Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội] Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương] Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998] Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999] Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
* Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index: Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn. Email Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ 1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Nhớ thời học lớp đệ Tứ trường Đồng
Khánh mình có đọc và thích một truyện
ngắn, đã lỡ quên tên tác giả. Truyện kể về kỳ nghỉ
hè của nhân vật nữ chừng 18 tuổi, mỗi ngày cô ta
đều viết nhật ký. Viết mà không buồn xem lại, cho đến
hồi chữ choáng chật hết trang vở cuối. Cô cất cuốn vở trong
ngăn kéo bàn viết. Khoá lại. Những gặp gỡ, bao ý
nghĩ, sự buồn vui, cơn mưa ngày nắng, các diễn tiến của sự
kiện trôi qua… Chất chồng, không hoàn chỉnh đã
nằm yên trong hộc tủ. Và một chiều, cô đi ngang qua giòng
sông, ném chiếc chìa khoá xuống.
Dạo đó mình
cũng thích thơ Nhã Ca:
“Chợt tiếng buồn xưa động bóng
cây
Người đi chưa dạt
dấu chân bày
Bàn tay
nằm đó không ngày tháng
Tình ái
xin về với cỏ may
………..
Kỷ niệm sầu như
tiếng thở dài
Khuya chìm
trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc
bằng đêm tối
Tôi mất thời
gian lỡ nụ cười…
Ai trong chúng ta cũng có
thu cất cho riêng mình từng kỷ niệm. Montréal mùa
hè năm 1992, với mình còn đó là một kỷ
niệm, xem chừng khó phôi pha. Buổi ấy anh Trịnh Công
Sơn từ Sài Gòn qua thăm những người em, hay tin anh Đinh Cường
từ Virginia sang, Khánh Ly từ California tới… Giọng cười, chuyện kể,
tiếng đàn, lời ca, vẽ tranh, rượu uống, thuốc đốt… Tiếc là
mình không viết nhật ký. Anh Trịnh Công Sơn nói:
Cũng 35 độ C. Cũng cơn gió ẩm ấy. Cũng màu nắng kia. Răng,
có thấy nhớ Huế không? Câu hỏi ném ra, nhiều
người nghe, nhưng dường như nhắm riêng tới mình. Làm
sao trả lời? Làm răng sắp xếp được ổn thoả cái bộn bề của nỗi
nhớ? Ông nội mình là chủ nhân rạp chiếu bóng
Châu Tinh, và theo như anh Trịnh Công Sơn, đã là
người Huế thì hầu như ai cũng từng có nhiều kỷ niệm về cái
rạp ciné ấy. Anh kể về Tết Mậu Thân, trước chợ Đông Ba
đổ nát còn treo tấm poster quảng cáo phim cao bồi miền
viễn Tây của rạp hát Châu Tinh găm đầy dấu đạn. Tên
cuốn phim rõ là một điềm gỡ: “Le Temps Du Massacre”.
“mây che trên đầu và
nắng trên vai
đôi chân
ta đi sông còn ở lại
…………
đôi tay nhân
gian chưa từng độ lượng
ngọn gió
hoang vu thổi buốt xuân thì”.
Phải sống trải qua những cuộc tàn
phá, phải độ lượng, anh Trịnh Công Sơn mới viết được những
ca từ tựa thế. Nó lay động, đánh thức mình ra khỏi
thứ recherche du temps perdu. Một hiện tại
êm ả đầy van lơn, thiết tha với bao hoài nghi về phận người.
Mình đã ra đi, giòng sông kia vẫn ở lại ngăn
đôi bờ. Răng, có nhớ Huế không? Dạ thưa anh, nhớ quá,
nhớ dễ sợ.
Hai người anh:
Một hoạ sĩ, một nhạc sĩ chỉ còn ở lại trong bức ảnh. Kỷ niệm sầu
hơn cả tiếng thở dài. Và ngọn gió hoang vu khi thổi
qua, đã cướp đi những thứ “buốt” hơn cả xuân thì. Ngạn
ngữ Tây phương có câu: Một tấm ảnh hơn ngàn lời.
Mình xin thêm: Ngàn lời thua ngậm ngùi. Khi ngậm
ngùi anh chẳng thốt tròn chỉ một câu.
Khoá nó
lại và ném chiếc chìa khoá đi. Đọc truyện ấy
xong mình dằn vặt một ý tưởng: Nhân vật nữ ấy muốn đánh
cược với định mệnh. Mai này ai sẽ là người làm chủ cái
bàn kia? Ai sẽ cạy hộc tủ để đọc lấy cuốn nhật ký đó?
Có vẻ cô là người muốn chối bỏ kỷ niệm, một thứ “sông
kia rày đã nên đồng”.
Phôi pha.
Bọn trẻ giờ nầy luôn trách cha ông: Sao ưa hoài
tưởng, nhìn lui những kỷ niệm cũ? Chúng có lý
do, lý do duy nhất là chúng chưa tích tụ được
một quá khứ vàng son, tai ương chen cài hạnh phúc.
Hãy tôn trọng chúng, biết đâu khi lớn tuổi chúng
sẽ có cái nhìn khác, độ lượng hơn. Trang sách
cũ, máy chụp hình, máy thâu âm, quây
vidéo… những thứ ấy không phải là một nhở nhắc về kỷ
niệm đã hư hao sao? Đừng xem thường, trong muôn một nó
từng là phương thuốc giúp người ta phục hồi trí nhớ.
Hai người anh đã
mất. Và mình khi ấy, một mùa hè của quá
vãng, sao mặt vẫn còn nguyên nét dại khờ. Mình
vẫn đeo chiếc chìa khoá ở cổ mà chẳng dại ném
nó đi. Luôn dại khờ “nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa”.
Ít ra, vin vào tấm ảnh cũ để viết được đôi điều “mất
thời gian lỡ nụ cười”. Có phôi pha không?
Châu Ngọc
Bích
Montréal,
Feb. 4, 2017
Jean Cocteau 1916-17, The Henry
and Rose Pearlman Foundation en dépôt au Princeton Art Museum
Philip Roth
Slams Donald Trump as 'A Humanly Impoverished Con-man'
Roth gọi Trump là 1 tên "bịp bợm mạt hạng"
In
remarks to New Yorker, famed American-Jewish novelist says Trump 'wields
a vocabulary of 77 words better called Jerkish than English.'
read more: http://www.haaretz.com/us-news/.premium-1.766903
"chiều
nào gánh phân quang chùng quết đất" chứ Like · Comment · Share
Note:
Đọc, đọc thêm mấy cái còm, về “quang & trành”,
cộng thêm 1 tí thông tin, về Hà Nội sắp đi
đuờng phạt những ai nói tục, chửi tục, thì Gấu bèn
nhớ thời gian ở Chợ Vườn Chuối, hồi mới di cư, sống nhờ bà chị
họ, chị Giậu, con ông Cả Hoán, vợ ông Hiếu Chân.
Con hẻm hẹp. Đằng trước nhà, cũng có 1 bà
Bắc Kít, có mấy cô gái. Bà chửi con
gái thực là tục.
Bà hay dùng cụm từ “lồn bằng cái giành
rồi” mà [lười] thế này, [ngủ dậy muộn]… thế kia....
Đám con trai trong xóm, đa số Nam Kít,
mỗi lần nghe chửi là bật cười.
Có tên còn hỏi bà cụ Bắc Kít,
cái “giành” nó rộng & hẹp ra làm sao?
Giành,
hay trành, thì cũng 1 thứ!
Cái
này, phải lôi về Tin Văn, vì sợ “chị So” bực, viết
tục hoài!
I’ve felt at home in cities
as diverse and foreign to me as Barcelona, Krakow, Mexico City, and Sarajevo.
All I need is a street full of people and I’m happy. Between going
sightseeing or watching the natives go about their business, I usually
choose the latter. Even waiting on a street corner for someone who is
always late is preferable to me than listening to some tour guide. Dickens
grumbled in his letters while traveling in the Swiss Alps about the lack
of street noise, which he found indispensable for his writing. He needed
the labyrinth of London streets and neighborhoods where he could prowl
continuously. If one wishes to inform oneself about a country, its people,
and its customs, there is no better way than roaming one of its cities
and seeing how the rich and the destitute live.
They used to call an idle well-dressed
man a flâneur, now a rare and virtually extinct type; an urban
explorer and voyeur, equal parts curiosity and laziness. Baudelaire
was one. In his “The Painter of Modern Life” he recalls a story by Edgar
Allen Poe, called “The Man in the Crowd,” in which a convalescent, having
just escaped from the shadow of death, watches with wonder people passing
by while seated behind a window of a café. Finally, he rushes
out into the crowd in search of an unknown person whose face he glimpsed
just for a moment and which greatly intrigued him, and spends the rest of
the night pursuing that man through London, only to discover that he is
constantly on the move, never resting for long and seemingly in no need
of sleep.
Like most of our habits, my
love of street life has its origins in my childhood. I was born and grew
up in Belgrade, in the very center of what was then the capital of former
Yugoslavia. I lived in a four-story apartment building and thought of the
street below our window as my playground. I think I was about five when I
first started sneaking out of the building to watch other kids play and
got yelled at, making the lives of my grandmother and mother even more frantic
than they were. (When I was a bit older, I was allowed to go out with a warning
not to stray more than a few steps beyond our front door. Of course, I disobeyed
and wandered off farther and farther and got caught and yelled at again.)
Like other women in the neighborhood and men too, they had a lot to
worry about already. The year was 1943 and Belgrade was occupied by
the Nazis whose vehicles were now and then seen on our street passing
through and whose soldiers stopped and entered some buildings. I don’t
recall much from that time beyond some isolated images and brief scenes:
three skinny little girls playing hopscotch, a black and white dog that
used to follow me around, an old woman feeding crumbs of white bread to
sparrows, two women pulling each other’s hair and screaming at each other,
a German soldier smiling at me.
It was only a year later, when
I was six, that my recollections begin to be more numerous and more
vivid. I remember not just the Allied bombings in April 1944 and the
liberation of the city by the Russians that October, but spending all
my time playing with other kids, playing either in the street or in the
ruin of a bombed building right across the street from us. As far as I
was concerned, this was as good as life gets. Our parents and relatives
were busy or away and our grandmothers were often out trying to find
something for us to eat. So, who kept an eye on us in the street? I asked
myself recently, and remembered it was the other women in the neighborhood
who knew when we were up to no good and came to our rescue. Of course,
we hated them butting in and interrupting our fun, like that time when
one of the older boys was passing around a German military pistol he found
somewhere, but today these women’s worried and caring faces mean more to
me than the memory of holding that gun in my hand.
After the war ended, our days
of fun were over and we started school. Although I was an okay student,
I hated going, but forced myself to do so until the sixth grade when
I started playing hooky and eventually stopped going altogether, without
my mother knowing. I spent a couple of months roaming the streets of
Belgrade until the school finally noticed my absence and sent the cops
to inform my mother. While the weather was balmy I could pass the hours
I was supposed to be in school easily taking long walks, but once the
fall rains and the cold came, I was forced to hide in doorways or go
to the movies on the rare occasions when I had the money. Of course, I
was lonely and miserable, but was not always bored, and at times almost
happy seeing so many strange and interesting things. If anything made me
who I am, living like a vagrant in the streets did.
Even today, a kind of exhilaration
comes over me roaming an unfamiliar city, a fear of being lost and
a secret hope that I am. In the meantime, how much more alive I feel,
how much more readily my eyes notice things and how much better my mind
and imagination work. Strange cities compel us to look. We take lessons
in aesthetics and political science without being aware that we are.
We learn about beauty and mystery by giving some overlooked little street
and neighborhood the friendship it deserves. In cities that are full of
skyscrapers I feel like I am in a movie and, in the older ones, in a theater
walking past brightly or dimly illuminated stage sets, mingling with the
actors.
Whitman wrote of the crowd on
Broadway:
What hurrying human tides, or day or night! What passions,
winnings, losses, ardors, swim thy waters! What whirls
of evil, bliss and sorrow, stem thee! What curious
questioning glances—glints of love! Leer, envy,
scorn, contempt, hope, aspiration!
Walking the city streets one
becomes a collector of faces, some of which stay with us forever. “Every
human being, from the humblest to the most distinguished,” Goethe thought,
“carries around with him a secret which would make him hateful to all
others if it became known.” Or perhaps—I am inclined to add—would draw
our sympathy and even our love, if by some miracle we were to find out
what it was.
June 17, 2015, 5:16 p.m.
Đọc bài viết, loáng
thoáng, thì lại nhớ đến “Ám ảnh phố phường”, của
1 anh Cớm Vẹm, nâng bi Du Tử Táo!
Tuy nhiên, câu "All I need is a street full of people
and I’m happy", "Tất cả những gì mà tớ cần, là
một con phố đầy người và tớ thung thướng", của Simic, thì
làm Gấu nhớ Quán Chùa, và cái hình
ảnh “thần sầu”, vào sáng Thứ Bẩy, hoặc Chủ Nhật, ngồi trong
quán, nhìn ra ngoài lề đường, phía bên
kia đường, chỗ có cái công viên nho nhỏ, thể nào
cũng có 1 anh Mẽo, mặc đồ dân sự, đứng dựa lưng vào
1 cái cột đèn, đại khái nhớ như thế, và đắm
đuối nhìn con phố, nhìn người qua lại, rất ư là hạnh
phúc.
Ui chao cái hình
ảnh 1 Sài Gòn những ngày còn thanh bình,
còn Quán Chùa.
Ôi chao giá như viết
nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng
thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức nở. Mà
nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu,
bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết những cuộc tình
thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những
ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó
mới đến Sài Gòn, lần đầu.
En juin 1937, en pleine terreur
stalinienne, Chostakovitch fut convoqué par le NKVD, l'effrayante
police politique du régime. A l'époque, c'était
l'antichambre de la mort. Le compositeur ne dut son salut qu'au fait
que l'officier chargé de son dossier fut lui-même exécuté.
Ces deux lettres en témoignent, il se vécut dès
lors comme un survivant
Tôi rõ ràng
là đã sống quá lâu
Tháng Sáu 1937,
đỉnh cao chói lọi Đại Khủng Bố Xì, en pleine terreur
stalinenne, Shostakovich được Mật Vụ Xì “kêu lên
Phường”, convoqué par NKVD - tức KGB sau này - như Mít
trong nước thường gọi.
Kết cục mới tiếu lâm làm sao: Không phải
Shostakovich, mà là cái tay hỏi cung ông,
bị xử tử.
Nhưng như hai cái thư mới được công bố, kể từ đó,
chàng coi chàng là kẻ sống sót!
Tôi định cư ở tiểu bang
Massachusetts đã ba mươi năm. Mùa đông
cũng như cái lạnh của vùng New England cũng
trở nên thân thiết như người bạn đường.
Từ mối quan hệ ấy lần lượt ra đời các bài chưa công
bố hoặc trong dạng phác thảo.
Những bài
sau đây là lời giới thiệu cho thi phẩm tương
lai DƯỚI ĐỘ ÂM.
Chân Phương
Theo Gấu Cà Chớn, "dưới
không độ" mới đúng!
Đây là viết, làm
thơ… theo thói quen, khi nói chuyện làm
xàm giữa con người với nhau, chẳng ai bắt bẻ làm
chi, nhưng viết văn làm thơ, thì phải....
cẩn thận.
Đấng này "bạn của bạn
Gấu" - những đấng như NKT, thí dụ - nổi tiếng thi
sĩ, nhưng thú thật Gấu chưa từng đọc được, chỉ 1 câu.
Đám này, ra hải
ngoại rất sớm, có làm được khỉ gì đâu.
Gấu tự hỏi hoài, cái gì làm
chúng tệ hại như thế?
Có thể nói - chưa nói vội đến đám
Bắc Kỳ từ bang Pác Bó bò ra, rồi có cái
cơ may ra hải ngoại, để "làm thịt" sau - chỉ "khoanh vùng"
vào đám tinh hoa Miền Nam, sau 1975, ra hải ngoại, "cái
gì" làm chúng không viết được "cái
gì cho ra hồn", sau biến động 30 Tháng Tư 1975?
Theo Gấu, chúng chết về cái chính
sách hoãn dịch vì lý do học vấn, du
học vì có bằng Tú Tài hạng Bình,
hoặc Bình Thứ.
Chết, vì cái câu của Borges, bạn
chỉ cần, còn
sống.
Vừa ra được hải ngoại, là
Gấu đã đi liền 1 đường về cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo
Ninh rồi, khi cộng tác với băng Nắng Mới, ở Montreal. Báo
này, Gấu biết đến, là từ hồi còn ở Trại Tị Nạn
Thái Lan, vì là của nhóm “Khiến Chán”.
Bài sau được đăng lại trên Văn Học của NMG. Ông chủ
chi địa phán, anh ra trễ, chứ mới ra, mà dám viết
về văn học trong nước, như thế này, là chúng thịt
liền!
Trong bài viết, Gấu đã dám phán,
cuộc chiến Mít khủng khiếp đến nỗi, nó làm thịt
sạch bất cứ 1 ai dám đương đầu với nó, khi nhắc tới trường
hợp Nguyễn Thi, tác giả “Người Mẹ Cầm Súng”, chết trận
Mậu Thân.
Với Miền Nam, chính là chính sách
hoãn dịch vì lý do học vấn, biến giới tinh
anh thành 1 lũ chết nhát!
Cái tên Lăng Băm, khi viết về Gấu, mi đâu
phải nhà phê bình như Thầy Kuốc Cức - từ của tên Lăng
Băm, là nói
theo Thầy Đạo, khi tố Gấu với em Sến Bắc Kít, tên đó
đâu phải giới khoa bảng.
Chúng không hề biết, chính cái
bằng cấp của chúng giết chúng. Rõ ràng là cả 1 lũ tinh anh Nam Kít,
xuất thân Văn Khoa Sài Gòn, không tên
nào có tác phẩm, phê bình, khảo
luận thì ba thứ ba láp, nhưng sáng tác,
kể như tuyệt đối không, cái gì gây ra thảm
họa này?
Cái bằng, để được hoãn dịch, để còn
sống!
Gấu học sớm, đậu đạt sớm, ra trường Bưu Điện, từ khi chưa
có chế độ hoãn dịch vì lý do học vấn.
Rồi nhân "cô bạn" học Văn Khoa, bèn
ghi danh chứng chỉ Dự Bị Triết, để thỉnh thoảng, loáng thoáng
ghé.
Học theo kiểu hàm thụ, lấy cours, không hề
biết mặt thầy, do cày hai jobs đâu còn thì
giờ.
Đậu Dự Bị, ghi danh tiếp chứng chỉ Triết
Tây Phương của Thầy Nguyễn Văn Trung, không học cours Thầy,
mà là cours Sorbonne, mua ở tiệm Lê Phan.
Tiệm này có gần như đủ thứ cours, của nhà
xb Đại Học Pháp. Toán, Vật Lý, Kỹ Thuật Bưu Điện,
Kỹ Sư... Gấu, đi làm
rồi mà vẫn đêm đêm lôi sách toán
đại học ra tụng là thế!
Năm đó, khi thi, gặp đề triết, trúng
tủ cours Sorbonne, Gấu đinh ninh đậu, mà rớt, do chủ trương
của Thầy NVT, mày không học cours của tao, là tao
đánh rớt!
Thầy như thế, trò như thế, phải chết mà
thôi.
Gấu bye Văn Khoa Mít, là do không chịu học
cours của Thầy NVT. Chuyện này đã kể ra rồi.
Do, phải học thuộc cours Thầy, để đậu cái bằng,
khi ra trường, không làm sao quên được cours của
Thầy, thế là ô hô ai tai cái việc viết viếc!
Ai học Văn Khoa, thì đều biết, cứ thuộc cours của
Thầy, là đậu.
Khác hẳn Toán. Bạn phải dùng đến
cái đầu của bạn, để giải 1 phương trình, 1 bài
toán, chỉ với 1 số giả thiết, donnés.
Giả thiết, trong toán, không thể dư, không
thể thiếu.
Dư, là bài toán ra sai.
Thiếu, không thể giải được.
Khác hẳn lối học thuộc
lòng của Văn Khoa.
Do quá sợ chết, chúng, phải bằng mọi cách,
có được mảnh bằng, và do Thầy khốn nạn, mày không
học cours, không "citer" cours của tao, khi làm bài
thi, là tao đánh rớt, thế là học như vẹt, để đậu.
Và đậu thật, nhưng cái cours khốn nạn của Thầy,
bám chặt vào đầu chúng, không làm
sao quên được nữa.
Đấng số 1 của Văn Khoa Mít Sài Gòn, theo
Gấu, là Thầy Quân.
Viết, đếch ai đọc được, nào phá thể tiểu thuyết, nào trường giang
tiểu thuyết triết học về Husserl, đăng dài dài
trên Gió O.
Giả như không có Gió
O, hai thầy Đạo, Thầy Quân đăng "tác phẩm" ở đâu?
Gấu tin là "chẳng đâu"!
Lạ, là gần như hầu hết mấy Thầy Văn Khoa của Mít
đều tụ tập ở Gió O?
Khốn nạn nhất, là Thầy
chôm mẹ cái truyện ngắn số 1 của Sartre, Bức
Tường.
Koestler đã từng phán, truyện hay nhất về cuộc
chiến Tây Ban Nha.
Sartre có mấy cái truyện ngắn thần sầu. Bức
Tường, Tuổi Thơ của một Ông Sếp. Ai đọc Sartre, đều đọc chúng. Vậy làm
dám chôm. Chôm 1 phát, là cả thiên
hạ đều biết!
Mấy cái truyện ngắn thần sầu của ông anh GCC, là
TTT, như Cuối Đường, thí dụ, phảng phất không khí
Bức Tường. Cũng cái thái độ hục hặc
với cuộc đời vào lúc mới lớn. TTT không chịu được
thái độ "ba phải", đứng lưng chừng trời, làm người công chính, của Camus, và
nếu như thế, ông chọn Sartre, thay vì Camus.
Khi Camus mất, ông khện 1 đường thật nặng, cái chết
đã đóng chặt Camus vào dĩ vãng!
Sai.
Sartre gần như chẳng còn ai đọc ông nữa, nhưng Camus,
càng ngày càng có giá.
Cái có giá ghê gớm nhất của Camus,
đúng là như nhiều người nhận ra, là sự can đảm. Một mình chống lại
cả tả lẫn hữu. Khi Milosz đào thoát Ba Lan, chọn Paris, chỉ
có mình Camus
dám đứng bên ông.
Cha
tôi thì "cu ky một mình", như cô con gái
nói về bố.
Hay như Nadine Gordimer, khi mượn lời Camus, để nói về Con
sư tử văn học, Wole Soyinka:
Albert Camus wrote, "One either
serves the whole of man or one does not serve him at all. And if man
needs bread and justice, and if what has to be done must be done to serve
this need, he also needs pure beauty which is the bread of his heart,"
and so Camus called for "courage in one's life and talent in one's work."
(1)
(1)
WOL SOYINKA
THE
LITERARY LION
By
Nadine Gordimer
JULY
2007
Albert Camus wrote, "One either serves the whole of man
or one does not serve him at all. And if man needs bread and justice,
and if what has to be done must be done to serve this need, he also needs
pure beauty which is the bread of his heart," and so Camus called for
"courage in one's life and talent in one's work." Wole Soyinka. This great
Nigerian writer has in his writings and in the conduct of his life served
the whole of humankind. He endured imprisonment in his dedication to the
fight for bread and justice, and his works attain the pure beauty of
imaginative power that fulfills that other hungry need, of the spirit.
He has "courage in his life and talent in his work." In Soyinka's fearless
searching of human values, which are the deep integument of even our most
lyrical poetry, prose, and whatever modes of written-word-created expression
we devise, he never takes the easy way, never shirks the lifetime commitment
to write as well as he can. In every new work he zestfully masters the challenge
that without writing as well as we can, without using the infinite and
unique possibilities of the written word, we shall not deserve the great
responsibility of our talent, the manifold sensibilities of the lives of
our people which cannot be captured in flipped images and can't be heard
in the hullabaloo of mobile-phone chatter. Bread, justice, and the bread
of the heart-which is the beauty of literature, the written word-Wole Soyinka
fulfills all these. Vanity Fair's Writers on Writers
"One
either serves the whole of man or one does not serve him at all. And
if man needs bread and justice, and if what has to be done must be done
to serve this need, he also needs pure beauty which is the bread of his
heart," and so Camus called for "courage in one's life and talent in one's
work."
Hoặc là mi phục vụ, trọn con người, hoặc là mi
vờ nó, cái gọi là trọn con người.
Và nếu con người cần bánh mì, và
công lý, và nếu hai cái cần này của
nó được thoả mãn, thì nó còn cần cái
đẹp tinh khiết, là bánh mì của trái tim của
nó, và thế là Camus bèn la lớn, "bớ người ta", hãy "can đảm
trong cuộc đời và tài năng trong cuộc viết".
Cái gọi là can đảm của đàn ông Mít,
bị cuộc chiến Mít làm thịt sạch.
Đéo có tí can đảm, là đéo
viết được.
Tinh anh Ngụy, chết vì mảnh bằng, là vì
vậy.
Sau cuộc chiến, xứ Mít không
còn cái gọi là chất đực, la virilité, nữa.
Và thiếu nó, "em biết tay anh chưa ?", như 1 nhân
vật của TTT phán, làm sao viết... "tỉu thiết"? (2)
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương
chính, la principale forme littéraire, của một thế giới
trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình,
mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có
tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và
thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng
ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của
bên trong và bên ngoài, đó là
một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn,
trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy,
nhưng không có hăm dọa, có bóng râm
nhưng không có tối mù... Dùng một hình
ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai
trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và
của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại
văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman
est la forme de la maturité virile).
TV post 1 đoạn trong tiểu sử của Koestler,
trong có nhắc tới Bức Tường.
KOESTLER WAS REASONABLY SURE
that most of his literary and political allies in France were to be
found among that small group of writers known as existentialists. He
considered Sartre's short story "The Wall" to be "the profoundest
thing ever written" on the Spanish Civil War, and was aware that
Sartre had coined the term existentialism to describe a philosophy of
the cosmic loneliness and freedom of the individual that obligated him,
in a cold and unfeeling world, to shoulder his ethical responsibilities
and commit to some form of political activism. Sartre in turn had been
influenced by Koestler's Dialogue with Death; and Andre
Gide had noted of Scum of the Earth that it was "the best possible
illustration of Sartrism - if not of existentialism proper." Sartre was
its acknowledged prophet, and his recently published novel, The Age
of Reason, one of existentialism's bibles. Another prophet was Albert
Camus, whose "absurdist" works, The Stranger and The Myth ofSisyphus, were obligatory reading for French intellectuals
of the period; and the third, decidedly junior, musketeer of existentialism
was Sartre's lifelong partner, Simone de Beauvoir, nicknamed "Castor,"
or "the Beaver," whose novel The Blood of Others, along with her
essays, had helped to popularize the new philosophy among the young.
Michael Scammell: Koestler
Cũng trong đoạn này, tác giả kể là, de
Beauvoir thức suốt đêm đọc ngấu nghiến Đêm Giữa Ban
Ngày, và cảm thấy rất ấn tượng, hớp hồn, 'enthrallling'.
Anne Applebaum nhận xét về nó mới khủng: Chỉ
nó, và bạn của nó, là Trại Loài
Vật, tránh cho Âu Châu không bị nhuộm đỏ.
Tôi theo dõi chuyện
xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi
Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông
viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch
được phép, bởi vì vào lúc đó con người
tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã
hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre
chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis
Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với
Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus:
“Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản,
thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó
là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban cho tôi món quà hậu hĩ, là tình
bạn của ông, và thật là quan trọng, khi có
một đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm
việc. Ông khoái bản tiếng Tây, do Jeanne Hersch dịch,
tác phẩm Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết của tôi
làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời
thơ ấu của ông ta, ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa tôi và nhà xb Gallimard không
khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng Văn học Âu
châu, họ in Cướp Chính Quyền [The Seizure of Power], và
liền theo đó, Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive
Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy ở tiệm sách,
và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ
mấy ông chủ tiệm tẩy chay, vì những lý do chính
trị. Họ in cuốn Thung Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách
đã chẳng được đem ra khỏi kho - cùng lúc đó,
có người đem cho tôi, bản in lần thứ tư, của nó, tại
Phi Châu.
Sau khi Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm
mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ hợp đồng vẫn còn
giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi Quê [Native Realm],
qua bản dịch của Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys
Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban ngoại văn [foreign division]
đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên Đảng Cộng
Sản Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách,
với chủ ý làm thịt nó, y hệt như thế kỷ 19 toà
đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính
trị của những di dân Nga. Tay này viết một bài điểm,
khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in. Nhưng sau đó, là
rã đám.
Tôi nhớ một lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo
quan niệm của bạn, một tên vô thần như tớ [Camus] có
nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò
chuyện xẩy ra, chỉ ít lâu sau khi tôi ghé thăm
Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm
vô], có nên dậy dỗ con cái như những tín
đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant, ông
ta không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con,
theo ông, là phải được dậy dỗ theo đúng như niềm tin
của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng
sẽ tự chọn cho chúng một tín ngưỡng.
Thế là tôi bèn trả lời Camus, đại khái như
trên. Milosz's ABC's
Volkov: Do you mean the line,
"Thank God I was left on this earth without a homeland?” Those
words proved prophetic. How did they pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there was this idea of solitude ...
of detachment. After all, in that Leningrad topography, there is
really a very powerful split. There's a tremendous difference between
the center and the outskirts. And suddenly I realized that the
outskirts were the beginning of the world, not the end. 'They were
the end of the familiar world but the beginning of the unfamiliar world,
which is much bigger, much vaster. In principle the idea was that, in
leaving for the outskirts, you're distancing yourself from everything
you know and setting out for the real world.
Volkov: Bạn tính nói
cái dòng thơ “Cám ơn Trời tôi bị bỏ
lại trên thế gian này đếch có quê hương?”
Đúng là dòng thơ tiên tri.
Quái làm sao, nó lại bật ra vào năm
1962?
Brodsky: Chắc là do cô đơn, tách
rời. Nói cho cùng, cái địa thế của Leningrad
gây chia lìa, (đi hay ở là chọn lựa chết người.
TTT). Có 1 sự khác biệt khủng giữa trung tâm
và ngoại vi. Và bất thình lình tôi
nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới, không phải
tận cùng. Chúng là tận cùng của thế giới
quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế giới không quen thuộc,
lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là
bạn tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và
bước vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện trò với Brodsky
Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong
bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên
bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt
chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con
đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn Quốc Trụ
Nhớ thời học lớp đệ Tứ trường Đồng
Khánh mình có đọc và thích một truyện
ngắn, đã lỡ quên tên tác giả. Truyện kể về kỳ nghỉ
hè của nhân vật nữ chừng 18 tuổi, mỗi ngày cô ta
đều viết nhật ký. Viết mà không buồn xem lại, cho đến
hồi chữ choáng chật hết trang vở cuối. Cô cất cuốn vở trong
ngăn kéo bàn viết. Khoá lại. Những gặp gỡ, bao ý
nghĩ, sự buồn vui, cơn mưa ngày nắng, các diễn tiến của sự
kiện trôi qua… Chất chồng, không hoàn chỉnh đã
nằm yên trong hộc tủ. Và một chiều, cô đi ngang qua giòng
sông, ném chiếc chìa khoá xuống.
Dạo đó mình
cũng thích thơ Nhã Ca:
“Chợt tiếng buồn xưa động bóng
cây
Người đi chưa dạt
dấu chân bày
Bàn tay
nằm đó không ngày tháng
Tình ái
xin về với cỏ may
………..
Kỷ niệm sầu như
tiếng thở dài
Khuya chìm
trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc
bằng đêm tối
Tôi mất thời
gian lỡ nụ cười…
Ai trong chúng ta cũng có
thu cất cho riêng mình từng kỷ niệm. Montréal mùa
hè năm 1992, với mình còn đó là một kỷ
niệm, xem chừng khó phôi pha. Buổi ấy anh Trịnh Công
Sơn từ Sài Gòn qua thăm những người em, hay tin anh Đinh Cường
từ Virginia sang, Khánh Ly từ California tới… Giọng cười, chuyện kể,
tiếng đàn, lời ca, vẽ tranh, rượu uống, thuốc đốt… Tiếc là
mình không viết nhật ký. Anh Trịnh Công Sơn nói:
Cũng 35 độ C. Cũng cơn gió ẩm ấy. Cũng màu nắng kia. Răng,
có thấy nhớ Huế không? Câu hỏi ném ra, nhiều
người nghe, nhưng dường như nhắm riêng tới mình. Làm
sao trả lời? Làm răng sắp xếp được ổn thoả cái bộn bề của nỗi
nhớ? Ông nội mình là chủ nhân rạp chiếu bóng
Châu Tinh, và theo như anh Trịnh Công Sơn, đã là
người Huế thì hầu như ai cũng từng có nhiều kỷ niệm về cái
rạp ciné ấy. Anh kể về Tết Mậu Thân, trước chợ Đông Ba
đổ nát còn treo tấm poster quảng cáo phim cao bồi miền
viễn Tây của rạp hát Châu Tinh găm đầy dấu đạn. Tên
cuốn phim rõ là một điềm gỡ: “Le Temps Du Massacre”.
“mây che trên đầu và
nắng trên vai
đôi chân
ta đi sông còn ở lại
…………
đôi tay nhân
gian chưa từng độ lượng
ngọn gió
hoang vu thổi buốt xuân thì”.
Phải sống trải qua những cuộc tàn
phá, phải độ lượng, anh Trịnh Công Sơn mới viết được những
ca từ tựa thế. Nó lay động, đánh thức mình ra khỏi
thứ recherche du temps perdu. Một hiện tại
êm ả đầy van lơn, thiết tha với bao hoài nghi về phận người.
Mình đã ra đi, giòng sông kia vẫn ở lại ngăn
đôi bờ. Răng, có nhớ Huế không? Dạ thưa anh, nhớ quá,
nhớ dễ sợ.
Hai người anh:
Một hoạ sĩ, một nhạc sĩ chỉ còn ở lại trong bức ảnh. Kỷ niệm sầu
hơn cả tiếng thở dài. Và ngọn gió hoang vu khi thổi
qua, đã cướp đi những thứ “buốt” hơn cả xuân thì. Ngạn
ngữ Tây phương có câu: Một tấm ảnh hơn ngàn lời.
Mình xin thêm: Ngàn lời thua ngậm ngùi. Khi ngậm
ngùi anh chẳng thốt tròn chỉ một câu.
Khoá nó
lại và ném chiếc chìa khoá đi. Đọc truyện ấy
xong mình dằn vặt một ý tưởng: Nhân vật nữ ấy muốn đánh
cược với định mệnh. Mai này ai sẽ là người làm chủ cái
bàn kia? Ai sẽ cạy hộc tủ để đọc lấy cuốn nhật ký đó?
Có vẻ cô là người muốn chối bỏ kỷ niệm, một thứ “sông
kia rày đã nên đồng”.
Phôi pha.
Bọn trẻ giờ nầy luôn trách cha ông: Sao ưa hoài
tưởng, nhìn lui những kỷ niệm cũ? Chúng có lý
do, lý do duy nhất là chúng chưa tích tụ được
một quá khứ vàng son, tai ương chen cài hạnh phúc.
Hãy tôn trọng chúng, biết đâu khi lớn tuổi chúng
sẽ có cái nhìn khác, độ lượng hơn. Trang sách
cũ, máy chụp hình, máy thâu âm, quây
vidéo… những thứ ấy không phải là một nhở nhắc về kỷ
niệm đã hư hao sao? Đừng xem thường, trong muôn một nó
từng là phương thuốc giúp người ta phục hồi trí nhớ.
Hai người anh đã
mất. Và mình khi ấy, một mùa hè của quá
vãng, sao mặt vẫn còn nguyên nét dại khờ. Mình
vẫn đeo chiếc chìa khoá ở cổ mà chẳng dại ném
nó đi. Luôn dại khờ “nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa”.
Ít ra, vin vào tấm ảnh cũ để viết được đôi điều “mất
thời gian lỡ nụ cười”. Có phôi pha không?
Châu Ngọc
Bích
Montréal,
Feb. 4, 2017
Jean Cocteau 1916-17, The Henry
and Rose Pearlman Foundation en dépôt au Princeton Art Museum
Philip Roth
Slams Donald Trump as 'A Humanly Impoverished Con-man'
Roth gọi Trump là 1 tên "bịp bợm mạt hạng"
In
remarks to New Yorker, famed American-Jewish novelist says Trump 'wields
a vocabulary of 77 words better called Jerkish than English.'
read more: http://www.haaretz.com/us-news/.premium-1.766903
"chiều
nào gánh phân quang chùng quết đất" chứ Like · Comment · Share
Note:
Đọc, đọc thêm mấy cái còm, về “quang & trành”,
cộng thêm 1 tí thông tin, về Hà Nội sắp đi
đuờng phạt những ai nói tục, chửi tục, thì Gấu bèn
nhớ thời gian ở Chợ Vườn Chuối, hồi mới di cư, sống nhờ bà chị
họ, chị Giậu, con ông Cả Hoán, vợ ông Hiếu Chân.
Con hẻm hẹp. Đằng trước nhà, cũng có 1 bà
Bắc Kít, có mấy cô gái. Bà chửi con
gái thực là tục.
Bà hay dùng cụm từ “lồn bằng cái giành
rồi” mà [lười] thế này, [ngủ dậy muộn]… thế kia....
Đám con trai trong xóm, đa số Nam Kít,
mỗi lần nghe chửi là bật cười.
Có tên còn hỏi bà cụ Bắc Kít,
cái “giành” nó rộng & hẹp ra làm sao?
Giành,
hay trành, thì cũng 1 thứ!
Cái
này, phải lôi về Tin Văn, vì sợ “chị So” bực, viết
tục hoài!
I’ve felt at home in cities
as diverse and foreign to me as Barcelona, Krakow, Mexico City, and Sarajevo.
All I need is a street full of people and I’m happy. Between going
sightseeing or watching the natives go about their business, I usually
choose the latter. Even waiting on a street corner for someone who is
always late is preferable to me than listening to some tour guide. Dickens
grumbled in his letters while traveling in the Swiss Alps about the lack
of street noise, which he found indispensable for his writing. He needed
the labyrinth of London streets and neighborhoods where he could prowl
continuously. If one wishes to inform oneself about a country, its people,
and its customs, there is no better way than roaming one of its cities
and seeing how the rich and the destitute live.
They used to call an idle well-dressed
man a flâneur, now a rare and virtually extinct type; an urban
explorer and voyeur, equal parts curiosity and laziness. Baudelaire
was one. In his “The Painter of Modern Life” he recalls a story by Edgar
Allen Poe, called “The Man in the Crowd,” in which a convalescent, having
just escaped from the shadow of death, watches with wonder people passing
by while seated behind a window of a café. Finally, he rushes
out into the crowd in search of an unknown person whose face he glimpsed
just for a moment and which greatly intrigued him, and spends the rest of
the night pursuing that man through London, only to discover that he is
constantly on the move, never resting for long and seemingly in no need
of sleep.
Like most of our habits, my
love of street life has its origins in my childhood. I was born and grew
up in Belgrade, in the very center of what was then the capital of former
Yugoslavia. I lived in a four-story apartment building and thought of the
street below our window as my playground. I think I was about five when I
first started sneaking out of the building to watch other kids play and
got yelled at, making the lives of my grandmother and mother even more frantic
than they were. (When I was a bit older, I was allowed to go out with a warning
not to stray more than a few steps beyond our front door. Of course, I disobeyed
and wandered off farther and farther and got caught and yelled at again.)
Like other women in the neighborhood and men too, they had a lot to
worry about already. The year was 1943 and Belgrade was occupied by
the Nazis whose vehicles were now and then seen on our street passing
through and whose soldiers stopped and entered some buildings. I don’t
recall much from that time beyond some isolated images and brief scenes:
three skinny little girls playing hopscotch, a black and white dog that
used to follow me around, an old woman feeding crumbs of white bread to
sparrows, two women pulling each other’s hair and screaming at each other,
a German soldier smiling at me.
It was only a year later, when
I was six, that my recollections begin to be more numerous and more
vivid. I remember not just the Allied bombings in April 1944 and the
liberation of the city by the Russians that October, but spending all
my time playing with other kids, playing either in the street or in the
ruin of a bombed building right across the street from us. As far as I
was concerned, this was as good as life gets. Our parents and relatives
were busy or away and our grandmothers were often out trying to find
something for us to eat. So, who kept an eye on us in the street? I asked
myself recently, and remembered it was the other women in the neighborhood
who knew when we were up to no good and came to our rescue. Of course,
we hated them butting in and interrupting our fun, like that time when
one of the older boys was passing around a German military pistol he found
somewhere, but today these women’s worried and caring faces mean more to
me than the memory of holding that gun in my hand.
After the war ended, our days
of fun were over and we started school. Although I was an okay student,
I hated going, but forced myself to do so until the sixth grade when
I started playing hooky and eventually stopped going altogether, without
my mother knowing. I spent a couple of months roaming the streets of
Belgrade until the school finally noticed my absence and sent the cops
to inform my mother. While the weather was balmy I could pass the hours
I was supposed to be in school easily taking long walks, but once the
fall rains and the cold came, I was forced to hide in doorways or go
to the movies on the rare occasions when I had the money. Of course, I
was lonely and miserable, but was not always bored, and at times almost
happy seeing so many strange and interesting things. If anything made me
who I am, living like a vagrant in the streets did.
Even today, a kind of exhilaration
comes over me roaming an unfamiliar city, a fear of being lost and
a secret hope that I am. In the meantime, how much more alive I feel,
how much more readily my eyes notice things and how much better my mind
and imagination work. Strange cities compel us to look. We take lessons
in aesthetics and political science without being aware that we are.
We learn about beauty and mystery by giving some overlooked little street
and neighborhood the friendship it deserves. In cities that are full of
skyscrapers I feel like I am in a movie and, in the older ones, in a theater
walking past brightly or dimly illuminated stage sets, mingling with the
actors.
Whitman wrote of the crowd on
Broadway:
What hurrying human tides, or day or night! What passions,
winnings, losses, ardors, swim thy waters! What whirls
of evil, bliss and sorrow, stem thee! What curious
questioning glances—glints of love! Leer, envy,
scorn, contempt, hope, aspiration!
Walking the city streets one
becomes a collector of faces, some of which stay with us forever. “Every
human being, from the humblest to the most distinguished,” Goethe thought,
“carries around with him a secret which would make him hateful to all
others if it became known.” Or perhaps—I am inclined to add—would draw
our sympathy and even our love, if by some miracle we were to find out
what it was.
June 17, 2015, 5:16 p.m.
Đọc bài viết, loáng
thoáng, thì lại nhớ đến “Ám ảnh phố phường”, của
1 anh Cớm Vẹm, nâng bi Du Tử Táo!
Tuy nhiên, câu "All I need is a street full of people
and I’m happy", "Tất cả những gì mà tớ cần, là
một con phố đầy người và tớ thung thướng", của Simic, thì
làm Gấu nhớ Quán Chùa, và cái hình
ảnh “thần sầu”, vào sáng Thứ Bẩy, hoặc Chủ Nhật, ngồi trong
quán, nhìn ra ngoài lề đường, phía bên
kia đường, chỗ có cái công viên nho nhỏ, thể nào
cũng có 1 anh Mẽo, mặc đồ dân sự, đứng dựa lưng vào
1 cái cột đèn, đại khái nhớ như thế, và đắm
đuối nhìn con phố, nhìn người qua lại, rất ư là hạnh
phúc.
Ui chao cái hình
ảnh 1 Sài Gòn những ngày còn thanh bình,
còn Quán Chùa.
Ôi chao giá như viết
nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng
thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức nở. Mà
nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu,
bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết những cuộc tình
thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những
ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó
mới đến Sài Gòn, lần đầu.
En juin 1937, en pleine terreur
stalinienne, Chostakovitch fut convoqué par le NKVD, l'effrayante
police politique du régime. A l'époque, c'était
l'antichambre de la mort. Le compositeur ne dut son salut qu'au fait
que l'officier chargé de son dossier fut lui-même exécuté.
Ces deux lettres en témoignent, il se vécut dès
lors comme un survivant
Tôi rõ ràng
là đã sống quá lâu
Tháng Sáu 1937,
đỉnh cao chói lọi Đại Khủng Bố Xì, en pleine terreur
stalinenne, Shostakovich được Mật Vụ Xì “kêu lên
Phường”, convoqué par NKVD - tức KGB sau này - như Mít
trong nước thường gọi.
Kết cục mới tiếu lâm làm sao: Không phải
Shostakovich, mà là cái tay hỏi cung ông,
bị xử tử.
Nhưng như hai cái thư mới được công bố, kể từ đó,
chàng coi chàng là kẻ sống sót!
Tôi định cư ở tiểu bang
Massachusetts đã ba mươi năm. Mùa đông
cũng như cái lạnh của vùng New England cũng
trở nên thân thiết như người bạn đường.
Từ mối quan hệ ấy lần lượt ra đời các bài chưa công
bố hoặc trong dạng phác thảo.
Những bài
sau đây là lời giới thiệu cho thi phẩm tương
lai DƯỚI ĐỘ ÂM.
Chân Phương
Theo Gấu Cà Chớn, "dưới
không độ" mới đúng!
Đây là viết, làm
thơ… theo thói quen, khi nói chuyện làm
xàm giữa con người với nhau, chẳng ai bắt bẻ làm
chi, nhưng viết văn làm thơ, thì phải....
cẩn thận.
Đấng này "bạn của bạn
Gấu" - những đấng như NKT, thí dụ - nổi tiếng thi
sĩ, nhưng thú thật Gấu chưa từng đọc được, chỉ 1 câu.
Đám này, ra hải
ngoại rất sớm, có làm được khỉ gì đâu.
Gấu tự hỏi hoài, cái gì làm
chúng tệ hại như thế?
Có thể nói - chưa nói vội đến đám
Bắc Kỳ từ bang Pác Bó bò ra, rồi có cái
cơ may ra hải ngoại, để "làm thịt" sau - chỉ "khoanh vùng"
vào đám tinh hoa Miền Nam, sau 1975, ra hải ngoại, "cái
gì" làm chúng không viết được "cái
gì cho ra hồn", sau biến động 30 Tháng Tư 1975?
Theo Gấu, chúng chết về cái chính
sách hoãn dịch vì lý do học vấn, du
học vì có bằng Tú Tài hạng Bình,
hoặc Bình Thứ.
Chết, vì cái câu của Borges, bạn
chỉ cần, còn
sống.
Vừa ra được hải ngoại, là
Gấu đã đi liền 1 đường về cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo
Ninh rồi, khi cộng tác với băng Nắng Mới, ở Montreal. Báo
này, Gấu biết đến, là từ hồi còn ở Trại Tị Nạn
Thái Lan, vì là của nhóm “Khiến Chán”.
Bài sau được đăng lại trên Văn Học của NMG. Ông chủ
chi địa phán, anh ra trễ, chứ mới ra, mà dám viết
về văn học trong nước, như thế này, là chúng thịt
liền!
Trong bài viết, Gấu đã dám phán,
cuộc chiến Mít khủng khiếp đến nỗi, nó làm thịt
sạch bất cứ 1 ai dám đương đầu với nó, khi nhắc tới trường
hợp Nguyễn Thi, tác giả “Người Mẹ Cầm Súng”, chết trận
Mậu Thân.
Với Miền Nam, chính là chính sách
hoãn dịch vì lý do học vấn, biến giới tinh
anh thành 1 lũ chết nhát!
Cái tên Lăng Băm, khi viết về Gấu, mi đâu
phải nhà phê bình như Thầy Kuốc Cức - từ của tên Lăng
Băm, là nói
theo Thầy Đạo, khi tố Gấu với em Sến Bắc Kít, tên đó
đâu phải giới khoa bảng.
Chúng không hề biết, chính cái
bằng cấp của chúng giết chúng. Rõ ràng là cả 1 lũ tinh anh Nam Kít,
xuất thân Văn Khoa Sài Gòn, không tên
nào có tác phẩm, phê bình, khảo
luận thì ba thứ ba láp, nhưng sáng tác,
kể như tuyệt đối không, cái gì gây ra thảm
họa này?
Cái bằng, để được hoãn dịch, để còn
sống!
Gấu học sớm, đậu đạt sớm, ra trường Bưu Điện, từ khi chưa
có chế độ hoãn dịch vì lý do học vấn.
Rồi nhân "cô bạn" học Văn Khoa, bèn
ghi danh chứng chỉ Dự Bị Triết, để thỉnh thoảng, loáng thoáng
ghé.
Học theo kiểu hàm thụ, lấy cours, không hề
biết mặt thầy, do cày hai jobs đâu còn thì
giờ.
Đậu Dự Bị, ghi danh tiếp chứng chỉ Triết
Tây Phương của Thầy Nguyễn Văn Trung, không học cours Thầy,
mà là cours Sorbonne, mua ở tiệm Lê Phan.
Tiệm này có gần như đủ thứ cours, của nhà
xb Đại Học Pháp. Toán, Vật Lý, Kỹ Thuật Bưu Điện,
Kỹ Sư... Gấu, đi làm
rồi mà vẫn đêm đêm lôi sách toán
đại học ra tụng là thế!
Năm đó, khi thi, gặp đề triết, trúng
tủ cours Sorbonne, Gấu đinh ninh đậu, mà rớt, do chủ trương
của Thầy NVT, mày không học cours của tao, là tao
đánh rớt!
Thầy như thế, trò như thế, phải chết mà
thôi.
Gấu bye Văn Khoa Mít, là do không chịu học
cours của Thầy NVT. Chuyện này đã kể ra rồi.
Do, phải học thuộc cours Thầy, để đậu cái bằng,
khi ra trường, không làm sao quên được cours của
Thầy, thế là ô hô ai tai cái việc viết viếc!
Ai học Văn Khoa, thì đều biết, cứ thuộc cours của
Thầy, là đậu.
Khác hẳn Toán. Bạn phải dùng đến
cái đầu của bạn, để giải 1 phương trình, 1 bài
toán, chỉ với 1 số giả thiết, donnés.
Giả thiết, trong toán, không thể dư, không
thể thiếu.
Dư, là bài toán ra sai.
Thiếu, không thể giải được.
Khác hẳn lối học thuộc
lòng của Văn Khoa.
Do quá sợ chết, chúng, phải bằng mọi cách,
có được mảnh bằng, và do Thầy khốn nạn, mày không
học cours, không "citer" cours của tao, khi làm bài
thi, là tao đánh rớt, thế là học như vẹt, để đậu.
Và đậu thật, nhưng cái cours khốn nạn của Thầy,
bám chặt vào đầu chúng, không làm
sao quên được nữa.
Đấng số 1 của Văn Khoa Mít Sài Gòn, theo
Gấu, là Thầy Quân.
Viết, đếch ai đọc được, nào phá thể tiểu thuyết, nào trường giang
tiểu thuyết triết học về Husserl, đăng dài dài
trên Gió O.
Giả như không có Gió
O, hai thầy Đạo, Thầy Quân đăng "tác phẩm" ở đâu?
Gấu tin là "chẳng đâu"!
Lạ, là gần như hầu hết mấy Thầy Văn Khoa của Mít
đều tụ tập ở Gió O?
Khốn nạn nhất, là Thầy
chôm mẹ cái truyện ngắn số 1 của Sartre, Bức
Tường.
Koestler đã từng phán, truyện hay nhất về cuộc
chiến Tây Ban Nha.
Sartre có mấy cái truyện ngắn thần sầu. Bức
Tường, Tuổi Thơ của một Ông Sếp. Ai đọc Sartre, đều đọc chúng. Vậy làm
dám chôm. Chôm 1 phát, là cả thiên
hạ đều biết!
Mấy cái truyện ngắn thần sầu của ông anh GCC, là
TTT, như Cuối Đường, thí dụ, phảng phất không khí
Bức Tường. Cũng cái thái độ hục hặc
với cuộc đời vào lúc mới lớn. TTT không chịu được
thái độ "ba phải", đứng lưng chừng trời, làm người công chính, của Camus, và
nếu như thế, ông chọn Sartre, thay vì Camus.
Khi Camus mất, ông khện 1 đường thật nặng, cái chết
đã đóng chặt Camus vào dĩ vãng!
Sai.
Sartre gần như chẳng còn ai đọc ông nữa, nhưng Camus,
càng ngày càng có giá.
Cái có giá ghê gớm nhất của Camus,
đúng là như nhiều người nhận ra, là sự can đảm. Một mình chống lại
cả tả lẫn hữu. Khi Milosz đào thoát Ba Lan, chọn Paris, chỉ
có mình Camus
dám đứng bên ông.
Cha
tôi thì "cu ky một mình", như cô con gái
nói về bố.
Hay như Nadine Gordimer, khi mượn lời Camus, để nói về Con
sư tử văn học, Wole Soyinka:
Albert Camus wrote, "One either
serves the whole of man or one does not serve him at all. And if man
needs bread and justice, and if what has to be done must be done to serve
this need, he also needs pure beauty which is the bread of his heart,"
and so Camus called for "courage in one's life and talent in one's work."
(1)
(1)
WOL SOYINKA
THE
LITERARY LION
By
Nadine Gordimer
JULY
2007
Albert Camus wrote, "One either serves the whole of man
or one does not serve him at all. And if man needs bread and justice,
and if what has to be done must be done to serve this need, he also needs
pure beauty which is the bread of his heart," and so Camus called for
"courage in one's life and talent in one's work." Wole Soyinka. This great
Nigerian writer has in his writings and in the conduct of his life served
the whole of humankind. He endured imprisonment in his dedication to the
fight for bread and justice, and his works attain the pure beauty of
imaginative power that fulfills that other hungry need, of the spirit.
He has "courage in his life and talent in his work." In Soyinka's fearless
searching of human values, which are the deep integument of even our most
lyrical poetry, prose, and whatever modes of written-word-created expression
we devise, he never takes the easy way, never shirks the lifetime commitment
to write as well as he can. In every new work he zestfully masters the challenge
that without writing as well as we can, without using the infinite and
unique possibilities of the written word, we shall not deserve the great
responsibility of our talent, the manifold sensibilities of the lives of
our people which cannot be captured in flipped images and can't be heard
in the hullabaloo of mobile-phone chatter. Bread, justice, and the bread
of the heart-which is the beauty of literature, the written word-Wole Soyinka
fulfills all these. Vanity Fair's Writers on Writers
"One
either serves the whole of man or one does not serve him at all. And
if man needs bread and justice, and if what has to be done must be done
to serve this need, he also needs pure beauty which is the bread of his
heart," and so Camus called for "courage in one's life and talent in one's
work."
Hoặc là mi phục vụ, trọn con người, hoặc là mi
vờ nó, cái gọi là trọn con người.
Và nếu con người cần bánh mì, và
công lý, và nếu hai cái cần này của
nó được thoả mãn, thì nó còn cần cái
đẹp tinh khiết, là bánh mì của trái tim của
nó, và thế là Camus bèn la lớn, "bớ người ta", hãy "can đảm
trong cuộc đời và tài năng trong cuộc viết".
Cái gọi là can đảm của đàn ông Mít,
bị cuộc chiến Mít làm thịt sạch.
Đéo có tí can đảm, là đéo
viết được.
Tinh anh Ngụy, chết vì mảnh bằng, là vì
vậy.
Sau cuộc chiến, xứ Mít không
còn cái gọi là chất đực, la virilité, nữa.
Và thiếu nó, "em biết tay anh chưa ?", như 1 nhân
vật của TTT phán, làm sao viết... "tỉu thiết"? (2)
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương
chính, la principale forme littéraire, của một thế giới
trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình,
mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có
tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và
thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng
ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của
bên trong và bên ngoài, đó là
một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn,
trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy,
nhưng không có hăm dọa, có bóng râm
nhưng không có tối mù... Dùng một hình
ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai
trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và
của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại
văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman
est la forme de la maturité virile).
TV post 1 đoạn trong tiểu sử của Koestler,
trong có nhắc tới Bức Tường.
KOESTLER WAS REASONABLY SURE
that most of his literary and political allies in France were to be
found among that small group of writers known as existentialists. He
considered Sartre's short story "The Wall" to be "the profoundest
thing ever written" on the Spanish Civil War, and was aware that
Sartre had coined the term existentialism to describe a philosophy of
the cosmic loneliness and freedom of the individual that obligated him,
in a cold and unfeeling world, to shoulder his ethical responsibilities
and commit to some form of political activism. Sartre in turn had been
influenced by Koestler's Dialogue with Death; and Andre
Gide had noted of Scum of the Earth that it was "the best possible
illustration of Sartrism - if not of existentialism proper." Sartre was
its acknowledged prophet, and his recently published novel, The Age
of Reason, one of existentialism's bibles. Another prophet was Albert
Camus, whose "absurdist" works, The Stranger and The Myth ofSisyphus, were obligatory reading for French intellectuals
of the period; and the third, decidedly junior, musketeer of existentialism
was Sartre's lifelong partner, Simone de Beauvoir, nicknamed "Castor,"
or "the Beaver," whose novel The Blood of Others, along with her
essays, had helped to popularize the new philosophy among the young.
Michael Scammell: Koestler
Cũng trong đoạn này, tác giả kể là, de
Beauvoir thức suốt đêm đọc ngấu nghiến Đêm Giữa Ban
Ngày, và cảm thấy rất ấn tượng, hớp hồn, 'enthrallling'.
Anne Applebaum nhận xét về nó mới khủng: Chỉ
nó, và bạn của nó, là Trại Loài
Vật, tránh cho Âu Châu không bị nhuộm đỏ.
Tôi theo dõi chuyện
xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi
Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông
viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch
được phép, bởi vì vào lúc đó con người
tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã
hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre
chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis
Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với
Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus:
“Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản,
thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó
là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban cho tôi món quà hậu hĩ, là tình
bạn của ông, và thật là quan trọng, khi có
một đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm
việc. Ông khoái bản tiếng Tây, do Jeanne Hersch dịch,
tác phẩm Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết của tôi
làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời
thơ ấu của ông ta, ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa tôi và nhà xb Gallimard không
khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng Văn học Âu
châu, họ in Cướp Chính Quyền [The Seizure of Power], và
liền theo đó, Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive
Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy ở tiệm sách,
và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ
mấy ông chủ tiệm tẩy chay, vì những lý do chính
trị. Họ in cuốn Thung Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách
đã chẳng được đem ra khỏi kho - cùng lúc đó,
có người đem cho tôi, bản in lần thứ tư, của nó, tại
Phi Châu.
Sau khi Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm
mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ hợp đồng vẫn còn
giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi Quê [Native Realm],
qua bản dịch của Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys
Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban ngoại văn [foreign division]
đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên Đảng Cộng
Sản Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách,
với chủ ý làm thịt nó, y hệt như thế kỷ 19 toà
đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính
trị của những di dân Nga. Tay này viết một bài điểm,
khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in. Nhưng sau đó, là
rã đám.
Tôi nhớ một lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo
quan niệm của bạn, một tên vô thần như tớ [Camus] có
nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò
chuyện xẩy ra, chỉ ít lâu sau khi tôi ghé thăm
Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm
vô], có nên dậy dỗ con cái như những tín
đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant, ông
ta không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con,
theo ông, là phải được dậy dỗ theo đúng như niềm tin
của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng
sẽ tự chọn cho chúng một tín ngưỡng.
Thế là tôi bèn trả lời Camus, đại khái như
trên. Milosz's ABC's
Volkov: Do you mean the line,
"Thank God I was left on this earth without a homeland?” Those
words proved prophetic. How did they pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there was this idea of solitude ...
of detachment. After all, in that Leningrad topography, there is
really a very powerful split. There's a tremendous difference between
the center and the outskirts. And suddenly I realized that the
outskirts were the beginning of the world, not the end. 'They were
the end of the familiar world but the beginning of the unfamiliar world,
which is much bigger, much vaster. In principle the idea was that, in
leaving for the outskirts, you're distancing yourself from everything
you know and setting out for the real world.
Volkov: Bạn tính nói
cái dòng thơ “Cám ơn Trời tôi bị bỏ
lại trên thế gian này đếch có quê hương?”
Đúng là dòng thơ tiên tri.
Quái làm sao, nó lại bật ra vào năm
1962?
Brodsky: Chắc là do cô đơn, tách
rời. Nói cho cùng, cái địa thế của Leningrad
gây chia lìa, (đi hay ở là chọn lựa chết người.
TTT). Có 1 sự khác biệt khủng giữa trung tâm
và ngoại vi. Và bất thình lình tôi
nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới, không phải
tận cùng. Chúng là tận cùng của thế giới
quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế giới không quen thuộc,
lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là
bạn tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và
bước vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện trò với Brodsky
Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong
bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên
bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt
chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con
đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn Quốc Trụ
Trường là
một dãy lầu hai từng, trong khuôn viên trường Petrus
Ký, trên đường Cộng Hoà, nó vốn là ký
túc xá cho học sinh nội trú, bây giờ được dành
ra cho Chu Văn An từ ngoài Bắc di cư vô, có hàng
rào kẽm gai ngăn đôi hai trường ra. Ở ngay cổng ra vào
cạnh Petrus Ký có quán bán bánh cuốn
nóng nhưn thịt của vợ con bác tùy phái. Bánh
cuốn rất ngon và thơm lừng mùi củ hành phi, không
lúc nào vắng khách hàng. Tôi còn
nhớ, có lần đương học, đói bụng quá, thèm ăn
bánh cuốn, trốn học lén ra quán ngồi ăn, bị ông
Tổng (giám thị) Lãng đi ruồng, chạy trốn muốn chết, ngày
đó bỏ học, lang thang ra chợ Sài Gòn, chun vô
coi hát cho hết ngày. Ngày đầu tiên vào
lớp, tự nhiên đám Nam Kỳ tụi tôi được chừng chục đứa, sớm
làm quen nhau và giành ngồi hết mấy dãy đầu
bàn. Mấy bạn còn lại ngồi chỗ nào, tôi không
nhớ. Tôi may mắn gặp lại được các bạn thân là Huỳnh
Thiếu Hoa và Chiêm Thanh Hoàng, hai bạn nầy cùng
học Văn Lang với tôi năm vừa qua. Bàn sau lưng tôi là
Triệu Quốc Mạnh, Trương Bửu Sum, Võ Văn Nho, Huỳnh Quảng….
Note: Gấu học trường tư, đậu Tú
Tài I, không có lớp để mà học, vì trường
tư chưa có lớp Đệ Nhất, nhờ vậy được vô học CVA, hiệu
trưởng khi đó, là Thầy Trần Văn Việt, cùng những học sinh trường tư
khác, nhờ vậy quen bạn C, em nhà thơ TTT.
Trường lúc đó, là 1 mảnh đất kế bên Pétrus
Ký, sau thành Trung Tâm Học Liệu, khi CVA có
trường, ở đâu miệt Chợ Lớn.
Thú thực, Gấu không hề thấy cái trường CVA như trong
hình trên, vì lớp học của Gấu B.8, ngay ở cổng ra vào,
rất ư là lụp xụp, không bề thế, như trên.
Vì là Võ Kỳ Điền không cho biết, ông
học CVA năm nào, nên thật khó nói quá.
Chắc chắn là ông có học, mà phải sau Gấu,
vậy thì năm nào?
Hay là sau khi Gấu đậu, trường CVA có dáng dấp
như trên, không còn là 1 mớ phòng ốc lụp
xụp nữa?
Hẳn thế?
Gấu đậu
Tú Tài II năm 1958
Trường là
một dãy lầu hai từng, trong khuôn viên trường Petrus
Ký, trên đường Cộng Hoà, nó vốn là ký
túc xá cho học sinh nội trú, bây giờ được dành
ra cho Chu Văn An từ ngoài Bắc di cư vô, có hàng
rào kẽm gai ngăn đôi hai trường ra. Ở ngay cổng ra vào
cạnh Petrus Ký có quán bán bánh cuốn
nóng nhưn thịt của vợ con bác tùy phái. Bánh
cuốn rất ngon và thơm lừng mùi củ hành phi, không
lúc nào vắng khách hàng. Tôi còn
nhớ, có lần đương học, đói bụng quá, thèm ăn
bánh cuốn, trốn học lén ra quán ngồi ăn, bị ông
Tổng (giám thị) Lãng đi ruồng, chạy trốn muốn chết, ngày
đó bỏ học, lang thang ra chợ Sài Gòn, chun vô
coi hát cho hết ngày. Ngày đầu tiên vào
lớp, tự nhiên đám Nam Kỳ tụi tôi được chừng chục đứa, sớm
làm quen nhau và giành ngồi hết mấy dãy đầu
bàn. Mấy bạn còn lại ngồi chỗ nào, tôi không
nhớ. Tôi may mắn gặp lại được các bạn thân là Huỳnh
Thiếu Hoa và Chiêm Thanh Hoàng, hai bạn nầy cùng
học Văn Lang với tôi năm vừa qua. Bàn sau lưng tôi là
Triệu Quốc Mạnh, Trương Bửu Sum, Võ Văn Nho, Huỳnh Quảng….
Note: Gấu học trường tư, đậu Tú
Tài I, không có lớp để mà học, vì trường
tư chưa có lớp Đệ Nhất, nhờ vậy được vô học CVA, hiệu
trưởng khi đó, là Thầy Trần Văn Việt, cùng những học sinh trường tư
khác, nhờ vậy quen bạn C, em nhà thơ TTT.
Trường lúc đó, là 1 mảnh đất kế bên Pétrus
Ký, sau thành Trung Tâm Học Liệu, khi CVA có
trường, ở đâu miệt Chợ Lớn.
Thú thực, Gấu không hề thấy cái trường CVA như trong
hình trên, vì lớp học của Gấu B.8, ngay ở cổng ra vào,
rất ư là lụp xụp, không bề thế, như trên.
Vì là Võ Kỳ Điền không cho biết, ông
học CVA năm nào, nên thật khó nói quá.
Chắc chắn là ông có học, mà phải sau Gấu,
vậy thì năm nào?
Hay là sau khi Gấu đậu, trường CVA có dáng dấp
như trên, không còn là 1 mớ phòng ốc lụp
xụp nữa?
Hẳn thế?
Gấu đậu
Tú Tài II năm 1958