Người muốn xóa nhau thật ư
Này đây: khăn, giấy, đủ chưa hở người
Xóa từ ngọn tóc buông lơi
Trên vai người rộng... biển trời rất xanh
Xóa đôi mắt ngẩng lên nhìn
Giữa đen lay láy có hình người thương
Xóa đi nước mắt rưng rưng
Môi run khe khẽ không dưng mà hồng
Xóa luôn vòm ngực cong cong
Chứa tim vẫn nhịp trong lòng nhói đau
Xóa da còn vướng hương nhau
Nhưng xin nhè nhẹ ... kiếp sau nhớ hoài
Nhớ, mà chẳng biết nhớ ai ...
NGỌT ?
( Để trả lời
một bài thơ )
Tình
Như ly
chanh đường
Chua
chua ngòn ngọt, xưa thương lạ kỳ
Tình
Rượu
rót đầy ly
Cay cay
mà đậm, khép mi uống mềm
Tình
Chiều xuống êm êm
Ly kem dừa lạnh bên thềm phố vui
Tình
Bánh nướng đậu bùi
Trà thơm nghe gió trăng ngoài đùa nhau
Tình
Viên kẹo nhiệm mầu
Ngậm rồi... nghe đắng lòng đau
Chẳng thà ...
Đặng Lệ Khánh
CHARLES SIMIC
(b. 1938)
Charles Simic was born in Yugoslavia, and memories of war-torn Europe
haunt his imagination. He emigrated to the United States with his family
in 1949, later served in the army, and graduated from New York University.
Since 1947 he has taught at the University of New Hampshire and in 1990
was awarded the Pulitzer Prize. His poems seem to have emerged from the dark
forest of folklore; their deceptive simplicity is the medium for Simic's unnerving
attention to objects, his dream images and cognitive traps. Simic's darkly
gnomic poems have made a world for themselves-a world, he says, "where magic
is possible, where chance reigns, where metaphors have their supreme logic."
His surrealistic technique demands that "meaning is a function of proximity.
An archangel is much more interesting in the company of a pig than a saint
in prayer." Angel and pig, the fabulous and the familiar-Simic's startling
juxtapositions offer new definitions of reality.
Tapestry
It hangs from heaven to earth.
There are trees in it, cities, rivers,
small pigs and moons. In one corner
the snow falling over a charging cavalry,
in another women are planting rice.
You can also see:
a chicken carried off by a fox,
a naked couple on their wedding night,
a column of smoke,
an evil-eyed woman spitting into a pail of milk.
What is behind it?
-Space, plenty of empty space.
And who is talking now?
-A man asleep under his hat.
What happens when he wakes up?
-He'll go into the barbershop.
They'll shave his beard, nose, ears, and hair
To make him look like everyone else.
My Shoes
Shoes, secret face of my inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.
My brother and sister who died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.
What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to corne?
I want to proclaim the religion
I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.
Ascetic and maternal, you endure:
Kin to oxen, to Saints, to condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.
The Vintage Book of Contemporary American Poets, 2003 ed
Note: Bài thơ My Shoes, trên Tin Văn đã
từng post, nhưng có mấy từ dịch trật. Nay post lại, dịch lại.
The navy pilot, senator and presidential
candidate, died on August 25th, aged 81
Aug 26th 2018
Ai Điếu Mắc Ken
Cơ thể ông ta, dù 1 tí,
1 mảnh, đều sang sảng phán, tao chịu đựng.
Cái kiểu bước nhanh nhảu, hơi lắc lư, hai tay
cứng ngắc, đôi vai khít, cái cười chặt chẽ,
tất cả đều mang dấu ấn VC, Bắc Kít. Tay ngay đơ, 1 phần
còn là do cú gẫy, khi máy bay bị bắn
rớt, rồi sau đó bị VC trói, ngày lại ngày,
trong nhà tù Hoả Lò. Được thả sau 5 năm rưỡi
mà trong suốt thời gian đó, là tra tấn, và
nhốt riêng, ông không làm sao giơ cánh
tay lên cao, để chải tóc.
Tóc của ông thì cũng vậy,
nước tù đầy biến thành trắng, dù khi ông
ở quãng tuổi 30.
Hai đầu gối cũng có vấn đề. Nhưng không
vì thế mà ông không thường xuyên
đi lại giữa Grand Canyon và những ngọn đồi vùng sa
mạc vùng Arizona, mảnh đất tuyệt vời mà ông là
người đại diện tại Quốc Hội Mẽo hơn 30 năm
Xứ Bắc Kít của VC đã định nghĩa, nghiệp
của ông, nghiệp, career, ở đây còn có
nghĩa là nghiệp, theo nghĩa của chính chúng,
tức là 1 cái gì không thể tránh
được: Việt Nam mang đến cho ông khoảng đời đẹp nhất, khi
ông từ chối được thả sớm, và tuyệt vời thay, nhờ thế,
ông có được cái cảm quan nghiêm trọng về
1 trách nhiệm, một mục đích, được chia sẻ - được làm
người, thì cứ gọi đại như thế - lớn hơn cả chính ông.
John McCain and the Lost Art of Decency
John McCain và Nghệ Thuật Đã
Mất của Đạo Hạnh & Tao Nhã & Tương Kính...
In decades of covering politics, I’ve encountered no
one else with McCain’s unflinching combination of bracing candor,
impossibly high standards, and rueful self-recrimination.
[Tạm dịch: Trong những thập niên theo dõi,
báo cáo chính trường, tôi chưa từng gặp
1 người nào như McCain; với ông, là 1 sự kết
hợp cứng cỏi, của một tấm lòng bộc trực, những chuẩn mực bực
cao bất khả, và 1 sự nhún mình trong khi cần chống
trả]
When his North Vietnamese captors demanded the names
of his flight squadron, McCain recited the names of the Green Bay
Packers offensive line, knowing that the false information would
suffice (for the moment) to end their abuse. “There’s no bar fight
he will walk away from,” his onetime political strategist John Weaver
once told me.
To the last, it’s that fighting spirit
that defines McCain. Nearly alone among his Republican Senate colleagues,
he stood up to Donald Trump, depriving the president of a deciding
vote on the repeal of Obamacare, and repeatedly rebuking him in
no uncertain terms when he felt like it, memorably declaring that
the president had “abased himself” in front of Vladimir Putin, a “tyrant.”
Khi Thượng Nghị sĩ John McCain qua đời, có
hai văn bản được những người Việt quan tâm đem ra đọc lại. Một,
tùy bút “Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng
hơn bất cứ lúc nào” của Nguyễn Tuân; và hai,
hồi ký của John McCain về năm năm rưỡi là tù binh
chiến tranh tại Hỏa Lò, Hà Nội. Tùy bút của Nguyễn
Tuân viết cuối năm 1967, đăng lần đầu trong tuần báo Văn nghệ
số 250 ra ngày 25/2/1968, sau đó in trong tập tùy
bút Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, do Hội Nhà văn Hà
Nội xuất bản cuối năm 1972, một số trích đoạn gần đây được
đăng lại trên báo chí trong nước. Hồi ký của
John McCain đăng trên tuần tin US News & World Report ngày
14/5/1973, bản dịch tiếng Việt được phổ biến trên báo chí
hải ngoại.
Tùy bút của Nguyễn Tuân
Tác phẩm này nằm trong loạt ký sự gồm những
bài tương tự về thành tích bắn rơi máy
bay Mỹ của Hà Nội trong chiến tranh không quân ở
miền Bắc Việt Nam. Nếu không phải là McCain – tức “thằng
quan tư Mích Kên” theo cách gọi của Nguyễn Tuân
–, người sau này thành một chính khách Hoa
Kỳ có ảnh hưởng lớn và từ vị trí đó tác
động nhiều mặt đến quan hệ Việt-Mỹ, mà là “thằng quan ba
Nin Giôn tội phạm”, “thằng tù quan hai Cờ Lác” hay
những thằng “giặc bay”, “giặc lái” khác mà nhà
văn danh tiếng đều phỏng vấn, thì tùy bút “Đèn
điện” chắc chắn không được đặc biệt chú ý. Nó
không phải là một ngoại lệ, càng không phải một
bài viết bất đắc dĩ, viết theo lệnh tuyên huấn, khom lưng
luồn háng vì hèn vì sợ hay vì miếng
cơm manh áo gì đó, như người đời sau sẵn lòng
phỏng đoán để thông cảm hay chê bai tùy góc
nhìn. Ở tất cả các bài khác và không
chỉ trong loạt ký sự này, tác giả của Chùa Đàn
huyền thoại đều hăng say chống Mỹ, đều bừng bừng khí thế nhằm thẳng
đầu thù mà bắn, đều dạt dào tin tưởng vào
sức mạnh tất thắng của cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc
và bảo vệ hòa bình thế giới”. Trong giàn
anh hùng ca chống Mỹ của “toàn dân tộc” – trừ những
người bị cách ly khỏi cũng dân tộc ấy – Nguyễn Tuân
không xung phong lĩnh xướng, nhưng cống hiến một giọng rất riêng:
giọng cụ Nguyễn.
Bây giờ, khi loạt tác phẩm này của cụ rõ
ràng đã hết hạn sử dụng, mùi đặc trưng của giọng
văn ấy vẫn còn đó, giọng văn từng khiến nhiều thế hệ độc
giả và đồng nghiệp mê mệt hay thậm chí khiếp phục.
Chỉ khác với trước 1945: thay vì tung hoành trong một
chủ nghĩa duy mỹ cá nhân khinh bạc đậm màu hoài
cổ, Nguyễn Tuân từ thuở “lột xác”, đi tìm “những định
thức để rung động cho đúng nhịp với đời sống cao rộng” đã
sốt sắng trút tất cả tài hoa ở độ chín muồi của mình
vào một mỹ học của “xây đập, mở đường xã hội chủ nghĩa”
và của “hoa nở trên đầu súng, nhạc reo trong lửa đốt
đồn” hướng về tương lai. Ông cũng bàn giao tất cả các
ngón sở trường của một lãng tử phiêu du văn hóa
bằng tiền túi tự xưng Nguyễn thuở trước cho một văn công miệt
mài đi thực tế bằng ngân sách nhà nước tự xưng
“đồng chí Tuân” sau này. Như chàng Nguyễn trong
cảm hứng trữ tình của một cái Tôi tinh hoa sang chảnh,
đồng chí Tuân cũng lên đồng, cũng đê mê,
phởn chí, đầy ngông nghênh trong cảm hứng sử thi của một
cái Ta đại chúng kiêu hãnh. Thậm chí đầy
hưởng thụ. Hưởng thụ sự hả hê khi hạ nhục một tù binh bị thương
nặng và đem “cả lò nhà mày, cả họ nhà
mày” ra rỉa rói rồi bồi thêm lời rủa tuyệt tự. Hưởng thụ
sự đắc chí khi bố thí lòng nhân đạo bằng cách
“cắm một điếu thuốc Điện Biên vào mồm thằng giặc”. Cắm thuốc,
rồi “bật diêm châm vào mặt nó”, rồi “đặt cái
gạt tàn thuốc lá lên ngực nó đầy lông rậm
dầy như cái ức một con thú dữ”. Bốn lần cắm thuốc, khi ra
về “không quên vứt lên ngực thằng giặc bay Kên cả
chỗ thuốc lá còn lại”. Hưởng thụ cả cái sáng
kiến bất ngờ khi kết thúc bài viết bằng ẩn dụ Sở thú:
“Qua một buổi mơ chưa cất cơn trước Sở thú Hà Nội, tôi
như thấy hầu hết phi công Hoa Kỳ đang gau gắu xì xụp ngay trong
một dãy nhà sắt mà người ta chỉ dành riêng
cho những con vật dữ nhất. Tất thảy phi công tù Hoa Kỳ, kể cả
mấy thằng đánh trộm nhà máy điện đèn ta bắt sống
trên hồ Trúc, tất cả chúng nó tôi đều muốn
cho chuyển hết vào Sở thú Hà Nội. Thằng Pi Tơ, thằng
Đơ Vít, rồi En Tơ Ni, Ri Sa, Ơ Lơ, Ê Lân, rồi Mích,
Sác, Giôn, Gim, vân vân, tất cả những con thú
ấy, nay nên đưa chúng vào cái ‘Khách sạn
Hin Tơn Bách thú’ này này.”
Nguyễn Tuân đã theo sát tinh thần của thời
đại ông tới mức không vượt lên trước một ly nào.
Bây giờ, với độ lùi hay bước tiến của 50 năm, trong một
thế giới đã hoàn toàn thay đổi, nhất là khi
“thằng Kên” thuở ấy vừa ra đi như một anh hùng, một biểu
tượng cho những giá trị tốt đẹp nhất của một nước Mỹ đang chia
rẽ sâu sắc, đồng thời như hiện thân của nỗ lực hàn
gắn quá khứ Việt-Mỹ đau thương, bài “Đèn điện” dĩ
nhiên gây sốc. Nhưng cú sốc đó là dấu
hiệu tốt, dấu hiệu của một ngôn ngữ đã tỉnh lại sau một cơn
say dài đẫm máu. Nguyễn Tuân không phải là
nhà văn đầu tiên và cuối cùng, ở phía
nào của cuộc chiến nào cũng vậy, hân hoan vung bút
cho phép tu từ khủng khiếp của chiến tranh. Những tên tuổi
lừng lẫy hơn nhiều trên văn đàn thế giới cũng từng như vậy,
tới mức Karl Kraus – nhà văn Áo, thuộc một thiểu số những
trí thức hoài nghi chiến tranh như Franz Kafka và Albert
Einstein – kinh hãi trước sự tham chiến hùng hổ trên
mặt giấy của các đồng nghiệp trong Thế chiến I, phải ước ao khi hòa
bình lập lại sẽ dồn hết đám văn sĩ say chiến đó vào
một chỗ, rồi mời thương phế binh của cuộc chiến đến nện cho một trận nhừ
tử. Song một ngôn ngữ vừa tỉnh cơn mê sảng này hoàn
toàn có thể rơi ngay vào một cơn mê sảng khác.
Tu từ chiến tranh lại chưa bao giờ thôi tiềm ẩn trong tư duy và
ngôn ngữ của người Việt, dân tộc dường như vẫn tự định vị không
phải bằng thành tựu mà bằng chiến thắng hay khát khao
chiến thắng.
Hồi ký của John McCain
Nổi tiếng là một diều hâu can đảm và nhiệt
thành phụng sự lý tưởng chống độc tài, bảo vệ
thế giới tự do, trong Chiến tranh Lạnh ông McCain là người
kiên định chống cộng. Tất nhiên ông căm thù
những giám ngục đã hành hạ ông và các
tù binh Mỹ khác ở Hỏa Lò, điều đó ông
còn nhắc lại trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000, khi
ông lại dùng từ gook – mọi vàng, chỉ người châu
Á, tương đương với nigger, mọi đen, chỉ người da đen – như trong
hồi ký Hỏa Lò. Trong văn bản này, tròn hai tháng
sau ngày được trao trả về Mỹ, không có gì đáng
ngạc nhiên là cựu tù binh McCain giữ quan điểm cứng
rắn chống Hà Nội, phê phán phong trào phản
chiến ở Mỹ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ với Tổng thống
Nixon dù ông này đang vướng vào vụ Watergate.
Đoạn hồi ức của McCain thở ra mùi máu lửa chiến trường và
mùi chiến tuyến ý thức hệ. Song dù như vậy và
bất chấp từ gook xuất hiện 12 lần, nó là một văn bản tiếng
Anh với hệ thống đại từ nhân xưng trung lập mà bản tiếng Việt
đã diễn giải bằng hệ thống đại từ nhân xưng đầy chủ quan của
mình.
Rất có thể, nếu được dùng tiếng Việt, như Nguyễn
Tuân đã dùng, viên quản giáo bị tù
binh tặng biệt hiệu Con Rệp sẽ bảo “thằng Kên” rằng, “Cha mày
là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày
đến bịnh viện”, đúng như trong bản dịch. Nhưng ông ta nói
tiếng Anh, và lời tường thuật cũng bằng tiếng Anh không có
vẻ gì là “mày-tao” của McCain như sau: “Your father
is a big admiral; now we take you to the hospital”. Rất có thể,
nếu dịch câu này thành: “Cha anh là một đô
đốc cao cấp; bây giờ chúng tôi sẽ đưa anh vào
bệnh viện”, thì chân dung Con Rệp trong tiếng Việt sẽ đổi
khác. Một kẻ hành hạ tinh thần biết nói tiếng Anh
mà thô lỗ hạ cấp, hay cũng kẻ đó mà nham hiểm
lịch thiệp thì đáng sợ hơn? Tôi không biết chân
dung nào trong tiếng Việt thì đúng với bản gốc và
đúng với sự thực hơn. Đại từ nhân xưng luôn là
một thách thức hầu như không thể vượt qua trong dịch thuật,
và phần lớn các tác phẩm dịch văn học nước ngoài
đều phải khoác một bản sắc ông-bà-anh-chị-em-chú-bác,
chàng-nàng và cả đồng chí không thể
tránh của tiếng Việt, song tôi quả thật đã khó
ở với những “mày-tao” như trên, những “hắn”, những “gã”
dịch từ he, những “chúng, bọn chúng” dịch từ they, những
“tên lính canh” dịch từ the guard, những “tay cộng sản” dịch
từ a communist… và đặc biệt, với “cán binh Bắc Việt” dịch
từ North Vietnamese.
Cả hai, “cán binh” và “Bắc Việt” đều thuộc từ vựng
của phía nam vĩ tuyến 17 trước kia và của cộng đồng người
Việt tị nạn ở hải ngoại sau này. Tuy không hàm
nghĩa mạt sát như “ngụy quân, ngụy quyền” của phía
bên kia, nhưng “cán binh” cũng vạch một chiến tuyến rõ
rệt. Như nhiều người miền Bắc khi ra sống ở nước ngoài, một thời
gian dài nếu không được thân ái tặng danh hiệu
“cộng cái”, tôi cũng bị những người Việt chống cộng cực đoan
ở hải ngoại gọi là “nữ cán binh”. Chỉ thiếu pha chiêu
hồi là tôi sẽ rơi ngon lành vào bối cảnh của
cuộc chiến hơn bốn mươi năm trước. Người trực tiếp trải qua những kinh
nghiệm ác nghiệt nhất của cuộc chiến ấy, cố Thượng Nghị sĩ John
McCain, đã làm rất nhiều để vượt qua làn ranh chiến
tuyến; trong khi chúng ta, ở cả hai phía, còn chưa
tính đến việc thu dọn những trầm tích của nó trong
ngôn ngữ. Một ngôn ngữ mà chúng ta không
thể chia cắt và canh gác giới tuyến, một ngôn ngữ
mà khả năng hàn gắn chắc chắn mạnh mẽ hơn khả năng phân
ly. Tôi mong có một bản dịch mới cho hồi ký Hỏa Lò
của McCain. Vì “thằng Kên” và “cán binh” Tuân
vĩnh viễn thuộc về quá khứ, là chuyện của chữ nghĩa một thời,
dù một thời vang bóng.
PTH – 2/9/2018
Cách đọc Nguyễn Tuân của Sến khác
Gấu, cả trước và sau "Cách Mạng"
Cái nhìn Mắc Kên, thua xa tờ Người Kinh Tế,
và vài tờ khác của tụi mũi lõ. Tờ Người
KInh Tế nhìn ra, quá cả điều Sến nhìn ra, về ông:
Người trực tiếp trải qua những kinh nghiệm ác
nghiệt nhất của cuộc chiến ấy, cố Thượng Nghị sĩ John McCain, đã
làm rất nhiều để vượt qua làn ranh chiến tuyến; trong khi
chúng ta, ở cả hai phía, còn chưa tính đến việc
thu dọn những trầm tích của nó trong ngôn ngữ. Một
ngôn ngữ mà chúng ta không thể chia cắt và
canh gác giới tuyến, một ngôn ngữ mà khả năng hàn
gắn chắc chắn mạnh mẽ hơn khả năng phân ly.
Cách phân biệt giữa Cộng và Nguỵ,
vẫn đầy hằn học, thua xa Gấu, dù thằng khốn đó phịa ra từ
Bắc Kít, tối độc, như 1 vị thân hữu FB và 1 vị hộ
pháp của trang Tin Văn nhận ra
... tôi cũng bị những người Việt chống cộng cực
đoan ở hải ngoại gọi là “nữ cán binh”.
Gọi như thế, có gì không đúng?
Cái nhìn, sự phân biệt giữa hai
miền của Sến quá hạn hẹp.
Thua xa thằng Tẩy trước đây, và mới nhất,
đây, của Trọng Lú, khi hắn và Bắc Kít không
thể không tuân lệnh Tẫu, mở cửa Đàng Ngoài rước
chúng, khi chấp nhận Đặc Khu cái con mẹ gì đó.
Hắn nói, miền Bắc gần như êm ru, trong khi miền nam
sôi sục, trước họa Tầu Cộng. Nhớ đại khái, mới thấy trên
net.
Cái cô gái ngày xưa cắm đinh
lên những tỉnh thành Miền Nam bị Cộng Quân đánh
chiếm, là tiền thân của 1 Sến cực kỳ thâm độc ngày
này, hơn cả mọi hình ảnh cán binh miền bắc.
Naipaul chửi Borges không màng đến đời này, chỉ
mân mê từ vĩnh cửu. Cách đọc của ông quá
coi thường Borges. Đâu chỉ 1 ông. Cái tay Yann Martel,
văn sĩ Canada cũng đọc Borges y chang, khi chê tập Fictions.
Borges, nhìn lại cả 1 thời kỳ Nazi, chỉ cần 1
bài viết, là đủ: Một nền giáo dục hận thù.
Cái chết của Miền Bắc, là nền giáo
dục hận thù, đã đẻ ra những nhà văn như Sến, chẳng
hạn.
Một chế độ như thế, 1 nền giáo dục như thế, đọc không
nổi 1 Nguyễn Tuân, theo Gấu. Từ từ, Gấu sẽ đưa ra những chứng cớ.
Re: Không đọc được Nguyễn Tuân.
Trong Nguyễn Tuân có 1 đức tính,
mà gần như cả 1 miền đất không có, sau khi Vẹm làm
chủ nó: lòng nhân hậu.
Gấu đã từng viết về nó, và được
“em của Gấu”, Seagull gật gù phán, được được!
Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy
bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì
chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không
thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy,
đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác,
giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết
khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều
đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân
ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân
ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng
nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này,
theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie,
vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào
ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị
văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân
thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông,
những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà
tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí,
xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa
khô mực.
Sẽ có
người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử Tù, đâu có
thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ, đọc là
mô phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như
bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất, đắc
địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay người
bên giáo?"
Ôi
chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu
lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu
ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh
chúc (8) bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình
ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình,
rồi cứng đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có
thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy: "Xuyến người bên
lương hay là bên giáo?"
"Nguyễn
Tuân hỏi tôi
:-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không
hiểu sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm chẳng thú
vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi
tưởng..."
(Cát
Bụi Chân Ai, trang 12. Tô Hoài, nhà xb Thanh
Văn, Cali, không ghi năm).
Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be?). Văn là
người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn
Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng
điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét
tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân,
nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những
câu văn nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình
lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."
Tiện
đây, tôi xin chép lại cả một đoạn phố, (cái
đầu đường đêm hôm chẳng thú vị gì), với những
người ngợm của nó: cái đống rác của cả một miền đất,
sau "Mùa Thu", một thứ Xóm Cầu Mới (9):
"Ở cái ngã
sáu đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão
cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa thùng
cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã
chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng đoán
được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và
tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão
râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người
trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là
các ông chánh, ông lý tề vừa chạy tây
càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng
trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào
thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ, có thể lại công tác
bí mật, không ác ôn như mấy lão xích
lô râu rậm kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá này
nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít
tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay
thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."
Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân
Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô
Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và
Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi tiết
chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết. Nghe nói
Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ
lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn
Tuân "không chính thức", và bằng cách
nào ông sống sót...
Re: Không đọc được Nguyễn Tuân.
Trong Nguyễn Tuân có 1 đức tính, mà gần
như cả 1 miền đất không có, sau khi Vẹm làm chủ nó:
lòng nhân hậu.
Gấu đã từng viết về nó, và được “em của Gấu”,
Seagull gật gù phán, được được!
Note: Cõi văn của Lê Minh Hà, 1 cách nào
đó, làm nhớ tới “cái gọi là” “tính nhân
hậu” của 1 miền đất, ở nơi Nguyễn Tuân, theo ý của câu,
“những vị thần cổ đại của nó, đã chết như thế đó”.
Gấu, nhân đọc Kis viết về Nabokov, mới nhận ra 1 điều rất ư
là thú vị này. Và hiểu ông anh của mình
hơn, khi ông mê nhà văn mê con nít, cha
đẻ Lolita.
Cách Kis đọc Nabokov, có gì tuơng tự cách
Gấu đọc Nguyễn Tuân, và mới đây, đọc lại LMH, khi ông
viết về "cái gọi là" nostalgia.
translated from the Serbian
by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky
and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95
(paper)
Introduction
At first glance
A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like
a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago
(as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's
Hope against Hope, and the Medvedev brothers'
various writings. The point is that the bulk of the novel has
to do with the fate of several people who perished during the
Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources
are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the
civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between,
Russia in this century has produced enough history to keep the
literati all over the world busy for several generations. The aforesaid
authors already belong to the second generation. The first was Arthur
Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance
to Darkness at Noon, although surpassing it
in both horrifying detail and narrative skill.
Thoáng nhìn, Ngôi Mộ
có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác phẩm
như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa được
xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn và
những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy
vào số phận một vài người bị tiêu trầm trong
cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên 1930.
Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu con người
chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng Bố, Nga
xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ lịch sử để
làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong vài
thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên
thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có
cái giông giống Đêm Giữa Ban
Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói về ghê
rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự.
Ui chao Joseph Brodsky, như
thế, là đã tiên tri ra được "Đêm Giữa
Ban Ngày" của nhà văn người tù lương tâm
Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!
Ấn bản mới. Mới tậu. Cuốn cũ Cô Út làm
từ thiện.
Đây là cuốn sách đầu tiên Gấu mua,
khi ra hải ngoại. Đậu cái bằng bán bảo hiểm nhân
thọ 1 phát là bèn tới văn phòng trợ cấp
xã hội, biểu cô thư ký, bỏ tên Gấu ra khỏi
danh sách. Cô ngạc nhiên quá, thật ư, nếu
thế ký vô dây!
Sau này, khi được ăn tiền trợ cấp bịnh, dễ dãi,
1 phần là nhờ thế. Vị nhân viên xét đơn biểu
Gấu, chưa có tên nào vừa mới tới xứ của tao được
“vài bữa” [xạo tổ cha!] là đã xin thôi trợ cấp
cả, hà, hà!
Mua theo lời đề xuất của Nguyễn Tiến Văn. Ông phải đọc
thằng cha này. Cả 1 thế giới, là cái thiên
đàng mà Borges nói tới, mở ra với Gấu, đúng
như trong Ngàn Lẻ 1 đêm, cái gì gì,
"Hạt Vừng, mở ra", trong Ali Ba Ba và 40 tên trộm.
Cũng dân Canada. Gấu có gần như đầy đủ sách
của Manguel. Có thể từ Manguel, Gấu mò ra Borges, Kafka.
Nhưng những tác giả vùng Đông Âu, là
từ tờ Partisan Review. Manguel có 1 thời được vinh dự là
người đọc sách cho Borges, khi ông trở nên mù.
Trong Nhật Ký Đọc, Manguel cho biết, cuốn “Đợi Tác Ta” là
1 trong những cuốn ông đọc thời mới lớn, và nhớ hoài.
Y chang Gấu. Nhưng may mắn hơn ông – có thể nói như
thế, vì cái kinh nghiệm gặp con K, của 1 nhân vật trong
1 truyện ngắn của Buzatti, Gấu đã từng trải qua.
Gấu đọc Tô Hoài
rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước
Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét,
mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là
giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng,
oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước
Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác,
do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày
mới lớn mà có đó, có “Sa mạc Tartares” của
Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading
Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông
nói là đọc nó vào thời mới lớn, cũng như
Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam
Kỳ, tại Sài Gòn, khi có BHD.
*
Gấu mua cuốn A Reading Diary
Nhật Ký Đọc, cũng lâu rồi. Quăng vào một xó,
rồi quên luôn, cho tới khi dọn nhà, nhặt nó
lên…
Buzzati notes that, from the
very beginning of his writing career, people heard Kafka's echoes
in his work. As a consequence, he said, he felt not an inferiority complex
but "an annoyance complex." And as a result, he lost any desire to read
Kafka's work
Buzzati and Kafka: Perhaps it
is not only impossible to achieve justice. Perhaps we have even made
it impossible for a just man to persevere in seeking justice.
Buzzati cho biết, vào
lúc khởi nghiệp, người ta nói, có mùi
Kafka ở trong những gì ông viết ra. Nghe vậy, ông
cảm thấy, không phải mặc cảm tự ti, mà là bực bội.
Và sau cùng, ông mất cái thú đọc Kafka!
Buzzati và Kafka:
Có lẽ không phải
chỉ là bất khả, cái chuyện đi tìm công
lý.
Nhưng bất khả còn là
vì: Chúng ta làm cho nó trở thành
bất khả, để chỉ cho có một thằng cha, cố đấm ăn sôi, cứ
đâm sầm vào cái chuyện tìm công lý!
"Không con, thì
ai bi giờ hả mẹ?"
[Gửi NTT. NQT]
NTT: Nguyễn Tiến Trung.
Alberto Manguel là cư
dân Toronto, vào thời gian Gấu được ra ngoài này.
Gấu biết đến ông, là qua NTV, khi anh giới thiệu cuốn Chuyện
Đọc, A History of Reading, của ông.
Cuốn này thật tuyệt.
Do là dân Canada,
cuốn Nhật Ký Đọc của ông, đa phần nhắc tới những địa danh
Canada. Ông đọc lại cuốn Sa mạc Tác Ta, trên chuyến
bay rời Newfoundland, và, ông viết về nó:
Giống như những nơi chốn ‘tận
cùng thế giới’ - Finisterre, Land's End, Tierra del Fuego - Newfoundland
[tên một vùng đất - một tiểu bang - của Canada] tách
biệt ra khỏi cõi thời bình thường, thường lệ. St John’s
có một điều gì đó của Đồn Xa trong cuốn tiểu thuyết
Sa mạc Tác Ta của Dino Buzzati: một nơi chốn có vẻ như
không thể nào rời bỏ, và cũng không thể tới
được, một nơi chốn đóng cứng vào thời gian chuyện thường
ngày ở huyện của riêng nó, và không có
cái gì ở bên ngoài có thể đụng vô.
Có thể vì vậy mà tôi thấy St John’s thật kỳ
kỳ...
Khi Drogo chết (như là
một anh già, với ước mơ chiến thắng Rợ Tác Ta mũi tẹt
không thoả nguyện), Buzzati có đó, để an ủi bồ tèo
của mình. Khi Don Quixote ngỏm, Cervantes ú ớ, không
biết nói câu giã từ kẻ mà mình sáng
tạo ra, bèn lắp ba lắp bắp: "Cái phần tinh anh của Ngài
[Đức Ông, Don], đã bỏ Ngài, tôi muốn nói,
Ngài ngỏm rồi". Trước cái chết của Drogo, Buzzati an ủi
kẻ mà mình tạo ra, này, vưỡn còn một trận
uýnh, bảnh lắm, rất xứng đáng với bồ tèo!
Không phải trận đánh
chống Rợ Tác Ta mũi tẹt, cũng không phải trận đánh
chống lại "những con người như bồ tèo - những con người bị tra
tấn, như bồ tèo đang bị tra trấn - bằng chờ đợi, chờ hoài
chờ huỷ một trận đánh đếch xẩy ra, bằng đau khổ, với thịt da rất
dễ bị bầm dập, với bộ mặt mà một con người có thể nhìn
vô, [và nhỏ lệ, như BHD đã từng nhỏ lệ, lần Gấu ăn
mìn VC!]” nhưng mà là một trận đánh chống
lại "một sinh vật vừa quỉ ma vừa quyền lực vô biên, vô
cùng tận" [Cái Ác Bắc Kít]. Và Buzatti
bèn nói thêm, điều này:
“Hãy can đảm, Drogo, đây
là con bài chót của bồ tèo – đi tới cái
chết, như là một người lính, và cho phép cuộc
đời lầm lẫn của bồ có được một cái tận cùng thật bảnh.
Cuối cùng, bồ đã chơi cho số mệnh một cú thật hách.
Chẳng có ai ca ngợi bạn, chẳng có ai gọi bạn là anh
hùng [Núp], hay dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, hay một cái tên
na ná như vậy, và, chính vì lý do này,
mà thật đáng công, bõ chết. Bước qua lằn ranh
mờ mờ ảo ảo bằng một bước thật vững vàng, đầu ngẩng cao như đang đi
diễn hành trước Lăng Bác, và nếu có thể, mỉm
cười. Nói cho cùng, luơng tâm của bạn sẽ không đến
nỗi quá nặng nề. Bạn sẽ không phải tự vấn, tự kiểm, tôi
là một thằng hèn, tôi đang đi tìm cái
tôi đếch có, cả đời tôi ăn bánh vẽ...Và Thượng Đế bèn
mỉm cười, trao tặng bạn gói quà, là lời tha thứ
của Người.”
Vào cái giờ
sắp đi, đó là những dòng mà Gấu mong, mình
sẽ nhớ, và lẩm bẩm mang theo cùng với Gấu!