Đọc cái còm của bạn Khờ và của đấng Nam
Chi, ông chánh tổng An Nam ở Paris, thì Gấu lại
nhớ đến mấy chuyên viên Đại Hàn làm chung Sở
Bưu Điện.
Thợ Việt đâu còn, đi lính hết, phải
lấy thợ Đại Hàn thế. Gấu đúng ra cũng không còn,
nhưng nhờ ăn hai trái mìn của VC ở Mỹ Cảnh, nên
được hoãn dịch vì lý do sức khoẻ.
Một anh thợ Đại Hàn cho biết, lương của anh ta, nhà
nước lấy gần như hết, chỉ chừa cho 1 tí, đại khái thế.
Nhờ cuộc chiến Mít, 1 huyền thoại – như bạn Khờ
viết – mà sau khi kết thúc, mấy nước đồng minh có
quân tham chiến đều trở thành rồng- trong khi xứ Mít,
như hiện nay.
Đỗ
Quang Nghĩa
Đêm qua ngồi xem streamline hơn hai tiếng khai mạc
thế vận hội mùa đông PyeongChang mà tủi thân
quá. Bọn Đại Hàn đi xa đến mức cái đuôi
nó mình cũng chẳng nhìn
...
Cuộc chiến Mít, nhìn lại, có gì
giống thời kỳ 1945. Miền Nam có tay nào có tài,
có thể giữ được 1 Miền Nam không Cộng Sản, không
bồi Mỹ, là Vẹm thịt, rồi đổ tội cho phe phái tranh chấp.
Nguyễn Văn Bông, thí dụ, rồi 1 vị bác
sĩ tên Văn, cũng bị chúng thịt. Ông lấy cái
cà táp che đạn của tên đao phủ!
Đau nhất là chính cái giấc mơ thống
nhất, là giấc mơ thực thụ của người Việt Nam. Chúa cho
có giống người, giống Việt, là để thực hiện giấc mơ
đó.
Bởi thế, như Gide, phán, khi Thánh Cam Địa
bị làm thịt: Chúa bị đánh bại [defeated]: Thuổng
Gide, Gấu phán: Chúa cũng bị Vẹm lừa, khi cho giống Mít
có mặt ở trên cõi đời này!
Đấng Cành Nam này, cũng Ngụy như Gấu nhưng quá
mê Vẹm, mà uổng 1 đời, và cũng chẳng hề có
can đảm, hay dũng khí cái con mẹ gì, để nói,
hắn đã lầm.
Một vị bằng hữu Tin Văn, mắng mỏ Gấu, mi lãng mạn quá,
cứ mong có phép lạ từ lũ Bắc Kít tinh anh, nhưng,
như mơ hồ nhận ra, rồi lũ Vẹm sẽ kỷ niệm vụ Mậu Thân, 1 chiến
dịch mà thực chất của nó, là để làm cỏ
sạch lũ nằm vùng, Gấu đã ra lệnh cho tên già
NN, cởi trần cởi truồng, bò ra mả Ngụy sám hối, như 1 vị
nguyên thủ nước Pháp đã làm, trước mồ nạn
nhân Nazi: Phải có 1 tên làm được 1 việc như
thế, để ngăn ngừa Vẹm tiếp tục đánh lừa, theo cái kiểu
khôi hài đen của người Đức – như Bắc Kít, ở đây
– chúng không thể tha thứ cho Do Thái, vì
vụ Lò Thiêu.
Cũng thế, Vẹm không thể tha thứ cho Ngụy, về vụ Mậu Thân,
Lò Cải Tạo.
Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường và…
Thật sự viết gì về chuyện này cũng sẽ gặp rắc rối
từ các phía. Nhưng nhiều ngày gần đây, càng
đọc FB càng mất ăn mất ngủ vì đề tài này.
Hơn thế nữa, còn liên tục nhận được những email từ Mỹ “truy
sát” đến cả con cái của mấy nhà văn bị kết tội là
“đao phủ Huế” (tôi đã phản đối, mà vẫn bị nhận tiếp).
Thật đau lòng! Buộc lòng phải viết đôi dòng
tâm sự ngắn gọn.
1. Việc nhà nước tổ chức kỷ niệm, ăn mừng rầm rộ 50 năm
Mậu Thân quá là vô chính trị...
Continue Reading
Đấng này đã từng bị Vẹm cho đi tù nhưng đâu
có hết ngây thơ!
4. Nhưng vì sao lại thế?
Ở đây là cả 1 chuyên đề lớn: Quan niệm về bản chất
cuộc chiến Bắc-Nam 54-75 và vai trò người trí thức
(đặc biệt trí thức miền Nam) trong đó. HPNT, NDX, và
rất nhiều trí thức miền Nam hồi đó thấy “tận mắt” Mỹ là
xâm lược, chính quyền SG là tay sai, Việt Cộng là
yêu nước. Nên họ sung sướng, tự hào đc đi theo V.C.
Nên HPNT mới thoải mái nhận vơ cái “oai” của người
“giải phóng Huế”. Nghe ông trả lời say sưa, kéo dài,
và minh định rõ lập trường địch-ta trong bộ phim thì
biết!
HH
Đây là quả lừa lớn nhất của Bắc Kít. Chỉ có
cách nhử Mỹ nhảy vô Miền Nam thì mới ăn cướp được Miền
Nam. Chúng ngụy tạo vụ Diệm đầu độc tù VC ở trại tù
Phú Lợi, để lấy cớ thành lập MTGP, khiến Mẽo sợ quá,
bèn thịt Diệm, để nhảy vô Miền Nam. Chúng hưu chiến
ăn Tết rồi mở cuộc chiến Mậu Thân, trong khi hê Mỹ Ngụy "xé
rào"!
Vậy mà Gấu đọc trên net, có 1 đấng Bắc Kít
phán, binh bất yếm trá cái con mẹ gì đó,
và còn vặc lại Nguyễn Huệ cũng chơi đòn này,
với Mãn Thanh!
Chúa mà còn bị chúng bịp thì 1 đấng
Hoàng Hưng ngốc nghếch sao thoát!
Trong bài viết
Mùa Xuân nói chuyện Mậu
Thân, Gấu đã nói nói rõ ra điều này
rồi. Làm gì có rất nhiều người trí thức mà
chỉ là đám nằm vùng bợ đít VC, bởi thế mà
Gấu mới phán, không có lũ đó là khó
mất Miền Nam.
Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân
Những người Cộng sản rất khôn khéo trong việc giấu diếm
những tội ác của họ. Và càng giỏi hơn, khi chối tội,
khi không dám nhận ai là tác giả những tội ác
đó. Khi chiến tranh chấm dứt, họ dễ dàng có được những
"Viện Bảo Tàng, Nhà Trưng Bầy Tội Ác Mỹ Ngụy", phần
lớn hình ảnh, tài liệu là do báo chí,
giới truyền thông Tây Phương cung cấp. Nhưng thật khó
mà kiếm ra, và chắc là vô phương có được
những hình ảnh về cảnh giết người hàng loạt, trong biến cố
Mậu Thân tại Huế chẳng hạn, khi người Cộng Sản phải bỏ chạy. Đã
từ lâu, dư luận đồn đại, đằng sau tội ác đó có
bóng dáng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng ông
chẳng bao giờ lên tiếng, cho dù chỉ để phủ nhận (1). Cũng vậy,
vụ giết hại những người theo Trotsky. Chẳng ai là đao phủ. Chỉ có
nạn nhân. Ở đây, những người Cộng Sản Việt Nam có vẻ như
không chấp nhận lối của giải thích, về sự tầm phào của
cái ác (the banality of evil, chữ của Hannah Arendt khi bàn
về tính tình, thái độ của những tên đao phủ Nazi).
Trước khi chết, tổng thống Pháp, Francois Mitterrand đã
"chiến đấu với chính mình", để có được lời nói
cuối, về việc ông đã tham gia trong chính phủ Vichy,
trước khi gia nhập lực lượng kháng chiến. Việc ông cho tới năm
1986, là bạn thân của René Bousquet, một viên chức
trong chính quyền Vichy theo Đức Quốc Xã, bị kết án
năm 1989 về tội ác chống lại nhân loại, khi đẩy người Do-thái
vào lò thiêu. Trong cuốn "Hồi Tưởng qua hai giọng nói"
(Memory in two voices), với người đối thoại là Elie Wiesel - một nạn
nhân sống sót tại lò thiêu người, Nobel Hòa
Bình 1986 - khi nói ra những tội ác đó, ông
chỉ làm một sửa soạn bất khả tri trước khi chết, một cái chết
không có sự an ủi của một niềm tin. Tôi không biết
tôi có "biết" không. Tôi không biết tôi
có "không biết" không: điều không thể quy định một
cách ngay thẳng, công bằng trong từ "niềm tin", ông nói.
Và ông nói thêm, dẫn lời ghi trên bia mộ
Willy Brand, cựu thủ tướng Tây Đức: "Tôi đã làm
cái điều tôi có thể làm".
Những người Cộng Sản Việt Nam, tuy không có niềm tin về
một Đấng Toàn Năng, nhưng thừa sức làm điều họ có
thể làm.
Nhưng đối với chúng ta, đâu là điều chúng
ta có thể làm? Sau này, những con cháu đời
thứ năm, thứ "mười mí" của đám lưu vong, khi phải truy tìm
nguyên nhân bỏ nước ra đi của những ông cố bà cố,
họ sẽ hoang mang giữa đống tài liệu chứa trong thư viện. Và
càng hoang mang hơn, giữa đống hồi ký, được viết ra với quá
nhiều niềm tin, của những người quốc gia, khi phải giải thích vai
trò của họ trong biến cố lịch sử, trong việc làm mất Miền
Nam.
Nếu có chăng, một chứng cớ hiển nhiên về tội ác
của những ngưòi Cộng Sản, thì chỉ là một bức hình
đăng trên trang bìa tờ Time (Thời Báo) thời gian sau
khi ông Diệm bị giết ít lâu, chụp một ông xã
trưởng Miền Nam bị du kích chặt đầu, rồi đặt cái đầu lên
bụng tử thi, bên dưới là bản án. Bức hình đã
làm cả thế giới sáng đó không thể uống cà
phê, ăn điểm tâm. Và đây có thể coi như
"niềm tin còn một chút này", đối với những quân
nhân Hoa Kỳ, Đồng Minh, khi họ tham gia cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng
cũng chẳng biết ai là đao phủ. Cũng vậy, thủ phạm hạ sát những
ký giả ngoại quốc trong vụ Mậu Thân tại Chợ Thiếc. Hình
như sau đó, khi được hỏi, Trần Bạch Đằng trả lời không biết,
y hệt Trần Văn Giàu trả lời, trong vụ giết hại Phan Văn Hùm,
Tạ Thu Thâu.
"Pictures to be killed" (Những tấm hình để giết đi), là
một thuật ngữ được giới báo chí Mỹ dùng, khi gửi những
hình ảnh họ biết không thể sử dụng, ít ra vào
thời điểm đó. Trong chiến tranh Việt Nam, đã có những
bức hình chụp cảnh Việt Cộng dùng mã tấu, binh sĩ Mỹ
dùng búa, tàn sát lẫn nhau, như trong một phim,
thời kỳ "khai hóa" dân da đỏ. Cảnh tàn sát ở
Mỹ Lai... tất cả những hình ảnh đó, sau này đã
được sử dụng, khi cần một cái cớ để rút khỏi Việt Nam "trong
danh dự" đối với tổng thống Nixon. "Nghe nói", phong trào phản
chiến ở Mỹ cũng do CIA bỏ tiền ra, thuê người đi biểu tình.
Những người Cộng Sản vẫn thường nói, hãy quên quá
khứ, xúm nhau lại xây dựng tương lai. Chúng ta sẵn sàng
quên quá khứ, và có khi cũng chẳng cần điều
họ có thể làm, như tổng thống Pháp F. Mitterrand đã
làm. Nhưng chỉ cần họ không quên tinh thần "chống Mỹ
cứu nước", không phải của họ, mà là của những người
dân Miền Nam, của những người họ gọi là Ngụy, giống như những
người họ gọi là Tề, ở Miền Bắc, trong cuộc chiến tranh chống Pháp.
Trong thời gian người Mỹ tham chiến tại Miền Nam, có những gia
đình cấm con em không được làm sở Mỹ, có những
công chức, ngày đi làm, tối chạy xe ôm, nhưng nhất
định không để cho người Mỹ vô nhà của họ, với những hợp
đồng thuê mướn thật hấp dẫn.
Nghe nói, vẫn chỉ là
nghe nói, Ngô Đình Nhu đã từng cho người ra ngoài
Bắc, bảo thẳng với ông Hồ, nếu còn tiếp tục đánh phá
Miền Nam, thì chính ông là người có tội
ác với lịch sử, trong việc đưa quân đội Mỹ vào Việt
Nam, và nếu cần, ông sẽ gửi con tin, là hai người con
ruột của ông, qua một nước trung gian là Thụy sĩ.
Nhiều viên chức Cộng Sản đã cay đắng thú nhận,
họ thắng người Mỹ trên chiến trường, nhưng thua trên thị trường,
thua đồng đô la.
Chỉ mong họ đừng bao giờ gây ra cảnh cả nước Việt Nam cay đắng
vì Mỹ, như Miền Nam đã từng cay đắng.
Như các cô gái bán ba đã từng cay
đắng khi người Mỹ, bắt chước ông Tú Vị Xuyên, chơi trò
đổi tiền đô la đỏ.
Note: Bài viết này, Gấu viết từ hồi lâu lắm, cho báo
Xuân Người Việt, khi Nguyễn Xuân Hoàng làm chủ
nhiệm hay chủ bút, và chính anh order bài viết,
nhưng sau đó, không đăng. Cũng chẳng nói lý do.
Sau, khi làm quen với tờ VHNT trên lưới, của Phạm Chi Lan, Gấu
gửi, và PCL nói, cho bài khác, vì đụng
vô nhân vật đầy mâu thuẫn – controversial, chữ của PCL
– Sau, đành đăng trên Tin Văn.
Trên Tin Văn, còn 1 bài viết về HPNT, và vì
bài này, đám đệ tử của Thầy Kuốc chửi Gấu, mi tính
về phò Vẹm, phò HPNT ư?
Vườn Thú Tuổi Thơ
Ông Hồ muốn trong thơ phải có
thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau khi lấy được
Miền Nam, những người Cộng Sản đã từng lên lớp về thái
độ an phận thủ thường, chỉ muốn làm một phó thường dân
của những nhà văn Miền Nam. Bây giờ trong số người viết ở trong
nước, có người đã bằng lòng với vai trò khiêm
tốn, làm một nhà văn bình thường.
Những bài viết ngắn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trên
tuần báo Thanh Niên, cho thấy một văn tài, nhất là
khi ông trở lại với tuổi thơ của ông.
Bài viết ngắn, về những đồ chơi con nít bằng tre, bằng đất;
dưới con mắt trẻ thơ của ông, chúng thật tuyệt vời, chúng
đẩy trí tưởng tượng non nớt tới những vùng trời xa lạ. Miền
của những giấc mơ mà loài người có lẽ còn lâu
lắm mới thực hiện nổi. Nhưng buồn thay, chỉ chơi được một chốc một lát
là chúng bị gẫy, bể. Tôi không hiểu khi viết như
vậy, ông có muốn ám chỉ những giấc mộng lớn mà
những người như ông đã từng theo đuổi, cuối cùng vỡ
ra như những thứ đồ chơi con nít. Những giấc mộng càng lớn
lao bao nhiêu, càng phù du bấy nhiêu. Chúng
bắt buộc phải như thế, để cho nhân loại cứ trẻ thơ mãi, về những
giấc mơ chẳng bao giờ đạt được.
Hay là ông tự trách móc những con người như
ông đã không đủ khả năng tạo ra được một thiên đường
bền vững ở trên trái đất này.
Tôi vẫn nghĩ, nếu có một thành quả nào đó,
của việc "giải phóng" Miền Nam,
đó là nó đã cho chúng ta được đọc những
trang sách như của Hoàng Phủ Ngọc Tường, về vườn thú
tuổi thơ của ông. Hoặc của một số người viết ra đi từ Miền Bắc, về
một Hà-nội giấu kín tận đáy sâu tâm hồn
những đứa con của nó, không phải chiến thắng Miền Nam, mà
chính những đợt bom B. 52 đã khui quật lên.
Tôi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường rất ít, trước và
sau 1975. Cũng lại do thành kiến. Hoặc do kỷ niệm một lần đọc Vũ
Hạnh. Một truyện ngắn đăng trên Bách Khoa, kể chuyện một người
làm công cho một ông chủ ở thành phố. Nhân
dịp nhà nước phát hành giấy bạc mới, người làm
công xin phép ông chủ về quê chơi, thăm bà
con họ hàng, và xin chủ cho mượn tờ giấy bạc mới đó.
Về nhà, ông cho con chơi, như một bức tranh con gà con
chó, cho phép con mang khoe với con ông địa chủ kế bên,
nhưng không được đổi lấy bất cứ một thứ gì.
Đến đây, chắc độc giả nhận ra ẩn dụ độc địa của câu chuyện:
ông địa chủ, do biết giá trị của tờ giấy bạc, xúi con
đổi đủ loại đồ chơi cho thằng nhỏ hàng xóm nghèo.
Trở lại thành phố, ông làm công trả lại chủ,
kèm theo lời kết luận: giấy bạc mới ra, ở nhà quê chẳng
ai biết, cứ tưởng là đồ chơi con nít; ông chủ đất kế nhà
tôi cũng lầm.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ qua bài viết kể
trên, tôi nhớ đến tuổi thơ của tôi và những món
đồ chơi đầu đời của một đứa con nít nghèo nhà quê.
Trong đó, có cây viết chì mầu. Ôi chao, lần
đầu tiên, tôi thấy được cây chì mầu, vẽ hình
con gà, con chó lên giấy, nó khác hẳn
cái mầu đen của cây viết chì tôi vẫn có.
Bởi vì cây viết chì mầu là của một ông
cậu tôi, bà ngoại tôi đi tận Hà Nội mua về. Thấy
tôi năn nỉ mãi, nhìn cặp mắt thèm thuồng của thằng
cháu, rốt cuộc ông cậu nói, thôi tao cho mày,
nhưng giấu kỹ đi, kẻo mẹ tao nhìn thấy.
Kỷ niệm về cây viết chì mầu, tôi nhớ lại, khi đọc Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Đọc Rushdie, và giấc mơ về một quê hương, một
thành phố Bombay mầu Cinémascope, Technicolor của ông.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi còn nhớ đến Vũ Hạnh.
Và André Gide. Nhà văn Pháp này, sau
khi đi Liên-xô về phang một câu: Tất cả những tình
cảm tốt đẹp chỉ đẻ ra một thứ văn chương tồi. (C’est avec les plus beaux
sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature). Đúng là
một lời trù ẻo văn chương hiện thực xã hội. Có một
thời gian dài, tôi tâm đắc với câu văn, nhưng dần
dần, theo tuổi đời, sau bao giấc mộng, bao tình cảm đẹp hao hụt dần,
tôi nhận ra một sự thực cay đắng: câu của Gide không phải
trù ẻo văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa không thôi,
mà là tất cả những tình cảm tốt đẹp của con người.
Đặt ngược lại vấn đề, với câu chuyện của Vũ Hạnh làm một
cái cớ, chúng ta có thể hỏi: ai cho phép anh
nhân danh những tình cảm đẹp để quyết định số phần của cả một
đất nước? Và liệu có phải đó là những beaux
sentiments thực sự không?
Ai cho phép anh... Solzhenitsyn cũng đã từng đặt câu
hỏi như vậy, trong Khu Ung Thư. Nhân vật của ông được một bác
sĩ hết lòng chữa trị, nhưng anh ta cứ lắc đầu bai bải, không
được, không được. Con người tôi có đây, là
nhờ một tí bịnh, một tí xấu đó. Nó là
một phần thân thể của tôi. Chữa hết bịnh rồi, tôi làm
sao sống, tôi ở với ai.
Đọc những tác phẩm hậu-Solzhenitsyn, từ một nước Nga rã
rời sau Cách Mạng, chúng ta mới cảm thấy sự trớ trêu,
mà chủ nghĩa Cộng Sản bầy ra cho toàn thể loài người:
Chưa có một chế độ nào lại đẩy con người tới một mức thoái
hóa thê thảm như chế độ toàn trị.
Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử
nghiệm tối hậu về đạo đức con người. (Tzvetan Todorov).
NQT
Whatever Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra
Bất
cứ cái chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất
mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc
lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy
chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và
nhỏ mãi đi.
Nhưng
chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT
thì thầm bên tai Gấu.
Quoc
Tru Nguyen
Viết mỗi ngày
Mít vs Lò Thiêu
http://www.tanvien.net/Viet/Mit_vs_LoThieu.html
Quan điểm khác nhau không ngăn cản người ta ngồi bên
nhau trò chuyện thân ái (từ trái qua Nguyễn
Hữu Liêm, Trương Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, TDBC). (2)
Note: Tên VC nằm vùng này cực ngu. Có thể
nói, tên VC nằm vùng nào cũng cực ngu như hắn.
Viết như thế, thì mi đúng hết, chẳng chừa chỗ cho ai
đúng nữa.
Cả 1 lũ ngồi cùng đó, ngoài NXH ra, thì
cùng 1 ruộc.
Cũng bình thường thôi, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
Cũng vẫn bình thường thôi: Sở dĩ 1 tên như Gấu
Cà Chớn, chẳng hạn, không chịu nổi lũ VC nằm vùng,
là do chúng không nhận ra cái tội tày
trời của chúng, làm mất Miền Nam, và đẩy nước Mít
lâm vào đường cùng, mấp mé bờ hủy diệt như bây
giờ. Nếu là dân Nhật, thì họ tự sát tất tật,
để tạ tội rồi.
Không có lũ VC nằm vùng là thật khó
mất Miền Nam. NQT
Đâu phải vấn đề bất đồng chính kiến, Quốc Cộng, Nam Kít,
Bắc Kít, hải ngoại, trong nước, thù hận lẫn nhau….
Vấn đề của Mít, đúng là vấn đề được Ông
Thánh Lò Thiêu khui ra:
"La catastrophe nazie est désormais la référence
absolue et radicale de toute existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để,
tất cả hiện hữu Do Thái.
Tai ương 30 Tháng Tư 1975, và cùng với nó,
Lò Cải Tạo... từ nay là điểm qui chiếu, tuyệt đối, triệt
để, mọi hiện hữu Mít. (3)
Mấy tên ngu đần này, làm mất Miền Nam, thong dong
du hí xứ Mẽo, không còn 1 chút lương tâm
đạo đức, vậy mà vẫn ra rả chửi người khác:
Tự do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác biệt
là điều mà nhiều người Việt Nam đã học được khi ở
Mỹ nhưng cũng không ít người vẫn muốn độc tài tư
tưởng chẳng khác gì cộng sản, chỉ muốn áp đặt chính
kiến của mình lên mọi người và đả kích, bôi
nhọ, chụp mũ người khác quan điểm.
Sự thực hải ngoại tởm tụi VC nằm vùng, chứ không hề áp
đặt chính kiến cái con mẹ gì hết. Họ quá đau
vì mất 1 quê hương, và quá tởm lũ nằm vùng.
Nếu không có chúng, tình hình có
thể đổi khác.
Có thể, PXA cũng quá đau vì cái phần đóng
góp lớn lao của ông cho địa ngục Đỏ, nên đến giờ chết,
không làm sao đi được, và giờ này hẳn là
đang ở Lò Luyện Ngục ăn năn sám hối tội ác của ông.
Lò Thiêu, là Đỉnh Cao Chói Lọi của cái
gọi là Thời Kỳ, Kỷ Nguyên Ánh Sáng của Âu
Châu, và được thực hiện bởi 1 giống dân cực kỳ thông
minh của mọi giống dân của nó. Cũng thế, là trường
hợp dân Mít. Chúng được ông Trời cho ra đời, từ
thuở Hùng Vương dựng nước, để làm cuộc thống nhất 1 dải đất,
tạo thành 1 bức trường thành ngăn cản, chống giữ, kiềm chế
họa Hoàng Quỉ, là dân Tẫu. Những Đỉnh Cao, Bước Ngoặt
cái con mẹ gì, thật cũng chưa xứng với nó, Tin Văn
đã từng lèm bèm nhiều về chuyện này rồi. Sở
dĩ đến ngày 30 Tháng Tư, mọi chuyện trở nên khốn kiếp,
là do Cái Ác Bắc Kít mà ra: Chúng
đâu muốn ôm lấy Miền Nam, mà muốn làm tên
ăn cướp, cướp sạch một miền đất, người chúng đẩy đi tù mút
mùa. Người chúng gọi họ là Ngụy, tức đếch phải người,
y chang Đức gọi Do Thái. Những tội ác như thế liên quan
gì tới… chính kiến? Chính kiến nào dung thứ
tội ác đó? Có tên Bắc Kít nào nhỏ
1 giọt lệ cho những tên tù cải tạo, có tên VC
nằm vùng nào tỏ ra đau lòng vì 1 nhà
văn Miền Nam, như Thảo Trường chẳng hạn, đi tù cải tạo 17 năm?
Lúc đó tên TDBC ở đâu? Bây giờ ở đâu?
Ai cho mi đi Mẽo, trong khi những người khác, không được đi,
mà đi tù?
Một tên nhơ bẩn như thế, mà cũng bày đặt viết lách!
Comments
· Reply ·
6w
Tks All
Friday, 05 September 2014
10:04
Thập niên 80 âm u giọng hát
Khánh Ly «Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người
ấy ở trong tù…», không mấy thuyền nhân tin có
thể trở về xứ Việt. Thập niên 80, tôi ước ao trở về Huế. Về Huế!
Chỉ có hai chữ này thôi mà sao âm vang cả
hồn mình. Âm vang như tiếng ngâm của Võ Đình.
Giữa đêm khuya, tiếng ngâm của người họa sĩ già trên
60 tuổi, cất cao, khỏe, mà buồn bã. «Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay», chữ «thiu» buồn tênh. «Hoa
bắp lay», tức là cảnh vật còn, còn gọi, còn
nhắc, mà sao anh không về?
Võ Đình không ngâm cho tôi. Ông ngâm
cho kiếp lưu dân hiu quạnh. Đêm thâu, tiếng ngâm
của Võ Đình vang xa như tiếng hò khuya của người Huế
xưa, trên sông Hương. Chúng tôi nhớ Huế. Đọc Một
món Tết thật mặn mà của Võ Đình mới biết ông
nhớ Huế chừng nào. Ông lấy pâte d’anchois, một thứ cá
muối dầu thật mặn của Tây đánh nhuyễn ra làm mắm, rồi
luộc thật chín mì ống làm bún, rồi chan, rồi
chấm, để có chút chất quê trong mình. Tết ở Tây,
cuối Tháng Giêng, lạnh cứng người. Võ Đình sinh
ở Huế, nhớ Huế đã đành, nhưng tôi cũng nhớ Huế, dù
chưa từng đến, mà vẫn nhớ hàng rầm thượng, bức mành
vàng chanh, hàng giậu dâm bụt, với những hồn âm
đi qua cầu Tràng Tiền về phía thành Nội, trong truyện
Võ Đình.
Ra, tôi nhớ Huế của người khác.
Nhiều khi, tôi nhớ sự kinh dị của Huế. Các thước phim đen trắng
chiếu cảnh khóc than của người Huế đi tìm xác, rồi đào
xác thân nhân mang về hàng đống xương, đầu lâu,
ba sườn… Mậu Thân kinh dị. May là Huế còn những trận
mưa trên cây sầu đông của Nhã Ca, còn những
mùa ngô cũ của Trần Dạ Từ. «Đuổi bắt trên đồi cao,
trượt chân bàng hoàng mãi.»
Cảnh di tản trên QL 1 năm 1975
Người Bắc di cư không có quê, vì chiến tranh,
không thể về. Nên tôi si quê của người khác.
Si quê của Phan Nhật Nam. Si quê của Túy Hồng. Si quê
của Bình Nguyên Lộc. Si quê của Nguyễn Thị Hoàng.
Tháng 5-1975, Vòng tay ôm của Nguyễn Thị Hoàng
giúp quên nhà có tang. Tang vì bại trận.
Rồi tôi về Huế.
Đầu thập niên 90, Phú Bài ngoài lớp xi-măng,
không có gì khác. Chỉ có khói, nắng
và đất đá. Nắng lồng lên giữa cát bụi phi trường.
Tôi ngắm Huế. Ngắm giấc mơ trở về của mình. Và Huế bật
lên xanh hực. Màu lục đậm. Sức sống âm ỉ dưới lòng
đất. Vì mồ mả chập chùng. Tôi chưa chứng kiến thành
phố nào nhiều mồ mả trong phố, giữa phố, trong vườn, giữa vườn, trong
sân, ngoài sân, nhiều như ở Huế. Bên Ai Cập cũng
đầy mả, nhưng là mả xưa, mả sang, mả di tích, mả danh thắng.
Ở Huế, mả tươi leo lét tim dầu, đây đó chân nhang,
chập chờn như ma trơi. Khi đêm xuống, tôi khám phá,
người chết chưa chết ở Huế. Đêm xuống, người chết mở mắt.
Tôi ra khỏi Phú Bài. Về nhà khách Lê
Lợi, gần ga xe hỏa. Ngồi trên xe, tôi váng vất, vì
biết, đang sống ước mơ của mình. Bao nhiêu trang sách
cũ, chỉ một chữ Huế. Bao nhiêu trang viết tay của những người bạn muốn
về Huế. Vậy mà mình về đến Huế. Đất xanh tàu lá.
Đất thấm bất chợt cơn mưa không đủ dội tắt nắng, nhưng đủ làm
hiện lên cầu vồng và xông mùi đất. Mùi oi,
hăng, nồng của đất mẹ. Da thịt mẹ.
Hoàng P. không giống nhân vật trong Mùa biển động
của Nguyễn Mộng Giác. Hoàng P. ở Phú Bài điềm
đạm, hòa nhã. Hoàng P. ở Phủ Cam thân mật và
tự nhiên. Tôi nhìn ông, tự nhiên tôi
muốn quên hết. Bất hạnh và khổ đau. Hãy về đất mẹ. Gặp.
Đừng thắc mắc. Và tôi gặp Hoàng P.. Ông không
giống chút nào những ngày oan nghiệt. Ông là
một Hoàng P. khác. Hoàng P. của tạp chí Cửa Việt,
cố gắng thoát kiểm duyệt, cố gắng lách một cánh cửa,
sau khi Sông Hương đình bản.
Thủy Quân Lục Chiến VNCH chuẩn bị tái chiếm
cổ thành Quảng Trị mùa Hè đỏ lửa 72
Hoàng P. tôi gặp, là một người viết tùy bút.
Nhiều khi nhớ Huế, tôi đã nhớ Huế của Hoàng P.. Mà
Huế của Hoàng P. đẹp vô cùng: Huế phất ống tay áo,
làm thành khúc sông Hương trôi qua chùa
Thiên Mụ, như cánh tay áo của thiếu nữ thanh tân
đánh khúc quành về phía Tuần. Huế tráng
ngọc. Lãng đãng sự dịu dàng. Huế mang sắc tím
ẩn hiện của lớp vải điều lục tràm lồng lên một màu đỏ
kín đáo, của các cô dâu đem phơi áo
cưới sau tiết giáng sương… Những trang viết diễm ảo. Đẹp đến nhẹ hẫng.
Những trang tùy bút về núi Bạch Mã cũng nhuyễn
thể lạ lùng. Đọc mà giống uống văn, rồi say.
Tôi không biết Hoàng P. ngày xưa. Nhưng tôi
biết Hoàng P. ngày đi lăng. Một Hoàng P. khác,
còn biết cảm nỗi cô độc của chú rồng con phải uốn thân
trên sân, làm vật trang trí cho nhà Chúa, trên
bậc tam cấp, trên mái điện vàng. Khó hình
dung một Mậu Thân của thi sĩ. Tùy bút của ông không
nhiều quá khứ cũ. Tùy bút thăm vườn bà Lan Hữu,
là một tuyệt bích. Vườn An Hiên đầy cây trái
mà mỗi sắc hoa, mang vết bút tỉ mỉ. Hoàng P. đạt đến
sự an nhiên tự tại của tĩnh vật trong tùy bút Hoa trái
quanh tôi này. Tôi biết, chính văn chương giúp
ông tìm sự bình thản.
Nguyễn Quang Lập đưa tôi ra cổ thành. Xe máy qua Phong
Điền, Hải Lăng, Thạch Hãn, bao nhiêu trang sách cũ hiện
lên. Bên kia có thể là dẫy đồi nơi tiểu đoàn
Thủy quân Lục chiến của Cao Xuân Huy đánh những trận cuối
cùng. Dưới kia là chi khu Mai Lĩnh nơi tiểu đoàn 7 Nhảy
dù của Lô lọ rượu cầm cự. Trên kia là chỗ Lữ đoàn
Dù «chạm» Quảng Trị. Tôi ý thức rất rõ,
đang đi trên Đại lộ Kinh hoàng. Lập không biết, không
chú ý, hay nghĩ chuyện khác. Hai ven quốc lộ, nghĩa
trang liệt sĩ san sát. Quốc lộ thưa dân, những đứa bé
tròng mắt trong veo không ký ức và những cụ già
mắt đục mờ ký ức. Tôi ở giữa. Giữa đứa bé và ông
lão. Giữa dải cát đang đổi màu trắng, xám, thâm.
Ký ức rồi sẽ thâm.
Dân chúng chạy loạn qua cầu Trường Tiền Huế
"Tết Mậu Thân"
Cổ thành ban trưa đìu hiu. Cũng chẳng còn thành.
Chỉ còn một khối đá duy nhất, bự bằng nửa căn nhà. Mà
nhà cửa ở Quảng Trị thưa vắng. Năm 94, tôi đếm được vài
đường ngang, thành phố chạy dọc theo quốc lộ 1 thẳng tắp. Có
căn phố còn găm đầy đạn, xác con chuột chết ruồi bu kín
và xe nước mía duy nhất thằng bé đang quay tay. Giấc
trưa, Lập ngủ trưa. Tôi mượn xe Lập ra nhà thờ La Vang. Tôi
muốn đến đây, năm 72 xem tivi, tôi trông thấy lần đầu khu
La Vang đổ nát. 22 năm sau, vẫn vậy, hoang tàn đến lạnh người.
Cả khu nhà thờ chỉ còn mỗi tượng Đức Mẹ lỗ chỗ đạn. Gạch, ngói,
mái, tường tan hoang. Có ra đến La Vang mới thấy khốc liệt
của chiến tranh, tiêu hủy, phá hủy, tàn phá không
chừa một thứ gì. Những người lính Cộng hòa chết ở đây.
Chết cho tôi lành lặn đi học, cho gia đình tôi
bình an buôn bán. Nhà thờ La Vang sập mái
hiu hắt, không bóng người, chỉ vài chân nhang còn
cháy. Giống ma thắp. Trông mà bùi ngùi.
Khu La Vang lạnh tanh, gió rì rào, từng chập. Tôi
khấn mấy người lính, rồi về.
Về Huế, tôi đi tìm những gì mình nhớ.
Trong Tháng Giêng đưa đám, Nhã Ca tả một Huế
lạnh băng. Nước sông dâng lên lụt lội, mưa dầm dề mùa
Đông. Hàng đoàn người lội nước đi tìm xác.
Nhưng xác không ở chỗ người sống tìm mà trồi ra
từ những hốc vườn bị nước lũ kéo ra. Người sống chết trong chỗ núp,
bị giết khi đang núp, còn người chết bị nước đẩy ra khỏi chỗ
núp. Chết bó gối mà không ai hay, đến khi trôi
ra vườn mới sình thúi. Tôi sợ hãi năm lên
đệ thất, đọc mà giật thót người vì xác chết đột
ngột chui ra từ trong một xó xỉnh của căn nhà vườn. Đọc mà
tay chân lạnh ngắt. Người Huế tản cư sau Mậu Thân trở về, bước
vô nhà, xác chết cùng khắp, hoặc nhiều khi phải
đi tìm, phải kiếm vì biết chết, mà chưa thấy xác.
Đứng trước các am miễu vô số ở Huế, tôi biết người ta
đã chết ở đây, nhiều lắm.
Ra đến chân cầu Tràng Tiền, tôi mường tượng ra cảnh Cao
Xuân Huy đang ngồi tắm bia, như anh viết trong Tháng Ba gãy
súng, khi tiểu đoàn anh từ Mỹ Chánh rút về. Về
đến chân cầu vớ được két bia, khui tức khắc, rồi tắm, tắm bia,
cho đã những ngày cơ cực. Tôi chần chừ vì muốn
sống với cảnh tắm bia lâu thêm chút nữa. Sống với Cao
Xuân Huy mà mình quen thân. Tôi mường tượng
ra những người lính, họ trẻ trung yêu đời, xem chuyện sống chết
bình thường. Số đông bị bắt, rồi lầm than, số khác vượt
biên… chỉ còn lại bãi đất trống.
Một vai cầu Tràng Tiền bị giật sập đêm mùng 9 Tết Mậu
Thân. Tôi nhớ hình ảnh nhịp cầu chìm dưới sông,
vai còn vồng trên mặt nước. Tôi có ý nghĩ
lạ là tôi thấy những hình ảnh mà người Huế không
còn thấy. Bước chân lên cầu sắt, tôi chờ đợi những
hồn âm của Võ Đình, những hồn âm đã «va»,
đã «chạm» vào vai Võ Đình sau Mậu
Thân khi ông về Huế. Trong truyện Chiếc vòng, Võ
Đình kể xảy ra thật, ông không tưởng tượng mà cảm
nhận rõ rệt giữa ban ngày, dưới cơn mưa mỏng, những hồn âm
vừa chết đi ngược chiều, «chạm» đến giật người. Khi kể lại ở
Ba Lê, giọng Võ Đình đầy tâm linh. Khi băng qua
cầu, không ai va chạm vào mình tôi. Chỉ có
tôi qua hết cầu Tràng Tiền như ma. Không phải người Huế
là ma, mà là tôi, kẻ không thực sự hiện
diện ở Huế, kẻ ở xa về đôi ngày rồi đi, chính tôi
mới là chiếc bóng thoáng qua cầu Tràng Tiền rồi
biến mất.
Tôi ra cửa Thượng Tứ, tìm kỷ niệm khác của Võ
Đình. Vũng nước mưa mà năm 17 tuổi, Võ Đình trông
thấy trước cửa Thượng Tứ, ven đường. Vũng nước mưa phản chiếu ánh
mắt ông, trong buổi sáng cuối cùng trước khi ông
rời Huế. Đó là một buổi sáng tinh sương của năm 1950.
Cậu trai họ Võ sẽ trôi băng băng vào đời. Đến khi Võ
Đình trở về Huế, ông ra lại cửa Thượng Tứ bấy giờ vừa trúng
pháo xập một phần, trông như gã khổng lồ cụt đầu. Võ
Đình đi qua chiếc cầu nhỏ, rồi ông bắt gặp lại vũng nước mưa
năm xưa, rõ ràng là nó, chính nó,
vũng nước mưa năm nào, và nó cũng nhận ra ông.
Cả hai nhìn nhau rưng rưng thân thương. Nó chưa quên
ông. Võ Đình tả giống như ông đang khóc
với nó. Tôi cũng «trở về» sau thật nhiều năm xa
cách. Tôi cũng 17 tuổi ngày ra đi.
Bìa sách "Chuyến xe lửa đến đúng giờ"
Tôi tìm ra vũng nước mưa không khó khăn. Tôi
nhận ra vũng nước mưa ấy. Vũng nước mưa của Võ Đình, không
thể lẫn với vũng nước mưa nào khác. Nó cũng nhận ra
tôi, chuyên nhớ Huế của người khác. Nó phản chiếu
ánh mắt tôi còn quyến luyến quê. Vũng nước mưa
lớn hơn xưa, lớn hơn trong truyện Võ Đình nhiều lắm, nó
lan ra một khoảng lớn, phản chiếu phân nửa cửa Thượng Tứ đã
xây lại, đắp lại. Vũng nước mưa đã lớn lên, như tôi.
Tôi đứng ngắm nó cho đến khi chạng vạng và nó
thu mình lại dưới sắc ám.
Tôi không còn nhớ rõ là buổi sáng
nào nữa, những ngày ở Huế đầy mộng mị, nửa thiêng liêng,
nửa phù du, vừa quá khứ, vừa thực tại, với ý thức tất
cả sắp biến mất. Chỉ cần tôi thở, thời gian sẽ thu ngắn lại và
tôi sẽ phải rời khỏi Huế để sẽ phải sống lây lất, vật vạ bằng
ký ức của người khác. Buổi sáng ở lăng Khải Định, bừng
lên sắc xanh của Huế mà đứng từ trên lăng nhìn
xuống, thấy núi đồi trùng điệp với tượng Phật Bà Quan
Âm. Trông thấy Ngụy Ngữ, tôi nhận ra tức khắc: Ngữ của
Mùa biển động. Ngụy Ngữ cao, gầy, xương, trầm mặc và suy tư.
Đúng Ngữ của Mùa biển động. Không thể sai. Ngữ, tác
giả Con thú tật nguyền và Vòng hoa cho lãnh tụ.
Ngữ của gia đình ông Văn mà Diễm yêu da diết, yêu
si mê, trong câm lặng mỗi khi mang thau nước cho Ngữ rửa mặt
trong xưởng vẽ của Ngô gần cầu Gia Hội. Diễm mà ngấn cổ trong
vắt giọt mồ hôi ẩm của Huế ban trưa, yêu dữ dội, mà dứt
cũng quyết liệt. Đúng Ngữ của Diễm. Về sau, khi sang Cali tôi
hỏi có phải Ngụy Ngữ là Ngữ trong Mùa biển động? Nguyễn
Mộng Giác không phủ nhận:
Một nửa của Ngụy Ngữ cộng một nửa của ông. Khi ấy, ngắm Nguyễn Mộng
Giác, tôi mới nhận ra ông cũng cao, và chắc phải
gầy ngày xưa, tất nhiên rất «thao thức».
Chúng tôi đi lăng. Lăng Gia Long đẹp nhất trong các
lăng. Đẹp ở nét tịch liêu, cô quạnh. Ở lớp sương dâng
lên từ sông Hương phả vào các pho tượng. Con ngựa
thui chột mắt mà trong Dựa lưng nỗi chết, Phan Nhật Nam kể chuyện
người lính trẻ lấy súng M-16 bắn vỏ chai bia đặt trên
đầu con ngựa. Viên đạn trệch, làm chột mắt. Tôi ngồi ở
lăng Gia Long, nhớ Phan Nhật Nam vô cùng. Tôi theo anh
bao ngày, từ khi còn học trường Lasan, qua đến sau «giải
phóng», đọc chui những trang sách, những thước đất, những
thước lộ anh và bạn bè anh đi qua. 35 ký lô quân
trang, quân dụng, mùng mền, nón sắt, botte de saut, 6
trái lựu đạn, súng phóng hỏa tiễn M-72, và cả
tâm tư của tuổi trẻ trong Những ngày dài trên quê
hương, phải lội xuống sông, xuống ruộng, cố giữ đừng cho chìm,
đừng ướt súng để có thể chết lát nữa trong tư thế người
lính, lính Cộng hòa, để tôi có thể tiếp
tục tuổi hoa niên trong yên ấm. Tôi nhớ Đại úy Hổ,
Đại úy Thừa mà Phan Nhật Nam kể đã cùng ngồi
uống bia không đá ven sông Hương, trên sườn đồi
nhìn xuống lòng sông lam đục mờ sương khói. Hai
ông Thừa, Hổ «nghỉ phép» vĩnh viễn, chết không
kịp trăn trối. Phan Nhật Nam cho tôi rất nhiều, ý thức quốc
gia và cả sự kiêu hãnh Cộng hòa, không có
anh, tôi sẽ thất lạc.
Tôi ngồi cạnh Hoàng P.. Ông kể chuyện: Cả hai lần làm
lễ tưởng niệm 30 Tháng 4 ở Quảng Trị, lập đàn tế liệt sĩ, cả
hai lần đều không thành vì gió lớn trổi lên,
thổi sập hết cả cờ quạt, cả hình chủ tịch… Hiện tượng này ngày
xưa đã có, vì vậy thơ xưa mới có câu «Hồn
tử sĩ, gió ù ù thổi» … tức là vong những
người lính bên kia về, và họ không bằng lòng.
Cả hai lần mình đều tận mắt chứng kiến. Hoàng P. kể. Đêm
trong ngôi nhà ở Phủ Cam, chúng tôi cùng
ngậm ngùi. Tôi muốn nói với ông thật nhiều nhưng
rồi lại thôi. Mà không thể. Chúng tôi quá
khác nhau. Khác đến mức, ông kể «vong những người
lính bên kia» mà lỗ tai tôi nghe thành
«vong lính mình không bằng lòng.»
Khác. Giống như ban sáng, khi Hoàng P. trỏ cửa vòm
hông của cổng vào Hoàng thành, lối cho voi vào,
ông kể: «Tết Mậu Thân, em mình và biệt động
nội thành trú bom dưới vòm nì…» Tôi
im lặng, vì không thể góp chuyện, vì đang nghĩ
đến tiểu đoàn 9 Nhảy dù của Phan Nhật Nam bị phục kích
tan nát ở cửa Thượng Tứ mà vẫn phá được chốt. Vì
đang nghĩ đến những người lính của Sư đoàn 1 Bộ binh đang cố
gắng chống trả ở Mang Cá, ở sân bay Tây Lộc, ở cửa An
Hòa. Nghĩ đến những người lính quân cụ của đại đội 811
Quân Cụ bị bắn chết trong trại Lê Lai và những người lính
địa phương quân chết ở cầu Bạch Hổ, vì cố giữ cầu… Sao chúng
tôi khác nhau đến vậy. Ông không biết là
tôi nhớ Huế bằng ký ức của người khác. Trong đó
có ông. Nhưng tôi không nhớ Ngôi sao trên
đỉnh Phú Văn Lâu mà nhớ Ai đã đặt tên cho
dòng sông.
Võ Đình -
NGUỒN GIO O.COM
Chắc ông không biết tôi khác. Chúng tôi
vẫn uống bia, vẫn uống đế Kim Long, đế Làng Truồi. Ánh mắt
ông dành cho tôi nhiều cảm mến. Ngày ông bán
thân bất toại, biết tôi về Huế, ông vui. Nhìn bàn
tay ông quắp lại chưa cầm được bút, tôi biết ông
buồn. Một người viết tùy bút, mà không viết được
nữa, lấy gì trút hồn? Khi chưa liệt, ông hay kể cho tôi
nghe về di tích lịch sử Huế. Còn tôi kể cho ông
nghe chuyện Tây. Nhưng giữa những câu chuyện, giữa hai cái
Huế bây giờ và Pháp bây giờ, là một khoảng
trống. Trống rỗng. Không tiếng động, không tâm sự. Chúng
tôi không nói về nội chiến Nam-Bắc. Tôi chưa kịp
tham chiến, ông đã tham dự. Một cách lý trí,
tôi từ chối bút ký Chế ngự cát. Một cách
bản năng, tôi thích nhìn ông khề khà, kể
gặp Jane Fonda xinh xắn. Nhưng mỗi khi tôi ngồi cạnh ông, lý
trí và tình cảm đánh nhau liên tục, lần
nào tình cảm cũng thắng. Chiến thắng này là của
ông.
«Lối đi nhỏ lẫn trong đám hàng rào lá
chè xanh dày kín. Dọc trên đường về sân
bay Tây Lộc, hào bên phải bay ngát hương sen. Mùa
hè đẹp nhất xứ Huế, mùa của đêm trăng nhỏ giọt qua cành
lá... Qua một quán nước, ánh nến vàng mệt, cô
gái bán hàng rạng rỡ giữa một đám lính
trẻ, Quán Lưu Khách…» Khi Hoàng P. đến nhà
khách, đón tôi ra Phú Bài, những dòng
chữ xưa của Phan Nhật Nam như còn chảy qua mình. Chúng
tôi chạy dọc sông Hương. Tôi đưa mắt tìm Quán
Lưu Khách, đưa mắt tìm những hạt cườm đỏ chấm đen mà
Phan Nhật Nam cúi nhặt ngày xưa. Xe qua trường Quốc Học gạch
son, tôi ngắm bầy chim phụng chạm nổi lộng lẫy trên bức bình
phong to vẽ hoa văn sát bờ sông. Tôi nhớ màu hỏa
hoàng rực rỡ trong truyện ngắn G. của Võ Đình. Có
lẽ là màu chim phụng Huế. Tôi ngắm các nữ sinh
Huế, nhớ Tương Giang, Hoa Trang, Dung Nghi của Nhã Ca, những thiếu
nữ yêu rất vội, và ngắm cầu Tràng Tiền lần cuối. Tiểu
đoàn Thủy quân Lục chiến của Cao Xuân Huy không
còn ở đó, chắc đã ra Cửa Việt hay rút về Thuận
An. Tôi nhớ mái tóc bạc của Trần Vàng Sao, nhớ
cây đa trắng trong vườn nhà ông, thỏm sâu trong
thôn Vỹ Dạ. Tôi bắt đầu có ký ức.
Sân bay Phú Bài cam tuyền. Hoàng P. vẫy tay.
Cuộc chia tay nào cũng chấm dứt. Tôi chỉ kịp nói với
ông: Sông Hương giống sông Nil ở Ai Cập, cùng nhịp
chảy chậm, một bên lăng tẩm đền đài và một bên
khách sạn, cùng ru giấc ngủ những vì vua… Tôi
chỉ kịp nói ngần ấy, và chia tay.
Những ngày ở Huế, tôi đem theo quyển tiểu thuyết Chuyến xe
lửa đến đúng giờ của Heinrich Böll. Buổi tối ở nhà khách
Lê Lợi, tôi đọc sách tìm giấc ngủ, theo thói
quen. Nhưng càng đọc, càng cảm thấy kỳ lạ, giống Heinrich Böll
viết cho Phan Nhật Nam và Hoàng P.. Nhân vật chính,
Andreas, binh sĩ quân đội Đức, về phép nhưng rồi hết phép
phải đón chuyến xe lửa ra đơn vị trên mặt trận Nga. Andreas
tìm đủ cách để trốn, nhưng đến thành phố nào
chuyến xe lửa ấy cũng chờ sẵn trên sân ga. Nhảy tàu, bỏ
ngũ, thậm chí lấy một cô gái vừa quen biết, hòng
xin thêm ít phép, tìm cách hoãn,
Andreas vẫn bị bắt lại, vẫn bị dẫn ra sân ga và trông
thấy chuyến xe lửa túc trực. Anh hiểu ra có hẹn với Thần Chiến
tranh. Không thể chạy, không thể trốn. Tuổi trẻ của nước Đức
không thể thoát chiến tranh vì chiến tranh là
định mệnh khốc liệt mà dân tộc này phải gánh,
vì đã đi tìm. Tôi chưa kịp kể cho Hoàng
P. về Chuyến xe lửa đến đúng giờ, chưa kịp nói với ông:
Hoàng P. và Phan Nhật Nam là Andreas.
Lưng trần là khoảng thân đẹp nhất của phụ nữ. Còn lưng
đàn ông? Lưng đàn ông thường mang vết chém
của người khác. Đôi khi do tự mình chém lấy. Lưng
đàn ông Huế mang đầy thương tích của nội chiến. Còn
lưng tôi? Viết ký, là trục xuất linh hồn. Nhưng tôi
chỉ dám trục xuất dè sẻn. Giống vén áo, phơi
một khoảng lưng và viết trên da lưng này. Lưng trần là
vậy.
Võ Đình chết ngày 31 tháng 5, ông đã
về Huế.