Để làm cho anh ta giống như mọi người/một người, nào khác.


My Shoes

Shoes, secret face of my inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.
My brother and sister who died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.
What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to corne?
I want to proclaim the religion

I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.
Ascetic and maternal, you endure:

Kin to oxen, to Saints, to condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.

Ðôi giầy của tôi

Giầy, bộ mặt bí ẩn của cuộc đời thầm kín của tôi
Hai cái miệng không có răng, cách nhau một khoảng
Hai miếng da loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột

Ông anh bà chị của tôi đã chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục sự hiện hữu ở trong mi – trong giầy
Hướng dẫn cuộc đời của tôi
Về một sự ngây thơ trong sạch không làm sao hiểu được của họ

Sách thì dùng làm gì đối với tôi?
Một khi mà, ở nơi mi, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy ra?

Tôi muốn tuyên bố một tôn giáo
Do tôi làm ra, vì sự khiêm tốn tuyệt hảo của mi,
Và một ngôi nhà thờ lạ kỳ tôi đang xây cất
Với mi, là bàn thờ

Khổ hạnh, và mẫu tử, mi cứ thế nhẫn nhục
Bà con với bò đực, với Thánh Thần, để kết án con người
Với sự kiên nhẫn câm nín của mi, tạo thành
Cái thực giống, độc nhất, với cái tôi của tôi.

The Vintage Book of Contemporary American Poets, 2003 ed

Note: Bài thơ My Shoes, trên Tin Văn đã từng post, nhưng có mấy từ dịch trật. Nay post lại, dịch lại.

http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Simic_selected_poems.html

AA Complete Poems

Image may contain: 1 person, text

Note: Bài Tựa, là của dịch giả, Judith Hemschemeyer, quá đỗi thần sầu.
Roberta Reeder, người biên tập và giới thiệu, còn là tảc giả 1 cuốn dầy cộm về AA

Image may contain: 1 person, text
Preface

1

In 1973 I read a few of Anna Akhmatova's poems in translation in the American Poetry Review and was so struck by one of them that I decided to learn Russian in order to read them all. Here is the poem, from White Flock, Akhmatova's third book:

The sky's dark blue lacquer has dimmed,
And louder the song of the ocarina.
It's only a little pipe of clay,
There's no reason for it to complain.
Who told it all my sins,
And why is it absolving me? ..
Or is this a voice repeating
Your latest poems to me?

(Zh. 119)

Three years later, when I could read the Russian and compare the existing, "selected Akhmatova" translations with the originals, I became convinced that Akhmatova's poems should be translated in their entirety, and by a woman poet, and that I was that person. Using literals provided by Ann Wilkinson for the first 300 poems and by Natasha Gurfinkel and Roberta Reeder for the rest, I translated the poems in the order established by the Formalist critic Viktor Zhirmunsky in the Biblioteka Poeta edition of Akhmatova's works, published in Leningrad in 1976.
    Zhirmunsky reproduced Akhmatova's five early, uncensored books - Evening (1912), Rosary (1914), White Flock (1917), Plantain ( 1921), and Anno Domini MCMXXI (1922) - in the order in which I hey were published. Just as important, he retained the poet's ordering or the poems within each volume; this allows us to participate in Akhmatova's life and loves as she orchestrated them.
She announces her main subject in the first poem of her first volume: it is titled "Love." The third poem, in which she (at 22!) compares her future fame to Pushkin’s, introduces an important leitmotif-her concern her place among the Russian poets. Another poem in Evening is addressed to the Muse - Akhmatova, whose poetic gift came….

Thật diệu kỳ, mỗi lần dịch thơ Akhmatova, là mỗi lần Gấu nhớ Seagull, thành ra bản tiếng Mít thể nào cũng có hình bóng của Hải Âu
Rõ ràng nhất, là mấy bài sau đây:

Image may contain: text

D.M. Thomas biên tập & dịch

https://www.goodreads.com/…/sh…/197053.You_Will_Hear_Thunder

You Will Hear Thunder

by Anna Akhmatova

You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.

That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
1961-63

Mi sẽ nghe tiếng sấm

Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng

Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.

A RIDE

My feather was brushing the top of the carriage
And I was looking in to his eyes.
There was a pining in my heart
I could not recognize.
The evening was windless, chained
Solidly under a cloud bank,
As if someone had drawn the Bois de Boulogne
In an old album in black indian ink.
A mingled smell of lilac and benzine,
A peaceful watchfulness.
His hand touched my knees
A second time almost without trembling.

ANNA AKHMATOVA

Translated by D.M Thomas
Russians Poets
Everyman’s Library

Một chuyến đi

Cái lông chim vũ của tôi thì đang quét quét
Ở trên chỏm chiếc xe ngựa
Và tôi thì đang nhìn vô mắt chàng
Có cú nhói ở tim tôi
Tôi không thể nhận ra

Buổi chiều không gió,
Bị xiềng thật chặt bên dưới một bức tường mây
Như thể 1 người nào đó đã vẽ công viên Bois de Boulogne [Paris]
Trong 1 cuốn an bum cũ, bằng mực đen Ấn Độ

Một mùi tử đinh hương lẫn mùi xăng,
Một chăm chú theo rõi bình yên
Tay chàng bèn chạm khẽ vào đầu gối tôi
Lần thứ nhì
Gần như không run run.

Ui chao, đọc thì lại nhớ lần đi với Seagull. Khi từ giã, thấy tội quá, hẳn thế, em mới đưa tay ra...

IN DREAM

Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.

1946

Trong mơ

Xa cách, đen thui và dai như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà còn vãi lệ hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta, như lần từ giã chót, trên chiếc xe mà ta mượn của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali, thăm ta.

Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.

Note: Mới kiếm thấy, nhờ FB

Bản dịch từ nguyên tác:

https://ninablog2008.wordpress.com/2013/06/26/co-ba-la-moskva-akhmatova/

Трилистник московский
Анна Ахматова

1. Почти в альбом

Услышишь гром и вспомнишь обо мне,
Подумаешь: она грозы желала…
Полоска неба будет твердо-алой,
А сердце будет как тогда – в огне.
Случится это в тот московский день,
Когда я город навсегда покину
И устремлюсь к желанному притину,
Свою меж вас еще оставив тень.

    Cỏ ba lá Moskva

Anna Akhmatova

1. Gần như đề vào album

Anh nghe sấm, và sẽ nhớ tới em
Anh sẽ nghĩ: cô ấy mong giông tố…
Trên nền trời dọc ngang vạch đỏ,
Và trái tim sẽ bốc lửa như xưa.

Điều đó sẽ xảy ra vào một ngày kia
Khi em rời Moskva này mãi mãi.
Và hướng tới trời xanh bao mong đợi,
Để lại bóng mình ở giữa các người.

Tks. NQT

No automatic alt text available.




Tribute to Naipaul

V.S. Naipaul, Poet of the Displaced
Naipaul, Thi sĩ của những kẻ bán xới

These raw nerves did not make him into an apologist for empire, let alone for the horrors inflicted by white Europeans. On the contrary, he blamed the abject state of so many former colonies on imperial conquest. In The Loss of Eldorado (1969), a short history of his native Trinidad, he describes in great detail how waves of bloody conquest wiped out entire peoples and their cultures, leaving half-baked, dispossessed, rootless societies. Such societies have lost what Naipaul calls their “wholeness” and are prone to revolutionary fantasies and religious fanaticism.
Wholeness was an important idea to Naipaul. To him, it represented cultural memory, a settled sense of place and identity. History was important to him, as well as literary achievement upon which new generations of writers could build. It irked him that there was nothing for him to build on in Trinidad, apart from some vaguely recalled Brahmin rituals and books about a faraway European country where it rained all the time, a place he could only imagine. England, to him, represented a culture that was whole. And, from the distance of his childhood, so did India. (In fact, he knew more about ancient Rome, taught by a Latin teacher in Trinidad, than he did about either country.)
When he finally managed to go to India, he was disappointed. India was a “wounded civilization,” maimed by Muslim conquests and European colonialism. He realized he didn’t belong there, any more than in Trinidad or in England. And so he sought to find his place in the world through words. Books would be his escape from feeling rootless and superfluous. His father, Seepersad Naipaul, had tried to lift himself from his surroundings by writing journalism and short stories, which he hoped, in vain, to publish in England. Writing, to father and son, was more than a profession; it was a calling that conferred a kind of nobility.

Những “sợi não thô, nguyên” này cũng không giúp Naipaul trở thành 1 người xin lỗi đế quốc - hãy gạt qua 1 bên, chưa nói vội, về cái chuyện những ghê gớm tởm lợm mà lũ Bạch Quỉ Âu Châu hành hạ lên thân xác lũ da màu tóc đen Á Châu. Ngược hẳn lại, ông còn khện thêm, và phán,  đây là cái căn phần của “lũ mọi”, chính chúng cũng không nhận ra, chúng khốn nạn đến như thế, và chỉ ngã ngửa ra, trước chiến thắng của bè lũ thực dân.

Đây đúng là điều mà Tolstaya nhận ra, về Cái Ác Á Châu: Chủ nghĩa CS đâu ở trên trời rớt xuống, mà nằm sâu trong lịch sử Nga, trong 4 ngàn năm văn hóa của lịch sử Mít.

Trong The Loss of Eldorado, 1969, một truyện ngắn về miền đất ông ra đời, Trinidad, Naipaul mô tả cực kỳ chi tiết, những trận bão máu gây ra bởi bạch quỉ, xóa sạch toàn bộ nhiều sắc dân, và văn hóa của họ, để lại những xã hội nửa sống nửa chín, bị tước đoạt sạch, ngay đến linh hồn cũng chẳng còn, mất mẹ gốc rễ. Những xã hội như thế mất trọn 1 cục, [wholeness], và trở thành mồi ngon, cho mọi thứ cách mạng nhảm nhí, và những khùng điên rồ dại tôn giáo.

Trọn 1 cục là 1 ý tưởng quan trọng đối với Naipaul. Với ông, nó bầy ra hồi ức văn hóa, một cảm quan được định vị về nơi chốn và căn cước. Lịch sử quan trọng đối với ông, cũng thế, là thành tựu văn học trên đó những thế hệ mới có thể xây dựng. Điều làm ông thực bực, là, chẳng có gì với ông, để xây dựng, ở Trinidad, ngoại trừ ba thứ nhảm nhí mơ hồ làm nhớ lại những tục lệ Brahmin, và sách vở về 1 xứ sở xa vời Âu Châu, nơi mưa dầm dề, một nơi chốn ông chỉ có thể tưởng tượng. Anh Quốc, với ông tiêu biểu 1 văn học như trọn 1 cục. Và từ khoảnh cách của ấu thời của ông, cũng thế, là Ấn Độ (sự thực ông biết nhiều về La Mã cổ, nhờ 1 ông thầy dậy tiếng La Tinh, ở Trinidad, so với nơi khác).
Khi, sau cùng ông mò tới, cho được: Ấn Độ, chứ đâu nữa – và ông thực tinh thất vọng. Ấn Độ là 1 “xứ sở bị thương”, bởi những chiến thắng của Hồi giáo và biến thành thuộc của Âu Châu. Ông nhận ra, ông không thuộc về nơi đó, cũng chẳng thuộc Trinidad hay Anh Quốc, Vì thế, ông nghĩ sách vở sẽ cho ông một nơi chốn, một thế giới qua những từ ngữ của chúng. Sách vở cũng giúp ông thoát ra khỏi căn phần bị trốc gốc, lênh bênh lang bang đếch thuộc về một xứ sở nào – vô xứ, như Thầy Đạo phán. Cha của ông chẳng đã từng nhấc ông lên, thoát ra khỏi những dây mơ rễ má bằng cái viết báo và truyeện ngắn mà ông hy vọng, 1 cách vô vọng, được xb tại Âu Châu. Viết, như thế, với cha và con thì hơn cả 1 nghề nghiệp, nó là tiếng mời gọi của 1 thứ phong nhã.

I remember being in a car with Naipaul one summer day in Wiltshire, England, near the cottage where he lived. He told me about his driver, a local man. The driver, he said, had a special bond with the rolling hills we were passing through. The man was aware of his ancestors buried under our feet. He belonged here. He felt the link with generations that had been here before him: “That is how he thinks, that is how he thinks.”
I am not convinced at all that this was the way Naipaul’s driver thought. But it was certainly the way he thought in the writer’s imagination. Naipaul was our greatest poet of the half-baked and the displaced. It was the imaginary wholeness of civilizations that sometimes led him astray. He became too sympathetic to the Hindu nationalism that is now poisoning India politics, as if a whole Hindu civilization were on the rise after centuries of alien Muslim or Western despoliations.
There is no such thing as a whole civilization. But some of Naipaul’s greatest literature came out of his yearning for it. Although he may, at times, have associated this with England or India, his imaginary civilization was not tied to any nation. It was a literary idea, secular, enlightened, passed on through writing. That is where he made his home, and that is where, in his books, he will live on.
August 13, 2018, 1:39 pm


Note: Hai bài "điếu văn", bài trên, và bài của tờ Người Kinh Tế, quá tuyệt.
Trên Tin Văn, còn bài  "Duyên nợ văn chương", cũng thật tuyệt.
Trân trọng khoe hàng!

Pankaj Mishra giới thiệu tập tiểu luận Literary Occasions [nhà xb Vintage Canada, 2003], của V.S. Naipaul.

http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/duyen_van.html
Ông nói, " Đạo đức là cấu trúc.
Quá tuyệt.
Brodsky, Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh, là cùng/cũng nghĩa như thế.
Nhưng phải Kafka, thì mới đẩy đến tận cùng của cái gọi là “kỹ thuật viết”:  Linh hồn của văn chương.

Bản thân Naipaul cũng bắt đầu bằng những cái bên ngoài của những sự vật, hy vọng từ đó tới được, qua văn chương, “một thế giới đầy đủ đợi chờ tôi ở đâu đó”. “Tôi giả dụ”, Naipaul viết, trong một tiểu luận về Conrad được xuất bản vào năm 1974, “bằng sự quái dị của mình, tôi nhìn ra, chính tôi, đến Anh Quốc, như tới một miền đất chỉ thuần có ở trong cõi văn chương, ở đó, chẳng bị trắc trở, khó khăn vì biến cố, tai nạn lịch sử  hay gốc gác, nền tảng, tôi làm ra một sự nghiệp văn chương, như là một nhà văn chính hiệu con nai vàng.” Nhưng hỡi ơi, thay vì vậy, một sự khiếp đảm chính trị [a political panic] tóm lấy ông, ngay vừa mới ló đầu ra khỏi cái thế giới tù đọng của vùng đất thuộc địa Trinidad. Dời đổi tới một thế giới lớn hơn, theo Naipaul, nghĩa là, ngộ ra rằng, có một lịch sử của đế quốc, và cái lịch sử này thì thật là độc địa, tàn nhẫn, và cùng lúc, thấm thía chỗ của mình, ở trong đó; trần truồng ra trước những xã hội nửa đời nửa đoạn, tức chỉ có một nửa, [half-made societies], tức những xã hội thuộc điạ: chúng cứ thường xuyên tự nhồi nặn lẫn nhau [“constantly made and unmade themselves”]: những phát giác đau thương như thế đó, thay vì dần dần lắng dịu đi, chúng lại càng trở nên nhức nhối hơn, khi ông dám chọn cho mình một ‘nghiệp văn”, ở Anh Quốc.
    Hầu như trơ cu lơ, đơn độc, giữa tất cả những nhà văn lớn viết bằng tiếng Anh, nhưng Conrad, chính ông ta có vẻ như đã giúp đỡ, và hiểu Naipaul và hoàn cảnh trớ trêu của ông, một tay lưu vong tới từ một vùng đất thuộc địa, và thấy mình đang loay hoay, kèn cựa, cố tìm cho bằng được cái chỗ đứng, như là một nhà văn, ở trong một đế quốc [thấy mình làm việc trong một thế giới và truyền thống văn học được nhào nặn bởi đế quốc … “who finds himself working in a world and literay tradition shaped by empire”]. Conrad là “nhà văn hiện đại đầu tiên” mà Naipaul đã được ông via của mình giới thiệu. Thoạt đầu, ông này làm Naipaul bị khớp, bởi “những câu chuyện bản thân chúng thật là giản dị, và luôn luôn, tới một giai đoạn nào đó, chúng trượt ra khỏi tôi”. Sau đó, Naipaul giản dị hoá vấn đề, bằng cách, khoán trắng cho những sự kiện. Đọc Trái Tim Của Bóng Đen, ông coi, nó là như vậy đấy: nền tảng của cuốn tiểu thuyết là Phi Châu - một vùng đất bại hoại bởi sự cướp bóc, bóc lột, và bởi sự độc ác “có môn bài” [licensed cruelty].
    Du lịch và viết, đối với Naipaul, là một cách để bầy ra sự ngây thơ chính trị này, của người thuộc địa. Theo Naipaul, giá trị của Conrad – cũng là một kẻ lạ, một kẻ ở bên ngoài nước Anh, và một nhà du lịch kinh nghiệm đầy mình, ở Á Châu và Phi Châu - nằm ở trong sự kiện là, “ngó bất cứ chỗ nào, thì ông ta cũng đã ở đó, trước tôi.”, “ông ta như đã đi guốc vào trong bụng tôi, theo nghĩa, ông là một trạm chung chuyển, “một kẻ trung gian, về thế giới của tôi”, về “những nơi chốn tối tăm, xa vời”, ở đó, những con người, “bị chối từ, vì bất cứ một lý do nào, một cái nhìn thật rõ ràng về thế giới”.
    Naipaul coi tác phẩm của Conrad, là đã “thâm nhập vào rất nhiều góc thế giới, mà ông ta thấy, đen thui ở đó.”  Naipaul coi đây là một sự kiện mà ông gọi là “một đề tài suy tư theo kiểu Conrad”; “nó nói cho chúng ta một điều”, Naipaul viết, “về thế giới mới của chúng ta”. Chưa từng có một nhà văn nào suy tư về những trò tiếu lâm, tức cười, trớ trêu này, của lịch sử, suy tư dai như đỉa đói, như là Naipaul, nhưng sự sống động ở nơi ông, có vẻ như đối nghịch với vẻ trầm tĩnh [calm] của Conrad, và cùng với vẻ trầm tĩnh của ông nhà văn Hồng Mao này, là nỗi buồn nhẹ nhàng của một kẻ tự mãn, tự lấy làm hài lòng về chính mình. Có vẻ như Naipaul cố làm sáng mãi ra, và đào sâu thêm mãi, tri thức và kinh nghiệm, hai món này, đối với Conrad, ông coi như đã hoàn tất đầy đủ, và cứng như đinh đóng cột. Bó trọn gói, những cuốn sách của Naipaul không chỉ miêu tả nhưng mà còn khuấy động, và cho thấy, bằng cách nào, khởi từ “những nơi chốn tối tăm và xa xôi” của Conrad”, ông dần dà mò về phiá, ở đó, có một cái nhìn thật là rõ ràng về thế giới [a clear vision of the world]. Chẳng có điểm nghỉ ngơi, trong chuyến đi này, mà bây giờ, cuộc đi này, tức cuời thay, có vẻ như là một hành trình lật ngược chuyến đi tới trái tim của bóng đen, của Conrad. Mỗi cuốn sách, là một bắt đầu mới, nó tháo bung những gì trước nó. Điều này giải thích bi kịch không bao giờ chấm dứt, và cứ thế lập đi lập lại mãi, của Sự Tới [arrival], nó có vẻ như là một ám ảnh khởi nghiệp văn, ở trong những tác phẩm của Naipaul.
    "Có đến một nửa những tác phẩm của một nhà văn, là chỉ để loay hoay khám phá đề tài”, Naipaul viết, trong “Lời Mở cho một Tự Thuật”. Nhưng văn nghiệp của chính ông cho thấy, một sự khám phá ra như thế có thể chiếm cứ hầu như trọn cuộc đời của một nhà văn, và cũng còn tạo nên, cùng lúc, tác phẩm của người đó - đặc biệt đối với một nhà văn theo kiểu Naipaul: một nhà văn bán xới, vừa độc nhất, vừa đa đoan rắc rối làm sao [a writer as uniquely and diversely displayed as Naipaul], một nhà văn mà, không như những nhà văn Nga xô thế kỷ 19, chẳng hề có một truyền thống văn học phát triển nào, mà cũng chẳng có một xứ sở rộng lớn đa đoan phức tạp nào, để mà “trông cậy vào đó, và đòi hỏi”.
    Để nhận ra những sắc thái gẫy vụn, rã rời của căn cước của bạn; để nhìn ra, bằng cách nào những mảnh vụn đó làm cho bạn trở thành là bạn; để hiểu rõ, điều gì cần thiết ở cái quá khứ đau đớn, và khó chịu và chấp nhận nó, như là một phần của hiện hữu của bạn - một hiện hữu như là một tiến trình không ngừng nghỉ, một tiến trình, thực sự mà nói, của hồi tưởng, của tái cấu tạo một cái tôi cá thể nằm dưới sâu trong căn nhà lịch sử của nó, đó là điều phần lớn tác phẩm của Naipaul say mê dấn mãi vào. Người kể chuyện của nhà văn Pháp Proust, ở trong Đi Tìm Một Thời Gian Đã Mất, định nghĩa, cũng một sợi dây nối kết sống động như vậy, giữa hồi nhớ, tri-thức-về-mình, và nỗ lực văn chương, khi anh ta nói, sáng tạo ra một nghệ phẩm cũng đồng nghĩa với khám phá ra cuộc đời thực của chúng ta, cái tôi thực của chúng ta, và, “chúng ta chẳng tự do một tí nào, theo nghĩa, chúng ta không chọn lựa, bằng cách nào, chúng ta sẽ làm đời mình, bởi vì nó có từ trước, và do đó, chúng ta bị bắt buộc phải làm ra đời mình. Và, đời của mình thì vừa cần thiếu, vừa trốn biệt đâu đâu,  và, nếu làm ra đời mình là luật sinh tồn của thiên nhiên, nếu như vậy, làm đời mình, có nghĩa là, khám phá ra nó.”

Note:
Cái thế giới 1 nửa, mà cái thiếu nhất của nó, là đạo hạnh, mà đạo hạnh, là cấu trúc, 1 trong cái xứ như thế, là xứ Mít,  của chúng ta, trong nó, khủng hơn hết, là cái phần Bắc Kít của nó, đúng là như thế đó. Cái gọi là 4 ngàn năm văn hiến, được gọi thẳng thừng ra ở đây, là, chưa từng biết đến thế nào là dân chủ, thế nào là quyền con người, sợ còn chẳng biết thế nào là tính người, tình người!
Đâu chỉ 1 Naipaul.
Rushdie cũng nhận ra điều này:
Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực được bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được tạo thành "có một nửa", trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát "công cộng" của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu của ông.

Vẹm đổ tội cho Tẩy dùng chính sách chi để trị, khi ban cho Miền Nam và Miền Bắc, hai chính sách nhau, 1, tự trị, 1 bảo hộ. Không phải, theo GCC. Chính là nhờ thằng Tẩy mà xứ Mít co được 1 Miền Nam khác hẳn 1 Miền Bắc. Những nhà văn mũi lõ, như Graham Greene, Maugham chưa từng viết 1 dòng trân trọng về 1 xứ Bắc Kỳ. Greene vừa biết đến Miền Nam, là mê liền, cái gì gì “bùa yêu” như ông viết trong Ways of Escape. Đọc Maugham viết về Huế mà ông mê sao. Ông viết người Pháp mang nước Pháp tới cho xứ Mít. Cái chính sách tàn nhẫn mà Bắc Kít đối xử với Miền Nam, đúng là cái chính sách mà Vẹm chửi chế độ thực dân đối với 1 thuộc địa của họ. Những nhà văn Bắc Kỳ, như Tô Hoài, đâu có viết được 1 dòng như GG, hay như Maugham về Miền Nam.
Sau ông, cũng đâu có ai? Sến ư?
Hay 1 đấng như… Nguyễn Vẹn?
Thay vì Điếm Thúi, là cả 1 lũ như ông, thì viết Đĩ Thúi. Đĩ thúi là cái gì?
Nhà thơ Đại Hàn “Tạ lỗi Trường Sơn”, nhờ nó ông là 1 tên TNXP.
Ông đã từng “tạ lỗi miền nam”?
Ung Thư
Viết mỗi ngày


Cảnh đẹp VN

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
theguardian/books
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

War_Pix
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life

Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV

Trang NQT

art2all.net

Istanbul


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Bếp Lửa trong văn chương

Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC

Mù Sương
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Nghĩ về phê bình
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta
  "Tạp Ghi" by Tuấn Anh
Chữ và Việc
TSVC
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu

Truyện ngắn Võ Phiến

Những ngày ở Sài Gòn
nhà xb Hoàng Đông Phương

Mộ Tuyết
[Hồi bắt đầu đi làm]

Happy Birthday GCC

Cali 3.08

Cali Tháng Tám 2011

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

Cali 2012 With H/A

Lolita vs BHD