Album
Arson
Shirts rose on a neighbor’s laundry line,
One or two attempting to fly,
As three fire engines sped by
To save a church going up in flames.
People walking back from the pyre
With their Sunday clothes in tatters
Looked like a troupe of scarecrows
The bank had ousted from their farm.
As for the firebug, we were of two minds:
Some kid trying out a new drug,
Or a drunk ex-soldier angry at God
And Country for making him a cripple.
—Charles Simic
Bà Hỏa
Mấy cái sơ mi trên dây phơi quần áo nhà
hàng xóm
Bèn nhoi lên
Một hay hai cái còn tính đi 1 đường bay lượn
Khi mấy cái xe cứu hỏa la ỏm tỏi, “Cháy! Bà con ơi!
Cháy!
Chúng tính kíu cái nhà thờ đang được
bà hoả thăm viếng
Mọi người
ta về, từ giàn hoả
Trong bộ đồ vía Chủ Nhật, rách tả tơi
Chẳng khác chi mấy thằng người rơm
Nhà băng đã xiết mẹ trang trại của họ
À,
mà này, về “bọ lửa”
Chúng ta có hai vấn nạn lớn về chúng:
Lũ trẻ, có đứa thử chơi 1 loại ken mới xuất hiện
Hay 1 tên cựu binh Ngụy giận dữ với Chúa Trời
Và Xứ Mít, vì đã làm anh ta què
giò
Note: Firebug chắc là con cánh cam
Charles Simic, a former Poet Laureate
of the United States, is the author most recently of The Lunatic (poetry)
and The Life of Images (prose).
Trịnh
Kim Tiến is with Pham
Doan Trang.
NỮ NHÀ BÁO TIẾP TỤC
BỊ BẮT ĐƯA ĐI VÀO NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ
Sau khi
thoát khỏi sự giam cầm phi lý, nhà báo Phạm
Đoan Trang kiên quyết không chịu rời khỏi Việt Nam. Chị nói chị muốn giữ trọn lời hứa
của mình, người dân Việt Nam đã bị lừa dối quá
nhiều và chị thà bị bắt chứ không để mọi người phải
thất vọng. Chị muốn chứng kiến giây phút đất nước này
thay đổi và chị sẽ không bước dù chỉ một bước chân
ra khỏi biên giới quê hương.
Trước đó,
an ninh nói với đôi chân phải chống nạng rằng chị đừng
mong vào Sài Gòn sẽ thoát. Chính vì
sự đe dọa này chị đã quyết định lẩn tránh tại Hà
Nội luôn. Trang biết rằng đang có một sự truy nã ngầm
đang diễn ra với mình, dù chị có ở đâu. Chân
chị đã quá đau để có thể tiếp tục di chuyển xa.
Nhà
báo bình dân đã nhờ bạn thuê giúp
một căn phòng nhỏ và ở đó trong suốt những ngày
qua.
Chiều nay
khoảng 3h30 chúng tôi đã không còn có
thể liên hệ với chị. Chủ nhà nơi thuê trọ thông
báo rằng công an khu vực đã đến. Theo như chúng
tôi biết thì hiện nay dưới nơi chị thuê ở có
một số an ninh thường phục vẫn còn đứng gác. Tác
giả sách “Chính Trị Bình Dân” đã một
lần nữa bị bắt đưa đi.
Lần trước
là trước ngày giỗ bố và hôm nay là
ngày mà họ luôn hô hào phải tôn
trọng phụ nữ. Ngày Quốc tế phụ nữ, người phụ nữ với đôi nạng
bị an ninh lôi đi đâu chưa rõ tin tức.
LỜI TỰ THÚ
TRƯỚC ĐÊM GIAO THỪA
Thật chẳng
vui vẻ gì khi phải viết những dòng này, vào
lúc này.
Trong khoảng
nửa năm nay, kể từ mùa hè 2014 khi còn đang ở Mỹ,
tôi đã thường xuyên
nhận được từ nhiều trang Facebook nặc danh những tin nhắn đe dọa với một
nội dung chung: Sẽ đưa các clip và hình ảnh nude,
sex của tôi – Phạm Đoan Trang – lên mạng Internet, nếu tôi
tiếp tục các hoạt động mà họ gọi là “chống phá”.
Tôi
im lặng không trả lời một tin nhắn nào, vì tôi
biết tác giả của chúng chỉ có thể là ai hoặc
làm việc cho ai, và tôi… không biết phải nói
gì.
Đó
là một câu chuyện buồn, đã xảy ra từ gần 6 năm về
trước, trong một vụ việc mà tôi tự gọi là “vụ bê
bối 2009” của tôi với cơ quan an ninh điều tra của Việt Nam.
Hẳn nhiều
người còn nhớ, vào cuối mùa hè năm 2009,
có ba blogger bị bắt tạm giam 9 ngày ở một trong những vụ
bắt nổi tiếng của năm (nối sau vụ bắt doanh nhân Trần Huỳnh Duy
Thức và luật sư Lê Công Định). Ba blogger ấy là
Mẹ Nấm, Người Buôn Gió, và tôi – khi đó
còn là phóng viên của chuyên trang Tuần
Việt Nam thuộc báo điện tử VietNamNet.
Cả ba blogger
bị bắt vì bị cho là có dính líu đến
một “âm mưu” in áo phông chống dự án bauxite
Tây Nguyên.
Trong ba
blogger, có lẽ tôi là người “oan” nhất, theo cái
nghĩa tôi không hề tham gia in áo, chưa từng trông
thấy áo, cũng như không một lần được hỏi ý kiến về
vụ áo xống đó. Sau này, thỉnh thoảng tôi vẫn
nhớ lại câu chuyện ấy, với một ý nghĩ buồn trong đầu: “Áo
em chưa mặc một lần…”.
Cũng về
sau này, trong ba blogger, có lẽ tôi là người
ít nói về câu chuyện năm ấy nhất, không phải
vì sợ an ninh, sợ bị trả thù, hay sợ bất kỳ điều gì
khác, mà vì hai lý do chính:
Lý
do thứ nhất, tôi xấu hổ. Xấu hổ vì mình bị bắt một
cách lãng xẹt, và hồi ấy, tôi ngu ngơ lắm,
đần độn lắm, tôi đâu biết gì về chính trị, luật
pháp, nhân quyền, v.v. Tôi đã là một
người hoàn toàn ngây thơ và nhút nhát.
Tôi đã khóc mếu, đã van lạy, xin khai báo
thành khẩn – những việc mà không bao giờ tôi
nghĩ mình có thể làm trong đời nếu mình vô
tội. Nhưng than ôi, làm sao một đứa con gái nhà
lành, chưa từng có chuyện dính dáng đến pháp
luật và cơ quan công quyền, sống một thời tuổi trẻ và
tuổi thơ tràn đầy thi ca nhạc họa, lại có thể có đủ
bản lĩnh để đương đầu với những kẻ được đào tạo để thị uy, trấn áp
người khác?
Mà
cũng chính vì thế, tôi thấy xấu hổ thay cho cơ quan
an ninh điều tra Bộ Công an: Làm sao mà họ có
thể biến chuyện in mấy cái áo phông thành một
âm mưu xâm hại an ninh quốc gia được? Làm sao mà
họ có thể thấy tự hào, hãnh diện vì đã
cả phá thành công một “chuyên án” như
thế? Nói cách khác, người bị bắt đã lố bịch,
kẻ đi bắt người còn lố bịch hơn.
Lý
do thứ hai, tôi đã trải qua những giờ phút rất đau
khổ. Và đó là lý do còn ám
ảnh tôi mãi mãi về sau này, cho đến tận bây
giờ.
Họ – cơ
quan an ninh điều tra của Bộ Công an – đã thu giữ máy
tính của tôi trái phép, trong lúc tôi
đang bị giam ở B14.
Họ đã
xâm nhập máy tính của tôi – đương nhiên
là trái phép – và tệ hơn thế nữa, phục hồi
lại toàn bộ một số bức ảnh riêng tư mà tôi hoặc
đã xóa đi, hoặc đang lưu trong một folder bí mật
nào đó mà chính tôi cũng không
ý thức nhớ (vì có bao giờ tôi từng nghĩ đến
chuyện mình có thể bị bắt, máy tính có
thể rơi vào tay an ninh).
Đó
là những bức ảnh ghi lại cảnh quan hệ của tôi – vào
cái thời mà tôi cho là mình lãng
mạn nhất, và cũng ngây thơ nhất. Thời mà tôi
quan niệm “yêu là phải hết mình”. Thời mà
tôi như sống trong một thế giới đầy những hình ảnh đẹp đẽ,
những giai điệu huyền ảo: làm báo, yêu anh, và
nghe guitar cổ điển, nghe nhạc Beatles. Tôi đi đâu, trong
đầu cũng rực sáng những hình ảnh ấy: bóng nụ cười
của anh, ánh mắt của anh, đôi môi, bàn tay…
Tôi
đã nghĩ về tình yêu (và tình dục) như
cái gì đó thật sự thiêng liêng, rất đỗi
thiêng liêng.
Và
vì thế, tôi đã đau khổ đến mức nào khi những
điều thiêng liêng ấy bị làm cho vấy bẩn, khi sự riêng
tư của mình bị xâm phạm, chà đạp. Tôi không
bao giờ quên cảm giác chua xót khi hàng chục
cặp mắt an ninh cùng soi vào những bức ảnh đó. Tôi
không bao giờ quên được ý nghĩ đau đớn lướt qua đầu
mình khi đó: Phải rồi, tôi đã có vài
mối tình, và đã chụp ảnh ghi lại một số khoảnh khắc
nhạy cảm. Nhưng tôi làm thế chỉ vì tình cảm
– đối với người mình yêu, và với chính cơ thể
mình, tuổi xuân của mình. Tôi làm thế
không phải để cho cả một tiểu đội an ninh xem, rồi đem ra bình
phẩm và răn dạy rằng phàm là trí thức, là
người có đạo đức, thì phải thế này, thế kia…
Tôi
đã im lặng, cố gắng để câu chuyện buồn thảm của năm 2009
ấy trôi vào quá khứ vĩnh viễn. Nhưng ký ức
của tôi không ngủ được, cứ lâu lâu nó
lại bị đánh thức bởi những tin nhắn đe dọa nặc danh, những lời
lẽ của dư luận viên bóng gió trên mạng. Tôi
hiểu rằng, không sớm thì muộn, những bức ảnh ấy cũng sẽ bị
tung ra, chúng có thể bị rò rỉ trên một trang
mạng “chống phản động” nào đấy, và/hoặc sẽ được gửi đến những
người mà tôi không muốn họ biết đến chúng nhất.
Tệ hơn nữa, chúng có thể được xử lý, được chỉnh sửa,
được công bố kèm những thông tin thêm thắt, nhào
nặn và bịa đặt khác (giống như cách mà dư luận
viên lâu nay vẫn làm đối với người đấu tranh dân
chủ) để cố tình tạo ra những câu chuyện kinh khủng về tôi.
Tôi
không muốn thanh minh gì, ngoài một điều duy nhất:
Tôi đã làm thế chỉ vì tình cảm đối
với người mình yêu và với chính cơ thể mình,
tuổi xuân của mình.
Và
bây giờ, tôi buộc lòng phải viết những dòng
này, trong một đêm cuối năm mà lẽ ra tôi phải
thấy rất vui, vì tôi đang được ăn Tết ở Việt Nam, sau hơn
hai năm xa nước.
Tôi
thích thú gì khi phải tung lên mạng những chuyện
hết sức riêng tư, mà lại là vào đêm trước
giao thừa?
Tôi
thích thú gì khi phải tố cáo những chuyện
liên quan đến một cơ quan công quyền thật sự rất lớn và
rất oai, là cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an Việt Nam?
Tôi
thích thú gì khi phải nói rằng an ninh Việt
Nam đã “mẫn cán” đến mức thọc mũi vào đời tư của
một phụ nữ và ra sức huấn thị, dạy đạo đức cho người phụ nữ (độc
thân) ấy?
Nhưng,
dù chua xót đến mấy, tôi cũng đành phải viết
lời “tự thú” cuối năm này, bởi vì biết đâu,
một ngày nào đó những bức ảnh riêng tư của tôi
sẽ được bôi đen bôi đỏ, khoanh tròn, v.v. trên
mạng?
Tôi
muốn có lời xin lỗi trước đến những người sẽ bị ảnh hưởng vì
sự cố đó, nếu nó xảy ra. Tôi muốn nói rằng,
tôi đã không thể tự vệ được, cũng như đang không
thể chịu trách nhiệm về những bức ảnh riêng tư của mình
một khi nó đã được lưu đầy đủ trong hồ sơ của cơ quan an ninh.
Tôi
cũng muốn cầu nguyện một điều trước phút giao thừa – dù
tôi không phải người có đạo – rằng ước sao những câu
chuyện đau lòng tương tự do an ninh Việt Nam gây ra sẽ không
bao giờ xảy ra với bất kỳ ai trên đất nước này. Ước sao lực
lượng an ninh Việt Nam cũng biết bảo vệ, tôn trọng nhân quyền,
trong đó có quyền riêng tư của công dân,
như họ đã và đang tích cực bảo vệ chế độ.
Chúng đánh què, chúng dọa tung hê
những clip riêng tư, sau khi trấn lột đồ dùng cá nhân,
chúng làm đủ thứ chuyện thô bỉ, nhơ bẩn, không
làm sao bẻ gãy ý chí của 1 người đàn
bà.
Chúng là ai?
Vẹm chứ còn ai.
Poetry Magazine
March 2018
HIEU MINH
NGUYEN
Hieu Minh
Nguyen là nhà thơ Mẽo gốc Mít, và còn
là nhà trình diễn, performer. Tác giả của Not
Here (Coffee House Press, 2018), và This
Way to the Sugar (Write Bloody Publishing, 2014).
Everyone
you loved refused to die in this town before they died in this town.
Mọi người bạn yêu thương từ chối chết trong thành phố
này trước khi họ chết trong thành phố này.
Câu
thơ được tờ báo đưa lên trang bìa, có gì
đó rất khủng khiếp, nếu bạn đọc lé, lệch, THNM, và
liên tưởng tới nhân vật Kurtz, trong Trái Tim Của
Bóng Đen, qua miêu tả của Vila-Matas.
http://www.tanvien.net/Ghi_1/giua_long_den_hn.html
Kurtz hiện
giờ vẫn sống ở đó, ở Hà Lội. Nơi thăm thẳm, thâm sâu
của một cõi thả lỏng mọi tội ác, và của đêm
đen dài dằng dặc của chúng ta.
Thì,
tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng
nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái
tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển,
đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc
Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và,
ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và
cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này,
tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm
như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và
những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là
biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng!
Mi khùng
rồi, Gấu ơi, GCC nghe Gấu Cái la hoảng! (1)
(1)
GERMANY
Let others
speak of her shame,
I speak of my own.
O Germany, pale mother!
How soiled you are
As you sit among the peoples.
You flaunt yourself
Among the besmirched.
The poorest
of your sons
Lies struck down.
When his hunger was great
Your other sons
Raised their hands against him.
This is notorious.
With their
hands thus raised,
Raised against their brother,
They march insolently around you
And laugh in your face.
This is well known.
In your
house
Lies are roared aloud.
But the truth
Must be silent.
Is it so?
Why do the
oppressors praise you everywhere,
The oppressed accuse you?
The plundered
Point to you with their fingers, but
The plunderer praises the system
That was invented in your house!
Whereupon
everyone sees you
Hiding the hem of your mantle which is bloody
With the blood
Of your best sons.
Hearing
the harangues which echo from your house, men laugh.
But whoever sees you reaches for a knife
As at the approach of a robber.
O Germany,
pale mother!
How have your sons arrayed you
That you sit among the peoples
A thing of scorn and fear!
Bertolt
Bretcht: Selected Poems
“Nhục nhã
của riêng Gấu”, kệ cha những tên Bắc Kít khác:
Sự xuất hiện 1 nhân vật như Phạm Đoan Trang, làm Gấu nhớ đến
Sebald, và nhận xét sau đây của ông.
… Weiss
to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated
before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury
has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if
it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea,
which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which,
he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor
as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham
dự tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có
thể là do ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng
hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái
phần tương đương của nó, ở đâu đó, và có
thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả,
sự bồi hoàn này thông qua nỗi đau của bất cứ kẻ
nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng này Nietzsche
nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng ta về công
lý, và nó, như ông nói, “nằm trong liên
hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và
nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp,
chính nó”
W.G. Sebald: Sự hối hận của con tim.
… even
if it be through the pain of whoever inflicted the injury.
Moi, je
traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và
hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng
có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít,
đâu phải lũ Bắc Kít?
Vị bằng hữu
Tin Văn, 1 trong hai hộ pháp của nó, thường vẫn thương hại
Gấu, tội nghiệp mi quá, cứ mong một phép lạ, từ đám
tinh anh Bắc Kít.....
Về vị này, có 1 entry
của Timothy Snyder, trong "On Tyranny, 20 bài học của thế kỷ", thật
xứng đáng: Chưa bao giờ vị này sử dụng từ ngữ thô tục,
đối với lũ Vẹm. Ngay cả cái thư trần tình, về lũ Vẹm tính
tung hê mấy cái clip riêng tư, hòng làm
nhục Bà, thì cũng được viết bằng 1 giọng cực kỳ hạnh phúc,
như là dịp để tạ lỗi với người yêu: Áo em chưa mặc 1
lần!
Quá tuyệt!
Làm nhớ Brodsky.
Đức tính thần sầu của Brodsky,
như Coetzee chỉ ra, là, bằng mọi cách đừng bao giờ để cho
lũ khốn biết, bạn bị thương tổn, đau đớn. Đừng bao giờ coi mình là
nạn nhân trước lũ mạt hạng, mạt kiếp là lũ Vẹm (1)
Hãy đối xử thật là dịu
dàng với ngôn ngữ của chúng ta.
Be kind to our language.
(1)
In his autobiographical journeying
Brodsky never reached the 1960s, the time of his notorious trial on charges
of social parasitism and his sentencing to corrective labor in the Russian
far north. This silence was, in all likelihood, deliberate: a refusal to exhibit
his wounds was always one of his more admirable traits ("At all costs try
to avoid granting yourself the status of the victim," he advises an audience
of students; On Grief, p. 144).
Coetzee: Joseph
Brodsky
Như Coetzee viết, một trong những
nét đẹp nhất của Brodsky “mình ên”, là không
bao giờ khoe khoang những vết thương của mình. Ông gần như chẳng
bao giờ nhắc tới thời gian đi tù. Nhưng đây là quãng
đời đẹp nhất của chàng, qua bài viết cho thấy.
Y chang GCC, và những ngày ở tù VC ở nông trường
Ðỗ Hòa
Thơ
Mỗi Ngày
http://www.nybooks.com/articles/2018/03/08/on-the-deployment-of-simile-to-understand-good-marriages/
On the Deployment of Simile to Understand
Good Marriages
Vona Groarke
March 8, 2018 Issue
Clothes stiffening into position overnight
on chairs or on the backs of chairs—
that is like a marriage too
and so is the rain crowding the window
so hard I can hardly see through
and so is the sand in the rock pool
when the stick in your hand
or the stone thrown by your hand
is a thing of the past
so the sand settles back
as before
what is obvious
is how the rock hides
inside itself
right there
in front of you.
Vona Groarke’s latest book is her Selected
Poems. She teaches at the University of Manchester. (February
2018)
Bài thơ, vô tình, xuất hiện đúng
vào ngày 8/3. Bèn đi 1 đường tiếng Mít,
tặng 1 nửa linh hồn của bất cứ 1 tên đực rựa.
Về cái sự triển khai từ hoa
“so sánh”, nhằm hiểu biết những cuộc hôn nhân
tốt lành
Quần áo ngay đơ, cái nào vô chỗ
đó trong đêm
Cái trên ghế, cái trên lưng ghế
Thì cũng giống như cuộc hôn nhân
Và cũng thế, mưa rơi lỗ chỗ trên cửa sổ
Dầy đặc đến nhạt nhoà hết cảnh vật
Và cũng thế là cát nơi hồ sỏi
Khi những ngón tay dấp dính
Hay sỏi lọt qua kẽ tay
Là chuyện của quá khứ
Và thế là sỏi đá lại “cũng cần có
nhau”, như trước đó.
Điều hiển nhiên
Là,
Như thế nào sỏi đá giấu mình ở trong
chính nó
Ở ngay đây
Trước mắt bạn.
Re: 8/3 & simile. Bỗng nhớ ra bài thơ sau đây.
Bữa rượu nhỏ
Nàng không tin nàng
còn xinh
Cười đưa hoa ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu nhỏ cùng soi
Chân mày môi má hồng thôi
là hồng (1)
Đặng Lệ Khánh
Note: Bắc Kít nói,
Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế cũng nói "hồng
ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng"
.
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng
chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch và viết nhiều quá, K đọc không
kịp !!!
Tôi tính chỉ dịch
thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục khác,
nhưng chưa được.
Tôi cũng định chuyển 1 số bài viết cho a2a,
nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và
“hoàn tất”!
Tks agian
NQT
Poems
December 11, 2017 Issue
Autumn
The part of life
devoted to contemplation
was at odds with the part
committed to action.
*
Fall was approaching.
But I remember
it was always approaching
once school ended.
*
Life, my sister said,
is like a torch passed now
from the body to the mind.
Sadly, she went on, the mind is not
there to receive it.
The sun was setting.
Ah, the torch, she said.
It has gone out, I believe.
Our best hope is that it’s flickering,
fort/da, fort/da, like little Ernst
throwing his toy over the side of his crib
and then pulling it back. It’s too bad,
she said, there are no children here.
We could learn from them, as Freud did.
*
We would sometimes sit
on benches outside the dining room.
The smell of leaves burning.
Old people and fire, she said.
Not a good thing. They burn their houses down.
*
How heavy my mind is,
filled with the past.
Is there enough room
for the world to penetrate?
It must go somewhere,
it cannot simply sit on the surface—
*
Stars gleaming over the water.
The leaves piled, waiting to be lit.
*
Insight, my sister said.
Now it is here.
But hard to see in the darkness.
You must find your footing
before you put your weight on it.
Mùa Thu
Phần đời dâng cho "chiêm
ngưỡng và kính trọng", bà xã
Thì đếch ăn ý với phần đời dâng hiến cho...
Vẹm
Mùa Thu đang mò tới
Nhưng tớ nhớ là, nó luôn tới vào lúc
con nít nghỉ học
Đời, như bà chị của tớ nói
Thì cũng giống như bó đuốc,
Được chuyển từ phần xác qua phần hồn
Chán 1 phát, vưỡn bà, phán
Phần hồn vào lúc này
Chưa sẵn sàng ở đó, để mà nhận!
Mặt trời lặn
À, bó đuốc, bà nói.
Nó đi mẹ mất rồi, tôi nghĩ.
Hy vọng nhất, là,
Nó nhấp nháy
For/da, for/da như thằng bé Ernst
Ném đồ chơi của nó qua phiá bên kia
cái nôi
Rồi kéo trở lại.
Thật quá tệ
Không có 1 đấng con nít ở đây
Chúng ta có thể học từ chúng, như Freud nói.
Chúng ta cũng, đôi lúc,
có thể ngồi
Ở mấy cái băng ghế ở bên ngoài phòng
ăn
Mùi lá cháy
Mấy anh già, hết xí oát
- từ này chôm của Sến, khi mắng yêu Gấu –
Và lửa.
Đâu phải điều hay,
Lũ già thường đốt nhà
Cái đầu, tâm hồn, phần
trí tuệ, the mind
Của tôi
Mới nặng nề làm sao
Ních chặt quá khứ
Đếch còn chỗ cho thế giới chui vô,
Xin 1 cái vé đi tuổi thơ cái con mẹ gì
đó!
Phải đi chỗ nào khác thôi.
Qua Mẽo sống với lũ Nguỵ cũng được
đấy
Nếu đít bạn đỏ choé, như mafia đỏ
Đâu có giản dị ngồi ở
trên mặt
Hay, hì hục đốt lò?
Sao lấp lánh nơi mặt hồ
Lá khô chất đống
Chờ đốt
Đốn ngộ, là lúc này,
bà chị phán
Thật khó mà nhìn vào bóng tối
Bạn phải biết chân bạn ở đâu
Trước khi bạn ấn mạnh nó 1 phát!
Vào ngày 8/3, Gấu ngộ
ra, bài thơ nào cũng có thể dùng vào
việc tán vợ cả!
Bài này, cũng nhờ
đầu tháng mà lòi ra.
QT là…
nick của Gấu Cái,
khi viết cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào
dịp 30 Tháng Tư, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô
“Tự Truyện”, và là cái
thư gửi Cô Út.
NTV,
mastermind, Trùm tờ “Trăm Con”, đọc, gật gù, đúng
rồi, giá mà hồi đó, ta hiểu ra chân lý,
thay vì dzục cờ ba que vô thùng rác, thì
cuộn nó lại, dzím vào trong tim, trong hồn, trong
não, thì tờ "Trăm Con" vưỡn còn!
Bài
viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa hết
được cái đẹp của "nhân vật" này.
Granta 100
Ta
sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng
yêu nhất của những nụ cuời
Mềm
mại nhất ở trên giường
Khi
cả hai còn trẻ
Quách
Tường của ta ơi
Hãy
nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Mi
cứ vưỡn còn sống hoài
Trong
tim và trong hồn của ta
Uncertainty
We couldn't tell if it was a fire in the hills
Or the hills themselves on fire, smoky yet
Incandescent, too far away to comprehend.
And all this time we were traveling toward
Something vaguely burning in the distance-
A shadow on the horizon, a fault line-
A blue and cloudy peak which never seemed
To recede or get closer as we approached.
And that was all we knew about it
As we stood by the window in a waning light
Or touched and moved away from each other
And turned back to our books. But it remained
Even so, like the thought of a coal fading
On the upper left-hand side of our chests,
A destination that we bore within ourselves.
And there were those-were they the lucky ones?-
Who were unaware of rushing toward it.
And the blaze awaited them, too.
Edward Hirsch: The Living Fire
Không chắc
Chúng tôi không thể nói, có
1 đám cháy ở nơi những ngọn đồi
Hay những ngọn đồi, chính chúng, cháy
Tuy nhiên, khói, có, sáng
rực một màu
Nhưng xa quá, không sao hiểu
Và trong tất cả thời gian đó, chúng
tôi đi về một cái gì, mơ mơ hồ hồ, cháy,
từ một khoảng xa –
Một cái bóng ở nơi chân trời, một
đường nét lầm lạc –
Một ngọn đỉnh trời – thì cứ phán đại như
thế - xanh xanh, có mây
Nó có vẻ chẳng bao giờ thèm lùi,
hay, tới gần hơn, trong khi chúng tôi thì cứ
xấn tới.
Và đó là tất cả những gì
chúng tôi biết về nó.
Khi chúng tôi đứng bên cửa sổ trong
ánh sáng nhợt nhạt
Hay mân mê nhau, hay rời xa nhau
Và quay trở lại với những cuốn sách của
chúng tôi
Và nó cứ ỳ ra, mãi như thế
Như ý nghĩ về 1 cục than hồng tàn lụn dần
Ở phía bên cánh tay trái của
trái tim của chúng tôi
Một chốn tới mà chúng tôi giữ rịt
ở bên trong chính chúng tôi
Và có những kẻ - những kẻ may mắn?-
Họ đếch cần biết, hay đếch thèm để ý đến
chuyện, chạy tới nó.
Và ngọn lửa, hay, đám cháy, tuy
nhiên, vưỡn đợi họ.
NYRB Jan, 2000
Bài thơ này, được
viết khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1
nông trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng
Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác
giả, được kiếm thấy trong những giấy tờ của ông.
Ngày 1 Tháng Giêng,
1965
Những Vì Vua sẽ
đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên
nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những
trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của
mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn
đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc
lịch dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà,
Nhà Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc…. đốt đuốc chơi đêm?
Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng
Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!
Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc
trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông,
cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những ngày tháng
cũ.
Và bèn ngước mắt nhìn lên,
nơi không một đám mây trôi
giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời
rồi, Gấu ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ hiểu, tiện tặn
nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và
bầy đoàn thê tử của Xừ Lủy
Và bất thình lình mi hiểu ra
được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.
Note: Bài thơ này, cũng có trong cuốn Thơ
Kíu Đời. Sẽ giới thiệu lời còm của nữ thi sĩ, tác
giả cuốn sách sau
WHAT LIPS MY LIPS HAVE KISSED,
AND WHERE, AND WHY
Edna St. Vincent Millay (1892-1950)
What
lips my lips have kissed, and where, and why,
I have forgotten, and what arms have lain
Under my head till morning; but the rain
Is full of ghosts tonight, that tap and sigh
Upon the glass and listen for reply,
And in my heart there stirs a quiet pain
For unremembered lads that not again
Will turn to me at midnight with a cry.
Thus in the winter stands the lonely tree,
Nor knows what birds have vanished one by one,
Yet knows its boughs more silent than before:
I cannot say what loves have come and gone,
I only know that summer sang in me
A little while, that in me sings no more.
Edna St. Vincent Millay had many love affairs. Her biographer,
Nancy Milford, said of her: She smoked in public when it was against
the law for women to do so, she lived in Greenwich Village during the halcyon
days of that starry bohemia, she slept with men and women and wrote about
it in lyrics and sonnets that blazed with wit and a sexual daring that
captured the nation. This wistful sonnet was written in 1923 when Millay
was thirty-one years old. The poem opens with the speaker in contemplation,
alone at night, listening to the rain, remembering the ghosts of past
lovers that "tap against the window." The last lines are terribly sad
and beautiful, softened and consoled perhaps by memory of a love affair
and the notion that at one time "summer sang in me," even though no more.
I once heard that Sigmund Freud said all literature is about love and
sex or was it love and death? I would venture to say that all poetry
to an extent is about unrequited love, not necessarily carnal or romantic
love, but yearning.
Note: Bài thơ trên, có tính vô
8/3?
Why not?
Môi nào môi tôi hôn, và
ở đâu, và tại sao
Tớ quên mẹ nó mất rồi.
Viết
mỗi ngày
Phạm Thị Hoài — Ảnh: unionsverlag.com
[Trích lại từ DCV online]
Tường Lửa Hay Không Tường Lửa?
Again and again one comes back to the main, degrading fact of
colonial society; it never required efficiency, it never required quality,
and these things, because un-required, became undesired.
Lần lần lữa lữa, người ta lại quay về với cái thực kiện
chủ yếu, điếm nhục của xã hội thuộc địa; nó chẳng bao giờ
từng đòi hỏi hiệu năng, nó chẳng bao giờ từng đòi
hỏi phẩm chất, và những điều này, bởi không được đòi
hỏi, đã trở thành bị ruồng bỏ.
V.S. Naipaul: The Middle Passage, Lối Đi Giữa.
NTV dịch [gửi PTH]
talawas bị tường lửa?
Bắt đầu từ ngày thứ Năm, 27.5.2004
đến nay, email của cộng tác viên và độc giả talawas
từ Việt Nam dồn dập gửi đến toà soạn chúng tôi để
thông báo, thắc mắc, lo ngại... về việc ở Việt Nam không
vào được talawas nữa.
Dư luận chung ở Việt Nam cho rằng talawas đã
bị tường lửa.
Chúng tôi không tin rằng những cơ quan hữu
trách tại Việt Nam có lí
do thích đáng để dựng tường lửa với một tạp chí văn
hoá-văn nghệ như talawas. Chúng tôi mong rằng đây
là một sự cố kĩ thuật sẽ sớm được khắc phục trong thời gian sớm
nhất.
Mong toàn thể thân hữu, cộng tác viên,
độc giả talawas trong và ngoài nước kịp thời gửi đến chúng
tôi những thông tin liên quan đến sự cố này.
Chúng ta cùng hi vọng rằng như thường lệ, mỗi buổi sáng
talawas lại đến tay bạn đọc trong nước như những tờ báo và
tạp chí khác. Bạn có thể đọc, bạn có thể
vứt ngay vào sọt rác, nhưng đó là quyền của
cá nhân bạn, chứ không phải do sự định đoạt của bất
kì ai khác.
talawas
Còn nhớ, khi talawas mới xuất
hiện,Tin Văn là một trong những nơi/người đầu tiên hồ
hởi, không những chào mừng mà còn đóng
góp bài vở, với những lời chúc tốt lành
nhất:
talawas là gì: ta là thằng ăn cướp [Dịch
là cướp]
talawas là khoét tới cái gọi là
cốt tuỷ của tiếng Việt...
Nhưng trong thâm tâm, là
nỗi mừng không nói ra này: Với một nhà văn, một
nữ kiện tướng ra đi từ miền bắc chủ trì, cái đám Bắc
Bộ Phủ sẽ không làm sao xếp diễn đàn này vào
cùng một ruộc, là đám nhà văn ngụy, và
như vậy văn học hải ngoại sẽ không còn ở trong tình
trạng chông chênh, thiếu tới một nửa "cuộc đời, linh hồn"...
của nó.
Nhưng chưa kịp mừng vì cái tin tường lửa, đọc
tới câu "Chúng ta cùng hy vọng rằng như thường
lệ, mỗi buổi sáng talawas lại đến tay bạn đọc trong nước như
những tờ báo và tạp chí khác", thì
Tin Văn cùng Gấu tôi thật thất vọng vô cùng.
Nếu cái vụ tường lửa kia mà chỉ là báo
động hoảng, thì lại càng thêm thất vọng.
Bởi vì làm sao một tạp chí trong nước,
ngày nào cũng đến tay độc giả, lại dám chỉ đích
danh tờ An Ninh Thế Giới, là đệ nhất lá cải?
“.... Trở ngại thứ hai cho sự phát
triển văn học Hậu Đổi Mới là sự tự kiểm duyệt. Ngưòi ta
cứ tưởng rằng, sau khi có đổi mới thì những nhà văn
sẽ hồ hởi dùng tài năng của mình để đóng góp
cho mọi mảng của nền văn học”. Nhưng thực tế, theo Phạm Thị Hoài,
"người làm văn hóa, văn nghệ trong nước ngày nay
phải tự hướng đạo thay vì tự lãnh đạo. Hậu Đổi Mới là
thời kỳ hoàng kim của tự kiểm duyệt"...
Ngày nay ở Việt Nam chỉ có một nơi được tự do
văn nghệ nhất, chị Hoài đưa dẫn chứng, đó là báo
An Ninh Thế Giới, "tờ báo lá cải hơn mọi tờ lá cải"....
những người đứng đầu tờ báo là người thổi còi - cho
văn học Việt Nam - thổi sai cũng chẳng sao vì chẳng có người
thổi khác.
[Trích bài viết của Bùi Văn Phú,
báo Văn số Tháng Hai & Ba, 2004]
“Còn những người, trong những ngày qua, có
lời chúc mừng talawas đã đạt được cái thành
tích là trở thành món hàng cấm và
vì thế có hương vị ngọt ngào hơn, thậm chí
cả những người cho rằng talawas cố tình bị tường lửa để kiếm
điểm tại nước ngoài, những người ấy sẽ thấy mình đã
kết luận vô lối và vội vàng như thế nào.
Nếu phải thành một huyền thoại thì đó là
bất hạnh lớn cho chúng tôi”.
Phạm Thị Hoài,
trả lời BBC, đăng lại trên talawas.
Trên tờ Gió Đông
ngày nào - mà đa số cộng tác viên
là những cây viết ra đi từ miền bắc - người chủ trương,
Lê Trọng Phương, trong một bài viết, đã mượn một
ẩn dụ của Borges, khi nói về một bức bản đồ Việt Nam, tỉ lệ xích
là 1/1, bị rách nát, mà những người Việt hải
ngoại cố mang ra ngoài này để khâu vá lại, cho
nó được như xưa.
Một tấm bản đồ "văn học" như thế, chỉ có một nửa, nếu
thiếu những người như Lê Trọng Phương, những diễn đàn như
talawas.
Trong tinh thần đó, Tin Văn viết, "... và như
vậy văn học hải ngoại sẽ không còn ở trong tình
trạng chông chênh, thiếu tới một nửa 'cuộc đời, linh hồn'...
của nó."
Tin Văn
Thông
cáo của talawas về vụ bị ngăn chặn.
"Lí do được nêu là: talawas có tham
vọng và đã can thiệp ngày càng sâu
vào những hoạt động văn hoá xã hội tại Việt Nam....
Báo chí và các cơ quan truyền thông
tại Việt Nam được yêu cầu không đưa tin và bình
luận về sự việc này."
{Trích thông cáo của talawas].
Bản thân Gấu tui, cũng đã
"bị ngăn chặn" y chang như talawas, không phải vì "có
tham vọng và đã can thiệp ngày càng sâu
vào..." gì hết, nhưng mà là để nhường phòng
cho chi bộ Đảng tại cơ quan, họp.
Đó là những ngày sau 30 tháng Tư
1975. Là một chuyên viên bưu điện, không đi
lính đi tráng, không có nợ máu với
nhân dân, Gấu được hưởng ưu tiên của cách mạng,
cho học tập cải tạo tại cơ quan, ba ngày, sau đó, cho làm
việc lại.
Thời gian làm việc lại đó, cứ mỗi sáng
thứ bảy, Gấu tui và mấy cô thư ký văn phòng
được thủ trưởng ra lệnh, hãy ra bên ngoài chơi, đóng
cửa phòng lại, để cho chi bộ Đảng họp!
Tình trạng trên đâu có khác
gì talawas. Khi cho rằng, "talawas có tham vọng và
đã can thiệp ngày càng sâu vào những
hoạt động văn hoá xã hội tại Việt Nam", mấy ông vi
xi to đầu nghĩ rằng, talawas muốn cùng họp chi bộ với họ, cho nên
"bị ngăn chặn", là đúng rồi.
Chính vì thế, mà tin trên, báo
chí không được phép đăng tải, vì là
họp nội bộ!
Xê ra, đi chỗ khác chơi, cho chi bộ Đảng họp, bàn
chuyện cơ quan, chuyện đất nước! "Nguỵ" là thứ gì, mà
ngo ngoe!
Gấu tui thật khó quên, cái cảm giác
"bị ngăn chặn", những lần đó.
Lẽ dĩ nhiên talawas có
lý do chính đáng khi thay đổi, từ "bị tường lửa"
thành "bị ngăn chặn". Nhưng sự kiện này làm Gấu
tui nhớ đoạn nhà văn Nhã Ca kể chuyện Nguyễn Tuân
ghé thăm, và hỏi về học tập tốt lao động tốt của chồng bà,
là Trần Dạ Từ. Bà phạng liền, người được coi là rành
rẽ tiếng Việt số một trong giới văn học:
-Đi tù thì nói mẹ đi tù, cái
gì học tập, hử?
Đánh tráo là một
trong những chiêu thức rất được khối Cộng Sản sử dụng, không
riêng gì tại Việt Nam.
Nhà văn Norman Manea, trong bài Censor's Report,
khi phải định nghĩa thế nào là kiểm duyệt - thì
tường lửa, bị ngăn chặn... đều là những chiêu thức của kiểm
duyệt - đã gọi đó là "mật vụ của con chữ" [the secret
police of the word]. Ông coi chuyện đánh
tráo [substitution] là rất phổ biến, không chỉ như
là một đòn [tactic] chính trị, nhằm đánh lừa
người khác, mà còn cả trong cuộc sống hàng
ngày, khi sản phẩm thứ thiệt được đánh tráo dần dần
bằng những sản phẩm tồi tệ hơn, và cuối cùng, bằng đồ dởm.
Cũng chuyện như vậy đã xẩy
ra trong những vấn đề liên quan tới văn hóa. Có
một số những nhà văn nhà nước thuộc loại gộc được quyền chỉ
trích một số mặt tiêu cực của xã hội, trong khi cùng
lúc, tấn công những nhà văn lương thiện nhằm cô
lập họ. Những nhà trí thức thứ thiệt ngày càng
mất dần, và được "thay thế" bằng một thế hệ đảng viên trẻ
hơn, the new generation of apparatchiks, những con ông cháu
cha có học thức thực sự, tốt nghiệp thực sự tại
đại học Tây Phương. Đám này, lẽ
dĩ nhiên, có quyền nói về một cõi người rung
chuông tận thế, nói về cái ác, cái ang
ác, những mặt tiêu cực trong xã hội. Như Norman Manea
cho biết, tại Romania, công cuộc thay thế, đánh tráo
như vậy thành công đến độ, vào cuối thập niên 1970,
một đạo luật ra đời, huỷ bỏ bộ phận có tên là Department
of the Press [kiểm duyệt], bởi vì
nó trở thành vô hiệu, bất lực và
vô ích. Nhà nước chắc chắn rằng, sau bao thập niên
sống dưới chế độ toàn trị, cái gọi là tự kiểm duyệt
và trông chừng lẫn nhau [the self-censorship and mutual surveillance]
đã thay thế một cách thật là tuyệt vời, những tên
chuyên làm nghề kiểm duyệt, the professionals.
Như một độc giả Tin Văn góp
ý, từ "bị tường lửa" qua "bị ngăn chặn", là vấn đề chính
danh, không phải chuyện đánh tráo. Nói rõ
hơn, talawas đụng vô Tường Đảng, chứ không phải Tường Lửa.
Đây là vấn đề tranh chấp quyền lợi: talawas, mi... là gì mà
muốn họp chi bộ, muốn chia chác với... chúng ông?
NQT
Thư tín v/v talawas bị
tường lửa
Ông Nguyễn Quốc Trụ,
Tôi là một
người đàn bà Việt Nam nhưng tôi rất lấy làm
xấu hổ dùm cho ông.
Tôi là thế hệ sinh sau đẻ muộn hơn ông nhiều
và thấy ông thối và vô duyên quá
nên tôi phải lên tiếng.
Ông bợ bọn VC vừa phải thôi. Biết bao nhiêu
trang web của người Việt Hải Ngoại bị tường lửa chặn lâu nay
sao ông câm như hến. Còn bây giờ Talawas mới
bị tường lửa thì ông đấm mặt đấm mày chửi toáng
lên, khóc như cha mẹ ông chết…
NQT trả lời:
Cám ơn đã e-mail.
Xin phúc đáp:
Mấy trang web hải ngoại bị tường lửa
là chuyện thường ngày ở huyện. Chửi VC làm gì
cho mệt…
Trang TIN VĂN của tui cũng bị tường lửa, không những bị
tường lửa mà còn bị kiến lửa:
Mỗi ngày nhận chừng trên chục email có chứa
virus.
Còn chuyện talawas, là khác. Đây
là đòn Mộ Dung Cô Tô mà.
Best Regards
TB: Xin phép post thư bạn. How?
NQT
The answer is NO. Are you
crazy? I don't think It's worth posting. Your response has not convinced
me at all. Intellectually, you are bất lực.
[Câu trả lởi là KHÔNG. Mi có khùng
không? Thư dzậy mà cũng đăng, hử? Câu trả lời của
mi không thuyết phục nổi ta. Trí thức mà nói,
mi là (một thằng) bất lực.]
[Câu trả lời là KHÔNG.
Ông có khùng không, hả? Tôi không
nghĩ, email của tôi có thể post, vì nó không
đáng. Câu trả lời của ông không thuyết phục
tôi một chút nào hết. Nói theo kiểu trí
thức, ông thì bất lực].
Note: Server cho biết, bài viết trên, 1 trong Top
Ten của Tháng Ba, 2018.
Coezee, Portrait
Bên Da Màu, trong bài
“lại nói chuyện về thơ” của cây viết Phan Xuân
Sinh có đoạn:
... Phạm Duy có gặp một số anh em
văn nghệ tại Boston, trong cuộc gặp gỡ nầy có người
hỏi Phạm Duy là: “Anh phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ, có
hai thi sĩ lớn như Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy
Yên. Sao anh không phổ thơ của họ?” Phạm Duy trả lời:
“Hai ông nầy thơ hay thật, thế nhưng thơ của hai ông lý
trí quá khó phổ thành nhạc được.” Nói
thế để chúng ta biết rằng thơ hay chưa chắc làm rung
cảm được người đọc...
Source
PD phán như thế, theo tôi,
là đúng, thực, theo suy nghĩ của ông,
chứ không nhằm che đậy gì hết. Nhạc PD thiên
về tình cảm, thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ lụy,
thí dụ, giai thoại ăn chè Nhà Bè, nhờ
đó mà dân Mít được thưởng thức bản nhạc
phổ thơ MDHT], không phải thứ tình cảm thanh cao như
trong thơ TTT, hay TTY. Ðây là do cái tạng
của ông, và có thể cũng là do yêu
cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc. Những bài
thơ phổ nhạc của TTT, TTY không có nhiều thính
giả, những nhạc sĩ phổ thơ của TTT, là bạn thân ngoài
đời của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho nên
phổ nhạc thơ của ông.
PD đâu có thuộc cái giới
đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ nhạc của TTT
hay của TTY muốn nhắm tới cái gọi là không
còn chủ âm trong nhạc, hay tới thứ âm nhạc
không cần lời.
Vấn đề này lớn quá, chỉ nêu
ra đây, như là 1 đề xuất, đặt viên gạch,
rồi tính sau.
... đặt viên gạch, rồi tính
sau.
Note: Nhân đọc Coetzee, viết về nhà
thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert, trong Late Essays, Gấu
tìm ra câu trả lời cho cái cú “đặt
viên gạch, tính sau”, này.
Cái gọi là "âm
nhạc không cần chủ âm", hóa ra là,
sự đối nghịch - "chẳng bõ, chẳng đáng" - giữa
purity và the
impure, the messy, the human, có thể tạm gọi như
thế!
14. On Zbigniew Herbert
Zbigniew Herbert lived most of his
life (1924-98) under regimes that were inimical to what we
can loosely call freedom of expression. His writing bears evidence
of his historical situation as a man trying to live out a poetic
and intellectual vocation in a hostile environment. The traces
can sometimes be overt - for example, in his satiric counter-attacks
on the regime- but are more usually concealed by ironic masks
or Aesopian language.
Herbert was not a poet-martyr
as, say, Osip Mandelstam was. Nevertheless, the record shows
a lifetime of principled opposition first to the Nazis, then
to the Communists. Until well into his thirties he led a fringe
existence, with none of the rewards that someone of his education
and talents might have expected. After the 1956 thaw, his growing
reputation opened up opportunities for travel outside Poland and eventually
led to residencies, fellowships and visiting professorships in
the West. But unlike his contemporary Czeslaw
Milosz he chose against exile.
The unspectacular, unheroic
species of integrity and stub-bornness that characterizes
Herbert's life weaves its thread through his poetry too. For
the sake of brevity (a Herbertian virtue) I will call this theme
the faithful life, picking up the word faithful from the last line
of 'The Envoy of Mr Cogito', a poem to which I will return (the line
reads simply 'Be faithful Go'). The faithful
life is not the same as the life of faith: the difference between
the two (namely that you do not need to have faith to be faithful)
might be called central to Herbert's ethic, were it not for the fact
that privileging the faithful life over the life of faith and erecting
it into a credo, an article of faith, would at once qualify it for
sceptical interrogation of the Herbertian variety.
In Herbert's oeuvre
there is a steady stream of poems that turn on an opposition
between purity (purity of theory, purity of doctrine), which he aligns
with the divine or angelic, and the impure, the messy, the human.
The best known of these is 'Apollo and Marsyas'
(1961). Apollo, who is a god and therefore inhuman and therefore
without human feelings, flays alive the satyr Marsyas, reacting to
Marsyas' prolonged howl of agony with nothing but a fastidious shudder.
Apollo has won the musical contest (Marsyas is undergoing the fate of
the loser), but Marsyas' howl, rudimentary though it may be as music,
expresses every atom of his exposed (skinned) human (ungodlike) being
with a petrifying intensity that the god cannot equal.
This is only one of a
number of poems that put the case for the human in its unequal
contest with the divine. The world that God
has created, and that carries the imprint of divine reason, maybe
perfect in theory but is hard to bear in reality ('In the Studio').
Even the next world turns out to be pretty unendurable by human standards.
As new arrivals discover at the heavenly gates, not the tiniest memento
of their old life will be allowed to accompany them; even babes are
to be removed from their mothers' arms 'since as it turns out / we
shall be saved each one alone'. God's Heaven turns out to have an uncanny
resemblance to Auschwitz ('At the Gate of the Valley'). What is
wrong with systems, to Herbert, is that they are systems. What is wrong
with laws is that they are laws. Beware of angels and other executives
of perfection. The only angel even tentatively to be counted on the
side of humanity is the seventh one, Shemkel, who is kept in the squad
only out of respect for the sacred number seven. 'Black nervous / in
his old threadbare nimbus', Shemkel has been fined many times for illegal
importation of sinners (The Seventh Angel').
Marxism, one need barely
point out, is deeply colored by Christian eschatology. The
world of achieved communism in which each will receive according
to his need and the state (earthly power) will have withered
away, is, literally, heaven on earth. Herbert's satirical reports
on heaven are inevitably also reports on life in the workers' state.
In heaven, because the materials to hand are human and therefore imperfect,
certain compromises have to be made. Forgone are the luminous circles,
the choirs of angels, etc.; what we end up with is an afterlife not too
different from life in People's Poland (‘Report from Paradise').
The most interesting of
Herbert's afterlife poems comes from the 1983 collection
Report from a Besieged City, arguably the strongest of the nine
collections he published. In a poem called 'Mr Cogito's Eschatological
Premonitions', his persona Mr Cogito reflects on life after
death and on what kind of resistance he will be capable of mounting
when he has at last to confront the heartless, bloodless angels and
their demand that he give up his humanity. Smell, taste, even hearing
- these he will be prepared to relinquish. But to hold on to the senses
of sight and touch he will be prepared to suffer torture:
[to be continued]
Những bài essays trong Late
Essays, ngắn, GCC hy vọng sẽ giới thiệu vài bài....
http://www.tanvien.net/interview/Vila_Matas_Paris_Review.html
Vila-Matas trả
lời The Paris Review
Enrique
Vila-Matas on ‘Never Any End to Paris’
Tay này, GCC cực mê.
Ông giữ 1 mục trên Le
Magazine Littéraire, Sổ Đọc. Thần sầu!
Vậy mà tờ báo dẹp mục của ông, với của
Linda Lê, Trở về với tác giả cổ điển.
GCC mua tờ báo, mở ra là đọc hai bài
đó trước.
Nhảm quá. Bậy quá!
Note: Từ "bậy" này, đọc
thư gửi đảo xa, thì GCC mới nhớ ra. Từ" thời thượng của 1 thời":
Thời Pagode!
Thú thực GCC hưởng lợi rất nhiều nhờ đảo xa tung thơ
gửi đảo xa.
Nhớ lại nhiều chuyện linh tinh, thần sầu...
Đúng cái ý của Vila-Matas, “where there
is a mirage there is life”.
Tks. Many tks. NQT
Bậy thật!
“Chẳng bao giờ chấm hết với Paris” của ông
sử dụng tuổi trẻ của ông ở Paris để thám hiểm những ý
tưởng về sáng tạo, ảnh hưởng, và căn cước. Người kể
chuyện là 1 nhà văn mà những sự kiện và
ngày tháng thì giống của ông, tuy nhiên
tôi nghĩ, ông ta là cả hai, vừa là ông,
vừa không phải là ông. Liệu ông có nghĩ,
nghệ thuật đòi một tí hòa hoãn với thực
tại?
Thực tại nào? Nếu ông
muốn nói tới thực tại “ăn nhậu đớp hít” càng
ngày càng lậm vào môi trường giả tưởng,
thì nó đếch làm tôi quan tâm tí
nào hết. Điều làm tôi quan tâm, còn
hơn cả thực tại, là sự thực. Tôi tin là giả tưởng
là thứ độc nhất khiến tôi gần gụi với sự thực mà
thực tại làm tối mù. Điều này đưa đến tham vọng
viết 1 tác phẩm vĩ đại, nó là chương còn
thiếu trong sự phát triển một sử thi. Chương này sẽ bao
gồm tất cả những người - từ Cervantes qua Kafka và
Musil - chiến đấu với một sức mạnh khổng lồ với tất cả những hình
thức dởm, giả, và giả đò. Cuộc chiến đấu này hiển
nhiên là có dính tới nghịch lý, bởi
vì những kẻ chiến đấu dữ dằn như thế, thì phải là
nhà văn, và phải bằng con đường giả tưởng. Họ tìm
kiếm sự thực thông qua, nhờ, giả tưởng.
Và bật ra từ cuộc chiến dữ dằn, căng thật căng đó, là
những gì bàng bạc, thấp thoáng, rất ư là tuyệt
vời, của sự thực, như là những trang đẹp nhất của văn học hiện
đại.
Nhận xét này của ông rất
gần gụi với điều mà ông phán ở Paris – ‘nơi nào
có ảo vọng nơi đó có đời sống’ – và nó
làm tôi nhớ tới điều ông trả lời trong 1 cuộc phỏng
vấn: điều mà hiện đại tìm kiếm, thì là
“ở ống thì dài”[rectilinear: thẳng], trong khi với Ulysses,
“ở bầu thì tròn”, như Mít nói?
Trong 1 cuốn phim của Wim Wenders,
Nicholas Ray nói, “bạn không có thể trở về nhà
được nữa”. Sài Gòn ơi ta đã mất người như mất
BHD rồi! Đôi khi tôi nghĩ tới câu nói đó,
[Ui chao, nhớ.... Sài Gòn quá, hà, hà!],
và để cho dịu xuống, tôi bèn tưởng tượng mình
là 1 tên Tẫu qui cố hương. “Tớ chỉ là 1 anh Tẫu trở
về nhà”, Kafka viết trong một lá thư. Đôi khi tôi
mong mình là tên Tẫu đó, đôi khi, thi
thoảng thôi. Bởi vì sự thực là, điều mà tôi
viết ra, thì thường làm cho tôi “vấp ngã”,
chúi xuống, rớt xuống, một nội-du ngoạn, một chuyến dã ngoại
cho đến tận cùng của đêm đen, đối nghịch hẳn với chuyến trở
về Ithaca. Ngắn gọn, tôi mong muốn cuộc hành trình
không bao giờ chấm dứt, luôn luôn tìm kiếm một điều
gì mới. Luôn luôn nhớn nhác.
Những cuốn sách của ông thì
rất khác của Hemingway, và những vị thầy của ông
– Borges, Kafka, Musil, thí dụ - viết cũng khác Hemingway.
Vậy mà tại làm sao mà ông lại phán,
tớ mò tới Paris, là để noi gương Hemingway. Bây giờ,
ông nghĩ sao về ông ta?
Tôi vẫn tiếp tục ngưỡng
mộ ông ta, như là 1 tay kể chuyện, và 1 tay khắc
chạm ngôn ngữ bậc thầy. Nhưng sự thực, là, ông ta
không ở trong số những vị mà tôi mê. Có
thể là do tôi đọc Paris
là một ngày hội của ông ta, vào lúc
mười lăm tuổi, tại một tỉnh lỵ miệt vườn ở Barcelona, và nó
thấm vào tôi, cùmg với nó là giấc mộng,
một ham muốn hoành tráng, mình phải đi Paris, và
sống “cuộc sống của một nhà văn”, y hệt Hemingway. Chừng bốn năm sau, tôi quả thực hiện được giấc mộng sống
đời nhà văn tại Paris, rõ hơn, tại một căn gác xép
mà tôi mướn và chủ của nó là Marguerite
Duras.
Và bây giờ, nếu Hemingway (như ông ta xác
nhận trong Paris là một ngày
hội) có thể phán, ở Paris, tớ thì “nghèo
và rất hạnh phúc”, thì tôi, ngược lại, chỉ
có thể lèm bèm, vào lúc chót
của kinh nghiệm, tôi thì "nghèo và rất đếch
được hạnh phúc".
Tuy nhiên, sau bao nhiêu nước chảy qua cầu...
Mirabeau, và sau khi viết Chẳng Hề Chấm Dứt Paris, cái
sự bất hạnh của tôi hóa ra lại là cõi phúc,
đúng hơn, một ngày hội lớn - ở trong trường hợp của tôi
- của hồi nhớ và trí tưởng tượng của mình.
“Âu lo, sao xuyến, bần thần, bấn xúc
xích…” [anxiety] đóng vai trò gì trong
sự sáng tạo ra những tác phẩm của ông?
Khi “trời chợt xẩm chiều lăm
le đi vào tối” là chúng ta luôn cần một
ai đó. Tư tưởng này, sản phẩm của âu lo, chỉ tới
với tôi vào chiều tối, đúng vào lúc
mà tôi tính bye bye ba trò khám phá,
mạo hiểm qua những con chữ. Ngược lại, ban ngày, khác hẳn.
Khi viết, tôi kiểm tra được sự âu lo, khắc khoải của mình,
nhờ sự trợ giúp vô vàn quí giá của
tiếu lâm, khôi hài, tếu tếu, tưng tửng, Nhưng đêm
nào thì tôi cũng bị tra tấn bởi âu lo. Nó
đếch biết tiếu lâm cà tửng là gì, và
tôi phải đợi đến ngày hôm sau, thì mới lại khám
phá ra cuộc hôn phối -thì cứ nói đại như vậy
- giữa âu lo và khôi hài, nó tạo nên
tính cách những trang viết của tôi, và từ đó,
văn phong. “Văn phong của hạnh phúc”, như vài tay phê
bình phán.
Ông thường tiếp cận vấn đề ảnh hưởng nghệ
thuật qua hình thức “parody” [nhạo, nhại]. Thí dụ,"Chẳng
bao giờ chấm dứt Paris" bắt đầu bằng chuyện, cái tay “thế thân”
của ông tham dự một cuộc thi “trông giống như Hemingway”,
mặc dù anh ta chẳng giống Hemingway - Hemingway gì mà
cà chớn như thế - Cú này, theo tôi là
một ẩn dụ tuyệt vời về, như thế nào nhà văn bị tẩu hoả
nhập ma vì sư phụ của họ, và ở đây, với cuốn sách
của ông, đúng là một mở ra thần sầu về một nhà
văn trẻ cố tìm đường của mình nhập vô Paris, "cho
anh tí Paris, để anh làm thi sĩ"! Ông có nghĩ
về tếu, như là 1 cách mở ra cõi sáng tạo,
mặc dù sự kiện là, tất cả thì đều đã được
nói, và được làm rồi, chúng ta tới trễ quá
trong cõi đời này?
Đúng vậy. Tôi sử
dụng “tếu” theo nghĩa đó. Chẳng hạn, bây giờ, nếu tôi
thủ thỉ với bạn, tôi yêu quá Paris, như họ Trịnh
ư ử, "tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này",
chắc chắn bạn đếch tin, thế là tôi bèn chọn cách
của thằng cha… Gấu Cà Chớn, và
nói, câu của John Ashbery, trong cuốn
sách của tôi: “Cái chuyện đã từng sống ở Paris
đếch hợp với bạn để sống ở bất cứ nơi đâu, kể cả sống ở Paris.”
Tôi mê câu của W.G. Sebald
được ông trích dẫn trong “Chẳng hề chấm dứt Paris”: “Mọi
thứ mà nền văn minh của chúng ta sản xuất ra, thì
ở trong mồ”. Như ông, Sebald đáp ứng với hiện đại bằng
cách mở ra nấm mồ này, cả hai ông gợi đến Borges,
người mà ông nói,“đã viết lại cái
cũ”. Ông nhìn tới bằng cách nhìn lại. Tôi
tò mò là, khi nào và tại sao ông
nghĩ , hình thức sáng tạo này trở nên quan
trọng đến thế.
Borges, Sebald. Thế giới
có vẻ như đầy những thông điệp viết bằng 1 thứ mật mã
nào đó. Chúng ta tìm – Tôi tìm
– một điều mà chúng ta không thể nhận biết, nhưng
đã mất. Cũng đã không lâu, tôi mơ làm
một bài thơ viết bằng một môn đại số nào đó,
chưa được biết đến. Nó có vẻ kỳ bí theo kiểu của dân
Chàm, Hời, Mường, hay Do Thái, tuy nhiên, có
thể nó có cái “air” Hồi giáo, Hồi Giáo
Tẫu, hay có thể Ý đại lợi – vào thời Petrarch. Thứ
thơ này thì từ một môn đại số lạ kỳ, chưa xác
định, và nó đưa tôi tới trung tâm của sự bí
ẩn của thế giới. Lẽ dĩ nhiên, có lẽ, thứ bí ẩn, bí
mật này chẳng hề hiện hữu. Khi chúng ta nhìn lại, về
mặt thời gian, con người và những hành vi của nó hình
như cứ thu lại - tôi thu tôi lại thành hạt bụi đã
từng hóa kiếp ra tôi – và tôi sợ rằng, tới một
điểm, đếch còn biết hạt bụi đó sinh ra tôi, hay là
1 hạt cà chớn, chẳng có nghĩa ngung gì cả!
Bất cứ một ý nghĩ nào về tương lai thì
đều rã ra, tìm đường đi vào hư vô!
Điều này có thể giải thích, thí
dụ, tại sao mà câu chuyện về tuổi trẻ của tôi ở
Paris, chân dung của tham vọng của tôi - thành công
ở đó - như Hemningway đã từng, phải được coi như một thứ
tiếu lâm, cà chớn tới chỉ, y chang lòng trắc ẩn của
Cervantes, người tạo ra Đồng Ky Xốt.
http://www.nybooks.com/articles/2018/03/08/on-the-deployment-of-simile-to-understand-good-marriages/
On the Deployment of Simile to Understand
Good Marriages
[tạm dịch: Về cái chuyện khoe hàng để hiểu những
cuộc hôn nhân tốt lành]
Vona Groarke
March 8, 2018 Issue
Clothes stiffening into position overnight
on chairs or on the backs of chairs—
that is like a marriage too
and so is the rain crowding the window
so hard I can hardly see through
and so is the sand in the rock pool
when the stick in your hand
or the stone thrown by your hand
is a thing of the past
so the sand settles back
as before
what is obvious
is how the rock hides
inside itself
right there
in front of you.
Từ từ tính.
“A writer
needs his poisons,” Roth said in his Paris Review interview. “The antidote
to his poisons is often a book.” He published more than two dozen such
books. Why Write? is not one of them. It more closely resembles an account
of the poisons Roth was made to swallow and the symptoms they caused—the
headaches, the convulsions, the bouts of delirium. Roth may still resent
his exposure to these toxins, but there’s no denying that they did their
job.
Nhà
văn cần độc dược.
Thuốc giải độc, là cuốn sách của hắn.
GCC cần xì
ke.
Giải xì ke, là trang Tin Văn!
Tin Văn sẽ lèm bèm thêm, về bài viết
này.
Cuốn này,
thấy lâu rồi, nhưng chê. Cái tít nghe bất bình
quá. Thơ kíu đời?
Bữa nay, lỡ cầm lên, đọc 1 phát, là mê
liền. Rất nhiều bài viết, là về 1 số những bài
thơ đã được post trên Tin Văn, tếu thế.
Thí dụ, đường kiếm, về bài thơ của Adam Zagajewski:
Cố mà ca ngợi 1 thế giới bị tùng xẻo.
Hay, Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết xuống của Frost.
Adam
Zagajewski's "Try to praise the mutilated world", first published in the post-September
11 "black" issue of the New Yorker, takes its title from its opening line:
Try
to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music
flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes
and returns.
When
I read it I was struck, first, by an awareness that, far from lecturing
his reader, the speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski
trademark) a welcome change from the self-important I-deology of so many
contemporary poets. It struck me, then, that he had brilliantly obeyed his
own imperatives - "Remember .... Remember .... Return .... Praise" - and
had made me do the same. More generally, I was arrested by the authority
of the voice, the courage and wisdom of a call to praise in a time (like
any other) of mutilation: praise, a word with Christian associations, repeated
with increasing urgency in the refrain, acquiring the force of a liturgical
response, a prayer. Behind the distinctive new voice, one can hear a voice
heard in Auden's "Musée des Beaux Arts" ("About suffering they were
never wrong / The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part. At some level, Zagajewski
remembers this as well as his own love, a fluttering curtain (in a window
Auden had opened), and a "mutilated world" where "the executioners sing
joyfully". Surely, too, Auden's "expensive delicate ship" must be one of
Zagajewski's "stylish ships" - perhaps one heading for the "salty oblivion"
that awaits Icarus in the Bruegel painting on which Auden's poem is based.
Zagajewski's praise poem has the variable line-length of Auden's
which, despite its unobtrusive rhymes, gives it the easy assurance of the
best free verse; and one cannot l pay Clare Cavanagh a greater compliment
than to say her English poem does not suffer by comparison with Auden's.
These poems have a similarly antithetical structure: Auden's moving from
birth to death to life continuing; Zagajewski's, from "June's long days" to
"light that strays and vanishes / and returns". They tell us "we must praise"
the life continuing, the light returning. They are both Christian poets,
intimately involved in human tragedy, yet endowed with the detached perspective
of the Old Masters.
Adam Zagajewski was born sixty-four years ago in Lvov and went to university in Cracow, two cities
he loves and celebrates in his essays and poems. He emigrated to France in 1982 and now lives between Cracow, Paris and Chicago. Early collections
( of his poems in English translation were presented in Without End (2002)
- a title echoing the Book of Common Prayer - with a section of New Poems
translated by Cavanagh. She has achieved something just as remarkable with
Eternal Enemies. These are identified in n "Epithalamion", a poem beginning
"Without a silence there would be no music", that goes on to assert: "Only
in marriage do love and time, eternal enemies, join forces". An earlier
poem, "Little Waltz", ends: "love sets us free, time kills us". The coming
together of man and woman is imaged in that of the earth and "The Sea",
In love with the earth, always drawn to shore
….
In love with the earth, thrusting into cities, Stockholm,
Venice, listening to tourists laugh and chatter
before returning to its dark, unmoving source.
The most frequent pairing and dis-pairing of the many antitheses
in these poems are those a of light and darkness (themselves linked to
a life and death), often in a religious context, as a in "The Churches of
France", described as "dark vessels, where the shy flame of mighty light
wanders". Again, in a more a: recent poem, "At the Cathedral's Foot",
[we] spoke softly about disasters,
about what lay ahead, the coming fear,
and someone said this was the best
we could do now -
to talk of darkness in that bright shadow.
Such poems remind us that when this Polish Roman Catholic Adam was
born, "the pock- marked / Georgian still lived and reigned". With a bitter
parody of the opening of St John's
Gospel, he now remembers:
In the beginning, freezing nights and hatred.
Red Army soldiers fired automatic pistols
at the sky, trying to strike the Highest Being.
The title of that poem, "Life is Not a Dream", is echoed by the
end of the next, "It Depends": "I push" through a dense thicket of onlookers
and ask: / What's happening? God's coming back. But it's just a dream".
Zagajewski resembles Yeats in the skill with which he links poem
to poem, so that the power of both poets' collections is greater than the
sum of individual poems. The Arch-poet liked to quote Blake: "Without contraries
is no progression". Zagajewski would agree but, whereas the Irish agnostic
celebrated the conflict of contraries that, in his "System", made the world
and history go round, the Christian Pole seeks and celebrates harmony,
love: "Remember the moments when we were together". The title of a key
poem proclaims his creed, "Poetry Searches for Radiance", the creed of
creative artists (made in their Creator's image) such as Blake-
I watch William Blake, who spotted angels
every day in treetops
and met God on the staircase
of his little house and found light in grimy
alleys –
and like others whom he celebrates: Milosz and Brodsky, Caravaggio
and Vermeer, Bach and Schubert.
Last but not least, the composers: indeed, Zagajewski would seem
to believe that life as well as art "aspires to the condition of music".
A sentence borrowed from Conrad Aiken - "Music I heard with you was more
than music" - finds its way into three poems of his new book; and music
in some form is the means of communication/communion in the joyful epiphanic
moments to which he and his fellow makers aspire. The music of the translator's
English free verse, in its happy marriage to the poet's European themes,
makes Cavanagh's Zagajewski as rare and rewarding an experience as that
of Milosz's Englished Collected Poems.
TLS Dec 4 2009
TLS điểm tập thơ Eternal Enemies,
Những kẻ thù thiên thu, của Adam Zagajewski.
Chắc bạn
còn nhớ dòng thơ của Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng
một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time.
About what time does to Man."
Đây là câu trả lời của Adam Zagajewski:
"Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces"
"love sets us free, time kills us".
Stopping By Woods on a Snowy Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and
deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Dừng ngựa bên
rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang
trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có
chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết
rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái
tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than
I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle
way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet is
thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles to
go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for a long
stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps I
am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies
not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but
rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse
Về ẩn dụ, tôi có
lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà
chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó
không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với
sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là...
" - Không, nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về
những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì
dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành "ngày",
thành "năm", và dài dài mãi ra, và
"ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy
tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa phải giữ! (1)
[Như vậy], chúng ta có
hai cách làm thơ. Người ta thường nói về văn phong
giản dị và văn phong phức tạp. Tôi nghĩ, nhảm, bởi là
vì điều quan trọng, what is all-meaning, là sự kiện, thơ
nên sống hay nên chết, chứ không phải văn phong nên
giản dị hay rắc rối. Điều này tùy thuộc vào
thi sĩ thứ thiệt hay thứ dởm. Chúng ta có thể có những
dòng thơ thần sầu dưới cái vẻ [cái vỏ, cũng được]
rất ư là giản dị, tự nhiên. Thí dụ, khi Stevenson viết
những dòng thơ "Kinh Cầu", thì đúng là thứ
thơ giản dị, nhưng thi sĩ đã phải lao động cật lực mới có
được. Tôi tin là, dòng thơ “Vui tớ sống, vui tớ đi”,
bật ra vào 1 khoảnh khắc mà nữ thần thi ca thật vui, và
thật là rộng lượng, và bèn ngó xuống thi sĩ.
Ở 1 chỗ khác, cũng trong
cuốn "Tập Làm Thơ" ["This Craft of Verse": Mánh, Ngón,
Nghề.. Thơ], Borges chỉ cho chúng
ta thấy, có những dòng thơ, bề ngoài thật giản dị,
nhưng là với 1 thi sĩ… dởm, hay người
trần mất thịt.
Thí dụ câu thơ sau đây, mà theo Borges,
là của Tennyson, làm khi 13 hay 14 tuổi, và [chắc
là ngượng quá], bèn dục bỏ, may làm sao còn
1 dòng: “Thời gian trôi vào lúc nửa đêm”,
“Time flowing in the middle of the night”. Tôi [Borges] nghĩ là
thi sĩ đã chọn thời gian 1 cách thật là cực khôn
khéo, very wisely. Vào ban đêm, im ắng, con người thì
ngủ, nhưng thời gian vưỡn trôi, đếch có 1 tiếng động!
Borges rất mê bài
thơ “Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ”. Ông nhắc tới nó
mấy lần, trong cuốn “Tập Làm Thơ”, và mỗi lần, ông
lôi ra 1 chi tiết, 1 phát giác thần sầu.
Trong cuốn sách, ông
đồng ý với… Gấu, ẩn dụ không đơn
giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là đốn ngộ,
là mặc khải. Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè “Ôi
nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà hàng
xóm, thấy cái áo cánh trắng phất phơ bay trong
gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra là
Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "Méta", Dũng khám phá ra tình
yêu của mình!
THEY PLAYED PUSHKIN
Note: Bài thơ này, dùng
vào việc chào mừng Ngày Thơ, của Hội Nhà
Thổ Vẹm, quá đắc địa.
Nó làm nhớ, lần TTT được làm Poster,
và Sến bèn ra lệnh (?) cho tên Trùm Cớm
hải ngoại đánh cô em của Sến tơi bời hoa lá cành.
Lũ này, Gấu đã nói rồi, phần đạo
hạnh kể như Zéro.
Nhớ, hồi Sến mới xuất hiện, cả hải ngoại lẫn trong
nước cùng mừng rỡ.
Vị nữ thủ lãnh trên lưới,Thiên Sứ
đem Tin Mừng tới cho giống Mít.
Bây giờ, kể như ô hô ai tai, cả 1
lũ!
Sao mi ghét talawas? Sao mi thù Bắc Kít
đến như thế?
Sergey Chudakov (1937-early 1990s?)
The son of a labor-camp director, Sergey Ivanovich Chudakov
spent much of his childhood in Kolyma. Expelled from Moscow State
University, he supported himself by writing articles under pseudonyms;
he was also a pornographer, pimp and book thief. Sometimes called
'the Russian Villon', he is thought to have died or been murdered in
the early 1990s.
Boris Dralyuk
Con một ông trùm quản giáo, tuổi thơ trải
qua hầu hết tại nhà tù nỗi tiếng Kolyma. Bị đá đít
ra khỏi trường Đại Học Moscow, ông kiếm sống bằng cách viết
lách dưới những cái nick vô danh; còn là
1 nhiếp ảnh gia phim/hình ảnh con heo, một tên ma cô,
một tay ăn trộm sách.
Đôi khi được gọi, là 1 Villon (một nhà thơ
Pháp) của Nga, nghe nói ông bị làm thịt
vào đầu thập niên 1990,
(sinh năm 1937, là cùng năm với GCC!)
THEY PLAYED PUSHKIN
They played Pushkin on a grand piano.
They killed Pushkin in a duel one day.
He had asked them for a plate of cloud berries
and, lying near a bookshelf, passed away.
In icy water, full of frozen clods,
they buried Pushkin, hallowed be his name.
And we too tend to meet too many bullets;
we hang ourselves, and open up our veins.
All too often we are hit by cars,
get tossed down stairwells in a drunken state.
We live - and all our petty intrigues
wound little Pushkin in some way.
Little, cast in iron, celebrated -
in a park deserted thanks to frost -
he stands (his understudy and replacement),
bitterly regretful at the loss
of youth, and of the title Kammerjunker,
of songs, of glory, of the girls in Kishinyov,
of Goncharova in her white lace petticoat,
and of death that cannot be shrugged off.
Boris Dralyuk
Chúng chơi Pushkin
Chúng chơi Pushkin trên cái dương cầm tổ bự chảng
Chúng giết Pushkin bằng 1 cuộc đấu súng
Chàng hỏi xin chúng một dĩa trái cây
cloudberries
Và, nằm kế bên cái giá sách,
chàng bèn làm chuyến tàu suốt
Trong nước băng, đất lạnh
Chúng chôn chàng, cầu sao cho vĩnh hằng là
tên chàng
Và chúng ta, chúng ta cũng muốn được ăn
vài trăm viên đạn
Chúng ta tự làm thịt chúng ta, bằng cách
tự treo cổ
Hay mở toang động mạch
Tất cả chúng ta, thì cũng đã nhiều lần,
được xe hơi hôn, một, hai, hay nhiều phát!
Té bổ chửng nơi cầu thang, do say mèm
Chúng ta sống – và tất cả ba cái lẻ tẻ như
thế, thì có tí mùi đau thương - như Pushkin
- một cách nào đó.
Nhỏ xíu, bị đóng cứng vào 1 miếng sắt, thép,
hay đồng, được ngợi ca, vinh danh, tưởng nhớ
Tại 1 công viên hoang tàn, đổ nát nhờ
sương giá, lạnh nhạt
Chàng đứng sững (sự đóng thế, đóng thay
chàng)
Cay đắng ân hận về sự mất mát
Của tuổi trẻ, và của cái tít Kammerjunker,
Của những bài ca, của vinh quang, và của những
cô gái ở Kishinyov,
Và của nàng Goncharova
Trong cái áo khoác nhỏ màu trắng
viền đăng ten
Và của cái chết không làm sao rũ bỏ
cho được.
ALEKSANDER WAT
1900-1967
Aleksander
Wat was proud of his Jewish lineage, which he could trace back to famous
mystics and rabbis. His life could be divided into four main periods.
First he was an active and rather noisy avant-garde poet (a Futurist) in
Warsaw. Later on he became an editor of a communist magazine and, after
that he worked for a respectable publishing house. World War II changed
everything: Wat found himself a prisoner of the immense Gulag Archipelago
after being arrested in Lvov, which between September 1939 and June 1941
was part of the Soviet Union before falling into the hands of the Nazis).
After the war he returned to Warsaw but a new calamity ensued-a disease
that manifested itself mostly in terrible pain. The postwar period consisted
of years of sickness for Wat and many journeys abroad for the sake of his
failing health. Eventually he became an exile and, after a stay in California,
died in France.
The last stage of Wat's biography was the richest in terms of
his literary achievement, although each line written had to be measured
against an almost an almost permanent pain. These late poems were filled
with wisdom, bitterness, and irony. My Century, a philosophical memoir
dictated on tape (and spoken to Czeslaw Milosz, who initiated this exchange),
was published in 1977, ten years after Wat's death, and was greeted as
one of the great documents of our time.
My Century combines the insight of an artist who came to the limits
of literary experiment with the sagacity of a witness to the horror
of totalitarianism.
Adam Zagajewski: Polish Writers on Writing
Alexsander Wat,
Thi sĩ và Nghi lễ trừ tà của thế kỷ
"Tại nhà ga Saratov, nơi cả đám chúng tôi
ngồi trong những thùng chứa con-te-nơ, đợi giờ đi, cửa bỗng mở,
và mấy người ngồi kế bên đã xúm nhau kéo
lên xe một người đàn ông. Anh ta cố gượng đứng, nhưng
quá yếu lại té xuống sàn. Người đàn ông
với áo lông, chiếc khăn choàng da rái cá,
và chiếc nón quả dưa, trông thật chẳng giống ai..."
Thời gian, cuối năm 1941. Chàng sinh viên Do thái-Ba
lan vừa được thả từ một trại tập trung. Hitler tấn công Liên-bang
Xô-viết, tháng Sáu. Theo một thỏa ước giữa Stalin
và chính quyền lưu vong Ba-lan, cái đế quốc khổng
lồ, gồm những trại lao động khổ sai và những nhà tù,
lừ đừ nhả ra một số "cư dân" của nó, trong có chừng
hai triệu người Ba-lan, những lưu đầy biệt xứ sau khi đất nước của họ bị
xâm lăng và sát nhập vào Liên xô,
tháng 9 năm 1939. Hướng tới của đoàn xe, Alma-Alta. Tại vùng
Á châu thuộc Xô-viết, người ta đồn, những chiếc xe chở
thực phẩm. Tại đó, những bộ xương được "vỗ béo" cho đến khi
họ có thể cầm nổi khẩu súng.
Người đàn ông với chiếc khăn choàng da rái
cá, chiếc nón quả dưa là Aleksander Wat, nhà
văn-nhà thơ Ba-lan, một người mà "thế giá" của
ông chỉ đến bây giờ mới được Tây-phương biết tới.
Hình ảnh "siêu thực" kể trên là một trong chuỗi
dài, gần 7 năm, giữa nhà tù Xô-viết, lưu đầy
biệt xứ tại Kazakhstan, trước khi ông trở về Ba-lan vào
tháng Tư, năm 1946.
"Đêm đó,", sau ông ghi lại, "trong lúc
đi trong bóng tối nhà ga, tôi thấy một người đàn
bà bị hiếp." Nhà ga rất rộng. Chẳng ai để ý đến
chuyện đó, tuy loanh quanh "hiện trường" cũng có một vài
người, kể cả Wat. Chỉ mấy tháng trước, ông cải đạo trong
phòng giam, từ một gia đình Do-thái qua Thiên-chúa
giáo. Nhưng cảnh một số người hãm hiếp một người đàn
bà, không ai đứng ra can thiệp, cho dù người đàn
bà đó có kêu la, gào thét, chẳng
làm ông cảm động. "Trong phòng giam nhà tù
Saratov, tôi đã có một viễn ảnh về một nước Nga khổng
lồ, với sự bành trướng của nó, với triệu triệu những thảm
kịch của con người... Và trước mắt tôi, thảm kịch bằng xương
bằng thịt của một nước Nga đang bị hãm hiếp... Những gì mà
tôi trải qua ở Saratov như đạt tới cõi sâu thẳm trong
tôi; nhưng thật mỏng manh, lớp bụi mờ nó để lại. Tôi
không cảm động trước cảnh tượng này; tôi đã nhìn
những người đó như phân người".
Ông đang trên đường về phương nam tìm vợ, Olga,
và con, Andrzej. Họ đều bị bắt, và đã 18 tháng
trời, ông không biết số phận họ. Trong một trại tập trung
tại Kazakh, vợ con ông cố gắng để đừng bị chết đói, ngoài
những giờ lao động khổ sai, bán quần áo vật dụng của họ, hoặc
ăn cắp chút bột mì. Vào tháng Hai, 1942, Olga
gặp chồng ở Alma-Alta.
Bà kể lại: "Một ông lão ngồi trên chiếc
ghế đẩu... hướng cái đầu về phía phải, và Aleksander
đang đứng ở giữa một căn phòng khác, lúi húi
viết. Anh cũng không nghe thấy tôi bước vô. Lần chót
chúng tôi nhìn nhau, đó là khi anh
bị bắt. Lúc đó, anh 40, khoẻ mạnh, tóc đen nhánh,
cặp mắt sáng. Đây là một người đàn ông
già khằn, ốm nhom, cùng kiệt". Ông nhớ lại: "Andrzej
trông như một đứa trẻ từ một ghetto Warsaw. Nó bắt đầu có
triệu chứng ho lao. Olga bao nhiêu rồi nhỉ? Cô ta mới 30
mà sao trông như một bà già 60".
Lần chót nhìn nhau không phải là lần
chót xa nhau. Vài năm sau, cả hai lại bị bắt vì
từ chối thông hành Xô-viết. Olga bị đánh đập,
đối xử tàn nhẫn bởi đàn bà Nga, trong nhà
giam. Họ được đoàn tụ, để "được" lưu đầy, tại Kazakh, gần biên
giới Trung-hoa. Nhưng những đồng hương không quên họ: sau
chiến tranh, nhờ sự can thiệp của những nhà văn Ba-lan, sau cùng
họ đã được thả, vào tháng Tư 1946.
Chuyến xe lửa ngừng giữa một cánh đồng, cách đó
vài dặm là những hoang tàn đổ nát của thành
phố Warsaw ngày nào, và nhả ra "ông bà"
Wat, với những cái bị đầy những lon gô, dĩa nhôm, mẩu
bánh mì khô, rẻ rách...". Họ đi nhờ xe, cuối
cùng hoảng sợ khi biết tài xế là mật vụ. Nhưng anh
ta không lấy tiền: "Tôi không đòi tiền công,
từ đám tuẫn nạn".
Những gì mà bây giờ chúng ta được biết
về cơn hỗn loạn chính trị của lịch sử Ba-lan thế kỷ thứ 19, một
phần lớn là nhờ cuốn băng hồi ký lạ thường, của A. Wat:
"Thế kỷ của tôi: Cuộc phiêu lưu của một trí thức Ba-lan".
Người đẻ ra ý nghĩ, ghi âm hồi tưởng của một thi sĩ Ba-lan,
bệnh hoạn và quá đau đớn không thể viết, cư dân
Berkeley từ năm 1964, là Gregory Grossman, thuộc Trung tâm
nghiên cứu Slavic và Đông Âu, tại Berkeley. Ông
giao trách nhiệm cho Czeslaw Milosz, (thi sĩ, Nobel văn chương).
Wat nhận ra ở Milosz, một người nghe lý tưởng, và có
cảm tưởng, những lần họ ngồi chung, Milosz đang làm một nghi lễ trừ
tà ở nơi ông.
"Thế kỷ của tôi" - Milozs gọi là những "buổi gọi
hồn", trong đó, ông vinh dự được phục vụ như là
một "phương tiện" - không chỉ là một công trình
lớn lao của riêng người nghe, cũng không hẳn là di
chúc của người kể. Cùng từ một nền, Milosz hiểu ngay lập
tức, điều nhà thơ đang nói, và những gì bạn
mình cảm thấy khó khăn, để nói ra. "Tôi nhận
ra liền, một điều chi độc nhất vô nhị, đang diễn ra giữa chúng
tôi. Không hẳn chỉ là vấn đề, tôi, một cá
nhân riêng lẻ, khác, trên mặt đất, một kẻ cũng
đã từng kinh qua thế kỷ và có cùng ý
nghĩ về nó, như Wat. Ở đây, chẳng có chi mắc mớ đến
sự độc ác tàn nhẫn, của số mệnh, hay của lịch sử. Hàng
triệu triệu con người đã đau thương, cay đắng vì nó,
còn hơn Wat. Không, vấn đề ở đây là "một tính
khí", (a cast of mind), một văn hóa... đặc biệt văn hóa
của tầng lớp trí thức Ba-lan.
Những cuộc ghi âm bắt đầu bằng cuộc đời chính trị,
văn chương của Wat, trong những năm trước chiến tranh tại Ba-lan, và
bất thình lình bị ngắt quãng ở khúc Kazakhstan.
Milosz phải rời Paris, (cuộc ghi âm được thực hiện, năm 1964 tại
Berkeley, và tại Paris, năm 1965), và không một "phương
tiện" nào thỏa đáng có thể thay thế ông.
Khúc ngắt quãng cận kề thời điểm gia đình
ông trở lại Ba-lan: Những năm tù đầy, cuộc hành trình
tinh thần của Wat, tới với chủ nghĩa CS, rồi từ bỏ nó quay về
niềm tin tôn giáo, và nỗi đớn đau vì tội lỗi,
và sự hối hận, vì đã có lần "tán trợ"
một ý thức mà sau ông coi là "quỷ ma" (satanic).
Nhưng đây chỉ là một phần, chuyện của Wat.
Khi Wat còn sống, một nhà phê bình
Balan đã tuyên bố: "Chẳng có gì ở trong tác
phẩm của ông, họa chăng, những dở dang". Mười ba năm, sau khi
những cuốn băng được thực hiện, Tomas Venclova, thăm viếng Berkeley,
và "lại khám phá ra" thi ca của Wat. Trước sự ngỡ
ngàng của ông, đây là một nhà văn hàng
đầu của thế kỷ 20, chưa từng được khám phá, tại Tây-phương.
Hai mươi năm sau, mặc dù hai tác phẩm bằng Anh ngữ của
Wat, thơ ca và truyện ngắn (Lucifer Thất nghiệp), và "Thế
kỷ của tôi", đã được xuất bản, nhà văn "lập dị", nhà
trí thức Wat vẫn gần như "vô danh", và không
được "đánh giá cao", tại xứ sở của ông. Những dở dang.
Cuốn sách của Tomas Venclova (Aleksander Wat: Life and Art of an
Iconoclast, nhà xb Yale University Press, 1996), là một cố
gắng bổ sung những thiếu sót đó. Tác giả là
nhà thơ, nhà phê bình người Lithuanian, hiện
đang giảng dậy tại Yale.
Theo ông, Wat là một trong số ít người đã
thực sự đồng nhất, với những "hoài vọng, những ngây thơ
vụng về đến trở thành ngớ ngẩn, mù loà, và
cuối cùng là những ảo tưởng bị tan vỡ", của những thời kỳ
hiện đại.
Wat sinh vào May Day, 1900, tại Warsaw. Gia đình
Do-thái trung lưu. Cha mẹ là những người Ba-lan ái
quốc, tuy ngôn ngữ thứ nhất của họ là tiếng Nga. Một trong
những hình ảnh mà ông còn nhớ được về người
cha, và một trong những người chị, là bữa họ trở về, thân
thể bầm nát, đầy máu me, sau một cuộc biểu tình chống
Nga-xô, vào năm 1905. Những năm sau, thường xuyên bị
tra vấn, ông nghĩ sao về chính mình, Do-thái
hay Ba-lan, "phần nào nhiều hơn", Wat coi câu hỏi là
"phiến diện": "Tôi không bao giờ cảm nhận về mình,
là Dothái-Balan hay Balan-Dothái... Tôi luôn
luôn thấy tôi như là một Dothái-Dothái,
và Balan-Balan. Ông tin tưởng trách nhiệm đạo đức
chính của ông là "đưa ra một giải đáp triết
học về hiện tượng quyết định bước đi của thế kỷ bị đọa đầy, qua những
phương tiện "nguyên sơ đến ngỡ ngàng, hoảng sợ". Wat mong
muốn, ông giải thích, "nhẩy múa trên những điêu
tàn... chà sát ngôn ngữ thành mùn,
để tạo từ; như vậy những âm tiết của chúng sẽ làm
nên một "idiom" mới, cho làn da trần trụi, của một người.
Bài thơ xuôi dài Dadaist của Wat, "Me from One Side
and Me from the Other Side of My Pug Iron Stove", khi Wat mới 18 tuổi,
được Venclova coi như "cuộc chiến của ông chống lại nghĩa" (his war
against sense), và là một trong những bài viết tiền
phong, cơ bản nhất thời kỳ này, xác nhận đánh giá
của Vladimir Mayakovski: Wat là một "Nhà thơ Vị lai bẩm sinh."
Nhưng Chủ nghĩa Vị lai Ba-lan, tự thân, chẳng mấy chốc bị
nhận chìm bởi những ảnh hưởng từ bên ngoài. Một
trong những ảnh hưởng đó, là trò thờ phụng, sùng
bái mang tính thời thượng, sự hung bạo. Ở Tây-phương,
ảnh hưởng này đẩy các nhà thơ tới chủ nghĩa phát
xít. Ở Ba-lan, nó được đại diện bởi những trò ác
độc, tàn nhẫn của Cách mạng Bolshevik. Các nhà
thơ bắt đầu nghiêng về phía tả, vào những năm 1920.
Jasienski là một trong những người đầu tiên: "Chúng
ta sẽ dí nát mọi thứ dưới đôi bốt của chúng
ta, (kể từ khi chúng ta) đẹp, bao la như trời biển, và mang
chất người." Ông di cư sang Liên-xô, và cùng
với rất nhiều bạn thân của Wat trong phong trào CS Ba-lan
trước chiến tranh, bị sát hại bởi Stalin.
Chính Wat cũng bị mê hoặc bởi ý tưởng "Sự
hung bạo thanh hóa" của Cách Mạng, và giấc mơ về
một nền văn học mới, vô sản. Nếu ông, sau cùng không
gia nhập đảng CS (thẻ đảng viên chính thức của ông
cho đến giờ vẫn là một nghi vấn), cho dù vậy, ông đã
là một bạn đường nhiệt thành - một tâm hồn bị vây
khổn, "captive mind", theo nghĩa được diễn tả bởi Milosz.
Vào cuối thập niên 1920, Wat là một khuôn
mặt nổi tiếng ở Warsaw. Ông đã cho xuất bản "Lucifer Thất
nghiệp", và đã kết hôn với Paulina Lew (Olga). Bà
là nguồn an ủi, và hỗ trợ ông suốt cuộc đời còn
lại. Năm 1929, ông là chủ biên tờ báo CS mới
"Literary Monthly". Mặc dù khuynh hướng sùng bái chủ
nghĩa Stalin, tờ báo rất được ưa chuộng giữa đám trí
thức căn bản Ba-lan. Đây là những năm hạnh phúc của
Wat, với Olga, với công việc làm. Ông càng cảm
thấy mình "thành công", khi tờ báo trở thành
một "điểm nóng" đối với nhà cầm quyền, nhưng chẳng được bao
lâu, Wat và cả đám bạn bè bị tống vào
tù vì phơi bầy chuyện tra tấn trong những nhà giam Ba-lan.
Họ trở thành anh hùng. Trong nhà tù, Jan Hempel,
bạn của Wat, mắt sáng rỡ khi loan tin: "Anh biết không, hai
lò luyện sắt bị cháy hôm nay, ở Magnitogorsk!". (Vài
năm sau, đến lượt ông ta, bị bắn trong nhà tù Xô-viết).
Rồi tờ báo bị đình bản, liên hệ của Wat với
Đảng CS yếu đi dần. Chi tiết về sự vỡ mộng của ông không
rõ rệt. Nhưng trên hết, Wat chắc hẳn đã được biết,
và lúc đầu chắc chẳng muốn tin, trong thời gian 1937-38,
khi cuộc thanh trừng lên đến cao điểm, Stalin đã hạ lệnh
tàn sát tập thể chừng 5,000 đảng viên CS Ba-lan bị
lưu đầy tại Liên-xô, trong có cả tầng lớp lãnh
đạo, và rất nhiều bạn thân của ông. Wat càng
trở nên "u ám" hơn, vì chính sách của
Xô-viết với nước Đức của Hitler, trước khi hiệp ước bất tương xâm
được ký kết vào năm 1939.
Khi Hitler xâm lăng Ba-lan, vào tháng Chín
1939, Wat chạy thoát tới Lwów, với Olga và con
trai Andrzej. Lwów trở thành thủ đô của "Western
Ukraine", chẳng mấy chốc bị sát nhập vào Liên-xô,
trong khi Hitler và Stalin tuyên bố xóa sổ nhà
nước Ba-lan. Tiếp theo đó là "tận điểm" trong đời Wat. Lwów
tràn ngập những gia đình tị nạn Ba-lan, trong có nhiều
nhà văn, nhà báo Warsaw. Những ông chủ mới Xô-viết
chơi trò mèo vờn chuột với tầng lớp trí thức Ba-lan,
ép buộc họ thừa nhận và hỗ trợ chính quyền mới. Một
số, tuyệt vọng vì sợ, chịu theo. Một số khác, nhìn
ra "số phận sau cùng của chuột", từ chối. Wat, cùng với một
số nhà văn nổi tiếng như Tadeusz Boy-Zelenski và Wladyslaw,
đã ký vào một bản tuyên bố "nhục nhã",
và bằng lòng làm việc cho "Băng Đỏ", một tờ báo
Ba-lan của chính quyền. Venclova cho chúng ta thấy một đoạn
trong bản tuyên bố: Nhân dân thợ thuyền Tây-Ukraine,
đã từng rên xiết bao thập kỷ dưới sự áp bức của đám
chủ đất Balan và bọn tư bản, chỉ còn một quyết định độc nhất.
Với hăng say, và niềm tự hào, họ tuyên bố ước muốn của
họ, được sống dưới Định Chế của Stalin, trong gia đình hợp nhất, cùng
nhân dân Xô-viết hạnh phúc! Nỗi tủi hổ về những
tháng đó đã bao trùm lên hết suốt quãng
đời còn lại của ông. Và niềm ăn năn về tội lỗi.
Sau đó là bắt bớ. Trường hợp bị bắt của ông
y hệt như một xen kịch, khủng khiếp và "tiếu lâm", kiểu
Shakespeare. "Bạn" của ông, Daszewski, mời ông và
Olga đi ăn tối, tại một nhà hàng với một số nhà văn
Ba-lan. Một người lạ bước tới bàn, được chủ nhân giới thiệu,
đây là "nhà sử học về nghệ thuật Xô-viết".
Tới một lúc nào đó, nhà "nghệ sử" túm
lấy một thực khách, và tung hê bàn ăn. Một
bầy côn quang, côn đồ vạm vỡ từ đằng sau những bức màn
túa ra tấn công những người khách khác. Wat
bị kéo ra xe, khi đó ông đã gần như bất tỉnh.
"Bạn" của ông len lén "chuồn" mất. Olga nhìn thấy cảnh
sát dẹp đường cho anh ta.
Gần hai năm, bà không nhìn thấy mặt chồng.
Trong mấy tháng đầu, Wat bị nhốt, chen chúc với 28 bạn
tù khác, trong một phòng giam nhỏ hẹp tại nhà
tù Lwów. Vào mùa thu năm 1940, ông
bị chuyển tới nhà tù Lubyanka, ở Moscow. Tại đây,
ít ra ông cũng được ăn uống ra hồn, và được hỏi cung
đàng hoàng. "Tội ác" của ông sao chẳng rõ,
số phận của ông cũng vậy. (Theo Susan Miron, tác giả bài
điểm sách của Venclova, trên tờ Partisan Review, số 1, 97,
ông bị tố cáo là Zionist, Trotskyite, và cho
đủ bộ, "điệp viên" của Vatican!).
Sau khi Hitler xâm lăng Xô-viết, nhà tù
được di tản vào tháng Bẩy 1941, và một lần nữa
Wat lại thấy mình ở trong nhà tù chính Satarov.
Tình trạng của ông lúc này thật thảm hại, đói,
bịnh, và chỉ mong quân đội Đức tấn công đưa tới chuyện
mật vụ Nga, cơ quan NKVD sẽ bắn bỏ tất cả những tù nhân, trước
khi bỏ chạy.
Chính tại đây, ông đã cải đạo.
Wat đã cố gắng giải thích cho Milosz về chuyện này:
Một đêm, yếu như sên, và lên cơn sốt do viêm
ruột, ông nghe thấy Quỷ cười vang, bên ngoài hành
lang nhà tù. Một tiếng cười lớn, thô, tới rồi đi,
rồi tới gần hơn nữa. Sau đó Satan đi vào phòng giam
của ông, "một con quỷ có sừng, con quỷ từ opera". Wat hiểu
"đại khái", đây là "quỷ lịch sử" (the devil in history),
nhưng "tôi cảm thấy một điều gì khác nữa. Uy nghi của
Chúa (God) đang trải dài lên lịch sử... Trần nhà
giam được nâng bổng và trên cao kia, trên tất cả,
là Chúa". Sau đó, ông nhận ra là do ông
mê sảng, và tiếng cười, thực sự chỉ là tiếng còi
báo động phòng không của một con tầu tuần hành
trên sông Volga. Nhưng mặc khải, và niềm tin, từ đó
không rời ông.
Ít lâu sau, ông được tha, rồi tái hợp
với Olga và con trai. Sau tới thời gian ở Alma-Alta, và
lần giam giữ sau cùng, ở Kazakh. Nhưng ông bắt đầu viết
lại. Vào năm 1942, tháng Giêng, ông làm
bài thơ "Những cây liễu ở Alma-Alta". Bài thơ không
hiểu sao "trôi dạt" về tới quê hương Ba-lan, được in lại trên
báo chí "dưới hầm", thời gian Nazi chiếm đóng. Mặc
dù những chi tiết, những references riêng tư, thế hệ trẻ Ba-lan
đã vồ lấy nó, và thuộc lòng:
Liễu, ở đâu mà chả có liễu
Đẹp như thơ như tranh
Ôi liễu, ở đây, Alma- Alta.
Nhưng làm sao tôi quên được,
liễu chết, nơi phố xưa, Rozbrat,
Liệu liễu xinh, mượt tay tôi,
làm quên liễu chết.
Núi, ở đâu mà chẳng có núi
Trước mặt tôi, Thiên Sơn giương cánh buồm,
tím, chút ánh sáng phù du,
đá mầu,
nhạt nhòa dần rồi biến mất
Nhưng làm sao tôi quên được đỉnh Tatry,
xa quá là xa
Ôi dòng suối Biala,
tôi và con từng tưởng tượng
những chuyến giong buồm rực rỡ
Hai cha con đều được chúc phúc
bằng nụ cười thầm lặng của vị nữ chủ tốt lành của chúng
tôi -
hãy để tôi biến thành đá núi
Tian Shan
Làm sao quên bạn, nơi đây,
làm sao quên chốn xưa,
Ôi, quê hương của tôi
Đêm Warsaw,
mưa, cổng về,
người ăn xin vươn dài tay qua cổng,
con chó cắn rách áo
Hãy ngủ đi Jedrus...
Tôi vươn tay sầu muộn
như liễu khóc Ba-lan...
Làm sao quên Warsaw, chiến đấu
Ôi Warsaw, tạo bằng máu
If I forget Thee
If I forget Thou
"Đằng sau sự bệnh hoạn của tôi, là con quỷ CS chủ
nghĩa", Wat đã từng tuyên bố với Milosz. Nhà phê
bình Stanislaw Baranczak nhìn ở ông như sự nhập thân
hiện đại của Job, "không phải bởi vì ông đau khổ hơn
hàng triệu nạn nhân khác, nhưng bởi vì ông
khăng khăng tìm cho ra nguồn cơn nỗi đau của mình". Như
nhận ra, bằng tính cách tiên tri, chức năng thi ca
của ông, trong "Thế kỷ của tôi", Wat giải thích, "làm
một thi sĩ không có nghĩa là viết nên những
câu thơ, mà là một cách thế đặc thù "kinh
nghiệm toàn-kinh nghiệm", trong đó bao gồm những việc làm
của lịch sử...
"Chính trị", ông than thở, "là số mệnh của
chúng ta. Trong cơn bão tố chính trị, chúng
ta trú ẩn ở mắt bão, trên chiếc thuyền mỏng manh là
thi ca...".
(Theo bài viết của Neal Ascherson, trên The New York
Review of Books, Nov 28, 96, và bài viết của Susan Miron,
tạp chí Partisan Review, số 1, 1997).
Nguyễn Quốc Trụ
Sách
& Báo
Mới
Chekhov vốn không viết
được truyện dài, và giải thích cho sự không thể
viết của mình: "Chỉ những nhà văn thuộc nòi phong nhã
[issu de la noblesse] mới biết viết tiểu thuyết. Còn chúng
ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt quá sức chúng
ta."
[Roger Grenier, Hãy nhìn
tuyết rơi (những ấn tượng về Chekhov), nhà xb Gallimard, tủ
sách Folio, 1992]
Note: Cuốn này, Lâu Đài
Sách, Palace of Books, nguyên tác tiếng Tây.
Tác giả Roger Grenier, Tin Văn đã từng giới thiệu qua
cuốn viết về Chekhov, Nhìn tuyết rơi.
Đọc gần với Yêu, Sến phán,
khi trả lời Trần Vũ, qua bài phỏng vấn trên Da Màu.
Theo GCC, không hẳn như vậy. Rõ ràng nhất, 1 tên
già sắp đi xa, đọc gần với cái nấm mồ của hắn, hơn là
cái giường!
Tuy nhiên, có cái gọi là yêu, trong
cái gọi là đọc. Post sau đây, 1 entry của Grenier,
về đọc.
Reading
Reading, as much if not even more
than writing, is an act that belongs to private life. Alone with a book.
Perhaps we'll recognize ourselves in the pages someone else has written.
Our chaotic, poorly understood existence is suddenly comprehensible. Fiction
can teach us more about ourselves than reality.
We forge a completely personal rapport with beloved writers of the
past. We'll never see them but we'll cherish them, even if years, indeed
centuries, separate us from them. They are closer to us than members of
our family, or than people we think we love.
They can become our sole consolation. Elio Vittorini says it best:
"In literature's greatest moments, there has always been a Chekhov, someone
who abandons the novel and all other explicit representations or interpretations
of his or her era, to touch the very depths of those isolated souls, those
who are defeated by their times, isolated by the disarray and the storm."
Đọc, là hành động thuộc
về cuộc đời riêng tư thầm kín - nếu phải so với viết - sợ
còn hơn, nhưng nếu so với cái giường, như Sến… thú
nhận, sợ… thua!
Có lẽ, chúng ta sẽ nhận ra chính chúng ta,
trong những trang sách, một người nào đó viết. Cái
cuộc đời bát nháo của chúng ta, được hiểu biết thật
là nghèo nàn, bất thình lình trở nên
dễ hiểu, có thể hiểu được, thông cảm được, ấy là nhờ
đọc. Giả tưởng dạy nhiều về chính chúng ta, hơn là thực
tại
Mua xon. Chưa
đọc.
Bèn giới thiệu cái truyện sau đây. Phạm
Vũ Thịnh dịch Murakami.
"A devotional
anticipation is generated by the announcement of a new Haruki Murakami
book. Readers wait for his work the way past generations lined up at record
stores for new albums by the Beatles or Bob Dylan. There is a happily frenzied
collective expectancy-the effect of cultural voice, the Murakami effect."
-Patti Smith,The New York Times Book Review
"Only Men Without Women can comprehend how painful, how heartbreaking,
it is to become one. You lose that wonderful west wind. Fourteen is stolen
away from you forever. (A billion years should count as forever.) The far-off,
weary lament of the sailors. The bottom of the sea, with the ammonites
and coelacanths. Calling someone's house past one a.m. Getting a call after
one a.m. from a stranger. Waiting for someone you don't know somewhere
between knowledge and ignorance. Tears falling on the dry road as you
check the pressure of your tires."
-from "Men
Without Women"
Fourteen is stolen away from you forever: Tuổi
mười bốn của bạn vĩnh viễn bị chôm đi.
Ui chao, THNM,
bèn nghĩ đến lần đầu được chiêm ngưỡng BHD, tuổi 11!
À 1 phát, “Hà Nội của Gấu” đây rồi!
Khi viết Lần
Cuối Sài Gòn, là lúc ở Trại Tị Nạn Thái
Lan, Gấu bồi hồi nhận ra sự thực, tại làm sao khi vội vã
bỏ chạy quê hương, lại cầm theo Nabokov, dù không mê
nổi tên già dâm dãng chuyên mê con
nít này.
Gấu đọc cuốn Lolita, lần đầu, đến đoạn anh HH tính làm
thịt cô bạn gái, ở bãi biển, trước sự chúng
kiến của cặp kiếng mát của ai bỏ quên trên bãi
cát, và bị phá đám bởi hai tên râu
ria xồm xoàn, từ đáy biển nhô lên, miệng la bai
bải, “dzô, dzô...” là quăng vô thùng rác.
Liệu TTT, mê Nabokov, thì cũng như Gấu mê: Trong
Nabokov, có 1 tuổi thơ Nga bị VC Bắc Kít vĩnh viễn chôm
mất?
1989. Trong một bài viết ở phía
sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông
và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn
đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng
- la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông
đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác
học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú
khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng
thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam
giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách
vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và
một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch
"Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất
bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng
vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu
người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên
nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn
là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý
tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại, chỉ một sợi
nắng Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn
thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi
tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng
với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng
kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu
mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng
thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng,
tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị
trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ
của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
Life finds a thousand ways to
cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu
nhau
Note: Trong cuốn “Trên lưng voi”, Gấu lọc ra được hai
bài tuyệt. “Thư tình” đi trước. Cực kỳ thê lương.
Sẽ đi 1 đường tiếng Mít sau.
Note: Cái truyện ngắn này, trên trang
của K, vậy mà bây giờ, nhờ server, mới được đọc.
Phạm Vũ Thịnh, dịch Murakami, thần sầu. Độc giả TV đọc cái
này trước, trong khi chờ GCC dịch “thư tình”, của Durrell.
GCC mê nhất 1 câu,
nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực
khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì
đăng ký!
Cái truyện “cùng chết thì OK” này,
coi lại hóa ra là đã chôm về Tin Văn từ
hồi Diễm Xưa rồi.
Ấy là vì Gấu bực quá, không lẽ
chưa... chôm, bèn rà lại folder Giới Thiệu…
Ra luôn cái truyện Liêu Trai thần sầu
sau đây.
Đọc Tiểu Thu, thì lại phân vân, có
khi duyên, kiếp này, là duyên thừa, của
bố, hay của mẹ, kiếp trước!
Tiểu Thu
Cái truyện Tiểu Thu, và
cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm
GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và
hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của
bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên
tập theo nghĩa của Brodsky - (1) thì về già, bạn sẽ được
sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư… và
trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không
còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành
hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
(1)
Một khi
bạn bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này
nên, cái này không nên, bạn đang tán
tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according
to what is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
Trong số báo "Những tên bại hoại, biến thái", thần
sầu, với GCC, là bài viết về Nabokov.
Đọc 1 phát, là bạn bèn nhớ đến… Sến, nhất là cái truyện ngắn "Ám
Thị", nhân vật chính là anh mù làm nghề
đấm bóp.
Gấu đọc AT, chỉ nghĩ tới ám ảnh sex liên quan đến vấn
đề khiếm thị, nhưng bài viết trong số báo chỉ ra cái
hợp đồng âm u, mờ ám, pacte trouble, giữa tác giả
và độc giả.
Và sex, chỉ là tên đầy tớ của nghệ thuật
Tuyệt!
Thầy của Sến quả đúng là Nabokov. Đếch phải Grass, và
tất nhiên, không thể là Kafka!
Gao Interview
... on Nietzsche, Communism
and contemporary writers in China.
For the past hundred years the impact of politics on Chinese
writing was too large. The whole left-wing writing movement was just
too much politics and not enough literature. You can see that at the
Frankfurt Book Fair. For too long politics has been overwhelming literature
in China. There are a lot of writers who themselves think they are very
strong. But that's an illusion, a kind of self-inflation, ego, a narcissism.
It's linked to Nietzsche. And Marxism. Last century, the major streams
of thought in China came from Europe: Marxism, Communism, Idealism, the
belief that we could change society. It was an illusion. Marxism hasn't
the first understanding of human society. Marxists used politics to
change literature, they judged it by political standards, they used literature
as a tool to condemn capitalism. That was what happened in the twentieth
century and it's a strong current still. A lot of western intellectuals
joined in and supported the Russian revolution, the Chinese revolution.
We have to walk out of the shadows of the twentieth century.
Then Nietzsche killed God, and this inflated people's sense
of their own importance. Nietzsche was a madman. Most of his life
he had to be taken care of by his sister and his mother. He couldn't
even manage his own life. He wrote some interesting things, but I don't
think you can use him as a guide for life in the twentieth century. How
can you think that every person is God and that that is a legitimate position
from which to judge life? Intellectuals, especially left-wing ones, used
the position of being God to judge the world, to condemn it. They judged
people, and forgot that the judge was also a weak person full of contradictions,
full of weakness and perplexity. They wanted to play God. How else can we
explain why so many intellectuals ran madly after revolution, madly advocated
violence? We can only see problems from the perspective of people's limitations.
And we can't solve many problems. [Laughs] And the problems that there are
to be solved might be ones you haven't even thought of [Laughs]
Về Nietzsche, Chủ nghĩa CS và những
nhà văn đương thời ở TQ
Một trăm năm qua chính trị tác động nặng lên
văn học TQ. Trọn nền văn học tả phái toàn chính
trị, văn học nhẹ hều. Bạn có thể nhận ra điều này ở Hội
Chợ Frankfurt. Chính trị lậm vô văn. Rất nhiều nhà
văn coi mình rất mạnh. Đó chỉ là ảo tưởng, một thứ
tự sướng.
Và nó liên quan tới Nietzsche, Marx. Thế
kỷ vừa qua, những dòng tư tưởng lớn ùa vô TQ, từ
Âu Châu: Mác Xít, Cộng Sản, Chủ Nghĩa Lý
Tưởng, niềm tin rằng chúng ta có thể thay đổi xã
hội. Ảo tưởng. Mác Xít không phải là thứ hiểu
biết đầu tiên về xã hội loài người. Người Mác
xít sử dụng chính trị thay đổi văn học. Họ đánh giá
nó, bằng những tiêu chuẩn chính trị, họ sử dụng như
là 1 công cụ để kết án chủ nghĩa tư bản. Đó là
điều xẩy ra trong thế kỷ 20 và bây giờ vẫn còn mạnh.
Rất nhiều nhà trí thức Tây Phương gia nhập, và
ủng hộ Cách Mạng Nga, Cách Mạng Trung Hoa. Chúng ta
phải bước ra khỏi những cái bóng của thế kỷ 20.
Khi Nietzsche giết Thượng Đế, điều này làm con
người cảm thấy mình quan trọng, bởi là vì bây
giờ mình là Thượng Đế. Nietzsche là tên khùng.
Trọn đời ông bịnh, được chị và mẹ săn sóc. Ông
ta, tự ông ta không làm sao xoay sở, lo liệu cho chính
cuộc đời của ông ta. Ông ta có viết ra được một số
điều đáng quan tâm, nhưng tôi không nghĩ bạn
có thể coi ông ta như 1 kẻ hướng dẫn cho cuộc đời ở thế
kỷ 20. Bạn nghĩ thế nào về chuyện mọi người, bất cứ một con người,
lại tự coi mình là 1 đấng Thượng Đế, và từ cái
thế Duy Ngã Độc Tôn đó, xét đoán cuộc
đời? Trí thức, đặc biệt trí thức tả phái sử dụng
vị trí Thượng Đế như thế đó, để đánh giá cuộc
đời, để kết án nó. Họ xét đoán, đánh
giá những con người, và quên rằng, kẻ xét
đoán, ông quan toà thì cũng là 1 con
người yếu đuối, đầy những mâu thuẫn, đầy những ngất ngư con tầu
đi, yếu xìu. Họ muốn chơi trò Thượng Đế. Nếu không
như thế, thì làm sao chúng ta có thể giải
thích được, trường hợp, rất nhiều nhà trí thức trở
thành khùng, sau cách mạng?
Chúng ta chỉ có thể nhìn những vấn đề,
từ viễn ảnh, một con người, ở trong hoàn cảnh giới hạn, hữu
hạn, như 1 con người. Và chúng ta không thể giải
quyết nhiều vấn đề. Và có những vấn đề cần phải giải quyết,
có khi chúng ta chưa từng nghĩ tới!
Viết
mỗi ngày
Style, Isaak
Babel claimed, is "an army of words, an army in which all types
of weapon are on the move. No iron spike can pierce the human heart
as icily as a full stop deployed at the right moment".
Nói về văn phong, câu của
Babel, quá bảnh, không thua gì câu
của Cioran, “tôi mơ 1 thế giới, ở đó, người
ta có thể chết, chỉ vì 1 cái dấu phảy”. Nhưng
câu phán bảnh nhất, vào cuối đời, Gấu ngộ
ra được, là của Kafka, có vẻ như chẳng mắc mớ gì
đến văn phong, và kỳ cục làm sao, chính là
câu thật cũ mèm, “văn tức là người”.
Nhưng “người” ở đây, phải hiểu
theo ý của Kafka:
Trong cuộc đấu sinh
tử tay đôi giữa bạn và thế giới, hãy
ở bên thế giới.
In the duel between
you and the world, back the world.
Kafka
Câu của Brodsky,
phải được hiểu theo ý đó: Mỹ là Mẹ của
Đạo Hạnh.
Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới,
là cũng ý đó.
Nói ngắn
gọn, tâm địa của bạn như kít, thì không
làm sao viết văn hay được.
Và cái thứ văn hay nhất
này, thì quái làm sao, đếch
cần đến văn phong, “viết như không viết”, là
đạt tới đỉnh của văn phong!
Borges cũng nghĩ như thế. Ông cho
biết, truyện ngắn của ông, truyện nào cũng dính
tí kít, theo nghĩa của từ “trick”, chỉ có
mỗi 1 truyện, ông đếch sử dụng đến ngón nghề, trick,
là cái truyện The Intruder, và truyện này
đúng là câu chuyện cuộc chiến Mít, hai
anh em cùng yêu 1 cô gái, và 1 trong
hai, giết cô gái, vì chỉ mỗi cách đó,
là cả hai cùng giữ cô hoài hoài-
quên hoài hoài thì cũng thế -
One thing does not exist: Oblivion.
Borges, Everness
Intruder đã được dịch ra tiếng
Mít, và là Những Ngày Ở Sài
Gòn của tên khốn kiếp Sơ Dạ Hương!
[Aleph, là truyện ngắn Borges
viết để tặng người yêu của ông, còn Những
Ngày Ở Sài Gòn của Gấu, thì
là để tặng BHD và Sài Gòn]
Vưỡn văn phong & Vưỡn Kafka
Câu phán của Kafka, được Barthes "hoành
dương" qua bài viết sau đây, mà chẳng khủng sao?
Kafka's
Answer
Câu trả lời của Kafka.
... but we make no mistake: Kafka is
not Kafka-ism... For the [sterile] old question: why write? Marthe Robert's
Kafka substitutes a new question: how write? And this how exhausts the why:
all at once the impasse is cleared, a truth appears. This is Kafka's truth,
this is Kafka's answer [to all those who want to write]: the being of literature
is nothing but its technique. (1)
Roland Barthes: Kafka's Answer.
Câu văn trên, Hai Lúa đọc, bằng nguyên
bản tiếng Tây, ngay vào lúc chập choạng bước
vào cõi văn, quả là một câu văn mặc khải.
Về già, Hai Lúa hiểu thêm ra là,
cái mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính
là đạo, đạo ở đời.
Viết, đối với mấy tên nhà văn nhà thơ,
là một đạo ở đời.
Theo nghĩa đó, Nguyễn Du viết, chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài.
"Chữ tâm kia", chính là kỹ thuật của
nhà văn, vậy.
(1) Tạm dịch:... Nhưng chớ có lầm: Kafka không
phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu hỏi cũ kỹ, kiệt
mọi đường sinh đẻ, tại sao viết?, [tác phẩm] Kafka của Marthe
Robert thay bằng câu hỏi mới viết thế nào? Và chính
cái thế nào quật cho cái tại sao một trận mê
tơi, đến kiệt thở. Và thế là cùng tắc thông,
sự thật xuất hiện. Sự thật của Kafka, câu trả lời của Kafka [cho
tất cả những ai muốn viết]:
Hữu thể [Linh hồn] của văn chương, chính là
kỹ thuật của nó.
Coezee, Portrait
Bên Da Màu, trong bài
“lại nói chuyện về thơ” của cây viết Phan Xuân
Sinh có đoạn:
... Phạm Duy có gặp một số anh em văn nghệ tại Boston,
trong cuộc gặp gỡ nầy có người hỏi Phạm Duy là: “Anh
phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ, có hai thi sĩ lớn như Thanh Tâm
Tuyền và Tô Thùy Yên. Sao anh không phổ
thơ của họ?” Phạm Duy trả lời: “Hai ông nầy thơ hay thật, thế
nhưng thơ của hai ông lý trí quá khó
phổ thành nhạc được.” Nói thế để chúng ta biết rằng
thơ hay chưa chắc làm rung cảm được người đọc...
Source
PD phán như thế, theo tôi,
là đúng, thực, theo suy nghĩ của ông, chứ không
nhằm che đậy gì hết. Nhạc PD thiên về tình cảm,
thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ lụy, thí dụ, giai thoại
ăn chè Nhà Bè, nhờ đó mà dân
Mít được thưởng thức bản nhạc phổ thơ MDHT], không phải thứ
tình cảm thanh cao như trong thơ TTT, hay TTY. Ðây là
do cái tạng của ông, và có thể cũng là
do yêu cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc. Những bài
thơ phổ nhạc của TTT, TTY không có nhiều thính giả,
những nhạc sĩ phổ thơ của TTT, là bạn thân ngoài đời
của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho nên phổ
nhạc thơ của ông.
PD đâu có thuộc cái giới đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ nhạc của TTT hay của TTY muốn
nhắm tới cái gọi là không còn chủ âm
trong nhạc, hay tới thứ âm nhạc không cần lời.
Vấn đề này lớn quá, chỉ nêu ra đây,
như là 1 đề xuất, đặt viên gạch, rồi tính sau.
... đặt viên gạch, rồi tính sau.
Note: Nhân đọc Coetzee, viết về nhà thơ Ba Lan,
Zbigniew Herbert, trong Late Essays, Gấu tìm ra câu
trả lời cho cái cú “đặt viên gạch, tính
sau”, này.
Cái gọi là "âm
nhạc không cần chủ âm", hóa ra là, sự đối
nghịch - "chẳng bõ, chẳng đáng" - giữa purity
và the impure, the messy, the human,
có thể tạm gọi như thế!
14. On Zbigniew Herbert
Zbigniew Herbert lived most of his
life (1924-98) under regimes that were inimical to what we can loosely
call freedom of expression. His writing bears evidence of his historical
situation as a man trying to live out a poetic and intellectual vocation
in a hostile environment. The traces can sometimes be overt - for
example, in his satiric counter-attacks on the regime- but are more
usually concealed by ironic masks or Aesopian language.
Herbert was not a poet-martyr as, say,
Osip Mandelstam was. Nevertheless, the record shows a lifetime of principled
opposition first to the Nazis, then to the Communists. Until well into
his thirties he led a fringe existence, with none of the rewards that
someone of his education and talents might have expected. After the
1956 thaw, his growing reputation opened up opportunities for travel
outside Poland and eventually led to residencies, fellowships and visiting
professorships in the West. But unlike his contemporary
Czeslaw Milosz he chose against exile.
The unspectacular, unheroic species of
integrity and stub-bornness that characterizes Herbert's life weaves
its thread through his poetry too. For the sake of brevity (a Herbertian
virtue) I will call this theme the faithful life, picking up the word
faithful from the last line of 'The Envoy of Mr Cogito', a poem to which
I will return (the line reads simply 'Be faithful Go'). The faithful
life is not the same as the life of faith: the difference between the
two (namely that you do not need to have faith to be faithful) might be
called central to Herbert's ethic, were it not for the fact that privileging
the faithful life over the life of faith and erecting it into a credo,
an article of faith, would at once qualify it for sceptical interrogation
of the Herbertian variety.
In Herbert's oeuvre there is a steady
stream of poems that turn on an opposition between purity (purity of
theory, purity of doctrine), which he aligns with the divine or angelic,
and the impure, the messy, the human. The best known of these is
'Apollo and Marsyas' (1961). Apollo, who is a god and therefore inhuman
and therefore without human feelings, flays alive the satyr Marsyas, reacting
to Marsyas' prolonged howl of agony with nothing but a fastidious shudder.
Apollo has won the musical contest (Marsyas is undergoing the fate of the
loser), but Marsyas' howl, rudimentary though it may be as music, expresses
every atom of his exposed (skinned) human (ungodlike) being with a petrifying
intensity that the god cannot equal.
This is only one of a number of poems
that put the case for the human in its unequal contest with the divine.
The world that God has created, and that carries
the imprint of divine reason, maybe perfect in theory but is hard to bear
in reality ('In the Studio'). Even the next world turns out to be
pretty unendurable by human standards. As new arrivals discover at the
heavenly gates, not the tiniest memento of their old life will be allowed
to accompany them; even babes are to be removed from their mothers' arms
'since as it turns out / we shall be saved each one alone'. God's Heaven
turns out to have an uncanny resemblance to Auschwitz ('At the Gate of
the Valley'). What is wrong with systems, to Herbert, is that they are
systems. What is wrong with laws is that they are laws. Beware of angels
and other executives of perfection. The only angel even tentatively to
be counted on the side of humanity is the seventh one, Shemkel, who is
kept in the squad only out of respect for the sacred number seven. 'Black
nervous / in his old threadbare nimbus', Shemkel has been fined many times
for illegal importation of sinners (The Seventh Angel').
Marxism, one need barely point out,
is deeply colored by Christian eschatology. The world of achieved
communism in which each will receive according to his need and the
state (earthly power) will have withered away, is, literally, heaven
on earth. Herbert's satirical reports on heaven are inevitably also
reports on life in the workers' state. In heaven, because the materials
to hand are human and therefore imperfect, certain compromises have to
be made. Forgone are the luminous circles, the choirs of angels, etc.;
what we end up with is an afterlife not too different from life in People's
Poland (‘Report from Paradise').
The most interesting of Herbert's afterlife
poems comes from the 1983 collection Report from a Besieged City,
arguably the strongest of the nine collections he published. In a poem
called 'Mr Cogito's Eschatological Premonitions', his persona Mr Cogito
reflects on life after death and on what kind of resistance he will
be capable of mounting when he has at last to confront the heartless,
bloodless angels and their demand that he give up his humanity. Smell,
taste, even hearing - these he will be prepared to relinquish. But to
hold on to the senses of sight and touch he will be prepared to suffer
torture:
[to be continued]
Những bài essays trong Late
Essays, ngắn, GCC hy vọng sẽ giới thiệu vài bài....
NOTES ON A
VOICE: W.G. SEBALD
https://www.1843magazine.com/cont…/…/notes-a-voice-wg-sebald
Đề tài
chủ yếu trong những tác phẩm của W.G. Sebald là hồi nhớ: đau
đớn làm sao khi sống với nó, nguy hiểm thế nào khi
sống không có nó, cho cả hai, đất nước và cá
nhân con người. Những nhân vật kể chuyện ở trong những cuốn
sách của ông – trong số đó, “Austerlitz”, và
bốn tự sự nối kết với nhau về lưu vong trong “The Emigrants” là
những cuốn “căng” nhất - sống trong trạng thái hoài nhớ
...
Continue Reading
A.D. Miller considers the work
of W.G. Sebald, reissued by Vintage this Spring
Poetry Magazine
March 2018
HIEU MINH NGUYEN
... See More
H ieu Minh Nguyen là nhà
thơ Mẽo gốc Mít, và còn là nhà trình
diễn, performer. Tác giả của Not Here (Coffee House
Press, 2018), và This Way to the Sugar (Write Bloody Publishing,
2014).
Everyone you loved refused to die in this town before they
died in this town.
Mọi người bạn yêu thương từ chối chết trong thành
phố này trước khi họ chết trong thành phố này.
Câu thơ được tờ báo đưa lên trang bìa,
có gì đó rất khủng khiếp, nếu bạn đọc lé,
lệch, THNM, và liên tưởng tới nhân vật Kurtz, trong
Trái Tim Của Bóng Đen, qua miêu
tả của Vila-Matas.
http://www.tanvien.net/Ghi_1/giua_long_den_hn.html
Kurtz hiện giờ vẫn sống
ở đó, ở Hà Lội. Nơi thăm thẳm, thâm sâu của
một cõi thả lỏng mọi tội ác, và của đêm đen
dài dằng dặc của chúng ta.
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến
mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của
sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là
thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào
lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi
tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công
Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân
vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất,
hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói
như Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ,
và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến
đâu là biến nhà người, đất người thành
bãi đánh hàng!
Mi khùng rồi, Gấu ơi, GCC nghe Gấu Cái la
hoảng! (1)
(1)
GERMANY
Let others speak of her shame,
I speak of my own.
O Germany, pale mother!
How soiled you are
As you sit among the peoples.
You flaunt yourself
Among the besmirched.
The poorest of your sons
Lies struck down.
When his hunger was great
Your other sons
Raised their hands against him.
This is notorious.
With their hands thus raised,
Raised against their brother,
They march insolently around you
And laugh in your face.
This is well known.
In your house
Lies are roared aloud.
But the truth
Must be silent.
Is it so?
Why do the oppressors praise you everywhere,
The oppressed accuse you?
The plundered
Point to you with their fingers, but
The plunderer praises the system
That was invented in your house!
Whereupon everyone sees you
Hiding the hem of your mantle which is bloody
With the blood
Of your best sons.
Hearing the harangues which echo from your house, men laugh.
But whoever sees you reaches for a knife
As at the approach of a robber.
O Germany, pale mother!
How have your sons arrayed you
That you sit among the peoples
A thing of scorn and fear!
Bertolt Bretcht: Selected Poems
“Nhục nhã của riêng Gấu”, kệ cha những tên
Bắc Kít khác: Sự xuất hiện 1 nhân vật như Phạm Đoan
Trang, làm Gấu nhớ đến Sebald, và nhận xét sau
đây của ông.
Weiss tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu
ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy
vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương
thì có cái phần tương đương của nó, ở đâu
đó, và có thể thực sự được đền bù, bù
trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông
qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”.
Tư tưởng này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm
quan của chúng ta về công lý, và nó,
như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính
khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó cũng cổ xưa,
lâu đời như là quan niệm về luật pháp, chính
nó”
W.G. Sebald: Sự hối hận của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted
the injury.
Nhửng dòng kết thúc Vượt Quá Tội Ác
và Hình Phạt, cũng có thể áp dụng vào
trường hợp PDT, nhằm giải thích quyết định ở lại trong nước, không
bỏ đi của Bà:
Ce n'est
pas parce qu'il m'est devenu difficile d'être un etre humain
que je suis devenu un être inhumain.
Finalement, la seule chose qui me distingue des gens parmi lesquels
mes jours s' écoulent, c' est une inquiétude qui oscille,
tantôt plus forte, tantôt moins forte. Mais en tout cas
c'est une inquiétude sociale, et non métaphysique.
Ce qui m' accable ce n' est pas I'Etre ou le Néant ou Dieu ou
l' Absence de Dieu, c'est uniquement la société: car c'est
elle, et elle seule, qui est cause de mon déséquilibre
existentiel auquel je tente d' opposer ma marche droite. Elle et elle seule m'
a dérobé ma confiance dans le monde. L' affliction métaphysique
est un souci élegant, de très haut standing. Qu' elle
reste l' affaire de ceux qui savent depuis toujours qui ils sont et
ce qu'ils sont, pourquoi ils le sont et qu'ils peuvent le rester. Je
la leur concède volontiers - et je ne m' en sens pas plus misérable
devant eux.
Dans ma tentative opiniatre de sonder la condition profonde
de la victime, dans le conflit qui m' oppose à la nécessité
et à l'impossibilité d'être juif, je crois avoir
appris que les prétentions et les exigences qui sont devenues
les nôtres sont de nature physique et sociale. Qu'une telle expérience
m'a rendu inapte à toute spéculation profonde et élevée,
je le sais
bien. Qu'elle m'ait offert plus d'atouts pour connaitre et reconnaitre
la réaliée, tel est mon espoir.
Jean Améry,
"Ông Thánh của Lò Thiêu" như ‘nick’ mà Kertesz
ban cho ông, kết thúc cuốn "Vượt
quá tội ác và hình phạt: Khảo luận để vượt lên
cái không thể vượt được. Par-delà le crime et le châtiment.
Essai pour surmonter l'insurmontable", Actes Sud, 1995, bằng những dòng
trên đây. Lược dịch:
Không phải vì
thật khó khăn cho tôi, để trở thành một con người,
mà tôi trở thành một 'không phải con người',
một tên vô nhân tính, bại hoại.
Cái điều độc
nhất phân biệt tôi, với những người chung quanh, là
một âu lo; nó chao đảo, lắc lư, nó lúc thật mạnh,
lúc bớt mạnh. Nhưng, đây là một âu lo xã hội, không phải siêu
hình. Điều hành hạ tôi, làm phiền tôi,
thì không phải là Hữu Thể hay Hư Vô, Thượng
Đế hay Vắng Bóng Thượng Đế, nhưng mà là xã
hội, đúng nó. Chính nó, chỉ có nó,
là nguồn cơn gây ra sự bất thăng bằng về cuộc sống của tôi.
Nó tước đoạt của tôi niềm tin vào cái thế giới
này.
Sebald
… Weiss to attend the Auschwitz trial
in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by
the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent
somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the
pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought
was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a
contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept
of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu
ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy
vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương
thì có cái phần tương đương của nó, ở đâu
đó, và có thể thực sự được đền bù, bù
trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông
qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng
này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng
ta về công lý, và nó, như ông nói,
“nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và
con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan
niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald: Sự hối hận của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted
the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas
eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác
và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác
Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Ghost Hunter
Eleanor Wachtel [CBC Radio’s
Writers & Company on April 18, 1998]:
Sebald viết một kinh cầu cho
một thế hệ, trong Di dân, The
Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ,
lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ
tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây
là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát,
và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng
1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting,
và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng
nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc
kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ
Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi
tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?
WG Sebald: Nó là
một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction.
Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại
lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại
rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi
này….
EW: Một nhà phê
bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông
có nghĩ về mình như thế?
WGS: Ðúng như thế.
Yes, I do. I think it’s pretty precise…
The destruction of someone's
native land is as one with that person's destruction. Séparation
becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland.
"Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains
lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign
country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry
confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in
this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma
aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown
out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the
most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie,"
he writes, "est un dépassement du présent. Même sous
la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut
forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre
l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was
of course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible.
[Sự huỷ diệt quê nhà
của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính
ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách
nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà
mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của
một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng
thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ
ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry
thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt
này - ông dùng một phương ngữ nói giùm:
'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì
đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì,
như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng
nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm,
không còn sợ nửa đêm có thằng cha công
an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài
nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện
tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có
cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật
mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống
cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà
của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn
xem xét lại lịch sử].
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre
afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có
những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào.
Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
W.G. Sebald trích dẫn,
làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi
Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss",
The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis, trong "Lịch sử tự nhiên về
huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada,
Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may
also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished,
"that every injury has its equivalent
somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the
pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought
was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual
relationship between creditor and debtor as old as the concept of law
itself”…
W.G.
Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and
Cruelty in the Work of Peter Weiss
Note: Ðây có
lẽ là tác phẩm tuyệt vời nhất của W.G. Sebald.
Mấy lần đi giang hồ vặt, GCC đều mang theo nó.
Thấy an tâm.
Thư tín:
Wednesday, November
23, 2011 6:39 AM
Thấy
bác giới thiệu (hâm mộ) về W.G. Sebald trên Tinvăn
mà...thèm. Tiếc là sách của ông toàn
tiếng Anh mà ở Việt Nam cũng khó mà lùng cho
ra. Hơn nữa, ông còn là một nhà thơ, làm
sao để tiếp cận được tác phẩm của ông, dù chỉ chút
ít?
Vẫn luôn chờ đợi các bài dịch thơ Adam
Zagajewski, Simic... của bác!
Chúc bác khỏe và vui luôn!
Kính mến
Phúc đáp:
Ða tạ.
“Hâm mộ” là từ của 1 vị độc giả, rất mê
W.G. Sebald. Trước giờ TV giới thiệu ông, nhưng vẫn đinh ninh chẳng
ai thèm đọc! Một vị độc giả, 1 bạn văn VC rất thân của Gấu,
quen nhân lần về HN, chẳng đã viết mail, rất ư bực bội,
làm sao mà cứ nhắc hoài đến… Lò Thiêu,
nó có liên can gì đến giống Mít?
Chính là nhờ vị độc giả hâm mộ Sebald
mà GCC mừng quá, nghĩ thầm vậy là không
uổng công mình lèm bèm hoài về ông,
và bèn lèm bèm tiếp!
V/v W.G Sebald, thi sĩ.
Trên TV đã từng
giới thiệu Sebald, thi sĩ.
Bài trên Người
Kinh Tế giới thiệu cuốn sắp ra lò, mới tinh về ông.
Trong khi chờ đợi, chúng ta đọc đỡ ở đây.
PAR-DELÀ
LE CRIME ET LE CHÂTIMENT
ESSAI POUR SURMONTER L'INSURMONTABLE
Làm
sao 'suy tư" Lò Cải Tạo, sau khi thoát ra?
Liệu cái đầu vẫn còn nguyên, sau cú
Lò Cải Tạo?...
Continue Reading
Cows
Note: Đực
rựa tất nhiên chẳng biết gì về 1 vầng trăng có
tháng, trăng huyết, về kinh nguyệt, the wise wound, vết thương
khôn, và tất nhiên, làm sao trải qua kinh
nghiệm, 1 người đàn bà mang bào thai, là
1 cái xác chết, của 1 đứa bé, như nàng
bò cái trong mẩu văn sau đây....
I look at
her and remember the morning last spring when we pulled a dead
calf from her womb and she licked at the body all day, wanting to
summon it into life. Everything about the calf was perfect except that
it was dead.
Tôi
nhìn nàng, và nhớ lại buổi sáng, chúng
tôi kéo cái thai chết ra khỏi bụng nàng,
và nàng nằm liếm suốt ngày, mong làm cho
nó sống lại.
Mọi thứ về thai nhi, thì đều hoàn hảo,
trừ 1 điều, nó đã chết.
...Continue Reading
·
Reply ·
1m
Như một em cởi truồng, và
nắng bèn ngoạm em một vài phát
ON THE ROAD
This land isn't native
to me and still
It's given me memories
time can't erase,
In its sea, water is tenderly
chill,
Of salt it bears not a
single trace.
The air intoxicates like
wine,
Under the sea is sand,
chalk-white.
And the rosy body of every
pine
Is denuded as sunset beckons
night.
And the sunset itself
in waves of ether
Is such that I can't say
with certainty
Whether day is ending,
or the world, or whether
The secret of secrets
is again in me.
1964-1965
Anna Akhmatova
Trên lộ
Đất này không phải là quê
hương của tôi
Nhưng nó vẫn cho tôi những hồi ức
thời gian không thể xóa nhòa
Trong biển của nó, nước lành lạnh
Không 1 tì vết của muối
Khí trời làm say, như rượu vang
Biển, cát, trắng như phấn
Và mỗi cây thông
Thì hồng hồng
Như một em cởi truồng, và nắng bèn
ngoạm em một vài phát
Khi buổi chiều gật gù, nhường chỗ cho màn
đêm.
Và hoàng hôn, chính
nó, thì như những đợt ê te
Chính vì thế mà tớ không
sao phán chính
xác
Về ngày đang hết,
Hay thế giới,
Hay,
Niềm bí ẩn của những bí ẩn
Lại ngoạm luôn cả tớ
The loss of true feelings and words
renders us
Actors gone deaf or painters gone blind,
It's the same loss when women find
Time has made them no longer gorgeous.
But do not try to keep or protect
That which was given to you from heaven:
We know we're supposed to be like leaven-
We're condemned to squander, not to collect.
So walk alone, and heal the blind,
That in the difficult hour of doubt
You may see your disciples mock and gloat,
And note the indifference of the crowd.
1915
Mất tình cảm thực và lời thực
Khiến chúng ta,
Kịch sĩ trở thành điếc và họa sĩ,
mù.
Cũng 1 thứ mất mát như thế
Khi đờn bà nhận ra
Thời gian khiến họ không còn lộng lẫy
như xưa
Nhưng đừng cố gắng gìn giữ, hay bảo vệ
Cái mà Thượng Đế ban cho từ Thiên
Đàng:
Chúng ta biết, chúng ta phải giống
như là men cay/say
Chúng ta bị kết án phải ban phát,
và rất cần hoang phí
[Đờn bà rộng miệng thời… sang, như
lũ Mít thường nói]
Đừng thu gom, lượm lặt
Vậy thì, hãy bước một mình,
và hãy chữa lành người mù
Rằng, vào cái giờ khó khăn
của hồ nghi
Bạn có thể nhìn thấy lũ đệ tử chế
nhạo và hể hả
Và nhận ra sự dửng dung của thế nhân.
Prayer
Give me illness for years on end,
Shortness of breath, insomnia, fever.
Take away my child and friend,
The gift of song, my last believer.
I pray according to Your rite,
After many wearisome days,-
That the storm cloud over Russia might
Turn white and bask in a glory of rays.
1915
Anna Akhmatova
Cầu nguyện
Hãy cho ta bịnh tật dài dài
cho tới chết
Hơi thở đứt đoạn, cụt lủn, mất ngủ, nóng
sốt
Lấy đi con của ta, bạn của ta
Tài ca hát, tín đồ cuối cùng
của ta.
Ta cầu nguyện, theo như luật của Ngài
Sau nhiều ngày ngán ngẩm, mệt mỏi
Một trận mây bão phủ lên nền
trời Nga Xô
Trở thành trắng và sưởi ấm
Trong cái huy hoàng của những sợi
nắng
Instead of an afterword
When they invented dreams
and made them flower,
They didn’t have enough
to go around,
We saw the same one,
but it had power
In it, as spring first
hits the ground
1965
Anna Akhmatova
Thay vì
lời bạt
Khi họ phịa ra những
giấc mộng, và biến chúng thành hoa, thành
bông
Họ phịa không
đủ
Có thể vì
thế mà GCC nhìn thấy, chỉ có một
Đúng như thế
Nhưng bông hồng
đen có đủ quyền uy ở trong nó
Như cú đánh
đầu tiên của Mùa Xuân
Giáng xuống mặt
đất
đỗ ngọc yến,
mai thảo, thanh tâm tuyền, kt, ngày ttt mới sang
mỹ
Kỷ
niệm với nhà thơ
Trí nhớ thường lầm lạc, có
khi còn do cố ý, hoặc tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên;
đây là một trong những bản năng của con người, luôn
luôn muốn tái tạo quá khứ, cho những nhu cầu hiện
tại. Trong Chân
Dung Nhà Văn, cùng bài về Dương Nghiễm
Mậu, Mai Thảo viết... "kỷ niệm với mỗi người mỗi khác, (với)
Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép ám
khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ Ngọc Các,
thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi
tưởng hắn là thợ sắp chữ."
Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc
Trong khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm
Tuyền trên tạp chí Thơ (số Mùa Xuân 1998),
nhà thơ nhận ra bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên,
sau khi nhận được một bản thảo đánh máy.
Đăng bài Anh, tôi viết lời nhắn mời anh
đến chơi tòa soạn. Mai Thảo đến.
Anh đi chiếc xe đạp đầm sơn trắng, đầu còn đội
mũ phớt
kiểu Hà Thành
Công Tử. Yên xe đạp được nâng lên
cao hết cỡ vẫn chưa vừa với tầm chân của anh. Chúng tôi
rủ nhau ra quán cà phê đầu hẻm gần đấy, ngồi trên
ghế thấp trên lề đường Lê Lai trông sang bờ tường
rào của nhà ga Sàigòn nói chuyện.
Hồi ấy anh mới vào Nam, còn ở chung với gia đình
anh Viên trong một căn phố đường Jacques Duclos, thuộc khu Tân
Định (đường này song song với đường Trần Quang Khải, trong khoảng
từ nhà hát bội đến lối vào Xóm Chùa.
Tôi nói bỡn: “Anh ở trúng vào con đường mang
tên một tay tổ Cộng Sản Pháp”).
Trong đất trời
Trí nhớ thường lầm lạc... Todorov cho rằng, nó,
trí nhớ lầm lạc, theo cái kiểu, làm sao cho
con người có thể sống nổi, với tương lai ở trước mặt, và
quá khứ ở trong đầu. Đây là một trong những
bản năng của con người, luôn luôn muốn 'tái tạo'
quá khứ, cho những nhu cầu hiện tại. (1)
Nó lầm lẫn, sao cho, nó có thể
sống sót!
Gấu tin rằng, khi Mai Thảo viết về bạn mình,
như trong Chân Dung Nhà Văn, ông thực sự nghĩ,
bạn mình sẽ chẳng bao giờ có cơ may được đọc những
dòng như vậy.
Và TTT, phải đợi đến khi bạn mình nằm
xuống, mới "sửa sai", giùm cho hậu thế, về một trường hợp
trí nhớ lầm lạc.
Cuốn Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, có
những dòng được viết ra, về nhóm Sáng Tạo, y
chang như trên. Người viết tha hồ viết, vì tin rằng, những
thằng bị ta "phạng" đó, sẽ chẳng bao giờ được đọc.
Gấu cũng đã từng được nhắc tới, y chang như vậy,
ở một, hai, nhà văn hải ngoại.
Cái danh sách 12 nhà văn phản động
đồi trụy của Miền Nam, mà Gấu đứng thứ 7, trong đó,
gần như cả băng Sáng Tạo đều có mặt, là do một
nhà văn hải ngoại viết!
Người viết, Gấu không tiện nêu tên,
là người đã từng chịu ơn TTT, và đã
từng được Gấu này lăng xê, khi mới khởi nghiệp viết,
trước 1975, trên trang VHNT của nhật báo Tiền Tuyến,
do Gấu này phụ trách.
*
-Chẳng đáng! Chẳng đáng!
Gấu lại nghe ông thầy Kiệt lèm bèm,
khi Oanh nằng nặc đòi bỏ hết, bỏ hết, chỉ cần có Thầy
Kiệt!
-Chẳng đáng, chẳng đáng!
*
(1) "Commemoration", the French cultural critic Tsvetan
Todorov explains, "is always the adaptation of the memory to the
needs of today".
"Tưởng nhớ", như nhà phê bình văn
hóa Pháp, Tsvetan Todorov, giải thích, "luôn
luôn là sửa sang trí nhớ, cho [hợp với] những
nhu cầu của hiện tại."
Câu trên, Cynthia Ozyck trích dẫn,
trong bài viết "Ai sở hữu Anne Frank", trong đó, bà
kết án "hậu thế" đã sửa sang không chỉ trí
nhớ, mà luôn cả bản văn mà cô bé
để lại, nhằm chịu đựng, sống sót, sau Lò Thiêu:
In a word, Anne Frank has become a ready-at-hand formula for easy forgiveness.
[Nói ngắn gọn, cô bé trở thành một công
thức sẵn có đó, dành cho một sự tha thứ dễ dàng.]
*
Trong DVD đám tang, một ông bạn của nhà
thơ cho biết, vào những ngày mới tới xứ người, nhà
thơ có hỏi về những giờ phút cuối cùng của Vũ
Khắc Khoan. Ông bạn trả lời, Tuyết Ngưu chẳng thèm để
ý đến cái chết, chuyện của mấy ông y sĩ, mặc mẹ
tụi nó, và chỉ lo làm thơ, được trên hai
trăm câu. Nghe trả lời, nhà thơ không nói
gì hết.
Còn Tô Thuỳ Yên, có nhắc đến
câu, "Socrates là người".
Ai đã từng học Đệ Nhất, môn triết, luận
lý, tam đoạn luận, chắc là nhớ câu, "Socrates
là người. Mọi người đều chết. Socates thì cũng chết như
mọi người." [Socrates is a man. All men are mortal. Socrates is mortal].
Trong bài viết "Hai Con Gà Trống", Steiner
cho rằng, có hai cái chết làm nên cảm
tính Tây Phương, Western sensibility. Có hai cái
chết mở ra cảm quan siêu hình, và dân sự,
của cái tôi. Đó là cái chết của Socrates
và của Jesus.
Hai tử hình, hai án tử, mở ra cảm quan
tôn giáo, triết học, và chính trị của
chúng ta.
Và chúng ta, kể từ ngày đó,
là những đứa trẻ của hai cái chết đó.
Trong bài viết đã dẫn, Steiner cũng băn
khoăn về những lời nói cuối cùng của những con người
nổi tiếng. Và ông nhắc tới câu nói sau
cùng của Socrates: "Crito, chúng ta nợ Asclepios một
con gà trống. Hãy trả nợ của ta, và đừng quên".
[Crito, we owe a cock to Asclepios. Pay my debt, and do not forget it."
Steiner rất ư là hơi bị băn khoăn, bởi cái
từ "we, chúng ta". Nó
huyền bí, khó hiểu, chẳng hề được giải thích,
chẳng khác gì từ "nous" mở ra
Bà Bovary của
Flaubert
Ông tự hỏi, phải chăng Socrates minh định ông
ta với cả tập thể nhân loại, rằng chết là cái
cú tổng quát hoá toàn thể nhất, nhờ đó
mà bật ra cái tôi là tôi, ngôi
thứ nhất số ít? Chính là nhờ cái chết mà
chúng ta trở thành... "chúng ta, we"?
THEY PLAYED PUSHKIN
Note: Bài thơ này, dùng
vào việc chào mừng Ngày Thơ, của Hội Nhà Thổ
Vẹm, quá đắc địa.
Nó làm nhớ, lần TTT được làm Poster, và
Sến bèn ra lệnh (?) cho tên Trùm Cớm hải ngoại đánh
cô em của Sến tơi bời hoa lá cành.
Lũ này, Gấu đã nói rồi, phần đạo hạnh kể như
Zéro.
Nhớ, hồi Sến mới xuất hiện, cả hải ngoại lẫn trong nước cùng
mừng rỡ.
Vị nữ thủ lãnh trên lưới,Thiên Sứ đem Tin Mừng
tới cho giống Mít.
Bây giờ, kể như ô hô ai tai, cả 1 lũ!
Sao mi ghét talawas? Sao mi thù Bắc Kít đến như
thế?
Sergey Chudakov (1937-early 1990s?)
The son
of a labor-camp director, Sergey Ivanovich Chudakov spent much of his childhood
in Kolyma. Expelled from Moscow State University, he supported himself
by writing articles under pseudonyms; he was also a pornographer, pimp
and book thief. Sometimes called 'the Russian Villon', he is thought to
have died or been murdered in the early 1990s.
Boris Dralyuk
THEY PLAYED PUSHKIN
They played Pushkin on a grand piano.
They killed Pushkin in a duel one day.
He had asked them for a plate of cloud berries
and, lying near a bookshelf, passed away.
In icy water, full of frozen clods,
they buried Pushkin, hallowed be his name.
And we too tend to meet too many bullets;
we hang ourselves, and open up our veins.
All too often we are hit by cars,
get tossed down stairwells in a drunken state.
We live - and all our petty intrigues
wound little Pushkin in some way.
Little, cast in iron, celebrated -
in a park deserted thanks to frost -
he stands (his understudy and replacement),
bitterly regretful at the loss
of youth, and of the title Kammerjunker,
of songs, of glory, of the girls in Kishinyov,
of Goncharova in her white lace petticoat,
and of death that cannot be shrugged off.
Boris Dralyuk
Semyon Lipkin (1911-2003)
Born in Odessa, Semyon Israilievich Lipkin moved
to Moscow in 1929. Unable from 1934 to publish his own work, he
turned to translating, mainly from Persian and the Turkic languages
of Central Asia. His first collection of his own poetry appeared only
in 1967. He also wrote a novel about Stalin's deportation of the Chechens,
and a memoir of Vasily Grossman. It was Lipkin who initiated the
process that led to the text of Grossman's Life
and Fate being smuggled out to the West.
By the Sea
The waves crashed under the flicker of the lighthouse
and I, in my ignorance, heard a monotone.
Years later the sea speaks to me and I begin to
understand
there are birds and laundresses, sprites and sorcerers,
laments and curses, moans and profanity, white horses
and half breeds who rear up unexpectedly.
There are waves who are salesgirls with buxom hips
who sell foam from the counter, they tremble fluent
or airy.
Nature can't be indifferent, she always mimics us
like a loan, a translation; we're the blueprint,
she's the copy.
Once upon a time the pebble was different
and so the wave was different.
(1965)
Yvonne Green
He who gave the wind its weight,
and gave measure to the water,
pointed lightning on its path,
and showed rain what rules to follow -
he once told me with quiet joy:
'No one's ever going to kill you:
How can dust be broken down?
Who has power to ruin beggars?'
(1981)
Robert Chandler
Sinh ở Odessa, Lipkin dời đi Moscow năm 1929. Không
thể in thơ của mình, ông quay qua dịch, chủ yếu là
từ tiếng Ba Tư và Thổ nhĩ kỳ, của vùng Trung Á.
Chỉ đến năm 1967, ông mới có tập thơ đầu tay trình
làng. Ông cũng viết tiểu thuyết về cú tống xuất
những người Checkens của Xì, và 1 hồi ức về Vasily
Grossman. Lipkin là người khơi mào cái tiến
trình lén đưa bản văn “Đời và Số” qua Tây
Phương.
Bên biển
Sóng lấp lánh dưới ánh đèn
Và tôi, ngu quá, nghe ra 1 âm
thanh đều đều 1 điệu.
Những năm sau đó, biển bèn nói
với tôi
Và tôi bắt đầu ngộ ra
Có tiếng chim, máy giặt, ma quỉ, phù
thuỷ, than thở, trù ẻo, nguyền rủa, rên rỉ, phàm
tục, thô bỉ, tục tĩu, ngựa trắng, lai giống, bất ngờ tuôn
trào…
Có những con sóng, là những cô
bán hàng, hông, háng mập mạp
Chúng run run, trôi chảy, hay, uyển chuyển
Thiên nhiên đâu có cách
nào khác
Chúng luôn luôn bắt chước chúng
ta
Như 1 mượn đỡ, vay tạm, chuyển dịch; chúng
ta là nguyên bản, nàng là bản sao
Có 1 thời sỏi đá đếch cần có
nhau: Chúng khác
Và như thế,
Sóng biển, khác
Hắn, kẻ ban cho gió, sức nặng
Ban cho nước, ngắn, dài
Chỉ lối đi cho ánh sáng
Chỉ cho mưa những luật lệ nào phải tuân
theo –
Hắn, kẻ có lần nói với Gấu, bằng 1 niềm
vui trầm tĩnh:
Chẳng tên khốn nào có thể giết
mi
Làm sao mà bụi bặm có thể vỡ
ra được, dưới gót giày của BHD, ở cái quán
ngày xưa mà mi đã bao lần toan tính trở
lại? (1)
Kẻ nào có quyền năng làm điêu
tàn, mấy thằng ghiền, ăn mày, ăn xin... tình
yêu?
(1)
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/ky_niem_3.html
Cái quán cà
phê hủ tíu đó, Gấu đã vẽ lại nó,
trong Lan Hương .
Thời gian làm báo thiếu nhi cho me-xừ
Nhàn, Gấu viết lại một lần nữa, đặt tên truyện là
Quán, lấy câu của Alain choàng hoa cho nó.
Trong truyện có một câu, Gấu nhớ mãi
đến tận giờ, [tận già, tận chết].
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống
lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng
trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian,
và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu
đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi
ngùi!
Ông Nhàn đọc, la, báo thiếu nhi
mà sao anh viết truyện này?
*
Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng,
dù có đi xa chân trời góc bể nào
cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt. Quán, Mái
Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
Nhìn hình ông anh, post bài
thơ của cái tay thi sĩ Nga, nhờ ông ta, Tây
Phương được đọc Life and Fate, thì
bèn nhớ tới bài thơ sau đây:
vượt biên
Cúi trông cố lý
mây vô xứ
Ngầu trắng u mông táp mạn thuyền
Ngút ngọn triều dâng vách sụt
lở
Bọt xóa thiên thanh dấp sóng
quên
Thơ Ở Ðâu Xa
Nhưng "Bia mộ" của cả 1 thời [NL viết về Thơ
Ở Đâu Xa] làm Gấu nhớ tới thơ của Shalamov, nổi tiếng
với Kolyma Tales.
Varlam Shalamov (1907-82)
Born in Vologda, Varlam Tikhonovich Shalamov saw
himself as a writer from childhood. His father was a priest who
had served twelve years in Alaska as a missionary; his mother, a
schoolteacher, passed on to him her love of poetry. In 1926 Shalamov
began studying law at Moscow University, but in 1928 he was expelled
- probably for having taken part in a demonstration against Stalin
on the tenth anniversary of the October Revolution. In 1929 he was
sentenced to three years in a labor camp in the Urals; he had been
involved in an attempt to print and distribute a suppressed letter Lenin
wrote before his death, recommending that Stalin be removed from his
post as General Secretary of the Party.
In 1932 Shalamov returned to
Moscow, where he worked as a journalist and published several
short stories. Rearrested in 1937, he was sentenced to five years
in Kolyma, the vast labor-camp empire in the far north-east of the
Soviet Union. In 1943 he was given an additional ten years for 'anti-Soviet
propaganda'. In 1945 he spent several months in a camp hospital;
not for the first time he was close to death. Later that year he survived
several months in a punishment camp. In spring 1946 he was again
close to death, but a doctor saved him, risking his life by enrolling
Shalamov on a medical training course for which he was ineligible.
After completing this course, Shalamov worked as a medical assistant
at a hospital and in a lumber camp. From 1949 he was able to write poems,
which he later collected in his Kolyma Notebooks.
In 1951 Shalamov was released,
though he remained in Kolyma, still working as a camp medical
assistant. In 1952 he sent some of his poems to Pasternak, who praised
them; the two writers met in Moscow in November 1953 and remained
on friendly terms for some years, with Pasternak doing what he could
to help Shalamov publish his work. From late 1953 Shalamov lived
in the Kalinin province, but in 1956 he was allowed to return
to Moscow; by then he had begun work on the Kolyma Tales, his thousand-page
cycle of stories set in the Gulag.
Alexander Solzhenitsyn writes
that, on first reading Shalamov's poems in samizdat (hand-typed
copies) in 1956, 'I trembled, as if from meeting a brother.’ He invited
Shalamov to collaborate with him on The Gulag Archipelago, but Shalamov
refused, at least in part because he disagreed with Solzhenitsyn's
belief in the ennobling effect of suffering.
During much of the 19 60S Shalamov
was part of a circle that met at the home of Nadezhda Mandelstam,
but in 1968 he broke off relations with her. Kolyma Tales was smuggled
out to the West in the late 1960s, but it attracted little attention.
In 1972 Shalamov alienated many of his friends and admirers by
publishing a letter protesting against the publication of his
stories in the West. He was disillusioned with dissident circles;
Western publishers did indeed appear to have treated his work casually
and he knew that his letter would enable him to join the Union of Soviet
Writers and publish a fourth selection of poems.
Shalamov spent his last years
in poverty and isolation and was moved to an old people's home
in 1979. Blind, deaf and suffering from Huntington's disease he went
on composing fine poems until his last months. He was no longer able
to write, but visitors took dictation. He died on 17 January 1982,
after being transferred, in bitter cold and without proper clothing,
to a psychiatric hospital.
Kolyma Tales is recognized
by Russian readers as a masterpiece of Russian prose and the greatest
of all works of literature about the Gulag. Leona Toker has written
movingly of the form of Shalamov's epic story-cycle being 'grounded
in an ethical intention so genuine that its artistic merit seems
to be the natural consequence of its truth'. Shalamov's poetry,
however, is still little read. This may be because we tend to pigeonhole
writers; it is hard to imagine that the author of the bleak and sober
Kolyma Tales could also have written poems of such ecstatic joy.
In 1966 Shalamov wrote that late
Pushkin and early Pasternak are 'the best of Russian poetry'.
He also loved Baratynsky and Tyutchev. Fet and Blok became ever
more important to him in his last years. Some of his historical poems
bear the imprint of Mandelstam, and .one of the earliest of the
Kolyma Tales, 'Cherry Brandy', is an imagined account of Mandelstarn's
death in a labour camp. Remarkably, Shalamov managed to read this
aloud, in May r965, during the first public event in Moscow in honour
of Mandelstam. During this same event Shalamov also paid a moving tribute
to the Acmeist movement as a whole: 'The principles of Acmeism proved
so vital and healthy that the list of participants is like a roll call
of martyrs. If the Symbolists had been subjected to such trials, there
would have been a general retreat into monasteries, into mysticism.
There were healthy seeds in the theory of Acmeism that helped these poets
to live through their lives and go on writing. Neither Akhmatova nor Mandelstam
renounced the principles of their poetic youth; they did not change their
aesthetic views.
The longest poem in this selection,
'Avvakum in Pustozyorsk', is written in the voice of the Archpriest
Avvakum (r620-82), the archetypal Russian dissident and the most
famous of the so-called Old Believers. His refusal to accept the changes
to the Orthodox ritual introduced by Patriarch Nikon led to his being
exiled to Siberia. Then he was taken to the north of European Russia,
to the military outpost of Pustozyorsk; after being imprisoned for fourteen
years in a sunken, log-framed hut, he was burnt at the stake. His account
of his life, written with verve and in colloquial language, is the first
work of modern Russian prose; it circulated widely in manuscripts before
the first printed edition in r861. Shalamov's admiration for Avvakum
seems unqualified, but in 'Boyarynya Morozova', a poem about a famous Old
Believer from the high nobility, his characteristic admiration for strength
of will is tempered with what may be a note of criticism:
Not love, but rabid fury, has led
God's servant to the truth. Her pride
is justified - first high-born lady
to seek a convict's fate.
Gripping her Old Believers' cross
tight as a whip between her hands,
she thunders out her final curses;
the sleigh slips out of sight.
So this is how God's saints are born ...
Her hate more ardent than her love,
she runs dry fingers through her dry,
already frost-chilled hair.
Shalamov can be seen as a modern schismatic: as
a young man he belonged to a Trotskyist group and several of the
most positive figures in The Kolyma Tales are Social Revolutionaries
(i.e., members of the party that was the Bolsheviks' main rival).
He may, in these stanzas, be pondering a faultline in his own psyche;
during his last years Shalamov quarrelled irreconcilably with almost
everyone close to him. It is equally possible that the apparent criticism
of Morozova is not intended; Shalamov may have considered the intensity
of her (and his own) hatred entirely justified. Nevertheless, it is hard
to believe that he was not, at some level, aware that those who hate evil
more intensely than they love good are in a dangerous position.
Somewhat like Paul Celan and
Primo Levi, Shalamov seems in the end to have been defeated by
the destructive forces he withstood so bravely and for so long.
His own life story may be the most tragic of all the Kolyma tales.
Một cách nào đó, như Paul Celan
và Primo Levi, Shalamov có vẻ như sau cùng
bị đánh bại bởi những sức mạnh huỷ diệt mà ông
kìm giữ chúng, 1 cách can đảm và trong
1 thời gian thật dài.
Cuộc đời của riêng ông, là câu
chuyện thê lương nhất, trong tất cả những câu chuyện
về Kolyma.
*
Flying in at my window,
a moon like a snow jay
scrapes claws on walls,
flutters over my pillow.
Scared of confinement
in page or dwelling,
my homeless darling -
in midnight finery.
Robert Chandler
*
Snow keeps falling night and day -
some god, now turned more strict,
is sweeping out from his domain
scraps of his old manuscripts.
Sheaves of ballads, songs and odes,
all that now seems bland or weak -
he sweeps it down from his high clouds,
caught up now by newer work.
1950
Robert Chandler
Viết
mỗi ngày
http://www.bbc.com/vietnamese/world-43258370
Note: To Whom It May Concern,
Be Careful!
Trên Blog NL, thấy có đi 1 đường về Sebald
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2017/12/giua-a-va-b.html
Trong cuốn sách về "hủy diệt", phần chính gồm bài
thuyết trình của Sebald tại Zurich về văn chương Đức chủ đề chiến
tranh, luận đề của Sebald là văn chương Đức kể từ 1945 tuyệt đối
né tránh chủ đề những trận oanh tạc của Đồng minh lên
nước Đức vào cuối chiến tranh (Royal Air Force của Anh đã ném
bom tổng cộng 131 thành phố Đức, thực hiện 400.000 chuyến bay để
ném một triệu tấn bom). Không nhà văn Đức nào,
gần như vậy, thực sự đề cập những cuộc ném bom. Tất nhiên,
Sebald nhanh chóng nhắc đến cuốn sách của Stig Dagerman (xem
ở kia),
vì đó là một lời chứng đặc biệt quan trọng.
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|