Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho
cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Happy New Year
Boast of Quietness
Writings of light assault the darkness,
more prodigious than meteors.
The tall unknowable
city takes over the countryside.
Sure of my life
and my death, I observe the ambitious and would like to
understand them.
Their day is greedy
as a lariat in the air.
The night is a
rest from the rage within steel, quick to attack.
They speak of
humanity.
My humanity is
in feeling we are all voices of the same poverty.
They speak of
homeland.
My homeland is
the rhythm of a guitar, a few portraits, an old sword,
the willow grove's
visible prayer as evening falls.
Time is living
me.
More silent than
my shadow, I pass through the loftily covetous multitude.
They are indispensable,
singular, worthy of tomorrow.
My name is someone
and anyone.
I walk slowly,
like one who comes from so far away he doesn't expect to
arrive.
-S.K.
J.L. Borges
Gấu bốc phét về sự êm ả, trầm
lắng của mình
Chúng huyênh hoang về
nhân loại, về nòi giống Bắc Kít của chúng
Tính nhân loại của Gấu Cà
Chớn thì là ở trong cảm nghĩ
Chúng
ta là tất cả giọng nói của cùng một sự nghèo khổ
Chúng
nói về Quê Mít
Cái
gì gì, nếu ai đếch có thì đếch được làm
người!
Quê
hương của Gấu là 1 dúm nhạc sến.
Thời gian
bye bye Gấu
Lặng lẽ
hơn cả cái bóng của mình
Gấu bước chầm chậm,
Như kẻ nào đó từ nơi nào
xa thật xa,
Và
chẳng hề mong, tới.
When I wake up, I wake to something worse. It's the astonishment of being
myself.
Borges
Tớ thức giấc, thức vô điều tồi tệ: Mày là thằng Gấu
Cà Chớn!
If only morning
meant oblivion
Nếu buổi mai có nghĩa là quên lãng
Waking Up
Daylight leaks
in, and sluggishly I surface
from my own dreams into the common dream
and things assume again their proper places
and their accustomed shapes. Into this present
the Past intrudes, in all its dizzying range-
the centuries-old habits of migration
in birds and men, the armies in their legions
all fallen to the sword, and Rome and Carthage.
The trappings of my day also come back:
my voice, my face, my nervousness, my luck.
If only Death, that other waking-up,
would grant me a time free of all memory
of my own name and all that I have been!
If only morning meant oblivion!
-A.R.
J.L. Borges
Tưởng Niệm
Tribute to Dinh Cuong
Thơ
Mỗi
Ngày
OLD FASHIONS
I remember an old, meticulously executed print.
Swallowed by a whale, a small man with a frock coat sits inside
its belly at a small table, lit by an oil lamp.
But from time to time the
whale gets hungry. And here is the
second print.
A powerful wave of seawater
rushes through the throat to the
belly, with a shoal of swallowed small fish.
The table with the lamp is
knocked down; the small man,
diving, nestles against the slick wall of the whale's massive bulk.
After the wave's retreat he
sets up his table, hangs the lamp,
and begins to work.
Perhaps he is studying the
Old Testament? Perhaps he is
studying maps?
What else could be of interest
to a traveler miraculously saved
from a shipwreck?
I often think of this print
as I lay books down on my table for
work, after tightly closing windows and doors.
-Julia Hartwig
(Translated from the Polish by John and Bogdana Carpenter)
NYRB April
27, 2006
At My Father's Funeral
The idea that the body as well as the soul was immortal was probably
linked on to a very primitive belief regarding the dead, and one shared
by many peoples, that they lived on in the grave. This conception was never
forgotten, even in regions where the theory of a distant land of the dead
was evolved, or where the body was consumed by fire before burial. It
appears from such practices as binding the dead with cords, or laying heavy
stones or a mound of earth on the grave, probably to prevent their egress,
or feeding the dead with sacrificial food at the grave, or from the belief
that the dead come forth not as
spirits, but in the body from the grave.
J.A. MacCulloch,
The Religion of the Ancient Celts
We wanted
to seal his mouth
with a handful of clay,
to cover his eyes
with the ash of the last
bonfire he made
at the rainiest edge
of the garden
and didn't we think, for a moment,
of crushing his feet
so he couldn't return to the house
at Halloween,
to stand at the window.
smoking and peering in,
the look on his face
like that flaw in the sway of the world
where mastery fails
and a hinge in the mind
swings open - grief
or terror coming loose
and drifting, like a leaf,
into the flames.
LRB 26 Jan, 2012
The Watcher
The light enters
and I remember who I am; he is there.
He begins by telling me his name which (it should now be clear) is mine.
I revert to the servitude which has lasted more than seven times ten
years.
He saddles me with his rememberings.
He saddles me with the miseries of every day, the human condition.
I am his old nurse; he requires me to wash his feet.
He spies on me in mirrors, in mahogany, in shop windows.
One or another woman has rejected him, and I must share his anguish.
He dictates to me now this poem, which I do not like.
He insists I apprentice myself tentatively to the stubborn Anglo-Saxon.
He has won me over to the hero worship of dead soldiers, people with
whom I could
scarcely exchange a single word.
On the last flight of stairs, I feel him at my side.
He is in my footsteps, in my voice.
Down to the last detail, I abhor him.
I am gratified to remark that he can hardly see.
I am in a circular cell and the infinite wall is closing in.
Neither of the two deceives the other, but we both lie.
We know each other too well, inseparable brother.
You drink the water from my cup and you wolf down my bread.
The door to suicide is open, but theologians assert that, in the subsequent
shadows of
the other kingdom, there will I be, waiting for myself.
-A.R.
J.L. Borges
The Double
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong
nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là
một GNV khác”, của Pythagore, và tư tưởng Hãy
Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó.
Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger,
có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland
thì có từ fetch, cũng có nghĩa là
“bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái
chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa
là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy,
là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là
Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của
mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc
“ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1
giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti
[Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], kể
câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u
vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne
("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là
phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác có
cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không
chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây,
ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ
một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy
Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết
được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải
là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ
chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao
Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi, là đã thấy 3 triệu oan
hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng
bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên
tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng
cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp,
hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm
của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn
ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm
bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong
những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên
kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng
ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ
trở thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, cái ngã khác, bằng
cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.
J.L. Borges
Một giai
thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối
đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa
ra là… GCC!
1. Jorge Luis Borges: Thiên
Thư
Gửi những cư dân của một đền thiêng Sài Gòn,
đã từng đọc ra câu thần chú của Đức Thánh Trần:
Hãy lấy nước mà dựng đất, và từ đó, có
một dân tộc được gọi là "thuyền nhân".
JT
Nhà tù sâu. Bằng đá. Như một nửa trái
cầu thật tròn trịa. Mặt đất, cũng bằng đá, chặn đứng nhà
tù, khi nó mon men tới gần vòng tròn lớn, như
để tăng thêm cảm giác tù túng. Một bức tường
cắt nhà tù ngay tại tâm của nó. Tường thật cao,
nhưng không đụng mái cầu bên trên. Một bên
bức tường, là tôi, Tzinacán, đạo sĩ ở kim tự tháp
Qaholom. Tháp này đã bị Pedro de Alvarado thiêu
rụi. Bên kia, là một con báo. Con vật đếm thời gian
và không gian bên trong chuồng bằng bước chân vô
hình, đều đặn của nó. Sát mặt đất, là một cửa
sổ lớn, có chấn song, ăn vào bức tường giữa nhà tù.
Vào giờ không bóng [giờ ngọ], người ta mở cái bẫy
sập ở bên trên, và người gác, cũng mòn mỏi
dần theo năm tháng, ròng xuống một sợi cáp, ở đầu sợi
cáp là nước uống và vài mẩu thịt. Ánh sáng
nhờ đó cũng tuôn vào căn hầm. Và đó là
lúc tôi có thể nhìn thấy con báo.
Tôi cũng không còn nhớ rõ mình đã
trải qua bao năm tháng ở trong cõi tối tăm này. Tôi,
vốn ngày nào trẻ măng, còn đi lại trong chuồng, chẳng
làm chi ngoại trừ chờ, kết thúc của đời mình, mà
ông trời đã quyết định, bằng thái độ của một kẻ biết
mình sẽ chết. Tôi, ngày nào, với con dao bằng
đá nhọn hoắt, mở banh ngực biết bao nạn nhân, giờ này
không làm sao nhắc nổi thân hình lên khỏi
bụi bặm, nếu không nhờ ma thuật.
Buổi tối, bữa tháp bị đốt, đám kỵ sĩ, từ những con ngựa
cao lớn, đã tra tấn tôi, bằng những thanh sắt nặng nề. Họ
tra khảo, bắt chỉ ra nơi chôn giấu kho tàng. Họ đạp đổ tượng
trời, ngay trước mắt tôi, nhưng trời đã không bỏ tôi,
và tôi cứ thế lặng câm, trong những lần tra tấn. Họ
đánh đập, dầy vò, chà nát thân xác
tôi. Rồi tôi tỉnh dậy, thấy mình ở trong nhà tù
này, nơi kéo dài những ngày sống còn
lại của mình.
Bị thúc đẩy bởi ý nghĩ, phải làm một điều gì
nhằm lấp đầy thời gian, tôi tính hồi tưởng, trong bóng
đêm, tất cả những gì tôi đã biết. Tôi đốt
phí, hết đêm nay tới đêm mai, cố nhớ lại một số rắn đá,
bao nhiêu con, con nào trước, con nào sau; hình
dạng một thứ dược thảo. Bằng cách đó, tôi trốn chạy
năm tháng, và sở hữu tất cả những gì đã từng
thuộc về mình. Một đêm, tôi cảm thấy mình đang
sáp gần một kỷ niệm thật quí báu, như thể, trước khi
nhìn thấy biển, kẻ du lịch chợt nhận ra, rằng máu mình
sôi động. Vài giờ sau, kỷ niệm thấp thoáng hiện ra.
Đây là một trong những truyền thống liên quan tới
ông trời. Tiên đoán ra được rằng, vào cuối thời
gian, sẽ xẩy ra rất nhiều tai ương và điêu tàn, vào
cái ngày đầu tiên sáng tạo ra vũ trụ, ông
trời viết ra một câu thần chú; biết được câu thần chú
này, là tránh khỏi mọi tai tương. Ông trời viết,
theo một cách mà bao nhiêu thế hệ sau này, dù
xa xăm cách mấy, hoặc may mắn, tình cờ tới cỡ nào, cũng
không làm sao mở ra được. Chẳng ai biết ông trời đã
viết ở đâu, và bằng những con chữ gì, nhưng chúng
ta chẳng hề nghi ngờ, rằng câu thần chú chắc chắn là
ở đâu đó, và sẽ có ngày có người
được chọn lựa, và người đó sẽ mở ra được. Tôi suy nghĩ,
như là chúng ta luôn luôn thấy đấy, lúc này
chúng ta đang ở những ngày cuối cùng của thời gian,
và tôi, với tư cách vị tu sĩ cuối cùng của đạo
trời, có thể mình sẽ có đặc ân mở ra câu
thần chú. Sự kiện, những bức tường nhà tù bao quanh,
chẳng làm sao ngăn cấm hy vọng này của tôi. Có
thể tôi đã từng nhìn thấy câu thần chú này
hàng nghìn lần, được ghi tại Tháp Qaholom, và
đã bỏ qua không tìm hiểu.
Ý nghĩ này cho tôi can đảm, nhưng liền lập tức,
nó làm tôi choáng váng. Trời đất bao
la như vầy, bao la những hình dáng cổ xưa, bao la những hình
dáng không thể lụi tàn, gần như thiên thu vĩnh
viễn cứ như vậy: bất cứ một hình dáng nào trong hằng
hà sa số đó, cũng có thể chứa đựng thiên thư.
Một ngọn núi cũng có thể là lời của trời, hay một
dòng sông, một đế quốc, hay là sự sắp xếp của những
vì sao. Nhưng qua bao thế kỷ, núi mòn đá lở,
sông thay đổi dòng, đế quốc tang thương dâu bể, con
đường của những vì sao khác đi. Nhà trời cũng đâu
tránh được sự chuyển nhượng, từ thế lực này qua thế lực khác.
Núi và sao là những cá thể, và những
cá thể qua đi. Tôi phải kiếm một thứ gì bền bỉ hơn,
ít bị hư hỏng hơn. Tôi nghĩ tới đời này qua đời nọ
những loài ngũ cốc, cây cỏ, chim chóc, con người. Có
thể câu thần chú được viết trên mặt tôi, và
chính tôi là mục đích sự tìm kiếm của
mình. Đúng vào lúc đó, tôi chợt
nhớ ra là con báo cũng là một trong những tùy
tùng của trời, cũng do trời mà ra.
Thế là lòng thành kính dâng lên
ở trong tôi. Tôi tưởng tượng ra buổi sáng đầu tiên
của thời gian. Tôi tưởng tượng, trời đã giấu câu thần
chú ở trong da của những con báo, một loài vật quần
tụ, sinh sôi nẩy nở đời này qua đời khác, ở hang, đồng,
đảo, và sau cùng con người đã nhận chúng. Tôi
tưởng tượng một mạng lưới những con hổ như thế đó, một mê cung
nóng bỏng những con hổ, reo rắc khủng bố ghê rợn trên
những cánh đồng, giữa những đàn súc vật, để bảo tồn một
ý đồ. Phòng giam kế bên chứa một con báo. Trong
gang tấc như thế đó, tôi nhận ra mối tương liên và
niềm ân điển bí ẩn.
Tôi đã trải qua những năm tháng dài, để học
hỏi trật tự và sắp xếp những công việc phải làm. Cứ
mỗi ngày mù lòa cho tôi chút ánh
sáng, và tôi có thể gắn chặt vào hồi ức
của mình những khoảng đen đánh dấu bộ lông vàng.
Có những khoảng cho thấy những điểm, những khoảng khác làm
thành những đường vằn ăn vào mặt sau những ngón chân;
những khoảng khác lập đi lập lại hàng năm. Có thể vẫn
chỉ là, cùng một âm thanh, hay cùng một từ. Rất
nhiều khoảng có những đường viền mầu đỏ.
Cực nhọc trần ai, làm sao tôi có thể nói
ra cho hết được. Đã bao lần, tôi la lớn, vào những
bức tường, chuyện giải ra một câu thần chú như vậy, là
điều không thể. Hết còn cảm giác, tôi đánh
vật với câu đố đang hành hạ tôi, dù sao cũng chưa
cực nhọc nhiều, nếu so với toàn thể câu đố mẹ của mọi câu
đố, tức là là câu thần chú mà ông
trời đã viết ra. "Câu nói lên sự thông minh
tuyệt đối, nó phải như thế nào?" Tôi suy nghĩ, ngay trong
những ngôn ngữ con người, mỗi câu nói là giả dụ
tất cả vũ trụ. Nói "hổ", là nói những con hổ đẻ ra
"hổ", những con hươu, những con rùa mà "hổ" đã xé
xác, cỏ mà những con hươu sống nhờ nó, đất là
mẹ của cỏ, không gian đem ngày đến cho đất. Tôi suy nghĩ
thêm, trong ngôn ngữ của một ông trời, lời nói đẻ
ra một chuỗi vô tận những sự kiện, không phải theo kiểu ôm
vào, mà là mở ra; không phải theo cách
liên lũy, mà là tức thì. Cùng với thời
gian, ý niệm về một câu nói thiêng liêng,
đối với tôi, nó có vẻ chứa đầy nguy nàn, và
cũng không kém phần bổ báng. Tôi nghĩ, "Ông
trời chỉ nói một từ, và từ này ôm ở trong nó
sự tràn đầy. Bất cứ một từ, đẻ ra từ đó, đều chỉ là
thứ yếu, so với vũ trụ, và chẳng thể nào được coi là
hoàn tất, so với tổng số thời gian. Những từ đầy ứ tham vọng, nhưng
cũng thật nghèo nàn đáng thương của con người, "tất
cả, thế giới", vũ trụ": chỉ là những cái bóng, những
âm thanh nhai nhái của tiếng trời, chỉ có tiếng trời
mới tương đương một ngôn ngữ, và chứa đựng tất cả những gì
mà ngôn ngữ có thể chứa đựng."
Bữa đó, hay đêm đó – đêm hay ngày khác
chi đâu đối với tôi? – tôi mơ thấy trên mặt đất
nhà tù của tôi có một hạt cát. Tôi
lại thiu thiu, chẳng màng chi tiết này. Tôi mơ thấy mình
thức giấc, và có hai hạt cát. Tôi lại ru mình
ngủ, và mơ thấy có ba hạt cát. Chúng sinh sôi
chứa chật nhà tù, và tôi, tôi chết ngạt
ở bên trong nửa trái cầu cát. Tôi hiểu mình
mơ, và cố gắng thức dậy. Ích chi đâu, thức dậy: cát
làm tôi nghẹt thở. Một người nào đó có
nói cho tôi hay rằng,"Mi không thức giấc sau đêm,
mà là từ giấc mộng trước. Giấc mơ này là ở bên
trong một giấc mơ khác, và cứ thế cho tới vô cùng,
và là con số những hạt cát. Con đường trở ngược là
vô tận; mi sẽ chết trước khi thực sự thức giấc."
Tôi thấy mình tiêu tùng. Cát chật mồm
tôi, nhưng tôi la lên: "Hạt cát mơ, mi làm
sao giết nổi ta; làm gì có chuyện những giấc mơ ở trong
những giấc mơ khác." Một tia sáng làm tôi tỉnh.
Trong cõi tối tăm hết mực, một vòng tròn sáng
vẽ ra. Tôi nhìn thấy hai bàn tay và khuôn
mặt người cai ngục, cái ròng rọc, sợi dây cáp,
thịt, và những cái hũ.
Từng chút từng chút, con người nhập dạng, là cái
phần số của mình; cứ thế cứ thế, nó trở thành những
hoàn cảnh của nó. Một kẻ giải mã câu thần chú,
một người trả thù, một tên thầy tu của một đền thiêng,
đâu chỉ có vậy mà còn hơn thế nữa: tôi là
một tên tù. Từ mê cung miệt mài không mệt
mỏi của những giấc mơ, tôi trở lại căn hầm gớm ghiếc, như nơi ăn chốn
ở của mình. Tôi chúc phúc cho cái ẩm ướt
của nó, tôi chúc phúc cho con hổ của nó,
tôi chúc phúc cho cái cửa hầm tù, tôi
chúc phúc cho cái thân già đau khổ của
tôi, tôi chúc phúc cho sự tối tăm của đá.
Thế rồi tới sát na, tôi không thể quên, mà
cũng không thể trao đổi liên lạc. Tới sát na, tôi
nhập vào, đồng nhất với sự thiêng liêng cao cả, với thiên
tính, với vũ trụ, (tôi không hiểu hai từ thiên
tính – divinité - và vũ trụ – univers - có khác
nhau gì không). Cực lạc như thế đó, là không
thể lập đi lập lại những biểu tượng của nó. Có người nhìn
thấy Ông Trời trong một phản ánh, kẻ khác nhận ra Ông
Trời trong một thanh gươm, hay là trong những vòng tròn
của một bông hồng. Tôi nhìn thấy Một Cái Bánh
Xe rất cao, không phải ở trước mắt tôi, cũng không phải
ở đằng sau tôi, mà là ở khắp cả mọi chốn, cùng
một lúc. Cái Bánh Xe này làm bằng nước,
và cũng bằng lửa, và, rõ ràng phân biệt
được những đường viền, vậy mà nó vô vùng. Hỗn
mang ở trong đó, tất cả những sự vật sẽ là, đang là,
và đã là, được tạo thành. Tôi là
một sợi, của cái khổ dệt toàn thể đó, và Pedro
de Alvarado, kẻ tra tấn tôi, là một sợi khác. Trong
đó, có tất cả, nào là nguyên nhân,
nào là hậu quả, và chỉ nhìn Cái Bánh
Xe, tôi đủ hiểu, những nguyên nhân hậu quả như thế đó,
là vô tận. Ôi, nỗi vui hiểu còn hơn cả nỗi vui
tưởng tượng, hoặc cảm tượng (sentir)! Tôi nhìn vũ trụ và
tôi nhìn thấy những mưu đồ thầm kín của vũ trụ. Tôi
nhìn thấy những cội nguồn được kể ở trong cuốn Lời Khuyên (Le
Livre du Conseil). Tôi nhìn thấy những ngọn núi từ
dưới nước nhô lên. Tôi nhìn thấy những con người
đầu tiên, được làm bằng lá cây và thớ gỗ.
Tôi nhìn thấy sỏi đá tấn công người. Tôi
nhìn thấy chó xé nát mặt người. Tôi nhìn
thấy một ông trời không mặt, ở phía sau những ông
trời. Tôi nhìn thấy những con đường vô tận tạo thành
cực lạc độc nhất, và, ngộ ra mọi điều, tôi đọc ra được hổ thư
(l’écriture du tigre).
Đó là một công thức gồm mười bốn từ ngẫu nhiên
(có vẻ như là ngẫu nhiên). Tôi chỉ cần đọc lớn
lên là trở thành bách chiến bách thắng
đả biến thiên hạ vô địch thủ. Tôi chỉ cần đọc lên
là nhà tù bằng đá này tan biến vào
hư vô, là ngày biến vào đêm đen của tôi,
là trẻ mãi không già, là bất tử, là
hổ xé xác Alvarado, là lưỡi dao thiêng cắm ngập
vào những lồng ngực Tây Ban Nha, là đền thiêng được
dựng lại, là cả vương quốc được tái lập. Mười bốn con chữ,
mười bốn từ, và tôi, Tzinacán, tôi sẽ cai trị những
vùng đất mà Moctezuma đã cai trị. Nhưng tôi biết
rõ một điều, tôi sẽ chẳng bao giờ đọc lên mười bốn từ
huyền diệu đó, lý do là, tôi chẳng còn nhớ
gì về Tzinacán.
Hãy chết đi, tôi, tôi, tôi, cùng với
câu thần chú ghi trên da loài hổ dữ kia. Kẻ nào
đã từng ngộ ra vũ trụ, ngộ ra những mưu đồ cuồng điên của vũ
trụ, làm sao kẻ đó còn có thể nghĩ tới, chỉ
một con người, với những trò thổi bong bóng rẻ tiền, những
hạnh phúc dớ dẩn, cho dù con người đó đích thị
là... tôi? Con người đó "đã có thời là
nó", nhưng bây giờ, ích chi đâu? Rằng nó
cưu mang số phận kia, tổ quốc nọ, ích chi đâu, một khi nó
chẳng là một ai, chẳng là gì? Chính vì
lý do đó, tôi sẽ chẳng thèm đọc lên câu
thần chú, tôi sẽ để cho ngày tháng quên
lãng mình, nằm sóng sượt trong đêm đen.
Jennifer Tran chuyển ngữ
(Theo bản tiếng Pháp của Roger Caillois, "L’Écriture de
Dieu", trong "L’Aleph" - chữ đầu tiên trong bảng mẫu tự tiếng Do
Thái cổ Hêbrơ - nhà xuất bản Gallimard, tủ sách
L’Imaginaire).
Chú thích của Roger Callois: Trong "Thiên Thư",
(L’Écriture de Dieu), cuốn "Lời Khuyên" (Le Livre du Conseil),
lẽ dĩ nhiên là "Popol-Vu", cuốn sách thiêng của
người Mayas-Quichés. Có một bản dịch tiếng Pháp, của
Georges Raynaud (Tủ sách "École des Hautes Études",
t. XLI, Paris, 1925).
Lời bạt của tác giả, Jorge Luis Borges, về "Thiên Thư"
của ông:
"... Thiên Thư được xét đoán với thiện cảm; con
báo bắt buộc tôi phải để vào miệng "nhà thuật
sĩ của tháp Qaholom" những câu nói có vẻ thần
bí." (J.L.B. Buenos Aires ngày 3 tháng Năm 1949).
2. Borges: Tôi thường ngẩn ngơ trước chuồng hổ...
Trong Thiên Thư, bản tiếng Pháp của Roger Caillois, để
chỉ con vật chia sẻ một nửa nhà tù với nhà thuật sĩ
tháp Qaholom, dịch giả thoạt đầu sử dụng từ "báo" và
sau đó, từ "hổ". Ông không giải thích tại sao.
Tình cờ được đọc bài viết của Olivier Rolin, trên
tờ báo Pháp Thế Giới (Le Monde), số đề ngày Thứ Năm
26 tháng Tám 1999: Borges, "Sự thực hành huyền bí"
của ("La pratique mystérieuse" de) Buenos Aires, trong đó tác
giả vô tình giải thích giùm thắc mắc của Jennifer
tôi: "Từ ‘hổ", ở Nam Mỹ thường được dùng để chỉ những loài
báo tầm thường (vulgaires tigres)."
Nhưng con hổ mang trên mình chữ của trời chắc chắn không
phải là một loài báo tầm thường của Nam Mỹ.
"Tủ sách của ông bố, giầu có với những bộ bách
khoa, những cuốn sách bằng tiếng Anh, bị hớp hồn bởi những con hổ
ở trong vườn thú, sự can đảm của những tay anh chị khu ngoại ô
Palermo: đây là những dấu ấn về những năm đầu tiên của
một nhà văn uyên bác và cũng không kém
phần ác độc (cruauté)," tác giả bài viết giới
thiệu Borges như vậy.
Trong bài viết còn có bức hình của cậu học
sinh trung học Jorge Luis Borges, chụp năm 1911; bức vẽ thảo một chú
hổ của "Georgie", khi mới sáu tuổi, và bức hình tuyệt
vời của Borges, vào năm 1969, khi ông đã mù.
Bức hình của Eduardo Comesana này được rất nhiều độc giả của
Borges biết tới.
Không phải loài hổ tầm thường của Nam Mỹ.
Olivier Rolin, tác giả bài viết trên tờ Thế Giới
nhớ lại, đã từng gặp Borges trước đó nhiều năm. Một tấm biển
đồng khắc tên ông, tại một căn nhà trên phố Maipú.
Bà mucama, la gouvernante (quản gia), mời tôi (Olivier Rolin)
vào phòng khách. Borges ngồi ở cuối phòng, trên
sô pha, tay cầm tẩu, tì nhẹ lên cây gậy. Dọc theo
tường phòng khách, là những chiếc ghế, đều có
người ngồi, và đều là khách như tôi, và
đang đợi tới lượt mình. Người tới mời ông chủ trì một
trung tâm văn hóa địa phương, người mong một lời đề tặng...
Tất cả mọi người đều có thể được mời, và người ta kể cho tôi
nghe, có cả những du khách Mỹ, tới để mong ông chụp
hình cùng với họ. Bạn có thể tưởng tượng ra được, hoàn
cảnh của tôi lúc đó: chẳng khác chi lạc vào
phòng đợi của nha sĩ. Có điều, tại phòng nhổ răng, người
khách không thể biết "nỗi đau một góc con người" [lấy
ý từ câu nói của người Việt, ‘cái răng cái
tóc một góc con người’], của người tới trước mình nó
ra sao.
Đã từng đọc rất nhiều tác phẩm của Borges, đặc biệt là
"Ca ngợi bóng tối", trong đó ông viết, "Thoạt đầu thì
chưa, nhưng rồi thì thế là, tôi đã dành
cả cuộc đời dài ngoẵng của mình cho mớ chữ.... cho sự thực
hành huyền bí của thành phố Buenos Aires, và
cho những điều ngỡ ngàng, mà nếu bạn không nghĩ là
tôi quá tự kiêu, thì hãy tạm gọi nó
là siêu hình học", Rolin tính gặp Borges để hỏi
về "sự thực hành huyền bí" đó. Nhưng ông bỏ cuộc,
có lẽ vì thấy còn lâu mới tới lượt mình,
nhưng đúng ra, ông biết, khó mà hỏi Borges, trong
một hoàn cảnh như vậy. Bài viết là nhằm để trả lời thay
cho Borges.
"Tôi (Borges) thường ngẩn ngơ trước chuồng hổ." Nói rõ
hơn, cái điều mà ông thực hành với một niềm ngưỡng
mộ, đó chính là "ngẩn ngơ trước chuồng hổ", chính
là con hổ "gậm một mối căm hờn trong cũi sắt đó"! Ông
giải thích thêm, "không phải hổ mắt đốm của những hòn
đảo trôi bềnh bồng nơi vùng Paraná... nhưng mà
hổ da vằn, thuộc vùng Á Châu, thật uy nghi thật vương
giả, và chỉ có những chiến binh (hommes de guerre), ngồi
chót vót ở trên lưng những chú voi cao khềnh
mới dám đương đầu với nó."
"Tôi thường ngẩn ngơ, dứt tình bỏ đi không nổi, trước
một trong những cái chuồng ở trong vườn thú; tôi mê
những cuốn bách khoa rộng lớn, và những cuốn sách lịch
sử tự nhiên, chính vì vẻ tuyệt vời của những con hổ
ở trong đó (tôi vẫn còn nhớ những hình ảnh này,
và mỗi lần nhớ, tôi vẫn thường lầm chúng với vầng trán
và nụ cười của một người phụ nữ)."
Hổ, sự độc ác, đàn bà, bách khoa... có
tất cả những thứ đó, trong đầu một nhà văn, vào cái
thời còn cắp sách đi học. "Những con đường chia năm xẻ bẩy",
cũng từ đó. Chúa sơn lâm, chính là sự
dữ dằn, và cũng là tình yêu. Đó là
tình yêu được cảm thấy, như là một sự độc ác.
[Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã từng ví mùa
Thu với một người đàn bà là vậy: Độc và Đẹp].
Emma Zunc, trong một câu chuyện mang tên nàng, khi hiến
thân cho một người thủy thủ norvégien, "nàng nghĩ (nàng
không thể không nghĩ), rằng cha nàng đã làm
điều ghê rợn đó với mẹ nàng, cái điều mà
bây giờ người ta làm với nàng." Nói một cách
ngắn gọn, trong văn chương Borges, không có cái hành
động làm tình, hoặc có thì cũng bị coi là
gớm ghiếc! Độc giả của Borges chắc khó mà quên câu
chuyện khủng khiếp, "L’intruse", hai anh em san sẻ cùng một người
đàn bà, và sau bán cho một ổ điếm, cuối cùng
chuộc lại, để làm thịt, bởi vì thân thể của nàng
đã chia rẽ hai anh em. Hành động làm tình, người
ta có thể nói, là "sự độc ác xấu", giống như
tấm gương, cứ thế nhân lên mãi, những vẻ bề ngoài
của chúng ta, một cách thật là vô tích sự.
Trên tất cả, hổ là vật tổ của cái gọi là "sự độc
ác tốt", có ở những đấng hảo hớn thiện nghệ dùng dao,
chuyên ném bút chì... Tới đây, chúng
ta dời vườn thú để đi gặp những tay anh chị mà Borges đã
từng say mê, nơi ngoại ô Palermo, phía bên kia đại
lộ Santa Fé.
Nhưng trước khi gặp gỡ họ, Rolin cẩn trọng chúng ta, về sự khác
biệt giữa nhà văn tồi [loài báo tầm thường] và
nhà văn tốt [hổ Á Châu, có vằn, uy nghi vương
giả]: Điều phân biệt chữ [cách viết] của nhà văn, với
cách viết của "những gã nho nhỏ thích viết" [tạm dịch
cụm từ cay độc mà Rolin mượn của Michaux, "les petits hommes qui aiment
à écrire"], đó là tính đa tầng của những
đề tài đan chéo vào với nhau, những nút câu,
đoạn xoắn lại. Đó là độ đậm đặc của những ngã ba, tư,
năm, sáu... của một thành phố, tức mê cung chữ. Chính
vì vậy, viết, đọc là những hành động làm nên
điều mà Ponge gọi là "chơi tư tưởng" (jouir de la pensée).
Tôi thường ngơ ngẩn trước chuồng hổ....
Jennifer Tran
Thơ làm khi đi nuôi
cá
Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.
[Yên Báy. Bắc Việt]
Thanh Tâm Tuyền
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente (1)
How violently flowers fade.
How awfully slow life is.
Lá thu vàng
mới hung bạo làm sao
Đời lừng khừng mới chán chường thế nào!
Viết Mỗi
Ngày
Puppet Maker
In his fear
of solitude, he made us.
Fearing eternity, he gave us time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain, but no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are awake.
Charles Simic
Lão Tặc Thiên
Sợ cô đơn, Lão bèn nặn ra lũ chúng ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho chúng ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của Lão
Lên và xuống hành lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn nàn, nhưng không
Cô bé khóc ư ử
Khi ông bố bò vô giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những tiệm cầm đồ tối thui
Những khách sạn của dân ăn tiền trợ cấp xã hội,
và những khu nhà tập thể
Hai hay ba con rối tã tượi đã mở mắt
Note; Bài này, mới được 1 vị độc giả đi 1 cái
còm thần sầu, nhưng giữ riêng, không post được.
V/v Charles Simic, Gấu nhớ là hồi đầu, đọc, sợ, mãi
sau mới quen được.
Tập thơ mới nhất, toàn những bài ngắn, nhưng thật là
tuyệt vời.
Đúng cái ý của Brodsky, gừng càng già
càng cay.
Đó, đó, lại lăm le mở hé cửa quá khứ. Bỏ đi
tám ơi .
Tại sao lại
hai giờ thiếu mười lăm ? Giờ khắc này đánh dấu hay biểu hiện
một điều gì ? Là lúc các con rối khác
quá mỏi mệt để khóc ? Là lúc các con rối
khác nữa chưa lục đục mang mặt nạ để cười ? Là khoảnh khắc
nhỏ nhoi để sống cho mình trong yên lặng ?
Bữa trước,
có đọc 1 bài thơ về cũng cái giờ này, hay lắm,
nhưng bây giờ quên sạch.
Kiếm thấy rồi, nhưng
mà là 4 giờ sáng!
FOUR A.M.
The hour between
night and day.
The hour between toss and turn.
The hour of thirty-year-olds.
The hour swept clean for roosters' crowing.
The hour when the earth takes back its warm embrace.
The hour of cool drafts from extinguished stars.
The hour of do-we-vanish-too-without-a-trace.
Empty hour.
Hollow. Vain.
Rock bottom of all the other hours.
No one feels fine at four a.m.
If ants feel fine at four a.m.,
we're happy for the ants. And let five a.m. come
if we've got to go on living.
Szymborska: Poems New and Collected 1957-1997
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Lunatic_Simic.html
Obscurely
Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa
Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây thập
tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt
sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực của
Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài
cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao
hơn cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới
vòm trời phóng lớn tối thui.
Note: Bài thơ này
cực kỳ… u tối. Chỉ bằng mấy dòng thơ
Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu
caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
THIS TOWN IS ALRIGHT
A little river, then a bridge,
After which a row of white homes
With well-trimmed lawns
And a fat, bowlegged dog
Walking slowly from the curb,
Carrying a paper in his mouth.
Charles Simic
Thành phố này thì OK
Con sông nhỏ - Sông
Hương, rồi cây cầu - Trường Tiền (?)
Sau cây cầu, một dẫy nhà màu trắng
Với những lối cỏ gọn ghẽ
Và một con chó mập, chân vòng kiềng
Nhàn nhã tản bộ từ mép đường
Miệng ngậm tờ giấy.
Hội
An
Có
hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là Hội An, và Pleiku.
Nhiều nơi chưa đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm,
tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà
chưa “đi” Pleiku và Hội An.
Huế
cũng chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê luơng về Huế. Lần
bỏ chạy quê hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao
Bảo, có nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe chạy trên 1 con
cầu, ngó xuống, thấy xa xa, 1 anh chạy xích lô, dừng
cái xế, chìa cái tay ra cho 1 anh bán ken chích
cho 1 phát.
Ui chao,
nhớ hoài.
Ði, ở đây, có
1 “gia nghĩa”, connotation, thật thú vị, và liên quan
tới 1 nhà thơ, bạn của Gấu từ hồi còn đi học. Anh học sư
phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi trẻ, xa nhà, làm
thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào
trong cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy nội
y của bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh giường làm
kỷ niệm. Một lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái tầu hải quân,
ghé thăm. Thì lại rủ đi thăm bướm. Trong câu chuyện
anh có nói cho anh bạn biết, học trò tao có
1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò đều ngượng.
Anh trưởng tầu vô ý kể lại cho 1 anh bạn, dân Pleiku.
Anh này lại có 1 đứa con gái học ông thầy, thi
sĩ cà chớn.
Thế là ầm lên.
Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Borges
Conversations
You Only Need To Be Alive
Bạn
chỉ cần, sống.
To be alive
Một trong những bài điểm sách mà
Gấu nhớ đời, khi mới vào làng văn,
là bài viết về cuốn Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang, của Trần Hoài
Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT
cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, của quân
đội VNCH, thời gian TTT phụ trách,
sau ông
chán, thảy qua thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới chết,
thằng em trai của Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân
chừng 1 năm. Trong đầu toàn hình
ảnh chết chóc, Gấu phán, bạn chỉ cần sống
sót, vì sau đó, bạn "bèn"
đụng 1 trận chiến khác, khủng khiếp chẳng
kém: Văn chương!
Câu phán,
"You
only need to be alive", trong "Borges,
Tám Bó", Borges cho biết, là của
1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu phán
“chỉ cần còn sống”, quả đúng là
1 cái bad luck cho toàn 1 cõi
văn chương Ngụy, trước 1975, không phải cho "những
người đã chết đều có thực", như Y Uyên,
mà cho chính những kẻ mà chúng
cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân hữu:
How
can I survive without your mail?
Xạo!
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|