STRAY HEN
The hounds of hell are barking again,
Better look for a tree to climb,
Befriend a rat slipping into a sewer,
The kite someone set free in the sky.
The watermelons we saw last summer
Falling out of a truck and breaking
Into bloody chunks on the highway,
May have already foretold our story.
Stray hen, is what they call our neighbor,
The one always looking lost,
Always clucking about something
And crossing herself as if she were in church.
I fear she hears those hounds barking,
And so does that man I see every night
In the picture window of his home
Sitting with a lit candle at a long table.
Charles Simic
Gà mái lạc
Chó địa ngục lại sủa
Tìm cái cây để mà trèo lên thôi
Làm bạn với con chuột lọt vô cống
Cái diều ai đó thả rông lên trời
Những trái dưa hấu chúng ta nhìn
thấy mùa hè năm rồi
Rớt ra khỏi cái xe tải
Bể ra làm đôi làm ba
Máu me tung toé trên xa lộ
Chúng, chính chúng
Có thể đã tiên tri câu chuyện xứ Mít
của chúng ta
Gà mái lạc
Đó là “mĩ từ” mà lũ đàn ông Bắc Kít
Gọi cái hĩm của xứ của chúng
Cô hàng xóm lúc nào cũng như là
thất lạc
Luôn luôn cục ta cục tác một điều gì đó
Làm dấu thánh giá
Như thể đang ở trong nhà thờ
Gấu nghi cô nghe tiếng chó địa ngục sủa
Cũng nghe, là cái gã đờn ông Gấu nhìn
thấy hàng đêm
Từ bức hình cửa sổ căn nhà của người đó
Ngồi, với cây đèn cầy thắp sáng
Nơi một cái bàn dài.
Quoc
Tru Nguyen
June 4, 2017 ·
ELEGY FOR A PARK
The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Bi Khúc Công Viên
Mê cung biến mất
Cũng biến mất, là,
Những đại lộ với những hàng me ngay ngắn
Những mái hiên buổi chiều
Và tấm gương hằng chăm chú theo dõi
Nhân lên mọi khuôn mặt mỗi người
Mọi thứ, mọi điều thoáng chốc, trôi tuột.
Đồng hồ ngừng,
Mớ kim ngân mọc lộn xộn
Công viên Chi Lăng với những hàng cây,
những pho tượng bất thường
Phiá bên kia của buổi chiều, sự rùng mình
của những chú chim
Bao lơn, tiếng lào xào lười biếng của con suối
Đều là những điều của quá khứ
Những điều của quá khứ nào?
Nếu không có bắt đầu, thì cũng chẳng hề có
tận cùng hiển nhiên sắp hiển hiện
Nếu nằm ườn trong kho, với chúng ta, là một vô
cùng tận
Của những ngày trắng xen những đêm đen
Thì
Chúng ta bây giờ đang sống cái quá
khứ chúng ta sẽ trở thành
Chúng ta là thời gian, chính nó
Là con sông không thể nào chia cắt
ra được
Chúng ta là Sài Gòn, là Carthage,
là Uxmal
Là những bức tường đã thành bụi
Của những người Sài Gòn ngày nào,
trước 1975
Là công viên Chi Lăng trước Quán Chùa
Đã biến mất
Công viên biến mất mà,
Những dòng thơ này của GCC
Đang tưởng nhớ, hoài niệm.
5 hrs ·
Note: Nhận xét như của Thầy Quốc, và rất
nhiều người, như những còm cho thấy, theo GCC, nhảm.
Cái "não trạng nội chiến" chỉ có,
sau 30 Tháng Tư 1975.
Trước đó, ngay cả khi cuộc chiến leo thang
khủng khiếp, người dân cả hai miền đều ngả về Miền Bắc, theo nghĩa
Miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến, và cả nước sẽ qui về 1 mối, theo
đúng qui trình, và dân Mít sẽ xây
cái nhà to đùng.
Chỉ 1 khi Miền Bắc lộ dã tâm ăn cướp,
thay vì giải phóng, thì mới có “não
trạng nội chiến”. Trước đó anh bộ đội Cụ Hồ, là Thiên
Sứ, Savior, sau biến thành Quỉ Đỏ.
Gọi là não trạng nội chiến cũng không đúng.
Tình trạng nước Mít đang ở mép bờ tận thế, hay nhẹ
hơn 1 tí, trở thành chư hầu của Tẫu, làm cả nước thù
Bắc Kít, vì nếu không có thằng Tẫu ở đằng sau,
thì Bắc Kít không thể nào lấy được Miền Nam.
Họ thù Bắc Kít vì gây họa, chứ không phải
não trạng nội chiến. Hơn nữa, cái chuyện chúng giết Miền
Nam, là chúng giết chính chúng, và sau
đó, cả nước Mít, thì mắc mớ gì tới não
trạng nội chiến?
Cứ giả như có cái gọi là não
trạng nội chiến, thì nó cũng không còn, vào
những ngày này, khi mà chính quyền, tức Vẹm,
trở thành kẻ thù của toàn thể dân Mít,
trong cũng như ngoài.
Chỉ có tận thế mới cứu nổi dân Mít, đúng
là như thế, theo cách mà nhà thơ Mỹ, Edward
Hirsch đọc thơ Ba Lan:
Thơ và Lịch Sử: Thơ Ba Lan sau Tận Cùng
Thế Giới
http://www.tanvien.net/New_Poems_Folder/Post-War-Polish-Poetry.html
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết định ngừng ở Warsaw
1 năm, trong chuyến đi Âu Châu. Kỷ niệm xám xịt, nhất
là khi loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn,
nhưng hình như càng làm nặng thêm sự vắng mặt
u uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu
làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi mà đã
cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng
được!
Tối hôm đó, tôi đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao,
những bài thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái nỗi thống
khổ, “sống, sau những cái đó”, cái tận cùng thế
giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng tặng cho người chết, một hình
thức cứu chuộc.
Cái bài thơ "Bay", nhân ngày
Thơ ở xứ Mít, tặng những tên Bắc Kít may mắn hạ cánh
an toàn ở xứ người, cũng được!
FLIGHT
When we were fleeing the burning city
And looked back from the first field path,
I said: "Let the grass grow over our footprints,
Let the harsh prophets fall silent in the fire,
Let the dead explain to the dead what happened.
We are fated to beget a new and violent tribe
Free from the evil and the happiness that drowsed there.
Let us go "-and the earth was opened for us by a sword of flames.
Goszyce, 1944
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành phố cháy
đỏ
Và nhìn lại từ cánh đồng lúa mì đầu
tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa vết chân
của chúng ta
Hãy để cho những tên tiên tri, thiên sứ câm
lặng trước ngọn lửa
Hãy để cho người chết giải thích cho người chết chuyện
gì xẩy ra
Số mệnh của chúng ta, là cho ra đời một giống Bắc Kít
mới, hung bạo
Thoát ra khỏi Cái Ác Bắc Kít Ngày
Xưa!
Nào đi!
Và thế là mặt đất mở ra cho chúng ta
Bằng một lưỡi gươm lửa!
NÃO TRẠNG NỘI CHIẾN
Chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam
đã chấm dứt từ năm 1975, nhưng tiếc, tâm lý nội chiến
dường như vẫn kéo dài âm ỉ trong tâm hồn của rất nhiều người, với những sự phân
biệt giữa Nam và Bắc, giữa ta và địch, giữa giải phóng
và nguỵ quyền.
Khi não trạng nội chiến ấy còn tiếp
tục, triển vọng đoàn kết để xây dựng đất nước hoặc để chống
lại ngoại xâm trở thành cực kỳ khó khăn.
Nhưng ai là kẻ có thể chủ động xoá
bỏ cái não trạng đáng tiếc ấy?
– Chính quyền.
Chỉ có chính quyền.
Đòi hỏi sự hoà giải từ các nạn
nhân là một sự lừa dối. Sự hoà giải đích thực
bao giờ cũng bắt đầu với người thắng cuộc và đang có quyền
lực. Và mọi sự hoà giải đều bắt đầu bằng một chữ: "Xin lỗi".
Chỉ có chính quyền!
NHQ
No còm!
FOG
I spend most of my time not dying.
That's what living is for.
I climb on a motorcycle.
I climb on a cloud and rain.
I climb on a woman I love.
I repeat my themes.
Here I am in Bologna again.
Here I go again.
Here I go again, getting happier and happier.
I climb on a log
Torpedoing toward the falls.
Basically, it sticks out of me.
At the factory,
The racer being made for me
Is not ready, but is getting deadly.
I am here to see it being born.
It is snowing in Milan, the TV says.
They close one airport, then both.
The Lord is my shepherd and the Director of Superbike
Racing.
He buzzes me through three layers of security
To the innermost secret sanctum of the racing department
Where I will breathe my last.
Trains are delayed.
The Florence sky is falling snow.
Tonight Bologna is fog.
This afternoon, there it was,
With all the mechanics who are making it around it.
It stood on a sort of altar.
I stood in a sort of fog,
Taking digital photographs of my death.
Sương Mù
Gấu xài hầu hết thời gian của mình vào
cái việc, đếch chết
Đời, có nghĩa là như thế!
Gấu trèo lên 1 cái xe gắn máy
Gấu trèo lên 1 đám mây, và mưa
Gấu trèo lên một em Gấu thươn!
Gấu lập lại những đề tài của Gấu
Bây giờ, ở đây, Gấu lại ở Bologna
Ở đây, Gấu lại đi, hạnh phúc, hạnh phúc hơn
Gấu trèo lên 1 khúc gỗ
Như 1 trái ngư lôi, Gấu phóng tới thác
nước
Cơ bản mà nói, nó phọt ra khỏi Gấu
Ở nhà máy
Cái xe đua được làm cho Gấu
Thì chưa sẵn sàng
Nhưng đã sẵn sàng, chết, chết người
Gấu ở đây là để đợi nó ra đời
Tuyết ở Milan, TV nói
Phi trường đóng cửa, rồi, cả hai đóng cửa.
Chúa là Người Chăn Cừu của GCC, và Giám
Đốc Cuộc Đua Siêu Xe
Ông ta đẩy Gấu qua ba cái máy dò, kiểm
tra an ninh
Tới căn phòng cực kỳ bí mật ở 1 nơi chốn tận cùng
của khu đua xe
Ở đó, Gấu sẽ thở, nhát thở cuối cùng của đời
Gấu
Xe lửa trễ
Tuyết rơi đầy trời Florence
Sương mù tối nay ở Bologna
[Mù sương, ngày xưa, ở Sài Gòn, trong
tiểu thuyết của bạn quí của Gấu là NXH]
Cũng thế, chiều nay, ở Bologna.
Với tất cả những tên thợ cơ khí loay hoay, hì
hục, với nó
Gấu ngồi ở 1 cái chỗ giống như bàn thờ
Gấu ngồi ở 1 vùng giống như là sương mù
Chơi 1 pô hình digital, cái chết của Gấu.
THE
OWL YOU HEARD
The owl you heard hooting
In the middle of the night wasn't me.
It was an owl.
Or maybe you were
So asleep you didn't even hear it.
The sprinklers on their timer, programmed to come on
At such a strangely late hour in life
For watering a garden,
Refreshed your sleep four thousand miles away by
Hissing sweetly,
Deepening the smell of green in Eden.
You heard the summer chirr of insects.
You heard a sky of stars.
You didn't know it, fast asleep at dawn in Paris.
You didn't hear a thing.
You heard me calling.
I am no longer human.
Con cú bạn nghe
Con cú mà bạn nghe nó tru
Vào lúc nửa đêm
Đếch phải Gấu
Nó là con cú
Hay là bạn quá buồn ngủ
Không nghe nó hú
Những bình tưới nước, được căn giờ
Vào cái giờ giấc trễ lạ lùng trong đời
Bèn xịt nước tưới vườn
Làm mát giấc ngủ của bạn, ở cách đó chừng
chín chục cây số,
Bằng những tiếng huýt huýt dịu dàng
Lậm sâu thêm mùi xanh xanh những mấy ngàn
dâu ở Thiên Đàng
Bạn nghe tiếng côn trùng mùa hè chát
chiếc lia chia
Bạn nghe cả 1 trời đầy sao
Bạn không biết điều đó, vì vội rớt ngay boong
vào giấc ngủ vào lúc rạng đông ở Paris
Bạn nghe Gấu réo gọi
Gấu lúc đó không còn là người.
MAN IN SLICKER
A man is talking to himself
again.
He strolls down Broadway in the rain.
He's hidden in a slicker, so he's yellow, obvious.
A rainy day on Broadway looks like Auschwitz, more or less.
He has a fancy accent so he isn't Jewish, is he?
He walks down Piccadilly, more
or less.
Not exactly talking to himself, more like quiet shouting.
He's a hotdog wearing yellow mustard spouting
A fancy accent but he isn't English.
In fact, he'd sink England in the North Atlantic with relish.
Down to Eighty-second Street
and back each day,
Ten blocks or sometimes more each way.
Like waking from a dream and you realize you're shouting.
But you're happy and you're walking.
I'm quite aware I'm making faces.
I'll look good in my black chalk-stripe
suit,
Savile Row astride a red Ducati racer
For a fashion magazine, a fancy joke
Done morbidly, my tongue sticking out like I'm dead.
What if they remove my tongue from my head?
Talking, talking, talking, at
my desk, in silence,
Putting my head in the open mouth of my MacBook Air.
Being alive is served to the keyboard raw or rare.
The poem eats anything, doesn't care.
I sing of Obama's graying second-term hair.
It's me-I'm talking to myself
again.
I'm walking down to Eighty-second Street
To Barnes & Noble to buy my own book. Blue sky. Summer day.
The Broadway center strip of bushy trees
Is a green fluorescence in the summer breeze.
Let the homeless pick through
the trash-
It's a heavenly day in heaven nonetheless!
I find filth to eat and I beg-
And pretend I'm the Shah of Iran.
Anything but I mean anything to sing you a Broadway
song!
I'm talking on my cell to Galassi
on his-
We're lepidoptera fluttering our way to a matinee at the opera.
It's a drastic new Don Giovanni.
An absolute swine gloriously sings to his harem of flowers for hours
And asks, Who has a more beautiful name than Mitzi Angel?
We dine, sipping flowers and
wine.
Winged butterflies of refinement, each on an assignment.
Galassi's is to inhale Montale and Leopardi
And cross-pollinate the language of the tribe.
Mine" harder to describe.
-Frederick Seidel
NYRB Nov 7 2013
THEY PLAYED PUSHKIN
Note: Bài thơ này, dùng
vào việc chào mừng Ngày Thơ, của Hội
Nhà Thổ Vẹm, quá đắc địa.
Nó làm nhớ, lần TTT được làm
Poster, và Sến bèn ra lệnh (?) cho tên
Trùm Cớm hải ngoại đánh cô em của Sến tơi
bời hoa lá cành.
Lũ này, Gấu đã nói
rồi, phần đạo hạnh kể như Zéro.
Nhớ, hồi Sến mới xuất hiện, cả hải ngoại
lẫn trong nước cùng mừng rỡ.
Vị nữ thủ lãnh trên lưới,Thiên
Sứ đem Tin Mừng tới cho giống Mít.
Bây giờ, kể như ô hô ai
tai, cả 1 lũ!
Sao mi ghét talawas? Sao mi thù
Bắc Kít đến như thế?
Sergey Chudakov (1937-early 1990s?)
The son of a labor-camp director, Sergey
Ivanovich Chudakov spent much of his childhood in Kolyma. Expelled
from Moscow State University, he supported himself by writing
articles under pseudonyms; he was also a pornographer, pimp
and book thief. Sometimes called 'the Russian Villon', he is thought
to have died or been murdered in the early 1990s.
Boris Dralyuk
Con một ông trùm quản giáo, tuổi
thơ trải qua hầu hết tại nhà tù nỗi tiếng Kolyma.
Bị đá đít ra khỏi trường Đại Học Moscow, ông kiếm
sống bằng cách viết lách dưới những cái nick vô
danh; còn là 1 nhiếp ảnh gia phim/hình ảnh con
heo, một tên ma cô, một tay ăn trộm sách.
Đôi khi được gọi, là 1 Villon (một nhà
thơ Pháp) của Nga, nghe nói ông bị làm
thịt vào đầu thập niên 1990,
(sinh năm 1937, là cùng năm với GCC!)
THEY PLAYED PUSHKIN
They played Pushkin on a grand piano.
They killed Pushkin in a duel one day.
He had asked them for a plate of cloud berries
and, lying near a bookshelf, passed away.
In icy water, full of frozen clods,
they buried Pushkin, hallowed be his name.
And we too tend to meet too many bullets;
we hang ourselves, and open up our veins.
All too often we are hit by cars,
get tossed down stairwells in a drunken
state.
We live - and all our petty intrigues
wound little Pushkin in some way.
Little, cast in iron, celebrated -
in a park deserted thanks to frost -
he stands (his understudy and replacement),
bitterly regretful at the loss
of youth, and of the title Kammerjunker,
of songs, of glory, of the girls in Kishinyov,
of Goncharova in her white lace petticoat,
and of death that cannot be shrugged off.
Boris Dralyuk
Chúng chơi Pushkin
Chúng chơi Pushkin trên cái dương
cầm tổ bự chảng
Chúng giết Pushkin bằng 1 cuộc đấu súng
Chàng hỏi xin chúng một dĩa trái
cây cloudberries
Và, nằm kế bên cái giá
sách, chàng bèn làm chuyến tàu
suốt
Trong nước băng, đất lạnh
Chúng chôn chàng, cầu sao cho
vĩnh hằng là tên chàng
Và chúng ta, chúng ta cũng muốn
được ăn vài trăm viên đạn
Chúng ta tự làm thịt chúng ta,
bằng cách tự treo cổ
Hay mở toang động mạch
Tất cả chúng ta, thì cũng đã
nhiều lần, được xe hơi hôn, một, hai, hay nhiều phát!
Té bổ chửng nơi cầu thang, do say mèm
Chúng ta sống – và tất cả ba cái
lẻ tẻ như thế, thì có tí mùi đau thương
- như Pushkin - một cách nào đó.
Nhỏ xíu, bị đóng cứng vào 1 miếng
sắt, thép, hay đồng, được ngợi ca, vinh danh, tưởng nhớ
Tại 1 công viên hoang tàn, đổ nát
nhờ sương giá, lạnh nhạt
Chàng đứng sững (sự đóng thế, đóng
thay chàng)
Cay đắng ân hận về sự mất mát
Của tuổi trẻ, và của cái tít
Kammerjunker,
Của những bài ca, của vinh quang, và
của những cô gái ở Kishinyov,
Và của nàng Goncharova
Trong cái áo khoác nhỏ màu
trắng viền đăng ten
Và của cái chết không làm
sao rũ bỏ cho được.
CESAR VALLEJO
I was born on
a day
that God was sick.
CESAR VALLEJO'S POEMS have an anguished
power, a rebellious lexical energy, and a wild, freewheeling
emotionalism. Sympathy for the suffering of others is a current
that runs through all of his work. At times, one feels as if
he has descended into the welter of the unconscious and returned
bearing messages from this other world. Yet his own voice comes through
as that of the most vulnerable, agonized, and compassionate of speakers-a
witness urgently testifying to the experience of human pain.
Tớ sinh ra vào một ngày,
Lão Tặc Thiên bịnh
Thơ của César Vallejo có một quyền năng
nhức nhối, u uất, thống khổ, một nhiên liệu từ vựng nổi loạn,
và một thứ vãi linh hồn - một chủ nghĩa cảm tính,
“ê mô xườn”- rất ư là thoải mái.
Nỗi “nhủ lòng trước thương đau của tha nhân” chạy dài
suốt tất cả tác phẩm của ông. Đôi lúc, nhiều
lúc, người ta có cảm tưởng như thể, ông lặn mình
trong cõi lùng bùng vô thức và ngoi
lên, ôm theo ông, những thông điệp từ thế giới
khác đó. Tuy nhiên, giọng của riêng ông
thì thấu suốt, như của 1 phát ngôn nhân dễ
tổn thương nhất, nhức nhối/hấp hối nhất và cảm thông nhất
- một chứng nhân khẩn thiết chứng nhận kinh nghiệm của con người,
về nỗi đau của nó.
Vallejo was born on March 16, 1892,
in a small Andean mining town in northern Peru. He had Indian
and Spanish blood on both sides. His poetry shows tremendous
feeling for his mother, the emotional center of his religious
childhood; for his father, a notary who wanted him to become a
priest; and for his ten older brothers and sisters. He graduated
from the University of Trujillo in 1915, with a thesis on romanticism
in Spanish poetry.
Vallejo supported himself by teaching
in primary schools. He read widely, worked furiously at his
poems, and belonged to the vanguard Colonida group. He also
suffered several traumatic love affairs, after one of which he attempted
suicide. In 1919, the year after his mother's death, he published
his first collection of poems, Los heraldos negros, which Rebecca
Seiferle has now scrupulously translated as The Black Heralds.
THE BLACK HERALDS
There are blows in life, so powerful
... I don't know!
Blows like God's hatred; as if before
them,
the undertow of
everything suffered
were to well up in the soul ... I don't know!
They're few; but they exist
... They open dark furrows
in the most ferocious face and the most powerful
loins.
Perhaps they're wooden horses of barbaric
Attilas,
or black messengers that Death sends to us.
They're profound lapses
of the soul's Christs,
of some adorable faith that Destiny blasphemes.
Those bloodthirsty blows are cracklings of
some
bread that in the oven's door burns up on
us.
And man ... Poor ... poor
man! He turns his eyes, as
when a slap on the shoulder calls us by name;
he turns his crazed eyes, and everything he's
lived
wells up, like a pool of guilt, in his gaze.
There are blows in life,
so powerful ... I don't know!
Vallejo sinh này 16 Tháng Ba 1892 tại một thành
phố mỏ nhỏ Adan ở phía Bắc Peru. Ông có máu
da đỏ và Tây Ban Nha trong người, từ cả hai phía.
Thơ của ông cho thấy tình cảm dữ dội dành cho mẹ,
cõi trung tâm cảm xúc của thời ấu thơ tôn giáo
của ông; dành cho ông bố, một chưởng khế tòa
án, người muốn ông trở thành 1 tu sĩ; và cho
10 anh chị em của ông. Tốt nghiệp Đại Học Trujillo năm 1915, với
luận án về chủ nghĩa lãng mạn trong thơ Tây Ban Nha.
Vallejo tự kiếm sống bằng nghề dậy học tại trường tiểu học.
Đọc rộng, cật lực - phải nói điên cuồng – làm
thơ và thuộc nhóm tiên phong Colonida. Ông
cũng trải qua vài cuộc tình nhức nhối, đầy thương đau,
sau 1 cuộc tình, ông tính tự làm thịt mình.
Vào năm 1919, một năm sau khi bà mẹ mất, ông cho
xb tuyển tập thơ đầu tiên, mà bây giờ, Rebecca Seiferle
cẩn trọng dịch là “The Black Heralds”, Những sứ giả đen.
THE BLACK HERALDS
NHỮNG SỨ GIẢ ĐEN
Có những cú thọi, đấm, đá, bợp… trong
đời, cực kỳ dũng mãnh, hung bạo… , tôi không biết!
Những cú như thể hận thù của Chúa; như
thể trước chúng
Sóng dội mọi thứ đau khổ
Trào dâng trong linh hồn… Tôi không
hiểu!
Chúng có một dúm, nhưng chúng
hiện hữu…
Chúng mở ra những đường rạch u tối
Trên bộ mặt hung dữ nhất và những thắt lưng dũng
mãnh nhất
Có thể chúng là những con ngựa gỗ của
Attila man rợ
Hay là những thiên sứ đen mà Thần Chết
gửi cho chúng ta
Chúng là cú vỗ sâu thẳm của những
đấng Ky Tô của linh hồn
Của niềm tin đáng mến mà Số Mệnh báng
bổ
Những cú đánh thèm máu nổ lốp
bốp trên mẩu bánh mì lò nướng phả hơi nóng
lên chúng ta
A, con người, Khốn khổ… con người khốn khổ! Hắn đảo con mắt
khi cú vả lên vai chúng ta bằng tên
Hắn đảo con mắt khùng,
và mọi điều hắn sống cạn láng đời, như cái
ao tội lỗi, trong cái nhìn của hắn
Có những đánh trong đời, thật hung hãn….
Tôi không hiểu!
[Tạm dịch]
The
black riders come with messages of destruction that leave the
speaker reeling and desolate. In these poems of alienated romanticism,
Vallejo grapples with the anachronism of his past as well as the
tragic incompatibilities of his divided heritage. Faced with these
contradictions, he speaks of his own harsh solitude and inexplicable
longings. Seiferle is wonderfully alert to the indigenous elements
in Vallejo's work, though I don't agree with her polemical assertion
that Vallejo has been "colonized" by such previous translators as James
Wright, Robert Bly, Thomas Merton, and Clayton Eshleman, who have served
the poet well. One of Vallejo's recurring subjects is the void left
in the soul when the Logos has become uncertain and Christianity has
lost its stable meaning. Suddenly bereft of a common spiritual vocabulary,
the poet seeks to create an authentic language of his own in a fallen
world.
In 1920, Vallejo returned
home for a visit and got inadvertently mixed up in a political
feud. Though innocent, he went into hiding for three months and
then was incarcerated for 105 days, one of the gravest experiences
of his life. During this period, he wrote many of the poems for his
second book, Trilce (1922), which both Seiferle
and Eshleman have translated with great daring. Its seventy-seven poems,
which bear numbers for titles, are hermetic; the syntax disregards grammatical
rules and logical narrative. Language is put under intense pressure;
surreal images float loose from their context and poetic forms are
radically broken down and reconstituted. Neologisms abound. There
is a cabalistic obsession with numbers in a world where reality is
fragmented and death omnipresent. Vallejo's dire poverty, his bitter
sense of orphan-hood ("Give way to the new odd number / potent with
orphan-hood") and brooding exile from childhood, his rage over social
inequities-all make their way into an astonishing work that fell, as
the author declared, into a total void. He published no more collections
of poetry in his lifetime.
In 1923, Vallejo left Peru
for good and settled in Paris, where he met his future wife,
Georgette Phillipart, a woman of strong socialist convictions,
and eked out the barest subsistence. Several times he nearly starved
to death. In the late 1920s, he underwent a crisis of conscience and
became consumed by the quest for a better social order. In 1931, he
published two books: Tungsten, a social realist
novel, and Russia in 1931, a travel book. His political activism
peaked with his involvement in the doomed Republican cause in the
Spanish Civil War. He wrote descriptive accounts of the conflict as
well as a play, The Tired Stone, and the fifteen
magnificent poems that became Spain, Take This Cup
from Me. One of my favorites is the poem "Masa" ("Mass"), dated November
10, 1937:
When the battle was over,
and the fighter was dead, a man came toward
him
and said to him: "Do not die; I love you so!"
But the corpse, it was sad! went on dying.
And two came near, and
told him again and again:
"Do not leave us! Courage! Return to life!"
But the corpse, it was sad! went on dying.
Twenty arrived, a hundred,
a thousand, five hundred thousand,
shouting: "So much love, and it can do nothing
against death!"
But the corpse, it was sad! went on dying.
Millions of persons stood
around him,
all speaking the same thing: "Stay here, brother!"
But the corpse, it was sad! went on dying.
Then, all the men on the
earth
stood around him; the corpse looked at them
sadly, deeply moved;
he sat up slowly,
put his arm around the first man; started
to walk ...
(TRANSLATED BY ROBERT BLY)
Vallejo died on April 15,
1938. In the last fifteen years of his life, he wrote 110 poems
that are his crowning achievement. The year after his death his
widow published Poemas humanos (Human Poems),
which brought together his undated lyric and prose poems written between
1923 and 1936, as well as dated poems from 1936 to 1938. Recent scholarship
suggests that Vallejo intended three separate collections:
Payroll of Bones, Sermon on Barbarism, and the Spanish
Civil War Verses. Human feeling is the convulsive subject of these apocalyptic
books. The poems speak to the difficulty of maintaining a human face
in an alienated industrial world where people wander among objects like
strangers and language no longer represents reality. All are shot through
with sadness as, disaffected and dislocated, Vallejo struggles to speak
as dearly as possible. The poems are haunted by premonitions of the poet's
death ("I will die in Paris, on a rainy day, I on some day I can already
remember"), by his sense of the torment of others ("I know there is someone
I looking for me day and night inside her hand, I and coming upon me,
each moment in her shoes"), by his grief over the impending fate of Spain
and the destiny of Europe. Finally, Vallejo emerges as a prophet pleading
for social justice, as a grief-stricken Whitmanian singer moving through
a brutal universe:
And don't bother telling me anything,
that a man can kill perfectly,
because a man,
sweating ink, does what he can, don't bother
telling me ...
(TRANSLATED BY ROBERT BLY)
Edward Hirsch: Poet's Choice
http://phannguyenartist.blogspot.com/2011/12/thanh-tam-tuyen.html
Những đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu lạnh
ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em
ở Sài Gòn, tuy nói với em là vẫn
làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm
mấy bài thơ thì có. Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai
bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không
có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng
thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là
có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy
nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình
ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói
bậy không. Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng
nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc
bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh
tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm như với
những người khác, hay bình thường là hai kẻ
yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em không,
bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái
mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi người
đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm
mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ
kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó
chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết
anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó
là anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên
khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
TTT
Chu Tử cũng là 1 trong những vị Thầy
dậy tiếng Pháp của Gấu, khi học trường Thành
Công. Sau ông bị Vẹm bắt, thầy Đỗ Xuất Tỵ, dậy thay.
Ông là 1 viên chức của bộ giáo dục VNCH,
rất thương Gấu, nói, mi cố học, cố có bằng, Thầy
lo cho đi du học. Khi có bằng, Gấu có nhớ đến Thầy,
nhưng không đi gặp, vì chẳng hề có ý
đi du học. Chẳng bao giờ Gấu có ý định bỏ nước ra đi
cả, tếu thế. Cuối cùng, cực chẳng đã, đành bỏ
chạy.
Mi qua trễ quá, hết Mùa Biển
Động rồi!
Khốn nạn thực. Gấu hình như có
1 tên bè bạn nào, có lần nào,
chúc Gấu may mắn cả!
Cho tới khi gặp Joseph Huỳnh Văn, cc 1972,
thời gian là tờ Tập San Văn Chương.
Chẳng thua gì ông anh!
Cháy
Thoáng một ngày mưa lạ xong
Sài gòn lại theo nhịp cũ. Nắng kinh. Nắng gợi
cho anh cái ý một truyện ngắn: tình yêu
bị nắng Sài Gòn đốt cháy tiêu. Bữa
qua cũng đã loay hoay, ngồi quán gần nhà in,
định viết cho em lá thư nữa, xong ồn quá lại đứng
lên đi tìm bạn hẹn nhậu.
.............................................................
Trong khu vườn của tòa nhà
phía trong chỗ anh làm việc em chưa vào
tới, anh đã đi dạo thẩn thơ hoài dưới bóng
cây xuyên đầy ánh trăng. Đã bảo em làm
anh thành "poet" mà. Độ này thao thức nhiều,
đầu cứ bạc mau thêm, hè em về chắc thấy anh tóc
trắng xóa chưa biết chừng.
Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans
rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a
qu'une solitude à offrir.
Trong một đêm anh đọc đoạn trên
trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép
lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara.
Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe già,
tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô
cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho
Mắt Bão. Em thích không ?
TTT
Quãng lặng
7.10.1972
Bid me not speak, bid me still
because my secret is my writ;
to show you all my heart would be my will
but fate does not permit.
In time dispels the sun's eternal course
the gloomy night, and it submits to dawn;
the rigid rock itself must burst perforce
that hidden wells break out into the thirsty
law.
In friend's embrace all agony is healed
and weary souls can be restored to hope;
alas, an oath keeps my lips ever sealed,
and but a god has power to break them open.
Goethe
Em đọc bài thơ có thấy ghê
không?
chép em đọc chơi bài nữa,
bù không có thơ của anh. Bài còn
khiếp hơn.
You whom I don't tell that I lie awake
at night and weep,
whose being, like a cradle, makes
me tired and tender;
you who don't tell me when for my sake
you cannot sleep:
what if we endure this splendor
and let it ache
without relieving?
Look, when the lovers start
confiding the thoughts of their heart,
how soon they're deceiving.
You make me alone. You only I can exchange.
And while it is you, then a noise that seems
strange,
or it is a fragrance without endeavor.
All whom I held in my arms did not remain,
but you are reborn again and again:
because I never held you, I hold you forever.
Rainer Maria Rilke
TTT
Cái tít Mắt Bão,
là của… Gấu.
Nhớ có lần ngồi Quán Chùa, khoe
với ông anh, em tính viết 1 cuốn tiểu thuyết, với cái
tít Mắt Bão, ông trầm ngâm 1 hồi, rồi
nói, nhớ đại khái, có nhiều tít sách,
từ những hiện tượng vật lý…
Và bèn nhớ ra rằng, cái tít
“thềm sương mù” của ông anh, tên 1 cuốn tiểu thuyết
bỏ dở….
Khóc đi Nguyễn
Mùa này gió biển thổi điên
lên lục địa
Những rừng gió kể chuyện biển khơi
Trời của mây và Paris….
Nhưng “mắt bão”, của Gấu, là để nhắm chính
vào Gấu, khi ngồi một mình trên đỉnh Sài
Gòn - Đài VTD thoại quốc tế, ở tầng trên cùng
của building số 5 Phan Đình Phùng, 1 bất động sản của
người Pháp, gửi vô tuyến viễn ảnh của UPI, từ bốn vùng
chiến thuật, đi khắp thế giới.
Và, “em thích không ?”, thì
Gấu thèm, muốn chôm, cho lần gặp Seagull, khi từ
giã, có lẽ nhìn bộ mặt Gấu thiểu não
quá, bèn tội nghiệp Gấu, bèn đưa bàn
tay ra, "ta cho phép mi cầm tay ta 1 phát, mi thích
không ?
Gấu như nghe em nói, vào bất cứ khi nào,
bất cứ ở đâu, khi quá nhớ…
"Mi thích không...." ?
Hàng xon: Hồi Ức Maigret
Nhân tiện, giới thiệu bài
viết về Simenon, trên 1 tạp chí văn học của vị QN
https://zzzreview.com/
https://zzzreview.com/…/simenon-ba-vo-tram-nha-nghin-cuon-…/
Note: "Roman dur", theo GCC, nên
dịch là tiểu thuyết dữ dằn, thay vì “tiểu thuyết khó”,
hard novels (1)
Chúc
Mừng
(1)
https://www.newyorker.com/…/hes-one-of-brazils-greatest-wri…
Người ngoài hành tinh, The Alienist
Giả tưởng kỳ lạ của Machado de Assis
The Colorless bureaucrat who became one of Brazil’s
greatest, strangest writers
Gã thư lại nhạt thếch trở thành 1 trong những nhà
văn Brazil lớn lao nhất, kỳ lạ nhất.
Books
July 9 & 16, 2018 Issue
He’s One of Brazil’s Greatest Writers. Why Isn’t Machado
de Assis More Widely Read?
In life, he played the role of the bland bureaucrat
but in the strange world of his fiction, everyone is slightly insane.
By Benjamin Moser
Note: Tay này, lạ lắm. Bài điểm cũng thật
tuyệt. Tin Văn sẽ có bản tiếng Mít.
Faith
Faith is in you whenever you look
At a dewdrop or a floating leaf
And know that they are because they have to be.
Even if you close your eyes and dream up things
The world will remain as it has always been
And the leaf will be carried by the waters of the river.
You have faith also when you hurt your foot
Against a sharp rock and you know
That rocks are here to hurt our feet.
See the long shadow that is cast by the tree?
We and the flowers throw shadows on the earth.
What has no shadow has no strength to live.
Niềm Tin
Niềm tin thì ở trong bạn
Bất cứ khi nào bạn nhìn một giọt sương rơi
Hay 1 chiếc lá bập bà bập bềnh
Và hiểu ra rằng thì là
Chúng là như thế, bởi là vì
chúng phải là như thế
Ngay cả khi bạn nhắm tít mắt lại và mơ đủ
thứ chuyện ở trên đời
Thế giới sẽ mãi vẫn là như thế, như nó
đã từng là như thế
Và chiếc lá sẽ trôi đi, theo dòng
nước sông.
Bạn cũng có niềm tin khi đau nhóí
phát, ở chân
Khi nó đụng phải 1 hòn đá
Và bạn ngộ ra là
Những hòn đá, có ở đó, để làm
cho bạn đau chân
Hãy nhìn cái bóng cây
dài, ném lên mặt đất?
Chúng ta và những bông hoa ném
những cái bóng lên mặt đất
Cái, đếch có bóng, là đếch
có sức mạnh
Để sống.
Hope
Hope is with you when you believe
The earth is not a dream but living flesh,
That sight, touch, and hearing do not lie,
That all things you have ever seen here
Are like a garden looked at from a gate.
You cannot enter. But you're sure it's there.
Could we but look more clearly and wisely
We might discover somewhere in the garden
A strange new flower and an unnamed star.
Some people say we should not trust our eyes,
That there is nothing, just a seeming,
These are the ones who have no hope.
They think that the moment we turn away,
The world, behind our backs, ceases to exist,
As if snatched up by the hands of thieves.
Hy Vọng
Hy vọng ở với mi, khi mi tin
Trái đất không phải mơ
Mà là thịt sống
Rằng, nhìn, sờ, và nghe không nói
dối
Rằng tất cả những cái mà mi nhìn ở đây
Thì như 1 khoảnh vườn nhìn từ cổng vườn
Mi không thể vô
Nhưng mi chắc chắn, nó có đó
Giả như mi nhìn thật kỹ, và thật khôn
Thì mi sẽ khám phá ra
Đâu đó trong vườn
Một bông hoa mới, lạ
Và một ngôi sao không có tên.
Một số người nói
Chúng ta đừng nên tin cặp mắt của chúng
ta
Chẳng có chó gì hết đâu, chỉ là
hình như, có vẻ
Những người này là những người không có
hy vọng
Họ tin rằng
Vào đúng khoảnh khắc mà chúng ta
quay lưng 1 phát
Là
Thế giới, đằng sau lưng chúng ta
Ngừng hiện hữu
Như thể 1 tên trộm nào đó
Bèn nẫng nhẹ bông hồng đen
Của tên Gấu khốn kiếp!
Hà, hà!
Đúng là THNM!
Đúng là như thế thực!
Em phán, ta thương mi vì mi muốn điều không
có thể
Je t’aime parce que tu veux l’impossible
Mi tin vào hạnh phúc còn ta tin hạnh phúc
không có.
Love
Love means to learn to look at yourself
The way one looks at distant things
For you are only one thing among many.
And whoever sees that way heals his heart,
Without knowing it, from various ills-
A bird and a tree say to him: Friend.
Then he wants to use himself and things
So that they stand in the glow of ripeness.
It doesn't matter whether he knows what he serves:
Who serves best doesn't always understand.
Yêu
Yêu nghĩa là học nhìn chính mình,
Cách một người nhìn những vật, từ xa
Bởi là vì mi chỉ là một trong rất nhiều.
Và kẻ nào nhìn cách này,
Làm lành trái tim rớm máu của hắn
ta/hay chị ả
-Mà không biết-
Từ rất nhiều thứ bịnh khác nhau
Và 1 con chim, hay một cái cây sẽ phán,
với kẻ đó:
Hi, hello, friend!
Và rồi thì, kẻ đó muốn sử dụng [phục vụ]
hắn ta và những sự vật
Và như thế, họ sẽ đứng trong hào quang rực rỡ của
cái chín muồi
Điều này chẳng mắc mớ gì đến chuyện hắn ta biết
hay là không biết, hắn “sử dụng” cái gì, điều
gì:
Kẻ phục vụ tốt nhất [là kẻ] luôn luôn không
hiểu
Czeslaw Milosz: New and Collected
Poems 1931-2001
Bài Rừng Lá Thấp mới đúng là số 1 của Trần
Thiện Thanh.
Trong 1 bài viết trên Tin Văn, Gấu coi
nó không thua gì Kinh Cầu của Anna Akhmatova, nữ thi
sĩ Nga, với những câu, những hình ảnh như, khói núi
xây thành, mắt quầng thâm mất ngủ, lá rừng
che kín đường về phồn hoa...
Hay, khủng nhất:
Sao không hát cho những người mẹ già
Sao không hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua.
Bài hát
được sáng tác như là 1 khúc Kinh Cầu, cho bạn
của TTT, 1 đại uý TQLC, hay Dù, tử trận trong cú Mậu
Thân. Ở Hàng Xanh, hình như vậy.
Việt Dũng, trong 1 DVD Asia, có nói rõ về vụ
này.
Son
Lyngoc
TRẦN THIỆN THANH
(1942-2005)
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sinh năm 1942 tại Phan Thiết.
Ông đến Sài Gòn năm 1958, sau khi thôi học thì
làm giáo viên trung học. Năm 1965 là hạ sĩ quan Cục Tâm lý
chiến Bộ Tổng tham mưu. Ông cũng làm việc tại Ðài
Phát thanh và Truyền hình Quân Ðội. Ông
còn là ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường.
Đầu thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca
Nhật Trường với Như Thủy, Vân Quỳnh và Diễm Chi. Ngoài
ra, ông còn điều hành trung tâm phát hành
nhạc và thu băng "Tiếng Hát Đôi Mươi". Trong các
phim kịch, Nhật Trường hay diễn chung với Thanh Lan. Đầu thập niên
1970, ông cùng với Thanh Lan thực hiện nhạc cảnh về Đại
úy Nguyễn Văn Đương và người vợ hậu phương Nguyễn Thị Lệ.
Nhạc cảnh này đã được chuyển thành phim với tên
Trên đỉnh mùa đông.
Năm 1993, ông di cư sang Hoa Kỳ theo diện đoàn
tụ gia đình, ODP.
Trần Thiện Thanh qua đời năm 2005 tại. Thọ 63 tuổi.
Nguyễn Ngọc Ngạn viết:
Ngày trước, chúng ta có nhạc sĩ Lê Thương
sở trường về "chuyện ca", nghĩa là dùng một bài hát
để kể một câu chuyện, chẳng hạn "Bà Tư Bán Hàng"
hoặc trường ca "Hòn Vọng Phu". Gần chúng ta hơn, Trần Thiện
Thanh cũng có biệt tài về thể loại này: dùng
một ca khúc ngắn ngủi mà kể được một câu chuyện minh
bạch, không gò bó, không gượng ép, làm
sống lại hình ảnh của những người lính trong cuộc chiến,
như “Tình Thư Của Lính”, “Người Ở Lại Charlie”, “Anh Không
Chết Đâu Anh”, “Góa Phụ Ngây Thơ”, “Chân Trời
Tím”, “Chiều Trên Phá Tam Giang”, “Lâu Đài
Tình Ái”, “Bảy Ngày Đợi Mong”, “Tình Đầu Tình
Cuối”, ...
Mãi mãi, người ta sẽ nhớ Trần Thiện Thanh
là dòng nhạc tình ghi dấu tích của một mùa
chinh chiến.
Chuyện Tình
Chỉ có truyện tình là vĩ đại thôi.
K phán.
Gấu mua cuốn Into The Looking-Glass Wood của
Alberto Manguel cũng lâu rồi, có đọc lai rai, vì
là 1 tác giả Gấu mê, ngay từ lúc vừa ra hải
ngoại, qua sự giới thiệu của Nguyễn Tiến Văn, với cuốn A History of
Reading của ông. Bữa nay lôi ra đọc, vớ đúng 1
bài thật là thần sầu “Borges in Love”.
Manguel đã từng hân hạnh là người đọc truyện
cho Borges, khi ông bị mù. Bài viết kể về cuộc tình
của Borges với Estela Canto, và Borges viết truyện The Aleph,
là để tặng vị này.
Sau đây là link bản tiếng Anh, và bản tiếng
Việt (Da Màu).
Tiép đó, Gấu bèn lai rai về truyện ngắn The
Aleph.
http://damau.org/archives/43270
http://www.phinnweb.org/links/literature/borges/aleph.html
In a 1970 commentary on the story, Borges explained,
"What eternity is to time, the Aleph is to space." As the narrator of
the story discovers, however, trying to describe such an idea in conventional
terms can prove a daunting—even impossible—task.
Trong 1 lần còm, Borges giải thích, "cái"
là "vĩnh cửu" với thời gian, thì với The Aleph, "nó"
là "không gian".
Món quà của Borges tặng em, đúng là
như thế, cái "nơi chốn của tất cả nơi chốn"
Bạn đọc Tin Văn hẳn cũng đã đọc MCNK của TTT,
trên Tin Văn, và chắc hẳn cũng khổ tâm như Duy, 1
nhân vật ở trong truyện. Duy băn khoăn, thế rồi Hiền đi đâu.
Kiệt thì giải thích với vợ là, anh đưa Hiền tới đó,
rồi lại về với em.
Chỗ đó là chỗ nào?
Có lần Gấu gọi nơi chốn đó, là
Lost Domain, muợn từ Anh Môn. Nhưng Manguel cho biết, đó
là Ithaca: The place that is all places,
tức là The Aleph.
Borges cho biết, ông cảm thấy định mệnh của ông, là,
đếch được hạnh phúc, that it was not his destiny to be happy.
Quái làm sao, Gấu cũng đã từng bị phán như
thế, qua ông bạn chưa từng được gặp là nhà văn Doãn
Dân, sĩ quan VNCH, đã tử trận. Nhớ là, Nguyễn Tân
Văn, bạn thời còn đi học của Gấu, có lần đưa cho anh đọc
cuốn “Những ngày ở Sài Gòn”, đọc xong, anh phán,
thằng cha này quá sợ hạnh phúc! (1)
Doãn Dân: Tên Trần Doãn Dân,
sinh năm 1938 tại Nam Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày
29.4.1972
Tác phẩm: Chỗ của Huệ, 1968; Tiếng gọi thầm, 1972
Võ Phiến VHTQ
(1)
Once again, Borges felt that it was not his destiny
to be happy. Literature provided consolation, but never quite enough,
since it also brought back memories of each loss or failure, as he knew
when he wrote the last lines of the first sonnet in the diptych "1964":
No one loses (you repeat in vain)
Except that which he doesn't have and never
Had, but it isn't sufficient to be brave
To learn the art of oblivion,
A symbol, a rose tears you apart
And a guitar can kill you.
Bài viết "Borgres Iêu" thật là
tuyệt vời. Từ từ tính.
Chẳng ai mất (bạn lập lại 1 cách vô
ích)
Ngoại trừ cái mà bạn chẳng có, chẳng bao giờ
có
Nhưng can đảm không thôi,
Không đủ
Để học nghệ thuật của sự lãng quên
Một biểu tượng, một bông hồng làm bạn tả tơi
Suốt 1 đời,
Suốt nhiều đời
Đời đời
Một bản nhạc sến có thể giết bạn
Gấu gặp cú này rồi. Ở Đỗ Hoà,
với bản Chuyện Tình Buồn (1)
(1)
http://www.tanvien.net/Al/Waiting_For_SN_1.html
“the wet cheeks of streets gleam”
Một, trong Top Ten “Search Keyphrases", theo server.
Tò mò, Gấu gõ đầu Bác Gúc. Ra
bài thơ, dưới đây.
Quái thật.
Những Top Ten thường gặp, thì cũng đã
quái rồi.
"Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi", thí dụ.
"Má ướt, ướt trăng phố", thần sầu, quá thần sầu!
Mà, thơ Adam Zagajewski nữa chứ!
Tks All
Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam Zagajewski
Chuyện Tình Buồn
Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái
máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo.
Cái tít “Chuyện Tình Buồn này”,
thay vì “Một chuyện về nỗi cô đơn” (nguyên tác,
của AZ), là do Gấu nhớ đến cô bạn, và những ngày
Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là
ở Ðỗ Hòa, 1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào
đó, khi là Y Tế Ðội, và khi 1 anh tù
hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái
muỗng đánh nhịp, Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò
đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài, trong
bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì
đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi thủi ra về. Trưa hôm sau, bị
tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô trường Phục Hồi Nhân
Phẩm, Bình Triệu, vừa hết cữ vã, là xin đi lao động
Ðỗ Hòa liền, hy vọng trốn Trại, kịp chuyến vượt biên đường
Kampuchia.
Bức ảnh dưới đây là dành
cho Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ, một văn hữu của Hoàng Hải Thủy,
để Mr Tin Văn nhìn lại một quyển sách của người thầy học
cũ:
Note: Roch Cường là vị thầy dậy tiếng Tây của Gấu,
khi học trường Hồng Lạc, ở đường Sương Nguyệt Anh, của thầy Đoàn
Viết Lưu, và vừa làm vừa học: Làm bồi bàn
ở tiệm chả cá Thăng Long, của bà vợ Thạch Lam. Ông
anh rể, Hiếu Chân quen biết gia đình này, vì
cùng dân VNQDD. Ông em nuôi, đồng chí
của Thạch Lam, là Cô Thần, chuyên viết Tin Miền Bắc
của tờ Tự Do.
Cuốn sách dậy tiếng Tây của Thầy Cường, là
cuốn Le Petit Chose, mà TTT có
nhắc tới, trong thư gửi “đảo xa”, “mon ile”. Hồi học Đệ Thất Chu Văn Anh,
cuốn tủ của ông thầy dậy tiếng Anh, là She Stoops To Conquer!
Kỳ cục thay là cái hồi nhớ của con người.
Những đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không
hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói
với em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì
cả. Làm mấy bài thơ thì có. Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa
cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không có
anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy
bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa
ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình
muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy không. Lúc
nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy
cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây
ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm
như với những người khác, hay bình thường là hai
kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em không,
bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc
cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ
anh có được cái mà tất cả mọi người đều có.
Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó
chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi
những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến
cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không?
Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân
vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn
lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu
người.
TTT
Chu Tử cũng là 1 trong những vị Thầy dậy tiếng Pháp
của Gấu, khi học trường Thành Công. Sau ông bị Vẹm
bắt, thầy Đỗ Xuất Tỵ, dậy thay. Ông là 1 viên chức
của bộ giáo dục VNCH, rất thương Gấu, nói, mi cố học, cố
có bằng, Thầy lo cho đi du học. Khi có bằng, Gấu có
nhớ đến Thầy, nhưng không đi gặp, vì chẳng hề có ý
đi du học. Chẳng bao giờ Gấu có ý định bỏ nước ra đi cả,
tếu thế. Cuối cùng, cực chẳng đã, đành bỏ chạy.
Mi qua trễ quá, hết Mùa Biển Động rồi!
Khốn nạn thực. Gấu hình như có 1 tên bè
bạn nào, có lần nào, chúc Gấu may mắn cả!
Cho tới khi gặp Joseph Huỳnh Văn, cc 1972, thời gian là
tờ Tập San Văn Chương.
Chẳng thua gì ông anh!
Cháy
Thoáng một ngày mưa lạ xong Sài gòn
lại theo nhịp cũ. Nắng kinh. Nắng gợi cho anh cái ý một
truyện ngắn: tình yêu bị nắng Sài Gòn đốt
cháy tiêu. Bữa qua cũng đã loay hoay, ngồi quán
gần nhà in, định viết cho em lá thư nữa, xong ồn quá
lại đứng lên đi tìm bạn hẹn nhậu.
.............................................................
Trong khu vườn của tòa nhà phía trong chỗ
anh làm việc em chưa vào tới, anh đã đi dạo thẩn
thơ hoài dưới bóng cây xuyên đầy ánh trăng.
Đã bảo em làm anh thành "poet" mà. Độ này
thao thức nhiều, đầu cứ bạc mau thêm, hè em về chắc thấy anh
tóc trắng xóa chưa biết chừng.
Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à
offrir.
Trong một đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách
mỏng của Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu
là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe
già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng
vô cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho
Mắt Bão. Em thích không ?
TTT
Quãng lặng
7.10.1972
Bid me not speak, bid me still
because my secret is my writ;
to show you all my heart would be my will
but fate does not permit.
In time dispels the sun's eternal course
the gloomy night, and it submits to dawn;
the rigid rock itself must burst perforce
that hidden wells break out into the thirsty law.
In friend's embrace all agony is healed
and weary souls can be restored to hope;
alas, an oath keeps my lips ever sealed,
and but a god has power to break them open.
Goethe
Em đọc bài thơ có thấy ghê không?
chép em đọc chơi bài nữa, bù không
có thơ của anh. Bài còn khiếp hơn.
You whom I don't tell that I lie awake
at night and weep,
whose being, like a cradle, makes
me tired and tender;
you who don't tell me when for my sake
you cannot sleep:
what if we endure this splendor
and let it ache
without relieving?
Look, when the lovers start
confiding the thoughts of their heart,
how soon they're deceiving.
You make me alone. You only I can exchange.
And while it is you, then a noise that seems strange,
or it is a fragrance without endeavor.
All whom I held in my arms did not remain,
but you are reborn again and again:
because I never held you, I hold you forever.
Rainer Maria Rilke
TTT
Gấu còn 1 vị Thầy dậy tiếng Tây, theo kiểu gián
tiếp, là bộ sách Cours Tiếng Tây, của Phạm Tất Đắc,
ông thân sinh của BHD
Ôi chao, nhớ ơi là nhớ, những lần được em cho đi
theo, đi thu tiền sách, từ những tiệm sách ở Sài
Gòn, nơi bán Cours tiếng Tây, của ông bố.
Một mình ta gọi ông ta là bố, là quá
lắm rồi.
Ta không cho phép mi gọi ông ta là bố,
dù là bố vợ.
Ôi chao, nhớ, lần Cụ Chất, bà thân
sinh của anh Tâm và của bạn Chất, phán, vừa phán
vừa lắc đầu, nhà đó không chịu nổí thằng con
rể như mi đâu!
BHD có lần “tâm sự”, em chỉ có
1 cái áo dài trắng, mặc đi học. Có lần, 1 cô
học cùng lớp, nói sau lưng, con đó làm bộ
nghèo, nhà nó giầu lắm…
Hay, nói về boyfriend, 1 anh bạn cùng học bác
sĩ, anh ấy được lắm, được lòng bố em lắm, cứ mỗi nghe Sài
Gòn rục rịch đảo chánh, là khệ nệ vác mấy
bao gạo tới nhà em rồi
Rồi, ngưng.
Rồi nói thêm, Gấu không làm được việc đó
đâu!
Ôi, sao thê lương thế!
Không lẽ có những con người, sinh ra đời, chỉ để làm
có mỗi 1 việc, lấy đời mình ra để mà hy sinh, để
trả ơn bố mẹ đã sinh mình ra đời!
Có đấy.
Bố Bắc Kít đa số là vậy
Phim mới ra lò:
Có hai phim mới ra lò, tuần này,
Rocco et ses frères, và “Người nhìn xe lửa chạy qua.”
Phim cũ, chúng làm Gấu nhớ lại quãng đời đẹp nhất
của những ngày ở Sài Gòn của Gấu, thời gian học Đệ
Nhất Chu An, quen bạn Chất, rồi được bạn đưa về nhà, gặp ông
anh, đang ngồi viết, và nhìn ra tương lai của Gấu cũng y hệt
như vậy. Rồi được bà cụ coi như con, ban cho đủ thứ Gấu đang thiếu,
và thú vui chưa từng được hưởng, được xem phim, những phim
lần đầu chiếu, khác những lần coi trước đó, phim cũ, coi
ở 1 rạp chiếu thường trực.. Những phim như “Anh hem nhà Rocco” Alain
Delon, Rio Bravo, High Noon [L’homme des vallées perdues],… và,
“Người nhìn xe lửa chạy qua”
Simenon và Mai Thảo
Mai Thảo rất mê Simenon. Gấu nhớ, có lần
ngồi Quán Chùa, ông kể một giai thoại về Simenon, ông
này nhận lời thách đố của công chúng, tự nguyện
chui vào một cái lồng bằng thuỷ tinh, và cùi
cụi viết trước bàn dân thiên hạ qua lại, và đến
ngày mở cửa chuồng, bước ra với cuốn tiểu thuyết cầm trên
tay.
Gấu nghe, cứ bị ám ảnh hoài.
Bây giờ đọc số báo Le Magazine Littéraire đặc biệt
về Le Polar, thì mới biết, chuyện có thật, nhưng chỉ có
một nửa!
Người đề nghị chuyện trên là Eugène Merle, ông
chủ của Simenon, chủ tờ Paris-Soir, sau đó, là tờ Paris-matinal.
Chính là khi làm tờ báo sau, mà ông
đề nghị Simenon, với cái giá 50 ngàn francs, chui
vô lồng kiếng, đặt tại sàn nhà hàng Moulin
Rouge, ngày đêm dưới con mắt chứng kiến của công chúng,
viết một cuốn tiểu thuyết với sự hợp tác của công chúng,
đưa ra chừng hơn chục nhân vật, để công chúng lựa lấy
ba, đề nghị cũng chừng trên chục cái tít, và
công chúng sẽ rút ra một, viết trong ba ngày
ba đêm, xong một cuốn tiểu thuyết
"Chỉ có chút phiền phiền nho nhỏ là, mọi người
không tha theo dõi tôi, dù chỉ một phút,
mà tôi, một tiểu thuyết gia, nhưng cũng còn là
một con người, nghĩa là, có những nhu cầu riêng tư.
Thế là một kiến trúc sư góp ý, cái lồng
kiếng nên đặt tại một căn nhà ở phố Paradis. Nhưng Merle phá
sản trước khi lồng kiếng hoàn tất. Vậy mà cũng không
tránh khỏi lời đồn của công chúng. Nhiều người quả quyết
đã từng nhìn thấy tôi ngồi trong đó. Có
người còn dám thề thốt."
"Tuy nhiên, chuyện này dễ ợt đối với tôi, thường
ra, tôi hoàn tất một cuốn tiểu thuyết trong hai ngày
rưỡi."
*
Niềm bí ẩn đáng sợ.
Nhà văn Pháp, André Gide, kể
lại, một lần một người thân nằm nhà thương; ông ghé
thăm, và nhận thấy, người bệnh, người thăm bệnh, kể luôn
ông, người nào cũng cầm trong tay một cuốn truyện của Georges
Simenon!
Simenon, người Bỉ, viết văn bằng tiếng Pháp, sinh tại Liège
năm 1903. Ngay từ trẻ, ông đã quyết định: sẽ viết văn. Mười
sáu tuổi, làm ký giả cho tờ La Gazette de Liège.
Thoạt đầu, lo tin vặt, sau tới chuyện trong nhà ngoài ngõ.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay, ký tên Georges Sim, ra đời năm
1921: “Trên cầu Arches, một câu chuyện nhỏ về Liège”.
Dời đi Paris vào năm 1922 cùng với bà vợ đầu là
một nữ họa sĩ, ông bắt đầu thực sự vào nghề bằng cách
viết chuyện kể (contes), tiểu thuyết đăng nhiều kỳ (romans-feuilletons),
đủ thể loại: trinh thám, huê tình (érotique),
ướt át… Từ 1923 tới 1933, ông cho ra lò gần hai trăm
tiểu thuyết, hàng ngàn chuyện kể, và rất nhiều bài
báo.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết, người “khám phá”
ra ông, là nữ văn sĩ người Pháp, Colette. Bà
khi đó làm cho một tờ báo, nơi Simenon dụt dè
thử thời vận của mình.
“Ham làm văn quá” (nhiều tham vọng văn chương, ambitions
littéraires), Colette phán. Chỉ một câu đó,
Simenon ngộ ra liền. Từ đó, ông xây dựng thế giới của
mình, bằng những nhân vật bình thường, những ngôn
từ bình thường. (1) Những câu chuyện của ông, cũng bình
thường, và có thể xẩy tới, cho bất kỳ một con người bình
thường nào trên đời.
Độc giả người Việt chúng ta có thể mượn truyện ngắn Sợi
Tóc của Thạch Lam, để làm một nhịp cầu đi vào thế giới
văn chương của Simenon. Đây là câu chuyện một anh chàng
nghèo ơi là nghèo, được bạn bè đãi một
chầu, khi ra về, vô tình mặc lộn áo khoác,
trong có bóp tiền dầy cộm. Khoảnh khắc ‘sợi tóc’ bắt
đầu: nên hay là không nên ‘cứ thế tà tà
ra về, chơi luôn cái bóp’? Những nhân vật của
Simenon đa số đều là những con người bình thường, một ngày
đẹp trời nào đó, bỗng đụng chuyện bất thường; thí dụ
như trong “Người nhìn xe lửa chạy qua” (L’homme qui regardait passer
les trains, 1938), một nhân viên suốt đời làm lụng cực
khổ, với hy vọng về hưu có tí tiền còm, đùng
một cái, tay chủ tuyên bố vỡ nợ, quơ hết tiền bạc, trốn lên
Paris với bồ. Đúng lúc trốn đi, chủ tớ đụng độ, anh đầy tớ
quá thất vọng vì giấc mộng an hưởng tuổi già tan tành,
đã quá tay đẩy ông chủ xuống sông, chỉ kịp cứu
được (chỉ kịp níu lại được) chiếc cạc táp. Trong là
tiền. Vô số là tiền. Thêm địa chỉ cô bồ.
Anh lần tới, lạc vào một thế giới khác. Thiên Thai,
hay Thiên Đàng là như thế này ư? Được cung
phụng hết mình, đêm nào cũng Nhất Dạ Đế Vương, nhưng
làm sao quên được trần gian cực khổ?
Trần gian khổ cực, có điều gì không thể quên?
Hóa ra là, anh có thói quen không thể
bỏ: cứ 5 giờ sáng thức giấc, mò ra đầu ngõ, nhìn
đoàn xe lửa phóng qua.
Câu chuyện chấm dứt khi cảnh sát mò tới, anh nhân
viên bỏ Thiên Đường/Địa Ngục, cứ hướng Địa Ngục/Thiên
Đường mà chạy. Cảnh sát chỉ kịp chứng kiến cảnh tượng anh
gối đầu lên đường ray, trong khi chuyến xe tốc hành buổi sáng
đang lao tới…
George Steiner, trong một bài phỏng vấn trên tờ Điểm sách
Paris, đã coi Simenon là tiểu thuyết gia dị thường nhất
của thời đại chúng ta. Ông phân biệt: “Có những
cuốn tiểu thuyết mà người ta gọi là lớn, chúng sống
do nội dung mang tính ý thức hệ, mang tính trí
thức. Khá nhiều tiểu thuyết của Thomas Mann là theo kiểu
này. Cuốn Người Không Phẩm Chất (Man Without Qualities), của
Musil, được hằng hà những triết gia cũng như là những nhà
phê bình văn học bàn về nó. Nhưng cái
này hiếm. Đừng đòi một chuyện như thế, ở nhà tạo giả
tưởng dị thường nhất của thời đại chúng ta - đừng cười tôi
chứ, bạn! - người đó là Georges Simenon. Tôi có
thể lấy trên giá sách của tôi, chừng 10 hay 12
cuốn về Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của Balzac, hay
20 trang của Dickens (ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac
cũng vậy): Simenon chỉ cần hai hoặc ba đoạn. Có một cuốn Maigret
mở ra với một tiếng ồn lớn. Ba giờ sáng tại khu Pigalle, khu phố
cổ đèn đỏ Paris, tay chủ quán rượu kéo tấm sắt đóng
cửa tiệm. Rầm một tiếng. Dội ra từ đó, là tiếng xe giao sữa,
tiếng chân kẻ ăn sương trở về nhà kiếm giấc ngủ, tiếng người
đi vô Khu Cầu Muối (Les Halles) kiếm đồ ăn sẵn, cho một ngày
đang ló dạng. Simenon không chỉ đem đến cho bạn một thành
phố, không chỉ một điều không một sử gia nào có
thể vượt được, về nước Pháp, nhưng còn điều này: rằng
hai hoặc ba con người liên quan tới câu chuyện, đã sẵn
sàng trước mắt bạn. Bằng một cách nào đó, Simenon
cho bạn nhận ra rằng những bước chân của người đàn ông
vừa đóng sập tấm cửa, rồi những tiếng chân rời xa quán,
cách chúng lết đi gợi sự tò mò. Và thế
là bạn nhập vô mấu chốt quan trọng thứ nhất của câu chuyện.
Đó là cái gọi là mysterium tremendum (điều rất
thiêng), về sáng tạo ra một nhân vật tự chủ.”
Mysterium tremendum, Jacques Derrida trong bài viết về Kierkegaard,
đã dịch là: bí ẩn đáng sợ, bí mật làm
bạn run rẩy (a frightful mystery, a secret to make you tremble). Cũng
trong bài viết, ông giải thích thêm: (God is
the cause of) Thượng Đế là nguyên nhân của “the mysterium
tremendum”.
Theo nghĩa đó, nhà văn là kẻ muốn ngang hàng
với ông Trời.
Nhân vật “thần kỳ” Maigret, viên thanh tra cảnh sát
với chiếc ống vố, được “người viết giả tưởng dị thường nhất của thế kỷ”
sáng tạo ra vào năm 1929, trong cuốn “Pietr le Letton”. Được
nhà xuất bản Fayard tung ra vào năm 1931, ông cò
Maigret lập tức trở thành nổi tiếng, và càng nổi tiếng
hơn nữa, khi được đưa lên màn ảnh qua tài tử Jean Gabin.
Như trên đã nói, Simenon sử dụng một thứ tiếng
Pháp phổ thông, không dùng những chữ cầu kỳ,
không “cố tình viết văn”, (1) nhờ vậy mà mà Jennifer
tôi được hân hạnh làm quen với ông rất sớm, từ
những ngày mới chập chững đọc văn ngoại: như một cách học
tiếng Tây!
Mai Thảo cũng là một người rất mê Simenon. Một lần ngồi
quán Cái Chùa, La Pagode, tại đường Tự Do, Sài
Gòn (trước 1975), ông kể một giai thoại về Simenon, theo đó,
tác giả đã từng tự giam mình vào trong một
nhà kiếng, chung quanh thiên hạ qua lại, nhòm ngó,
và cứ thế tỉnh bơ ngồi viết. Khi ra khỏi “chuồng giam”, là
đã có, không phải một, mà hai cuốn tiểu thuyết!
Theo Mai Thảo, đây là do ông nhận lời thách đố
của một tờ báo.
Cuốn Maigret sau cùng, Maigret et Monsieur Charles, xuất hiện
năm 1972, sau đó Simenon nghỉ viết. Với chiếc máy ghi âm,
ông đọc hai chục bài “Dictées”, và sau khi
cô con gái Mari-Jo tự tử, ông ghi lại mớ hồi ký
khổng lồ về đời mình, Mémoires intimes (1981).
Simenon mất tại Lausanne vào năm 1989. Cả đời, ông cố
gắng hiểu, thông cảm nỗi đau của nhân sinh, của cõi
người, và cố gắng làm cho nó đỡ đau. Nhưng ông
không làm sao hiểu nổi nỗi đau của cô con gái:
cô đã lầm tình yêu của người cha, với tình
yêu của một người bạn trai.
Niềm bí ẩn đáng sợ!
(1) Trên tờ Le Magazine Littéraire số
đã dẫn, ông phán: Mỗi chữ ngân nga mỗi cách
đối với tai mỗi độc giả. Càng kiệm lời chừng nào tốt chừng
đó. Càng tránh từ trừu tượng chừng nào, hay
chừng đó. ( “Les résonances de chaque mot sont différent...
Thằng ngu thiên tài
(1)
"IT STRUCK
ME THAT WE OUGHT TO BE LEAVING, THAT IT WAS NO LONGER A MATTER OF HOURS
BUT OF MINUTES ... "
Restored to print for the first
time in more than forty years, this masterpiece of psychological suspense
tells the tale of Marcel Féron-a poor man who, against all odds,
has made a "normal" life in a bucolic French village in the Ardennes. But
one spring day in 1940, the German army invades France, and he must abandon
his home and confront the fate that he has secretly awaited.
Separated from his pregnant wife and young daughter
in the chaos of flight, he joins a freight car of refugees hurtling southward
ahead of the pursuing Nazis. There, he meets Anna, a sad-looking, dark-haired
girl, whose accent is "neither Belgian nor German;' and who "seemed foreign
to everything around her."
As the mystery of Anna's identity is gradually revealed,
Marcel leaps from the heights of an exhilarating freedom to the depths of
a terrifying responsibility – one that will lead him to a blood chilling
choice.
When it first appeared in English
in 1964, British novelists and critic Brigid Brophy declared The Train to be “the novel his admirers
had been expecting all along from Simenon.” Until The Train, she wrote. The dazzlingly prolific
novelist had been “a master without a
masterpiece”.
PRAISE FOR THE TRAIN
"There is no false note, not
one word or sigh or smile which strikes me as anything but unavoidable.
This is not a writer's romancing story of a little man caught in the war;
it is the unknown history of many little men in that vast war:' - NEW YORK
TIMES BOOK REVIEW
"One of the most poignant love affairs in twentieth century literature:'
-THE NEW STATESMAN
"Despite the fame and the high-class
praise, Simenon's reputation has never been quite established enough, and
I think it's because, up till now, no one book has ever clicked quite satisfactorily
home. He has been a master-an acknowledged master-without a masterpiece.
The Train is probably the book everyone has been expecting from Simenon.
If we aren't satisfied now, we are ingrates:'
-BRIGID BROPHY
PRAISE FOR GEORGES SIMENON
"I love to read Simenon. He
reminds me of Chekhov:'
-WILLIAM FAULKNER
"If I hadn't read Ticket of
Leave (La Veuve Couderc), I couldn't have written The Stranger:'
- ALBERT CAMUS
"When they come to me to ask,
'What should I read of his?' I reply, 'Everything:"
-ANDRE GIDE
"He was a writer as comfortable
with reality as with fiction, with passion as with reason. Above all, he
inspired the confidence that readers reserve for novelists whom they venerate:'
-JOHN LE CARRÉ
"Few writers are able to express
this everyday, intimate, universal realm of thought and sensation [as you].
It makes me envious ... It's what you leave out that makes your books so
full of reverberations. You create a real and honest collaboration with
your readers:'
-HENRY MILLER, IN A LETTER TO SIMENON
"Simenon is an all-round master
craftsman-ironic, disciplined, highly intelligent, with fine descriptive
power. His themes are timeless in their preoccupation with the interrelation
of evil, guilt and good; contemporary in their fidelity to the modern context
and Gallic in precision, logic and a certain emanation of pain or disquiet.
His fluency is of course astonishing:'
-FRANCIS STEEGMULLER
"There is nothing like winter
in the company of a keg of brandy and the complete works of Simenon:'
- LUISSE PULVEDA
(1)
Ui chao, cái
đoạn song đấu giữa Gide và Simenon, dưới đây, làm Gấu
nhớ tới thầy Steiner, cũng mê Simenon như điên. Và Gấu
hiểu ra, cả hai Steiner, và Gide, đều không có, điều
mà Simenon dư dả: sự sáng tạo!
Có lần
ông nói Gide đã từng gợi ý cho một trong những
cuốn tiểu thuyết của ông, và cú đó thật đắc
dụng. Ông ta có ảnh hưởng đến tác phẩm của ông,
theo một kiểu đại trà nào đó.
Chắc không
có chuyện đó đâu. Nhưng chuyện xẩy ra với Gide tức
cuời lắm. Vào năm 1935, nhà xb của tôi cho biết ông
ta có tổ chức một bữa tiệc cốc tay, và tôi có
thể tới lèm bèm với ông ta, bởi vì ông ta
nói, ông ta đọc tôi khá nhiều, và muốn gặp.
Tới, Gide quần tôi trên hai tiếng đồng hồ. Sau đó, trở
thành bạn quí của nhau. Tháng nào cũng thư gửi
bạn ta. Quần bạn ta tới khi ông ta chết. Tới nhà ông,
tôi thấy những cuốn sách của tôi, được bạn quí
ghi chú tùm lum, khiến tôi nghĩ, chúng là
của Gide hơn là của Simenon. Tôi chẳng bao giờ hỏi Gide về chuyện
này. Thì cũng thẹn chứ! Làm sao không!
Ông ta có những câu hỏi nào
‘quái’ không?
Hỏi đủ thứ trên
đời. Nhưng đặc biệt là về ‘cơ chế’, của cái gọi là
ý hướng - cho phép tôi dùng từ - sự sáng
tạo, của tôi. Và tôi nghĩ, tôi hiểu ra tại sao
ông quan tâm đến tôi. Tôi nghĩ, cả đời Gide mơ trở
thành một tay sáng tác, thay vì là nhà
đạo đức, triết gia. Tôi đúng là thứ đối nghịch hẳn với
ông ta. Chính vì thế mà ông quan tâm
tới tôi.
Hai năm sau tôi gặp một trường hợp y chang, với một tay bá
tước. Ông ta viết cho tôi y chang Gide viết. Mời tới lâu
đài thăm. Tới ,bá tước quần “Simenon nhà văn” ba ngày
ba đêm lử cò bự. Ông tới Paris thăm tôi, quần tiếp, và
biếu tôi sách của tôi, kèm 'còm' của ông.
Cùng một lý do.
Ông gọi
tôi là thằng ngu thiên tài!
Câu
hỏi chót. Ông có bao giờ bị bực mình vì
những lời phê phán của mấy ông phê bình
gia, và có khi nào sự phê phán của họ
khiến ông thay đổi cách viết?
Chẳng
bao giờ có chuyện đó. Tôi rất cứng cựa trong cái
việc viết của tôi, và tôi đi theo đường của tôi.
Trong vòng hai mươi năm trời, mấy thằng vỗ ngực xưng tên là
phê bình đó, chúng chỉ nói, cùng
một điều: Đã đến lúc thằng cha Gấu phải cho ra đời một cuốn
tiểu thuyết tổ chảng, trong đó có chừng hai chục tới ba chục
nhân vật. Chúng ngu quá không hiểu Gấu chỉ viết
Tạp Ghi, viết Tin Văn, viết Net… Gấu sẽ chẳng bao giờ viết một cuốn tiểu
thuyết lớn. Cuốn tiểu thuyết lớn của Gấu, là trang Tin Văn, trên
đó khảm tất cả những gì Gấu viết. Ông hiểu Gấu chưa?
Hiểu. Nhân tiện, chúc mừng sinh nhật ông
Gấu!
Tks
*
Mi cứ viết ba cái lăng nhăng, nó lậm tới
xương, tới tuỷ, làm độc tới cái phần ngu ngơ nhất của trái
tim của mi rồi, Gấu ơi!
Gấu Cái
*
Vào cái lúc đầu đời, có tác phẩm,
tác giả nào ông mặn?
Có lẽ người gây ấn tượng mạnh nhất ở nơi
tôi là Gogol. Và tất nhiên, Dos, nhưng không
ghê bằng Gogol.
Note: Một trong những cuốn khủng khiếp nhất, của Simenon, với GCC, là
Tuyết Dơ. Mới phải bệ về cuốn tiếng Anh
Album
https://www.newyorker.com/…/the-photo-book-that-captured-ho…
How unreal can things
get? As the sense of shared reality is eroded, more with each passing
day, one wonders. Writing on the relationship between truth and politics
in this magazine, fifty-one years ago, Hannah Arendt noted just how
vulnerable factual truth is, using the example of “the role during the
Russian Revolution of a man by the name of Trotsky, who appears in none
of the Soviet Russian history books.” Thirty years after Arendt published
her article, a British collector and historian of Russia, David King,
published a study in the form of a photo album—a study of the disappearance
of the physical record of Trotsky and a number of other Russians who fell
out of favor, and out of history, during the Stalin era.
The book is called “The Commissar Vanishes.” The title
is, incongruously, literal. Its specific reference is to a photograph,
from 1919, of a second-anniversary celebration of the October Revolution.
In the picture, Vladimir Lenin stands at the top of a set of stairs,
surrounded by many unidentified men and children and a few recognizable
men, including Leon Trotsky, stationed just in front of Lenin. By the
time the photograph was published, in 1967, Trotsky had disappeared:
he had been airbrushed out, along with several other commissars.
Note: Cuốn "Chính Uỷ Biến Mất", Tin Văn đã
giới thiệu.
Trong một truyện ngắn của Tâm Thanh, trên tạp chí
Văn Học (Hoa-kỳ), nhân vật chính, một nhiếp ảnh viên
chuyên chụp hình lãnh tụ: cuối cùng anh thợ
chụp phát điên. Tác giả Đêm giữa ban ngày,
(Vũ Thư Hiên), hình như cũng đã gặp cùng nỗi
khổ tâm, khi ngưng camera chụp cảnh ông Hồ ôm dép
qua chỗ lội. Kundera kể chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn
phủ dụ nhân dân. Trời lành lạnh, ông quên
đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng
lên mình lãnh tụ; khi ông bị thủ tiêu,
người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch
nước, nhưng cái khăn thì vẫn còn đó! Tưởng
chuyện đùa, nhưng cuộc truy tìm những nhân vật mất tích
sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, không ngờ là
một đề tài cho nhiều tác giả. Sau đây là tóm
lược bài viết của Tatyana Tolstaya, đăng trên The New York
Review of Books, số tháng Giêng, 1998, về hai cuốn Chính
Uỷ Biến Mất: Ngụy Tạo Hình Ảnh và Nghệ Thuật ở Nga thời kỳ
Stalin (David King, 192 trang, nhà xb Metropolitan Books, 1997),
và Nhìn Tận Mắt Lịch sử: Những Bức Hình của Yevgeny
Khaldei (96 trang, nhà xb Aperture, 1997).
Trẻ con, lúc này lúc nọ, thường
tự dưng nổi hứng thêm một bộ ria, hay cặp kính, vào
một tấm hình cô/cậu vớ được. Cuốn lịch sử đời tôi
(Tolstaya) trông cứ như một ngày hội hóa trang!
Rồi năm tháng trôi đi, cô/cậu lớn dần, bỗng một
ngày, tỏ ra nghi ngờ, hoặc giật mình về mối liên
hệ giữa ta bây giờ, và ta trong hình: Lạ nhỉ, không
lẽ mình hồi đó lại mập đến thế? Thôi, tốt nhất là
giấu biến tấm hình này đi! Con bạn đứng kế mình là
con nào? Phải rồi, hai đứa hồi đó cùng quen anh A.
Hình này mà đến tay ông xã, cộng thêm
chút mắm muối của một đệ tam nhân nào đó, là
phiền lắm, tốt nhất cắt phăng nó đi!
Tất cả chuyện đời thường. Chúng ta là ai, nói
cho cùng? Con người thôi. Nhưng chuyện gì xẩy ra,
nếu một thường nhân chúng ta, một bữa trở thành
bạo chúa?
Bộ album của David King mở ra bằng bức hình
mầu Stalin, thời còn Lênin; do Andreyev chụp vào
năm 1922. Nhà nghệ sĩ nhân dân hình như đang
phải đánh vật với những đường viền: một phần trán sao
âm u như chết rồi, mấy sợi tóc sao dính bết vào
nhau như vậy, cái đầu sao không cân xứng chút
nào! Nhưng làn da, những vết nhăn, bộ râu Caucasus
nặng chình chịch như vậy đạt lắm, sếp lớn không nghĩ là
mình nịnh bợ đâu, chỉ là vấn đề lịch sự, nhã
nhặn của bầy tôi đối với chúa thôi! Còn Stalin
ở đây coi bộ già hơn tuổi 42. Người chưa nắm quyền, nhưng
bạn có thể nhận ra, đằng sau cặp mắt đó, cái miệng
kia là những tham vọng ngấm ngầm, và sự thận trọng. Không
biết nhà độc tài có thích tấm hình không
nhỉ? Nhìn hình, như nghe văng vẳng lời bình phẩm của
Lênin: Gớm, tay Georgian kỳ tài này!
Nhưng sao có những khoảng trống kỳ kỳ. Toàn bộ
sưu tập, ngay từ trang đầu, như đang trao đổi một mẩu chuyện khôi
hài đen với người coi: xuyên qua thời kỳ Xô-viết,
đặc biệt dưới thời Stalin, lịch sử nhập thân vào những bức
hình, đã được tẩy xóa, vặn vẹo, đánh bóng,
làm sạch, chỉnh huấn, cho đi cải tạo... đến nỗi không sao
nhận ra được nữa. Bộ sưu tập cho thấy từng người một, đã biến mất
như thế nào, theo nhu cầu chính trị, để lại một cái
hố, một khoảng trống, giữa những đồng chí của họ; làm phiền
biết mấy cho những nghệ nhân, chỗ này phải dậm thêm
một chút mây, chút khói, chỗ kia cài
vào một chậu bông. Đôi khi, kẻ biến mất như cố tình
bám chặt lấy người bạn đồng chí đứng kế, không muốn
nhạt nhòa vào hư không, và một cái nhìn
chăm chú, cộng thêm cặp kiếng ngoại, vậy là bạn nhận
ra chỗ này là vai của kẻ đã ra đi, chỗ kia là
chân trái, cái tay chắc là quàng phía
sau người đồng chí có thể là nguyên nhân
đầu tiên của tai họa... Đâu có cần nhắc nhở bạn, những
con người bị xé ra khỏi những bức hình như thế đã
bị ném vào Gulag, biến thành bụi trại (camp dust).
Cũng đâu cần, vợ chồng con cái, cha mẹ anh em họ hàng
của họ, cũng đã biến thành bụi...
Nhìn bộ sưu tập chúng ta nhận ra một sự thực:
Trotsky chưa từng hiện hữu, cùng với ông là một
danh sách dài: Zinoviev, Kamenev, Radek, Bukharin, Belinski...
Đấy là người. Con ó hai đầu ở tiền đình Nhà
Hát Lớn, Bolshoi Theater cũng biến mất. Hai năm cuối đời của một
Lênin ngắc ngoải, liệt bại, với nụ cười ngây ngô, khờ
khạo cũng biến mất, thay vào đó là một Lênin
mạnh khỏe cho tới hơi thở cuối cùng, với Stalin luôn luôn
ở kế bên, trên con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa,
trong những chuyến đi, vào những thời điểm quyết định quan trọng.
Như một cậu học trò ngỡ ngàng, hay một bậc cha chú
đáng yêu, ông lắng nghe những lời vàng ngọc của
Stalin, với một sự quan tâm và ngưỡng mộ, lúc nào
cũng như đang uống từng hớp thiên tài người Georgia. Có
những bức hình cho thấy một Stalin không hề già đi,
ngày một thêm khôn ngoan ra. Cũng cần có một
tí chút mệt mỏi nữa chứ: Người vừa bẽ gẫy sống lưng Phát-xít,
tóm gọn một nửa Âu-châu, chỉ với hai bàn tay.
Nụ cười của Người, trong lễ sinh nhật lần thứ 70 sao rạng rỡ, sao bất tử,
sao nhập thế, như của Phật!
Rồi hàng triệu triệu con người biến mất, như chưa từng
hiện hữu. T. Tolstaya tự hỏi, tại sao không xây dựng một
viện bảo tàng, trưng bầy đầu lâu, mà phải làm
như triệu triệu kẻ thù chưa từng hiện hữu? Và bà
tự trả lời, ngoài những lý do hiển nhiên, còn
những nguyên nhân kỳ bí, ngoại lý; chúng
làm vẩn đục tâm hồn vốn đã u tối của vị bạo chúa.
Có một lề luật cổ xưa về huyền thuật: kêu tên quỉ,
quỉ tới liền! Tín đồ nói đến quỉ ma một cách gián
tiếp, tránh gọi thẳng tên. Đó cũng là lý
do tượng Chúa, nhà thờ tất cả đều bị triệt hạ, huỷ diệt.
Như đã chưa từng hiện hữu. Như sẽ chẳng bao giờ hiện hữu.
Tận Mắt Nhìn Lịch Sử như muốn trả lời câu hỏi:
Nghệ thuật nhiếp ảnh là gì, hay rõ hơn, đâu
là độ nói dối được cho phép, đối với một nhiếp ảnh
viên, khi thực tại, và nghệ thuật gặp nhau ở ống kính?
Cuộc đời Khaldei thật là bi thảm, và khác
thường. Là con, trong một gia đình Do-thái nghèo
tại Ukraine. Mẹ chết trong vụ thanh trừng vào năm 1918, viên
đạn xuyên qua thân thể bà nằm luôn trong đứa
con trai mới gần năm. Cả gia đình, hai thập niên sau đó
bị lính Đức giết hết, còn trơ mình ông. Học
tới lớp tư phải bỏ, lo kiếm sống. Thiên tài bẩm sinh, máy
hình đầu tiên là do ông tự làm lấy,
và vào nghề thợ chụp ngay từ khi còn nhỏ. Vác
máy hình, đi trọn cuộc chiến, làm cho thông
tấn TASS và nhật báo Pravda. Bức hình chụp tấm băng
đỏ gói trọn vẻ ngạo nghễ của Tòa Nhà Quốc Hội Đức,
Reichstag, là của ông. Tuy trọn đời hiến dâng cho nghệ
thuật Xô-viết, nhưng ông mất việc hai lần. Ông mất tháng
Mười 1997, sau khi bộ sưu tập của ông được in ra. Có một
số hình trong đó chưa hề được biết đến, và chúng
cho thấy một điều là những cái trước, và sau cuộc chiến
như thuộc hai con người khác nhau. Những tấm sau là những
thí dụ tồi tệ nhất, về Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng không
phải những tấm trước đó không có điều khác thường.
Tolstaya cho biết về bức hình nổi tiếng nhất của ông, trang
60-61, chụp người lính Xô-viết giương cao tấm băng đỏ trên
đỉnh Reichstag: một người sĩ quan phải giữ chân người lính,
cho anh ta khỏi té. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ. Sau khi rửa
hình, người ta nhận ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo
có một, mà tới hai cái đồng hồ lận! Lại phải cạo sửa
lịch sử! Còn tấm băng đỏ, ở đâu mà có sẵn, nhanh
như vậy? Hóa ra là, nhiếp ảnh viên Khaldei, vốn đã
sửa soạn sẵn cho tấm hình nổi danh của đời mình, ngay từ
Moscow, và đã cẩn thận mang theo, không phải một mà
tới ba tấm băng đỏ! Người viết nghe nói bức hình lịch sử
chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp
tới hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn
tin rất đáng tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến
(lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây.
NQT
Chú thích
Người viết sau đó được biết, Bùi Tín đã
xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả
tấm hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên
Phủ, cũng được "làm lại".)
Portrait of Djakhan Abidova, a woman in the Communist
Party of Uzbekistan, deliberately damaged as part of an effort to erase
her in the nineteen-thirties.
Chân dung Nữ Cộng “đuợc” cố tình huỷ hoại,
như 1 phần trong cố gắng tẩy xóa hình bóng nàng,
trong thập niên 1930
April 22 · Vientiane, Laos ·
Yves Bonnefoy
1923-2016
Chẳng nghi ngờ chi,
Vưỡn còn cái ao dầu
Ở cuối con phố dài thòng
Tớ đã từng lang thang khi còn
là Anh Cu Gấu
Cái hồ hình chữ nhật
Của cái chết dầy, dưới bầu trời
tối
Kể từ đó, thơ bèn chia nước của nó
ra khỏi những nước khác
Không cái đẹp nào,
không mầu sắc nào có thể giữ được
Nó đành đoạn, thống khổ
về sắt và đêm
Nó nuôi
dưỡng
Nỗi ước ao dài,
Một bờ sông chết,
Một cây cầu sắt
Bắc qua một bờ sông khác
Vô một đêm đen hơn:
Hồi ức độc nhất của nó
Tình yêu độc nhất của nó
Poetry Oct 2016
Poetry
"The appearance of [In the Shadows Light]
by Yves Bonnefoy… confirms him as the most invigorating poet
now active in France."
-Stephen Romer, Times Literary Supplement
review of the original edition in French, Ce qui fut sans lumière
That Yves Bonnefoy was awarded the Prix Goncourt
after the publication of Ce qui fut sans
lumière only confirms what lovers of his poetry
have always known. For those who have not read Bonnefoy'S work,
this new collection is the perfect place to begin. The preoccupations
of all his previous work the search for place, the celebration of
the sacredness of all simple things, the meditation on the importance
of certain great paintings-reemerge here for a renewed consideration
that is wistful, autumnal, and limpid.
The house in Provence and
the surrounding countryside which were the center of Bonnefoy's
two previous books of poetry are now a haunting memory. The poet's
meditation on the importance of this place in his life leads to
remembrances of other places and moments in the more distant past,
particularly those of his childhood. Recent experiences-an autumn and
winter in Massachusetts-add richness to this extended poetic reflection.
With the original French text and John Naughton's
elegant English translation, this bilingual edition allows readers
a rare opportunity to study a contemporary master. An extensive
new interview with Bonnefoy is included here in English translation.
YVES BONNEFOY, professor of Comparative Poetics
at the College de France in Paris, is widely considered the most
important and influential French poet since World War II.
JOHN NAUGHTON is the author of The Poetics of
Yves Bonnefoy and the editor of Yves
Bonnefoy's The Act and the Place of Poetry: Selected
Essays, both published by the
University of Chicago Press.
Cover illustration: Detail from Hagar and the
Angel by Nicolas Poussin, courtesy of The
National Gallery of Ancient Art, Rome.
Tập thơ trên quá
tuyệt. Mua xon. Từ từ tính
https://www.theguardian.com/books/2016/jul/31/yves-bonnefoy-obituary
La Tâche d’Espérance
C'est l’aube. Et cette lampe a-t-elle donc fini
Ainsi sa tâche d’esperance, main
posée
Dans le miroir embué sur la fièvre
De celui qui veillait, ne sachant pas
mourir?
Mais il est vrai qu’il ne l’a pas éteinte,
Elle brule pour lui, malgré le
ciel.
Des mouettes crient leur âme à
tes vitres givrées,
Ô dormeur des matins, barque d'un
autre fleuve
The Task of Hope
It is dawn. Has this lamp, then, finished
Its task of hope, hand placed
In the clouded mirror, on the fever
Of the one who kept watch, not knowing
how to die?
But it is true that he has not put it
out,
It still burns for him, in spite of the
sky.
The seagulls screech their soul at your
frost -covered
Window, morning sleeper, boat from another
river.
Nhiệm Vụ Hy Vọng
Rạng đông. Liệu cây đèn kia,
xong nhiệm vụ hy vọng
Tay đặt lên tấm gương mờ hơi cơn sốt nóng
bỏng
Của cái tên ngồi thức canh,
Không biết chết là ra làm
sao, làm sao chết?
Thì đúng như thế đấy, hắn đếch
chịu tắt cây đèn
Nó cháy kia là cháy
vì hắn, mặc dù đêm chưa qua mà trời
sao vội sáng
Hải âu khóc linh hồn, bên
ngoài kính cửa sổ phủ sương
Ôi cái tên nằm ngủ của những
buổi sáng
Con thuyền bờ bên kia con sông.
Aux arbres
YVES BONNEFOY
Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle
vos chemins,
Impassibles garants que Douve même
morte
Sera lumière encore n’étant
rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est
jetée
Dans la barque des morts et la bouche
serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle
tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré
tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet
de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à
la mienne
Dans la mediation de votre austérité.
Với cây rừng.
Rừng cây nhòa xóa trên lối
ruổi
Rừng túa khép nẻo kín
bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng
dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển
nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc
nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh
miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét,
lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng
đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa
đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường
lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông
nước mịt mù
Sấm âm u dội
rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực
đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh
ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
TTT dịch
Re: Phê bình Mít.
Trường hợp Thầy Đạo.
Trên Gió-O, bà Huệ đang phỏng
vấn Thầy. Khoe đủ thứ bằng. Tác phẩm, chưa có, trừ
bài viết, trên VOA, trên Gió-O. Thầy
quên bài viết trên talawas, trong đó,
Thầy “report” với Sến, Bắc Kít nhe, đám khoa bảng Ngụy,
tên nào có bằng cử nhân, tên nào
không, qua đó, Thầy khện Thầy của Thầy là Nguyễn
Văn Trung, Khoa Trưởng Văn Khoa, hay Nguyễn Văn Lục, cũng cử nhân
văn khoa như Thầy- sợ bằng của Thầy cao hơn, Tiến Sĩ cơ.
Thầy report với Sến, thằng Gấu không phải
dân khoa bảng.
Chuyện xưa, nhắc hoài, sao mi nhỏ nhen như
thế GCC?
Mới, là bài điểm thơ Nguyễn Thị Hải.
Đọc bài này, thì Gấu nhận ra kiến thức của
Thầy thiếu sót, thiếu phần khoa học phổ thông, giống
Thầy Kuốc, khi coi từ lệch pha, là tiếng lóng, trong
khi đó là từ của điện xoay chiều.
Cũng thế, có 1 đấng cực bảnh ở trong nước,
do thiếu kiến thức quang học, nên không hiểu mấy từ
Paz dùng, thí dụ, hội tụ, phân kỳ, từ đó
có kính cận, kính viễn.
Bài của Thầy Đạo, về ngôn ngữ phù
ảo của Nguyễn Thị Hải, và, Thầy lôi Deleuze ra trộ,
giống Thầy Phúc, khi viết về Vũ Khắc Khoan, lôi Beckett
ra bắt đứng chung, thì cũng kịch,“cái cớ” như nhau!
http://www.gio-o.com/NguyenThiHai/ThachTranNguyenThiHai.htm
Le langage est lui-même le double ultime
qui exprime tous les doubles, le plus haut simulacre.
Giles Deleuze, Logique du sens, 329
[Chính ngôn ngữ là cái
kép tối thượng biểu tả tất cả mọi cái kép,
giả tượng/hình cao nhất.]
Note: Dịch đúng hơn, là: Ngôn
ngữ, chính nó, là cái kép tối
thượng diễn tả tất cả nhũng cái kép, cái simulacre
cao nhất.
Thếp vào tầng khí quyển
Một quê hương phù ảo
Nguyễn Thị Hải, Khói Bếp
Simulacre, là từ mà chỉ dân
khoa học mới hiểu thấu đáo, và nên dịch là
cái biểu kiến - cái bề ngoài tưởng thế -
theo GCC.
simulacre
nom masculin
1. littéraire
Ce qui n'a que l'apparence (de ce qu'il prétend
être).
Un simulacre de procès.
synonyms: parodie, semblant
Mấy dòng thơ của NTH, theo GCC, không
mắc mớ tới “cái kép”, trong câu của Deleuze.
Cái tít của bài thơ của NTH, Khói
Bếp, và nếu như thế, làm sao thếp vào tầng
khí quyển ở mãi trên cao tít, như là
1 quê hương phù ảo?
Gấu sợ rằng Thầy Đạo không đọc ra được mấy dòng
thơ của nữ thi sĩ chăng?
Sợ có 1 ẩn dụ nào đó, ở đây
chăng?
Do chưa đọc tập thơ, nên đành thua.
Thành ra cái chuyện mang Deleuze ra đây,
chỉ nhằm để trộ thiên hạ, và luôn cả NTH.
Bỗng nhớ tới Sarraute.
Bà được Sartre để mắt tới, và đi 1 đường
thần sầu, gọi thứ tiểu thuyết của bà là “phản-tiểu
thuyết”, bà trở nên nổi tiếng, và là 1 trụ
cột trong những nhà văn tiểu thuyết mới của Tẩy.
Được hỏi, bà nói, bà cám
ơn Sartre, nhưng nói thêm, thằng cha chẳng hiểu 1
tí chó gì, về tiểu thuyết của tôi!
Trên Tin Văn có kể giai thoại này
rồi.
Biểu kiến liên quan tới hiện tượng “phách”
trong vật lý.
Dùng 1 hình ảnh minh họa: Cái quạt bàn.
Chúng ta nhìn nó, có cái,
như đứng yên, khi đang quay, hoặc quay giật lùi, hay quay
thành hai, hoặc ba, bốn… múi.
Chuyển động thực, tần số thực của nó “giao thoa” với
tần số ánh sáng của ngọn đèn điện trong nhà,
và chuyển động biểu kiến - bề ngoài tưởng thế, tưởng đứng
yên, tưởng giật lùi.. – là cái mà chúng
ta nhìn thấy.
Đâu có gì dính dáng tới
cái kép, phù ảo, hay… Deleuze?
Mấy Thầy này, đậu đạt bằng này, bằng nọ, chủ yếu
là để trốn lính, để được hoãn dịch, được đi du
học, đâu có thực sự là Thầy, đâu có
thực sự đọc, thực sự sống thời của họ, thành ra đều là đồ
bỏ cả, đối với Gấu Cà Chớn, đó là sự thực.
Về già, nhìn lại, phải nói là Gấu là
1 trong những kẻ may mắn. Tuy nhà nghèo, tuy làm
bồi bàn để tiếp tục học, nhưng đậu đạt sớm, ra trường sớm, có
đồng tiền sớm, rồi lại làm thêm cho UPI, tha hồ đọc, và
cái bận tâm của Gấu, khác hẳn của mấy Thầy như Thầy
Đạo.
Họ đọc, học… để có bằng cấp, để được hoãn dịch, tức
là để tránh cuộc chiến, còn Gấu, hết còn lo
học, không phải lo trốn tránh cuộc chiến, nhưng mà
lo đối đầu với nó, hiểu nó…
Khác nhau rất nhiều, tuy chỉ cách nhau, chỉ 1, hoặc
2 năm.
Có hai câu của Brodsky, áp dụng vào
mấy Thầy, quá OK
Khi bạn bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, bạn đang
tán tỉnh thảm họa.
[When you start editing your ethics, your morality –according to
what is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov].
Virtue, after all, is far from being synonymous
with survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).
Cái policy hoãn dịch vì
học vấn, của Ngụy, hóa ra là 1 thứ độc dược.
Đấng nào đấng đó, sắp ngỏm rồi, có cái
con khỉ gì, không phải tự hào, hãnh diện, nhưng
mà là để... an ủi?
Xon!
Introduction
by Czeslaw Milosz
What a joy to see a major poet emerging from a hardly differentiated
mass of contemporaries and taking the lead in the poetry of my language,
a living proof that Polish literature is energy incessantly renewed
against all probabilities! Born in 1945, Zagajewski belonged to the
angry "generation of 1968" and started by satirizing both in his verse
and in his prose the surreal character of the totalitarian state. While
mocking the official language, he gradually developed a taste for expressing
the political opposition of his generation through a "naked" speech practically
stripped of metaphors. I discovered him then and praised the freshness
of his style, not expecting that it marked just a phase in his evolution.
For soon he left behind that poetry of political commitment-noble-minded,
but often one-dimensional-and embarked upon a new adventure, a search
in a labyrinth where meditation on the flow of time brings together the
historical and the metaphysical. His poems have been acquiring a more
and more sumptuous texture, and now he appears to me as a skillful weaver
whose work is not unlike Gobelin tapestries where trees, flowers, and human
figures coexist in the same pattern. That rich and complex world re-created
and transformed by art is for him not a place of escape. On the contrary,
it is related in a peculiar way to the crude reality of our century, even
if it is on the other side of "smooth water, an indifferent wave."
Zagajewski's poetry is a homage paid to our
Central Europe and to the unity of Europe artificially divided into
"the West" and "the East," much as is the prose of Milan Kundera, of George
Konrad, or of Danilo Kis. This unity is symbolized by the cities in which
his life unfolded. He cultivates the legend of the city of his birth,
Lvov, romantic and international; he grew up in Cracow and there studied
philosophy at the six-hundred-year-old university; he, like several generations
of the intelligentsia, was attracted by Vienna, a cultural center. Those
places nourished his imagination and enabled him to converse with mythic
European figures, philosophers, painters, and composers of the past. He
is not disinherited, for he has found his home in the common heritage ever
present in the very art and architecture that surrounded him in his youth.
Judging by the steady increase of his creative power in the last years,
his migration to Paris, where he has been living since 1981, did not interrupt,
but rather guaranteed, the continuity of his work by adding distance and
perspective. As I read him, I am inclined to apply his own words to my feeling
of wonder:
Only in the beauty created
by others is there consolation.
Berkeley, California
July 1985
Czeslaw Milosz
Ode to Softness
Mornings are blind as newborn cats.
Fingernails grow so trustfully, for a while
they don't know what they're going to touch. Dreams
are soft, and tenderness looms over us
like fog, like the cathedral bell of Cracow
before it cooled.
Bài Ode cho sự Dịu Dàng
Những buổi sáng thì mù như những con mèo
mới sinh
Móng dài ra dần dần, thật tin cậy
Trong 1 lát, chúng không biết cào cào
cái gì
Những giấc mơ thì mềm
Sự dịu dàng lờ mờ phủ lên chúng ta
Như sương mù
Như chuông nhà thờ thành phố Cracow
Trước khi nó dịu đi, mát dần
IN THE BEAUTY CREATED BY OTHERS
Only in the beauty
created
by others is there consolation,
in the music of others and in others' poems.
Only others save us,
even though solitude tastes like
opium. The others are not hell,
if you see them early, with their
foreheads pure, cleansed by dreams.
That is why I wonder what
word should be used, "he" or "you." Every "he"
is a betrayal of a certain "you" but
in return someone else's poem
offers the fidelity of a sober dialogue.
Trong cái
đẹp người khác sáng tạo
Chỉ trong cái đẹp người
khác sáng tạo
thì mới có sự an ủi,
trong nhạc của người khác,
trong thơ của người khác.
Chỉ người khác cứu chúng ta,
mặc dù cô đơn, nếm, "cẩm" thuốc phiện.
Người khác đâu phải địa ngục [thằng cha Sartre mắt
lé cà chớn],
nếu bạn nhìn họ sớm sủa, với vầng trán trong sáng,
được tẩy sạch nhờ những giấc mơ.
Chính thế mà tôi băn khoăn tự hỏi, nên
dùng từ nào, “anh ta”
hay là “bạn quí”.
Mọi từ “anh ta” thì là 1 phản bội một “bạn quí”
nào đó,
trong khi, như để đáp lễ,
một bài thơ của một người nào đó
thì dâng tặng sự trung thực
của một cuộc đối thoại khiêm tốn.
SEPTEMBER
EVENING
YES, IN LVOV
The white church of the Carmelites
on a low hill
and right beside it Franciscan Street, where my
grandfather was once the stern director of a school
(he grew kinder only with age).
Heaps of stones, the pockmarked pavement,
as if someone had been hunting treasure.
Yellow leaves cling to the gaunt trees,
cautiously, without conviction.
This is the building they entered,
and the gate that likes only shadows.
But now there's nothing anyway, just me,
shivering from the cold, and the empty September evening.
I must jot down a few words so that winter
may chew its black bread of forgetting.
Chiều Tháng Chín
Đúng rồi, ở Lvov
Nhà
thờ Carmelites màu trắng ở trên một ngọn đồi thấp
Và kế ngay nó, là con phố Franciscan Street,
nơi ông tôi đã từng là một vị giám
đốc nghiêm khắc của một ngôi trường
(chỉ già đi thì ông mới trở nên hiền)
Những đống đá, mặt viả rỗ
Như thể một người đó săn tìm kho tàng
Lá vàng bám cây gầy,
thận trọng, không tin tưởng
Đây là tòa nhà họ đi vô
Và cái cổng thì chỉ khoái những cái
bóng
Nhưng bây giờ thì còn gì nữa đâu,
chỉ còn mình tớ
Run rẩy trong lạnh giá, trong buổi chiều Tháng Chín
Tôi phải lèm bèm vài lời, biết đâu
nhờ vậy
mà mùa đông có thể nhóp nhép
nhai mẩu bánh đen của sự lãng quên của nó
[Mấy bài thơ trên, có trên TinVăn, là
từ Tremor]
Trong Poet’s Choice, Edward Hirsch giới thiệu AZ bằng những lời
thật trân trọng, và làm cho độc giả gần gụi với chúng
ta, độc giả Mít, so với bài của Milosz, khi đặt ông
vào thế giá Trung Âu:
Zagajewski's poetry is a
homage paid to our Central Europe and to the unity of Europe artificially
divided into "the West" and "the East," much as is the prose of Milan
Kundera, of George Konrad, or of Danilo Kis.
Tin Văn giới thiệu sau đây, bài của Hirsch.
32.
ADAM ZAGAJEWSKI
I'm truly not a child of the ocean,
as Antonio Machado wrote about himself,
but a child of air, mint, and cello ...
ADAM ZAGAJEWSKI'S poems put us in the presence of great mysteries.
They deliver us to something deep and strange and perhaps even unlimited
within ourselves. They have a strong kinship to prayer, a paradoxical
feeling for truth, a fiery sense of quest, and a keen longing for radiance:
A FLAME
God, give us a long winter
and quiet music, and patient mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a flame, high, bright.
(TRANSLATED BY CLARE CAVANAGH)
Zagajewski's poems are everywhere shadowed by death, and extremely
conscious of human cruelty. They recognize the savageries- the charnel
house- of history. Like all Polish poets in the twentieth century, Zagajewski
understands what human beings are capable of doing to each other. "It
could be Bosnia today, / Poland in September '39, France / eight months
later, Germany in 45, / Somalia, Afghanistan, Egypt," he writes in his
poem "Refugees." "In the Parc de Saint-Cloud. I pondered your words," he
writes to the painter Joseph Czapski: "The world is cruel; rapacious I
carnivorous, cruel."
Yet Zagajewski's poems are also filled with splendid
moments of spiritual lucidity. They are spirited by what he calls "festive
proclamations.” "I was impaled by sharp barbs of bliss," he writes in his
poem “Cruel”. "I know I'm alone, but linked I firmly, to you, painfully,
gladly,” he declares in "Presence": "I know only the mysteries are immortal."
For him, even the action of swimming becomes like prayer: "palms join and
part/ join and part/almost without end." I marvel at the way his poems transport
us into a realm that is majestic, boundless and unknown.
Zagajewski was born in 1945 in the medieval city
of Lvov ("There was always too much of Lvov," he writes, "no one could
I comprehend its boroughs") and grew up in the ugly industrial city of Gliwice.
These two places, so finely described in his prose book Two Cities,
form two sides of his imagination: "Two cities converse with one another,"
he confesses: "Two cities, different, but destined for a difficult love affair,
like men and women." The third formative city of his experience is Krakow,
where he was a student and awakened to poetry, music, and philosophy. These
student years are the subject of his luminous prose work Another Beauty,
which Susan Sontag calls "a wise, iridescent book" that "dips in and out
of many genres: coming-of-age memoir, commonplace book, aphoristic musings,
vignettes, and defense of poetry-that is, a defense of the idea of literary
greatness." Poetry for Zagajewski delivers us to what is highest and most
exalted in ourselves. Like music, it momentarily saves us.
The collection Without End: New and Selected
Poems brings together Zagajewski's three major books in English:
Tremor (1985), Canvas
(1991), and Mysticism for Beginners (1997). It also includes previously
unpublished early work and a sublime group of new poems.
Zagajewski started out in the early 1970s writing
under the sign of the newborn opposition movement in Poland. He had a
strong sense of the writer's social responsibility and a clear idea that
"the collectivity (the nation, society, and generations) is the chief protagonist
and addressee of creative, artistic works." Since the mid-1970s, however,
he has increasingly given sway to another side of his nature. He has given
to the aesthetic, committed himself to the values of art. Or as he puts
it: "I have discovered there is also a physical' part of myself that is
rather anarchic-not interested politics or in history but in poetry and
music."
Zagajewski has never forgotten the importance
of addressing communal concerns, the necessity of civitas, and yet he
has also the fundamental value of privacy, of the morality of speaking
only oneself. His poem "Fire" marks one turning point in his evolution
from a dissident poet:
Probably I am an ordinary middle-class
believer in individual rights, the word
"freedom" is simple to me, it doesn't mean
the freedom of any class in particular.
Politically naive, with an average
education (brief moments of clear vision
are its main nourishment), I remember
the blazing appeal of that fire which parches
the lips of the thirsty crowd and burns
books and chars the skin of cities. I used to sing
those songs and I know how great it is
to run with others; later, by myself,
with the taste of ashes in my mouth, I heard
the lie's ironic voice and the choir screaming
and when I touched my head I could feel
the arched skull of my country, its hard edge.
(TRANSLATED BY RENATA GORCZYNSKI)
The rival claims on Zagajewski's attention have increasingly way
to deeper aesthetic and even metaphysical divisions. He is a poet of compelling
dualisms ("The world is torn. Long live duality! One should praise what
is inevitable," he wryly proclaims). A powerful dialectic operates in his
work between reality and imagination, history and philosophy, between the
temporal and the eternal.
Two contradictory elements meet in poetry: ecstasy
and irony," Zagajewski writes in Two Cities: "The ecstatic element
is tied to an unconditional acceptance of the world, including what is
cruel and absurd. Irony, in contrast, is the artistic representation of
thought, criticism, and doubt." He gives weight to both elements, and yet
his deepest impulse is to try to praise the mutilated world, indeed, to
praise the' mysteries of-and even beyond-the world itself. He is in some
sense a pilgrim, a seeker, a celebrant in search of the divine, the un
plenitue, the absolute. His poems are filled with radiant moments of plenitude.
They are spiritual emblems, hymns to the unknown, levers for transcendence.
A QUICK POEM
I was listening to Gregorian chants
in a speeding car
on a highway in France.
The trees rushed past. Monks' voices
sang praises to an unseen god
(at dawn, in a chapel trembling with cold).
Domine, exaudi orationem meam,
male voices pleaded calmly
as if salvation were just growing in the garden.
Where was I going? Where was the sun hiding?
My life lay tattered
on both sides of the road, brittle as a paper map.
With the sweet monks
I made my way toward the clouds, deep blue,
heavy, dense,
toward the future, the abyss,
gulping hard tears of hail.
Far from dawn. Far from home.
In place of walls-sheet metal.
Instead of a vigil-a flight.
Travel instead of remembrance.
A quick poem instead of a hymn.
A small, tired star raced
up ahead
and the highway's asphalt shone,
showing where the earth was,
where the horizon's razor lay in wait,
and the black spider of evening
and night, widow of so many dreams.
(TRANSLATED BY CLARE CAVANAGH)
http://www.tanvien.net/Tho_Poetry/trang_tho_zagajewski.html
Herbert by Zagajewski
OUR WORLD
In memoriam
W. G. Sebald
I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
picked up in a secondhand shop, and human
fates found in a secondhand shop,
and a voice quietly narrating,
a gaze that took in so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
and our world in his prose, our world, so calm - but
full of crimes perfectly forgotten,
even in lovely towns
on the coast of some sea or ocean,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.
- Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB April 29, 2004
Thế giới của chúng ta
Tưởng niệm W.G. Sebald
Tôi chưa hề gặp ông, tôi chỉ biết
những cuốn sách, và những tấm hình kỳ kỳ của
ông, như
nhặt ra trong một bán sách cũ, và
số phận con người nhặt ra từ một tiệm đồ cũ
và một giọng âm thầm kể,
một cái nhìn nhìn nhìn quá lâu,
một cái nhìn nhìn lại,
lẩn tránh cả sợ hãi lẫn sung sướng;
và thế giới của chúng ta, trong dòng tản văn
của ông,
thế giới của chúng ta, lặng lẽ biết bao, nhưng
đầy những tội ác đã được hoàn toàn quên
lãng,
ngay cả trong những thành phố đáng yêu
trên bờ biển hay đại dương nào đó,
thế giới của chúng ta đầy những nhà thờ trống rỗng
hằn vết đường xe lửa, vết sẹo
của những giao thông hào cũ, những đại lộ
rạn nứt bởi sự hồ nghi, thế giới mù lòa của chúng
ta,
bây giờ nhỏ hẳn đi, do mất ông
Ancient Autumn
Is that foolish youth still sawing
The good branch he's sitting on?
Do the hills wheeze like old men
And the few remaining apples sway?
Can he see the village in the valley
The way a chicken hawk would?
Already smoke rises over the roofs,
The days are getting short and chilly.
Even he must rest from time to time,
So he's lit a long-stemmed pipe
To watch a chimneysweep at work
And a woman pin diapers on the line
And then step behind some bushes,
Hike her skirt so her bare ass shows
While on the common humpbacked men
Roll a barrel of hard cider or beer,
And still beyond, past grazing cattle,
Children play soldier and march in step.
He thinks, if the wind changes direction,
He'll hear them shouting commands,
But it doesn't, so the black horseman
On the cobbled road remains inaudible.
One instant he's coming his way,
In the next he appears to be leaving in a hurry ...
It's such scenes with their air of menace,
That make him muddled in the head.
He's not even aware that he has resumed sawing,
That the big red sun is about to set.
Charles Simic
Thu Cũ
Liệu cái tuổi trẻ khùng điên ba
trợn vưỡn kưa kưa
Cái cành cây bảnh nhất anh đang ngồi?
Những ngọn đồi vưỡn khò khè như những ông
già
Và mấy cây táo còn lại, vưỡn
“nắc nư”?
Liệu anh có thể nhìn ngôi làng
ở bên dưới thung lũng
Vưỡn cái nhìn của con chim ưng thèm
gà con?
Khói đã bốc lên từ những mái
nhà
Ngày mới ngắn và lạnh làm sao
Ngay cả như thế thì anh vưỡn thèm ngồi lại
Thì cũng phải nghỉ ngơi, lúc này lúc
nọ
Và thế là anh lấy cái tẩu dài
thòng ra
Và đốt thuốc
Trong khi nhìn một tay thông ống khói
làm việc
Và 1 người đàn bà treo mấy cái
tã con nít lên sợi dây
Và rồi lui lại, sau mấy bụi cây
Kéo cái váy lên, phô cái
chảo trắng ngần ra
Trong khi ở chỗ công cộng những người đàn
ông gù
Vần 1 cái thùng tô nô rượu táo,
thứ nặng đô, hay là bia
Và vẫn quá, quá bầy trâu bò
gặm cỏ
Lũ con nít chơi trò lính tráng,
xếp hàng diễn hành
Anh nghĩ, nếu ngọn gió đổi chiều
Thì có thể nghe chúng hô, Bác
Hồ muôn năm, một, hai, một, hai
Nhưng gió không làm cái chuyện
bậy bạ như thế
Và thế là người kỵ sĩ đen
Trên con lộ sỏi
Không làm sao nghe được
Trong 1 thoáng, người kỵ sĩ đi theo con đường của
anh ta
Trong thoáng kế, anh ta có vẻ bỏ đi trong
vội vã
Những xen như thế thật đe dọa
Khiến cho anh mụ cái đầu
Anh cũng chẳng nhận ra là mình lại tiếp tục
kưa kưa
Và cái ông mặt trời đỏ bự thì
đang tính đi ngủ.
Hình: Thảo Trần @ Germany, 1999
For imaginary visitors, I had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.
I myself never sat in it, though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.
The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl
If I happened to look that way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.
Charles Simic
[From My Noiseless Entourage, 2005]
Chân Dung Tự Họa ở trên
Giường
Với mấy đấng bạn quí, tưởng tượng
Gấu có 1 cái ghế
Làm bằng mây
Lấy từ thùng rác
Có 1 cái lỗ, đúng ngay
chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng
bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế,
vưỡn thấy có tí gì phẩm giá của riêng
nó
Gấu, chính Gấu, chẳng hề dám ngồi
lên
Nhưng, với 1 cái gối, thì chuyện
ngồi có thể
Với 1 tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà
H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình
Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong 1 chậu cá cảnh
Nếu nhìn theo viễn ảnh như thế đó
Mũi đỏ lòm, thèm xụt xịt vài
cú
Với cái mũ len chùm kín
cả tai
Gấu nằm trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ về linh hồn của mình
Hẳn thế.
Note: Bài thơ này, đã post
trên Tin Văn, cane, mây, Gấu nhìn lộn,
dịch lộn là mấy cái lon bia, can.
Đã sửa lại.
Sorry and Tks K. NQT
Past-Lives Therapy
They showed me a dashing officer on horseback
Riding past a burning farmhouse
And a barefoot woman in a torn nightgown
Throwing rocks at him and calling him Lucifer,
Explained to me the cause of bloody bandages
I kept seeing in a recurring dream,
Cured the backache I acquired bowing to my old
master,
Made me stop putting thumbtacks round my bed.
When I was a straw-headed boy in patched overalls,
Chickens would freely roost in my hair.
Some laid eggs as I played my ukulele
And my mother and father crossed themselves.
Next, I saw myself in an abandoned gas station
Trying to convert a coffin into a spaceship,
Hoarding dead watches in a house in San Francisco,
Spraying obscenities on a highway overpass.
Some days, however, they opened door after door,
Always to a different room, and could not find
me.
There'd be a small squeak now and then in the
dark,
As if a miner's canary just got caught in a
mousetrap.
Chữa bịnh kiếp trước, kiếp trước
nữa
Kiếp trước ta có nợ nần chi mi đâu
Mà sao kiếp này mi đòi
kiếp khác?
Ta đã nói mi đừng gặp ta nhiều
Khi ta đi rồi
Mi sẽ khổ
NQT: Chiều ngu ngơ phố thị
Họ chỉ cho tớ 1 tên sĩ quan phóng
ngựa như bay
Qua 1 căn nhà trại đang cháy
Một người đàn bà chân trần,
mặc áo ngủ rách tả tơi
Ném đá vào tên sĩ
quan, gọi hắn là Quỉ Sứ
Giải thích những tấm băng dính
máu
Trong giấc mơ trở đi trở lại hoài
Chữa chứng đau lưng, do lạy vị thầy cũ hơi bị
nhiều
Làm cho tớ hết còn bị chơi cái
trò rải đinh bấm quanh giường.
Khi còn là 1 đứa bé đầu
tóc như mớ rơm
Lũ gà cứ tìm đầu tớ để ngủ
Có con còn đẻ trứng khi tớ chơi
đàn bốn dây
Trong khi ông bô bà bô
xẹo qua xẹo lại
Kế đó, tớ thấy mình ở 1 cái
trạm xăng bỏ hoang
Cố biến cái hòm thành cái
phi thuyền
Tích trữ đồng hồ chết trong 1 căn nhà
ở San Francisco
Xịt ba từ tục tĩu lên cầu xa lộ
Tuy nhiên, vài ngày đẹp
trời, họ mở hết cửa này tới cửa kia
Luôn trổ ra 1 căn phòng khác,
và đếch kiếm thấy tớ
Luôn có tiếng cọt kẹt lúc
này hoặc lúc khác trong bóng tối
Như thể 1 con chim hoạ mi của 1 tay thợ mỏ bị
mắc cái bẫy chuột
History
On a gray evening
Of a gray century,
I ate an apple
While no one was looking.
A small, sour apple
The color of wood fire
Which I first wiped
On my sleeve.
Then I stretched my legs
As far as they'd go,
Said to myself
Why not close my eyes now
Before the late
World News and Weather.
Charles Simic
Lịch sử
Vào một buổi chiều xám
Thế kỷ xám
Gấu xực 1 trái táo
Khi không ai nhìn
Một trái táo nhỏ
Chua ơi là chua
Màu lửa củi
Gấu lấy tay áo lau miệng
Rồi, ruỗi cẳng ra
Mặc sức chúng ruỗi
Rồi Gấu nói với Gấu
Tại sao mi không nhắm mắt lúc này
Trước bản tin trễ
Tin thế giới và thời tiết
EIN FRAUEN-SCHICKSAL
So wie der Konig auf der Jagd
ein Glas
ergreift, daraus zu trinken, irgendeines, -
und wie hernach der welcher es besaf
es fortstellt und verwahrt als war es keines:
so hob vielleicht das Schicksal,
durstig auch,
bisweilen Eine an den Mund und trank,
die dann ein kleines Leben, viel zu bang
sie zu zerbrechen, abseits vom Gebrauch
hinstellte in die angsrliche
Vitrine,
in welcher seine Kostbarkeiten sind
(oder die Dinge, die fur kostbar gel ten).
Da stand sie fremd wie eine Fortgeliehne
und wurde einfach alt und wurde blind
und war nicht kostbar und war niemals selten.
Rilke
WOMAN'S FATE
Just as the king out on a hunt
picks up
A glass to drink from, anyone at all, -
and afterward its owner puts it away
and guards it like some fabled chalice:
So perhaps Fate, who also thirsts,
at times
Raised a woman to its lips and drank,
whom then a small life, too much afraid
of breaking her, locked away from use
Inside the tremulous glass cabinet
in which its most precious things are kept
(at least the things considered precious).
There she stood strange like something loaned
and became merely old and became blind
and was not precious and was never special.
Số mệnh đờn bà
Thì cứ kể như là
bữa đó, Trụ Vương đi săn bèn cầm 1 cái ly,
từ bất cứ ai đó, lên uống
Thế là kẻ có cái ly bèn
kính cẩn đem cái ly về, nâng niu, coi như
chén thánh
Có lẽ Số Mệnh, cũng có
1 lần khát nước
Bèn nâng người đàn bà
lên môi và uống
Một người đàn bà mới nhỏ nhoi
làm sao
Và, như sợ làm bể, bèn
cất nàng vô 1 nơi, không dám đụng tới
nữa
Trong căn lầu vàng, nơi
chứa toàn bảo vật vô giá
Có người đàn bà, đứng
đó, giống như 1 món đồ vay, mượn,
Già mãi đi, và trở nên
mù
Chẳng quí giá cái con
khỉ gì nữa, và chẳng đặc biệt cái chi
chi!
Note: Duyên Anh có
kể câu chuyện, về một cháu ngoan Bác Hồ,
một bữa được Bác mi lên má, bèn nhất
định không rửa mặt, sợ mất mùi Bác.
Nghe nói, cả tháng sau, cô
bé con quyệt tay lên má, ngửi, khoe với
bạn, vưỡn còn mùi Bác Hồ!
Đi tù cải tạo mút mùa
vì chuyện này!
Hà, hà!
Solitude
There now, where the first crumb
Falls from the table
You think no one hears it
As it hits the floor,
But somewhere already
The ants are putting on
Their Quaker hats
And setting out to visit you.
Charles Simic: Selected Early Poems
Cô đơn
Chủ nhật, sáng nay, ở một Starbucks, ở Tiểu
Sài Gòn
Mẩu bánh sừng trăng đầu tiên rớt
khỏi mặt bàn em đang ngồi
Em nghĩ, chắc là chẳng ai nghe tiếng
rớt của nó, khi chạm sàn gỗ,
Nhưng đâu đó, ở
một thành phố khác
Đàn kiến đội lên đầu chiếc nón
Quaker
Và lên đường, thăm em giùm
anh.
Emily's Theme
My dear trees, I no longer recognize
you
In that wintry light.
You brought me a reminder I can do without:
The world is old, it was always old,
There's nothing new in it this afternoon.
The garden could've been a padlocked window
Of a pawnshop I was studying
With every item in it dust-covered.
Each one of my thoughts was being
ghostwritten
By anonymous authors. Each time they hit
A cobwebbed typewriter key, I shudder.
Luckily, dark came quickly today.
Soon the neighbors were burning leaves,
And perhaps a few other things too.
Later, I saw the children run around the fire,
Their faces demonic in its flames.
Charles Simic
Nhã Đề
Cây thân thương của
ta ơi
Ta không còn nhận ra mi
Trong cái ánh sáng hiu
hắt này
Mi đem đến cho ta lời nhắc nhở thật cần, nếu
không có nó
Rằng thế giới thì già, như nó
vưỡn luôn luôn già
Chẳng có gì mới trong nó,
buổi xế trưa này
Khu vườn, vưỡn như cái cửa sổ móc
khóa
Của một tiệm cầm đồ
Ta nghiên cứu mọi món đồ đầy bụi
của nó.
Mỗi một tư tưởng của ta, thì
đều được mướn viết
Bởi những tác giả vô danh
Mỗi lần họ đập một cú lên cái
máy đánh chữ
Là ta rùng mình, tim đau
nhói một phát.
May quá, đêm, bữa nay đến thật
lẹ
Chẳng mấy chốc, láng giềng sẽ đốt lá
Và có thể, một vài cái
gì nữa.
Sau đó, ta nhìn thấy những đứa
trẻ chạy vòng quanh
Mặt mũi chúng phản chiếu trong ánh
lửa ma mị
Father in the Library
A high forehead, and above it tousled hair
On which a ray of sun falls from the window.
And so father wears a bright fluffy crown
When he spreads before him a huge book.
His gown is patterned like that of a wizard.
Softly, he murmurs his incantations.
Only he whom God instructs in magic
Will learn what wonders are hidden in this book.
Father's Incantations
O sweet master, with how much peace
Your serene wisdom fills the heart!
I love you, I am in your power
Even though I will never see your face.
Your ashes have long been scattered,
Your sins and follies no one remembers.
And for ages you will remain perfect
Like your book drawn by thought from nothingness.
You knew bitterness and you knew doubt
But the memory of your faults has vanished.
And I know why I cherish you today:
Men are small but their works are great.
Czeslaw Milosz: New and Collected Poems 1931-2001
Note: Hai bài thơ trên, gửi theo ông
anh của Gấu thật OK!
LATE RIPENESS
Not soon, as late as the approach of my ninetieth year,
I felt a door opening in me and I entered
the clarity of early morning.
One after another my former lives were departing,
like ships, together with their sorrow.
And the countries, cities, gardens, the bays of seas
assigned to my brush came closer,
ready now to be described better than they were before.
I was not separated from people,
grief and pity joined us.
We forget-I kept saying-that we are all children of the King.
For where we come from there is no division
into Yes and No, into is, was, and will be.
We were miserable, we used no more than a hundredth part
of the gift we received for our long journey.
Moments from yesterday and from centuries ago-
a sword blow, the painting of eyelashes before a mirror
of polished metal, a lethal musket shot, a caravel
staving its hull against a reef-they dwell in us,
waiting for a fulfillment.
I knew, always, that I would be a worker in the vineyard,
as are all men and women living at the same time,
whether they are aware of it or not.
Czeslaw Milosz: New and Collectected
Poems 1931-2001
Bài trên, mừng SN /GCC Chín Bó thì
thật tuyệt!
TOMAS TRANSTROMER (b. 1931)
After Someone's Death
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along on
skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi
sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm
những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch
1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm
ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ
1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh
giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm
thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì
lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có
thịt.
Tên samurai thì là cái chó
gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần sầu.
Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác
thân nào còn, linh hồn thì cũng có
khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu
nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng
ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ:
VC bi giờ coi bộ trân
trọng cái bóng của ông cùng cái áo
giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn cả đám
bạn quí hải ngoại của ông! (1)
TTT 5 năm, 2011
TTT
22.3.2006 – 22.3. 2011
Trang TTT trên E-Books
Điểm Sách Là Gì?
Hiện Ðại vs Cổ Ðiển
Nhân nhớ tới ông
anh.
Cái vụ Nobel Mít nhặt thùng rác,
cực bửn, đành phải viết rõ ra ở đây, vì
những tên còn sống, còn sống.
Viết để chúng, nếu cần đính chính,
chúng đều có báo chí trong tay.
Vụ này đăng đầy đủ trên tờ Thời Tập. Gấu không
nhớ rõ chi tiết, tóm tắt sau đây.
Lần đó, Vũ Hoàng Chương, là Chánh,
TTT, Phó. TTT đề nghị cho Trần Tuấn Kiệt, vì trốn lính,
bị bắt, đang thụ án lao công chiến trường, chắc ngỏm.
Cho, là TTK thoát chết.
OK. Ký biên bản.
Xong, có ai đó đề nghị, bi giờ thử bỏ phiếu,
coi ai được.
Trần Dạ Từ được.
Khi TTT ra về rồi, cả đám còn lại gây
sức ép lên VHC, khiến ông làm lại biên
bản, từ những tờ phiếu vứt vô thùng rác.
Có thể, do vậy, mà TDT ít khi khoe
tớ được…. Nobel chăng?
Cái tên nâng bi TDT khui ra, làm
TDT nhột... chăng?
Nhưng, tởm quá. Cả hai tên đều tởm
Cả 1 lũ tởm. NQT
IN WARSAW
What are you doing here, poet,
on the ruins
Of St. John's Cathedral this sunny
Day in spring?
What are you thinking here,
where the wind
Blowing from the Vistula scatters
The red dust of the rubble?
You swore never to be
A ritual mourner.
You swore never to touch
The deep wounds of your nation
So you would not make them holy
With the accursed holiness that pursues
Descendants for many centuries.
But the lament of Antigone
Searching for her brother
Is indeed beyond the power
Of endurance. And the heart
Is a stone in which is enclosed,
Like an insect, the dark love
Of a most unhappy land.
I did not want to love so.
That was not my design.
I did not want to pity so.
That was not my design.
My pen is lighter
Than a hummingbird's feather.
This burden
Is too much for it to bear.
How can I live in this country
Where the foot knocks against
The unburied bones of kin?
I hear voices, see smiles. I cannot write
anything; five hands
Seize my pen and order me to write
The story of their lives and deaths.
Was I born to become
a ritual mourner?
I want to sing of festivities,
The greenwood into which Shakespeare
Often took me. Leave
To poets a moment of happiness,
Otherwise your world will perish.
It's madness to live without
joy
And to repeat to the dead
Whose part was to be gladness
Of action in thought and in the flesh, singing,
feasts,
Only the two salvaged words:
Truth and justice.
Warsaw, 1945
Ở Warsaw
Nè, tên thi sỡi
kia, mi làm cái trò gì ở đây,
Trên những điêu tàn của
Nhà Thờ St. John
Vào một ngày xuân đẹp
nắng như thế này?
Mi nghĩ gì, vào
lúc này, khi gió đùa về đây,
Từ những nát tan ở khu Vistula,
Bụi đỏ của đá vụn
Mi thề, mi đếch bao giờ làm
một kẻ khóc lóc, than thở theo đúng
lễ nghi
Mi thề mi chẳng bao giờ rờ vô những
vết thương sâu hoắm của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc than như thế
là mi biến chúng thành thiêng liêng
Thứ thiêng liêng đặc biệt Mít,
rất ư khó chịu, thứ thiêng liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân Mít từ thuở dựng
nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự than thở của Antigone
Dành cho người anh của nàng
Thì vượt quá cả quyền uy của
sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim thì là
1 hòn đá, trong đó có một tình
yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất cực kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn yêu nước
Mít bằng thứ tình yêu cà chớn
đó.
Đó không phải là sở
nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch muốn thương hại kiểu đó.
Cũng đếch phải sơ đồ của Gấu
Cây viết của Gấu thì nhẹ hơn
nhiều.
Nhẹ hơn cả một cái lông… chim!
Thứ gánh nặng đó, quá
nặng cho nó,
Để mà mang, khiêng, chịu đựng.
Làm sao Gấu sống ở xứ đó
Khi bàn chân, đi tới đâu,
là đụng tới xương của họ hàng, bà con,
Những người không được chôn
cất.
Gấu nghe những tiếng nói, nhìn
thấy những nụ cười.
Gấu không thể viết bất cứ điều gì;
năm bàn tay nắm lấy cây viết của Gấu và
ra lệnh viết
Câu chuyện về cuộc đời và cái
chết của họ.
Không lẽ Gấu sinh ra để là
1 tên khóc than theo nghi lễ, Nhà Thờ,
hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát về những lễ hội.
Về cánh rừng xanh mà Shakespeare
thường rủ Gấu vô đó chơi.
Hãy để thi sĩ cho một khoảnh khắc
hạnh phúc, nếu không, thế giới của bạn sẽ tiêu
tùng.
Đúng là khùng
điên, ba trợn,
Nếu sống mà đếch vui, đếch thú,
đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những người đã
chết
Lập cái cái phần vui vẻ, sung
sướng hạnh phúc của hành động,
Trong tư tưởng, trong thân xác
còn tươi rói, trong hát hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu rỗi:
Sự thực và công lý
Warsaw, 1945
DEDICATION
You whom I could not save
Listen to me.
Try to understand this simple speech as
I would be ashamed of another.
I swear, there is in me no wizardry of words.
I speak to you with silence like a cloud
or a tree.
What strengthened me, for you
was lethal.
You mixed up farewell to an epoch with the
beginning of a new one,
Inspiration of hatred with lyrical beauty,
Blind force with accomplished shape.
Here is a valley of shallow
Polish rivers.
And an immense bridge Going into white fog.
Here is a broken city,
And the wind throws the screams of gulls
on your grave
When I am talking with you.
What is poetry which does not
save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be
cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That I discovered, late, its salutary aim,
In this and only this I find salvation.
They used to pour millet on
graves or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised
as birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you should visit us no more.
Warsaw, 1945
Czeslaw Milosz:
Selected Poems, 1931-2004
Dâng Tặng
Bạn người mà tôi
không thể cứu
Hãy lắng nghe tôi
Hãy cố hiểu bài nói
này, như tôi xấu hổ vì bài nói
khác.
Tôi thề, trong tôi không
có sự ma quỉ của những con chữ
Tôi nói với bạn với sự im lặng
của đám mây, hay của cái cây.
Điều làm tôi mạnh
mẽ, với bạn, chết người.
Bạn trộn lời giã biệt vào
một thời đại, với sự khởi đầu của một thời đại khác,
Hứng khởi của hận thù với cái
đẹp trữ tình
Sức mạnh mù lòa với hình
dạng đã hoàn tất.
Đây là
một thung lũng của những con sông Ba Lan nông,
cạn
Và một cây cầu bao la
Đưa tới một vùng sương mù
trắng. Đây là một thành phố vỡ nát
Và gió thổi những tiếng la
thét của chim hải âu lên mộ bạn
Khi tôi nói với bạn
Thơ ca là gì nếu
không thể cứu
Quốc gia hay dân tộc?
Một sự đồng lõa của những lời dối
trá chính thức,
Một bài ca được hát bởi những
tên say, cổ của họ sẽ bị cắt một lát sau đó
Đọc cho mấy cô gái đại học
Tôi muốn 1 thứ thơ ca
tốt, đẹp mà không biết điều này
Tôi muốn một thứ thơ ca thật muộn
màng tôi mới ngộ ra cái mục đích
đáng ca ngợi của nó
Trong đó, và chỉ trong đó,
tôi tìm thấy sự cứu chuộc
Họ thường đổ hạt kê, hay
hạt anh túc lên những ngôi mộ
Để người chết trở về, hóa trang như
là những con chim
Tôi để cuốn sách của tôi
ở đây cho bạn, người có lần đã từng sống
Để bạn đừng viếng thăm chúng tôi
nữa.
MY FAITHFUL MOTHER TONGUE
Faithful mother tongue,
I have been serving you.
Every night, I used to sit before you little
bowls of colors
so you could have your birch, your cricket,
your finch
as preserved in my memory.
This lasted many years.
You were my native land; I lacked any other.
I believed that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they were few, twenty, ten
or not born, as yet.
Now, I confess my doubt.
There are moments when it seems to me I
have squandered my life.
For you are a tongue of the debased,
of the unreasonable, hating themselves
even more than they hate other nations,
a tongue of informers,
a tongue of the confused,
ill with their own innocence.
But without you, who am I?
Only a scholar in a distant country,
a success, without fears and humiliations.
Yes, who am I without you?
Just a philosopher, like everyone else.
I understand, this is meant
as my education:
the glory of individuality is taken away,
Fortune spreads a red carpet
before the sinner in a morality play
while on the linen backdrop a magic lantern
throw
images of human and divine torture.
Faithful mother tongue,
perhaps after all it's I who must try to
save you.
So I will continue to set before you little
bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is needed in misfortune is a little
order and beauty
Berkeley, 1968
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi
một lòng một dạ
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà
tôi một lòng một dạ
Tôi đã phục
vụ tiếng mẹ đẻ của tôi
Đêm nào cũng vậy, tôi
để trước bà những cái chén màu
sắc,
và như vậy bà có thể
có cây roi, con dế, con chim sẻ của bà
(1)
Như tôi còn gìn giữ
được, trong trí nhớ của mình
Điều này kéo dài
trong nhiều năm
Bà là quê mẹ của tôi;
tôi đâu có quê nào khác.
Tôi tin tưởng bà còn
là vì thiên sứ
Giữa tôi và số thiện nhân
Ngay cả khi đám này đếm trên
đầu ngón tay
Hoặc chưa có mống nào ra đời
Và bây giờ, tôi
thú thực
Hình như là tôi có
tí nghi ngờ
Có những lúc tôi cảm
thấy mình hoang phí đời mình.
Bởi vì tiếng mẹ tôi là
thứ tiếng của một đám người tệ hại
Của những kẻ không hề biết lẽ phải
là gì
Của những kẻ thù hận lẫn nhau
Chúng thù chúng còn
hơn cả thù những quốc gia khác
Thứ tiếng nói của bọn cớm, những
tên chỉ điểm
Của bọn chuyên lầm lẫn
Một lũ bịnh vì sự ngây thơ
của chính chúng
Nhưng không có
bà, thì tôi là ai?
Chỉ là 1 tên học giả ở một
xứ sở xa xôi
một sự thành công, không
sợ hãi mà cũng không tủi nhục
Đúng rồi, tôi là ai
nếu không có tiếng mẹ đẻ?
Chỉ là 1 triết gia
Như mọi người khác
Tôi biết, điều này
có nghĩa như là học vấn của tôi:
Sự vinh quang cá nhân được
lấy đi
Của cải trải ra tấm thảm đỏ
trước kẻ tội lỗi trong 1 vở kịch đạo đức,
trong khi trên tấm màn phông,
cây đèn thần ném ra
những hình ảnh của sự tra tấn, con
người và thần linh.
Tiếng mẹ đẻ mà
tôi một lòng một dạ
Có lẽ, sau chót, chính
tôi là người phải cố gắng cứu tiếng mẹ đẻ của
mình
Và tôi
sẽ tiếp tục bày ra trước tiếng mẹ đẻ những cái
chén mầu sắc, sáng ngời, và trong sạch,
nếu có thể
Bởi vì điều cần trong bất hạnh, là,
một trật tự nho nhỏ và cái đẹp
Czeslaw Milosz
Berkeley, 1968
(1)
Câu này, thú thực Gấu
không hiểu tác giả muốn nói gì.
Trên net, có bài này,
có cả nguyên văn tiếng Ba Lan, bạn nào
rành, chỉ giùm.
Cái đoạn Milosz phạng tiếng mẹ đẻ
của ông, sao nghe thấm quá, đã quá!
NQT
Birch là một loại
cây giống cây lao của VN (từ điển Việt nam gọi
là cây bu-lô) , hoặc cây aspen của
Mỹ, có thân màu trắng, đặc biệt vỏ thân
thường bị bóc ra . Lá trở vàng vào mùa
thu, rất xinh đẹp .
Tiếng mẹ thủy chung
Tôi đã phục vụ bà
Hằng đêm tôi thường đặt trước mặt
bà những chén sắc màu nho nhỏ
để bà có thể có những
cây birch, những chú dế, và những con chim
sẻ
như chúng đã được gìn
giữ (bảo tồn) trong trí nhớ của tôi.
ps. Vì anh nghĩ birch
là cái roi cho nên mới khó hiểu
. Chứ khi biết đó là một loại cây mọc rất
nhiều ở âu mỹ (cũng như tre trúc ở VN ), thì
những thứ thân quen từng nhìn thấy hàng ngày
như cây tre, như dế, như chim sẻ bỗng trở nên thân
thiết ăn sâu trong trí nhớ của những kẻ xa quê
.
Tks. NQT
Bài thơ
“Cà-fe” - từ này của Joseph Huỳnh Văn - sau đây,
của Milosz, Gấu đọc mà cứ nghĩ là, mình
trở lại Quán Chùa, kẻ độc nhất còn sống
sót, trong khi bạn quí thì đã đi xa,
trước Gấu cả rồi!
Nhảm thế!
CAFE
Of that table in the cafe
where on winter noons a garden of frost glittered
on window
panes
I survived alone.
I could go in there if I wanted to
and drumming my fingers in a chilly void
convoke shadows.
With disbelief I touch the cold marble,
with disbelief I touch my own hand.
It-is, and I-am in ever novel becoming,
while they are locked forever and ever
in their last word, their last glance,
and as remote as Emperor Valentinian
or the chiefs of the Massagetes, about whom
I know nothing,
though hardly one year has passed, or two
or three.
I may still cut trees in the woods of the
far North,
I may speak from a platform or shoot a film
using techniques they never heard of.
I may learn the taste of fruits from ocean
islands
and be photographed in an attire from the
second half of the
century.
But they are forever like busts in frock coats
and jabots
in some monstrous encyclopedia.
Sometimes when the evening aurora paints the
roofs in a
poor street
and I contemplate the sky, I see in the white
clouds
a table wobbling. The waiter whirls with his
tray
and they look at me with a burst of laughter
for I still don't know what it is to die at
the hand of man,
they know-they know it well.
Warsaw, 1944.
for I still don't know what it is to die at
the hand of man,
they know-they know it well.
Quả thế thực!
http://www.nybooks.com/articles/2001/12/20/a-world-gone-up-in-smoke/
One life is not enough.
I'd like to live twice on this sad planet,
In lonely cities, in starved villages,
To look at all evil, at the decay of bodies,
And probe the laws to which the time was subject,
Time that howled above us like a wind.
Sống một đời chẳng đủ.
Giá mà có hai đời trên
hành tinh buồn này,
Để sống trong những thành phố cô đơn,
trơ trọi,
những làng mạc đói rạc,
Để nhìn đủ thứ ác,
đủ thứ thây người nát rữa ra,
Và để thấu được luật đời, mà
Thời gian là đề tài của nó.
Thời gian, hú như gió,
Trên đầu chúng ta.
Note: Khúc thơ trên, Simic trích
dẫn, trong bài viết của ông, link, trên, cho đọc
free.
Gấu kiếm ra trọn bài thơ, trong tập thơ New
and Collected Poems 1931-2001. Post sau đây, sẽ có
bản tiếng Mít.
DAWNS
A tall building. The walls crept upward in the dark,
Above the rustle of maple leaves, above hurrying feet.
A tall building, dawning with its lights above the square.
Inside hissing softly in the predawn hours,
The elevator moved between the floors. The cables twanged.
A rooster's cry rang in the pipes and gutters
Till a shiver ran through the house. Those awakened heard
This singing in the walls, terrible as the earth's happiness.
Already the screech of a tram. And day. And smoke again.
Oh, the day is dark. Above us, who are shut
High up in our rooms, flocks of birds
Fly by in a whir of flickering wings.
Not enough. One life is not enough.
I'd like to live twice on this sad planet,
In lonely cities, in starved villages,
To look at all evil, at the decay of bodies,
And probe the laws to which the time was subject,
Time that howled above us like a wind.
In the courtyard of the apartment house street musicians
Croon in chorus. The hands of listeners shine at the windows.
She gets up from her rumpled sheets.
In her dreams she thought of dresses and travel.
She walks up to the black mirror. Youth didn't last long.
Nobody knew that work would divide a day
Into great toil and dead rest,
And that the moon would pause every spring
Above the sleep of the weary ones. In our hearts' heavy
beating
No spring for us anymore, nor love.
To cover lip one’s thighs. Let them not,
With their lacing of thin purple veins, remember
This child rushing down the staircase,
This child running down the gray sidewalk.
Laughter can still be heard in the distance-
Anew, everything the child will discover anew
And down an immense, empty, frosty road
Through a space ringing with the thunder of the pulse
Her child will go. And time will howl.
Standing naked in front of her mirror, the woman
Lightly wipes away two tears with her kerchief
And darkens her eyebrows with henna.
Wilno, 1932
Milosz
GIFT
A day so happy.
Fog lilted early, I worked in the garden.
Hummingbirds were stopping over honeysuckle flowers.
There was nothing on earth I wanted to possess.
I knew no one worth my envying him.
Whatever evil I had suffered, I forgot.
To think that once I was the same man did not embarrass
me.
In my body I felt no pain.
When straightening up, I saw the blue sea and sails.
Berkeley, 1971
Bài này GCC dịch
rồi, nhưng không làm sao kiếm ra!
Thấy rồi! Nó nằm trong
bài viết về nhà văn vô lại NV: Viết lại Truyện
Kiều
Quà tặng
Một ngày thật hạnh phúc
Sương tan sớm, tôi làm vườn
Chim đậu trên cành
Đếch có cái gì trên mặt
đất mà tôi muốn sở hữu
Đếch biết 1 ai xứng đáng cho tôi thèm
Cái Ác, bất cứ gì gì, mà
tôi đã từng đau khổ, tôi quên mẹ mất rồi.
Nghĩ, có thời, tôi cùng là
1 người, cũng chẳng làm phiền tôi.
Trong thân thể tôi, tôi không
cảm thấy đau
Khi ngẩng đầu lên, đứng thẳng dậy, tôi
nhìn thấy biển xanh và những cánh buồm.
Berkeley, 1971.
Milosz là 1 nhà
thơ mà cái phần cực độc, cực ác, không
thua bất cứ ai, có thể nói như vậy. Suốt đời, ông
thèm được như Brodsky, sống 1 cuộc đời gần như sống 1 phép
lạ. Nhưng sau ông nhận ra, chính cái phần nhơ
bẩn ác độc, với ông, cần hơn nhiều, so với “thiện căn”.
Milosz
ANUS MUNDI
The cloaca of the world. A certain
German wrote down that definition of Poland in 1942. I spent the
war years there and afterward, for years, I attempted to understand
what it means to bear such an experience inside oneself. As is well
known, the philosopher Adorno said that it would be an abomination to
write lyric poetry after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas
gave the year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote
idyllic verses, "The World" and a number of others, in the very center of
what was taking place in the anus mundi, and not by any means out of ignorance.
Do I deserve to be condemned for this? Possibly, it would be just as good
to write either a bill of accusation or a defense. Horror is the law of
the world of living creatures, and civilization is concerned with masking
that truth. Literature and art refine and beautify, and if they were to
depict reality naked, just as everyone suspects it is (although we defend
ourselves against that knowledge), no one would be able to stand it. Western
Europe can be accused of the deceit of civilization. During the industrial
revolution it sacrificed human beings to the Baal of progress; then it
engaged in trench warfare. A long time ago, I read a manuscript by one Mr.
Ulrich, who fought at Verdun as a German infantry soldier. Those people
were captured like the prisoners in Auschwitz, but the waters of oblivion
have closed over their torment and death. The habits of civilization have
a certain enduring quality and the Germans in occupied Western Europe were
obviously embarrassed and concealed their aims, while in Poland they acted
completely openly.
It is entirely human and understandable to be stunned
by blatant criminality and to cry out, "That's impossible!" and
yet, it was possible. But those who proclaim that God "abandoned us
in 1941" are acting like conservators of an anodyne civilization.
And what about the history of humankind, with its millennia of mutual
murder? To say nothing of natural catastrophes, or of the plague, which
depopulated Europe in the fourteenth century.
Nor of those aspects of human life which do not need
a grand public arena to display their subservience to the laws
of earth.
Life does not like death. The body, as long as it is
able to, sets in opposition to death the heart's contractions and
the warmth of circulating blood. Gentle verses written in the midst
of horror declare themselves for life; they are the body's rebellion
against its destruction. They are carmina, or incantations
deployed in order that the horror should disappear for a moment and
harmony emerge-the harmony of civilization or, what amounts to the
same thing, of childish peace. They comfort us, giving us to understand
that what takes place in anus mundi is transitory, and that harmony
is enduring-which is not at all a certainty.
Anus Mundi:
Hậu môn của thế giới
Milosz cho biết chính
là ở hậu môn thế giới mà ông làm
thơ, và đừng có nghĩ là ông không
biết câu phán của Adorno: As is well known, the philosopher
Adorno said that it would be an abomination to write lyric poetry after
Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas gave the year 1941
as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote idyllic verses,
"The World" and a number of others, in the very center of what was taking
place in the anus mundi, and not by any means out of ignorance.
*
Milosz biết, nhưng nhà
nghệ sĩ Võ Đình của Mít, không.
Ông bỏ nước ra đi nên chẳng hề biết chiến
tranh Mít, nhưng lạ là cũng chẳng biết Lò Thiêu,
hay Adorno là thằng chó nào.
Khi Gấu lỡ nhắc đến thằng chó Adorno, trên
tờ Văn Học,
khi còn giữ mục Tạp Ghi, và câu phán ghê
gớm của ông, nhà nghệ sĩ bèn mắng, thằng cha
này đúng là "vung tay quá trán".
Sau Lò Thiêu vẫn có thơ, chứng
cớ là "Đêm Tận Thất Thanh" của Phan Nhật Nam đây
nè!
Mà, đâu chỉ... "Đêm
Tận Thất Thanh"!
Có thể nói, tất
cả văn chương Mít, sau 30 Tháng Tư 1975, VC hay không
VC, tù VC hay không tù VC, thì đều được
viết ra, như thể Lò Cải Tạo đếch xẩy ra.
NQT
To: You, GCC
Czeslaw Milosz
FOR MY EIGHTY-EIGHTH BIRTHDAY
A city dense with covered passageways, narrow
little squares, arcades,
terraces descending to a bay.
And I, taken by youthful beauty,
bodily, not durable,
its dancing movement among ancient stones.
The colors of summer dresses,
the tap of a slipper's heel in centuries-old lanes
give the pleasure of a sense of eternal recurrence.
Long ago I left behind
the visiting of cathedrals and fortified towers.
I am like someone who just sees and doesn't pass
away,
a lofty spirit despite his gray head and the afflictions
of age.
Saved by his amazement, eternal and divine.
Genoa, 30 June 1999
Cho 88th Birthday của GCC
Thành phố đậm đặc với những lố i đi có mái che dành cho
khách bộ hành
Những quảng trường nhỏ hẹp, những vòm cung.
Những terraces dẫn xuống bãi biển
Và Gấu bị mê hoặc bởi cái
vẻ đẹp của 1 thân thể trẻ trung, không thể kéo
dài
Cái duyên dáng nhảy múa
của nó giữa những viên đá cổ xưa
Màu áo dài mùa hè
Tiếng guốc rộn ràng giữa những hè
phố hàng hàng thế kỷ của khu Phố Cổ
Chúng đem tới cái lạc thú
của một cảm quan về 1 quy hồi vĩnh cửu
Đã lâu lắm rồi
Gấu không còn có cái
thú thăm viếng thành quách, lâu đài,
tháp cổ….
Gấu như 1 ai đó,chỉ nhìn, và
đứng ỳ ra, đếch chịu đi xa, lên chuyến tàu suốt!
Một thứ tinh anh, cái gì gì
“nhân hậu và cảm động”, như Seagull đã từng
nhìn ra
Mặc dù chẳng còn cái răng
nào, tóc bạc phếch, và cái đau tuổi
già
Được cứu vớt nhờ cái sự ngỡ ngàng,
hoài hoài, thiêng liêng, thần thánh
Hai bài sau đây, có thể gửi
theo TTT.
AGAINST THE POETRY OF PHILIP
LARKIN
I learned to live with my despair,
And suddenly Philip Larkin's there,
Explaining why all life is hateful.
I don't see why I should be grateful.
It's hard enough to draw a breath
Without his hectoring about nothingness.
My dear Larkin, I understand
That death will not miss anyone.
But this is not a decent theme
For either an elegy or an ode.
My dear Larkin
Chết chẳng tha 1 ai
Nhưng đâu phải đề tài sạch sẽ
Cho 1 bi khúc, hay 1 ode!
ON THE DEATH OF A POET
The gates of grammar closed behind him.
Search for him now in the groves and wild forests
of the dictionary.
Cái cánh cổng văn phạm - rằng,
sáng mai "khua" thức, hay, "khuya" thức, đưa em vào
"quán trọ", hay, "quán rượu" - đã đóng
lại sau lưng ông.
Kiếm ông ta bây giờ, là ở trong
rừng thông Đà Lạt, hay, ở mùa này,
gió biển thổi điên lên lục địa!
Thơ Milosz cực kỳ trí tuệ, lũ Mít
không làm sao làm được, hiểu được, chấp nhận
được – Võ Phiến chẳng đã có lần vặc ông
em (?) của ông, là Thầy Kuốc, có thứ thơ nhảm
nhí đó ư? – Ở nền thơ của ông là Ky Tô
Giáo, cái này Mít, không phải
thi sĩ, mà nhân dân, cũng ít có. Bắc
Kít lại càng thù Ky Tô, khi buộc tội họ đem
Bạch Quỉ tới xứ Mít.
TTT phải đến khi tù VC mới tới được cõi
thiền, mới có cái gọi là "ẩn mật". Có
thể nói nhà tù cứu TTT, cứu cả thơ Mít.
Ta Về, Giải oan cuộc biển dâu này, nghĩa của nó
là thế.
ELEGY FOR A PARK
The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped
clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what
past?
If there were no beginning, nor imminent
ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Bi Khúc Dành Cho
Công Viên Chi Lăng, Quán Chùa
Mê cung biến mất
Cũng biến mất, là,
Những đại lộ với những hàng me ngay
ngắn
Những mái hiên buổi chiều
Và tấm gương hằng chăm chú
theo dõi
Nhân lên mọi khuôn mặt
mỗi người
Mọi thứ, mọi điều thoáng chốc, trôi
tuột.
Đồng hồ ngừng,
Mớ kim ngân mọc lộn xộn
Công viên Chi Lăng với những
hàng cây, những pho tượng bất thường
Phiá bên kia của buổi chiều,
sự rùng mình của những chú chim
Bao lơn, tiếng lào xào lười
biếng của con suối
Đều là những điều của quá khứ
Những điều của quá khứ nào?
Nếu không có bắt đầu, thì
cũng chẳng hề có tận cùng hiển nhiên sắp
hiển hiện
Nếu nằm ườn trong kho, với chúng ta,
là một vô cùng tận
Của những ngày trắng xen những đêm
đen
Thì
Chúng ta bây giờ đang sống cái
quá khứ chúng ta sẽ trở thành
Chúng ta là thời gian, chính
nó
Là con sông không thể
nào chia cắt ra được
Chúng ta là Sài Gòn,
là Carthage, là Uxmal
Là những bức tường đã thành
bụi
Của những người Sài Gòn ngày
nào, trước 1975
Là công viên Chi Lăng
trước Quán Chùa
Đã biến mất
Công viên biến mất mà,
Những dòng thơ này của GCC
Đang tưởng nhớ, hoài niệm.
Hình [by manhhai]:
Công viên Chi Lăng & Quán
Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn
— Hừm! Thời nay tục nay như
thế rồi đi tới đâu?
— Tới thơ trí tuệ.
— Bạn nghĩ vậy thật đấy à?
— Không nghĩ vậy không xong. Một mặt
bạn, chính bạn, bảo rằng thơ dịch bây giờ xuất hiện
trên khắp tạp chí văn nghệ các nước; một mặt tôi
nhớ ông Nguyễn Hưng Quốc có lần cũng nhận thấy bây
giờ nhiều thơ trí tuệ. Người nào cũng đúng cả.
Tôi chỉ thêm vào một ý kiến: E giữa hai sự
việc có mối liên hệ. Bạn nghĩ coi: Khi bạn sống giữa một
thời đại mà các đại danh gia quốc tế, các con đại
bàng trên đỉnh Thi Sơn (Parnasse), các thi hào
thi bá tiền tiến nhất của thế kỷ đều trao gửi đến ta toàn
thơ xương cả thì ai còn lòng nào ngó
ngàng tới chất thịt của thơ nữa. Trăm trường hợp như một: thơ
các vĩ nhân dịch ra đều chỉ còn trơ cái ý
thơ thôi. Thơ như thế đang thành công lớn; họa có
điên mới làm khác.
Võ Phiến - Thơ dịch
Reason and Rose
Adam Zagajewski
Nhưng có lẽ, ý
nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của
Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót
những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho
mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình
với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình
thường.
Tuyệt!
Milosz, giống như Cavafy hay
Auden, thuộc dòng những thi sĩ mà thơ ca của họ
dậy lên mùi hương của trí tuệ chứ không
phải mùi hương của những bông hồng.
Nhưng Milosz hiểu từ trí
tuệ, reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ, có thể
nói, theo nghĩa “Thomistic” [nói theo kiểu ẩn dụ,
lẽ dĩ nhiên]. Điều này có nghĩa là, ông
hiểu nó theo một đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly
đoạn tuyệt lớn, nó cắt ra, một bên là, sự thông
minh, trí tuệ của những nhà duy lý, còn
bên kia là của sự tưởng tượng, và sự thông
minh, trí tuệ của những nghệ sĩ, những người không thường
xuyên tìm sự trú ẩn ở trong sự phi lý, irrationality.
Thơ trí
tuệ vs Thơ tình cảm
Tháng Mấy
gửi một người không quen…
Tháng Mấy rồi, Em có
biết?
tấm lịch sắp đi vào ngõ cụt
ngày không còn dông dài
nói chuyện cũ
hàng cây thưa lá cho nắng và
gió tự do bông đùa
chiếc xe em về đậu mỗi chiều
con đường dầy thêm với lá
rung rúc còi tàu không
tìm được sân ga
những ngôi nhà nhả khói
và đêm về thắp đèn
Tháng Mấy rồi, Em có
biết?
chạy luống cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh no tròn hạt sương sớm
đọng trên mái tóc
nụ hôn sâu trong đêm
những đổ vỡ chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi, Em có
biết?
con sông ngưng chảy
nheo mắt qua những xa lộ
nhịp thở chậm
Rồi buổi chiều cuối năm sẽ đến
ai bấm chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh vô cùng
Tháng Mấy rồi sẽ qua
Vẫn còn một người đợi em
Đài Sử
GCC lèm bèm: Gấu mê nhất bài thơ này, của tác
giả. Chữ dùng tuyệt. Tình cảm đầy, nhưng giấu thật
kín.
Làm nhớ tới ý thơ Lão Tử, thánh
[thi cũng được] nhân, thật bất nhân.
Coi loài người như ‘sô cẩu’.
Mặt lạnh như tiền, nhưng trái tim thì
nóng bỏng!
Đẩy tới cực điểm ra ý
của Kafka:
In the duel between you and the world, back the
world.
Trong trận đấu sinh tử tay đôi giữa bạn và
thế giới
[tha nhân, như GCC hiểu],
hãy hỗ trợ thế giới
[Hãy đâm vào sau lưng bạn].
Bạn đọc TV bi giờ chắc là
hiểu ra tại làm sao, Gấu nằm dưới chân tượng Quan
Công, tỉnh dậy, bò xuống sông Mekong tắm 1
phát, thấy cái xác của Gấu trôi qua!
Hà, hà!
Xạo tổ cha!
Già rồi mà nói dóc quá
xá!
Mé sau
Chùa Long Vân, Parsé.
Gấu nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công.
Dậy, xuống mé sông Mekong tắm.
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|