nqt
 
 
Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]

Liu Xiaobo Elegies
Nobel văn chương 2012


Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

IN MEMORIAM W. G. SEBALD
Note: Trang này bị trục trặc, mới sửa lại.
Trang này, và "last page","Lướt TV
là những trang hỗ trợ lẫn nhau
TTT @ Phan Nguyên Blog
SN_GCC_2016
Nobel văn chương 2016








Happy New Year

 

*

*

*

*


NOTES TOWARD A SUPREME FICTION 

To Henry Church 


And for what, except for you, do I feel love?
Do I press the extremest book of the wisest man
Close to me, hidden in me day and night?
In the uncertain light of single, certain truth,
Equal in living changingness to the light
In which I meet you, in which we sit at rest,
For a moment in the central of our being,
The vivid transparence that you bring is peace. 

Wallace Stevens: Selected Poems

To My Sad Seagull, and Happy New Year, and Please Take Care.
GNV


http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Wallace_Stevens.html

*

http://tanvien.net/new_daily_poetry/19.html

Tuesday, December 23, 2014 5:44 AM

Mùa Giáng sinh & Năm mới lại đến, kính chúc bác Gấu và gia đình bác nhiều niềm vui, đầm ấm, hạnh phúc.
Chúc trang Tin văn, cùng với cõi văn của bác trẻ mãi,
Kính!
D.V

Tkank you
Merry Christmas and Happy New Year to you & family
Best Wishes
Best Regards
Take Care
NQT

Thư Texas
Monday, December 22, 2014 8:44 AM
Kính gửi ông Gấu,

Dám nói thẳng, rõ và chỉ đích danh, cái ung nhọt của chế độ Cộng sản Việt chỉ có ông Gấu !
Chúc ông cùng gia đình bình an, hạnh phúc trong mùa lễ Giáng Sinh.

Độc giả TV

Trích Tin Văn:

“Những tên chóp bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm sao mà khá cho được!
Chế độ Ngụy làm gì có 1 thằng ăn mày về văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ trưởng, thí dụ?”

Phúc đáp:

Đa tạ
Chúc bạn và gia đình một mùa Giáng Sinh, một mùa Xuân mới, một năm mới an khang hạnh phúc
Best Regards
NQT

Nhân tiện, xin chúc mừng Noel và Năm Mới tới tất cả độc giả TV, kèm tin vui:
Trang Tin Văn, vừa rồi, có tí trục trặc với server, với Nestcape composer, Gấu đã tính đóng cửa tiệm, nhưng nay OK tất cả rồi, bèn renew domain name thêm 3 niên nữa, chắc là vừa. Nếu tới lúc đó, vưỡn chưa chịu đi xa, tính tiếp.
Trân trọng
NQT


  

TO ONE NO LONGER YOUNG

Already you can see the tragic setting
And each thing there in its appointed place;
The broadsword and the ash destined for Dido,
The coin prepared for Belisarius.
Why do you go on searching in the furtive
Bronze of Greek hexameters for war
When these six feet of ground wait for you here,
The sudden rush of blood, the yawning grave?
Here watching you is the inscrutable glass
Which will dream up and then forget the face
Of all your dwindling days, your agony.
The last one now draws in. It is the house
In which your slow, brief evening comes to pass
And the street front that you look at every day.

                                                    Alastair Reid
J.L. Borges

Gửi Kẻ Đếch Còn Trẻ Nữa

Mi có thể nhìn thấy rồi đấy, cú dàn dựng bi thương
Vật nào chỗ đó
Gươm và tro dành cho Dido
Đồng xu được sửa soạn cho
Belisarius.
Tại làm sao mà mi hăm he đốt cháy Trường Sơn,
Tìm những vần thơ, thí dụ, đường ra trận mùa này đẹp lắm?
Khi bốn tấm dài, hai tấm vắn,
Và vuông đất đã sẵn sàng cho mi, ở đây?
Khi máu dồn, mả đợi?
Chính là ở nơi đây, ngắm nhìn mi, là những tấm gương bí ẩn
Chúng sẽ mơ, mơ, và rồi quên mẹ khuôn mặt
Của những ngày hèn mọn dần, nhạt nhòa mãi đi, nhỏ mãi ra, của mi
Cơn hấp hối của mi
Khuôn mặt cuối cùng bây giờ bèn lê vào
Đây là căn nhà
Trong đó buổi chiều chậm chạp, ngắn ngủi của mi sẽ tạm ghé qua
Và con phố đằng trước mặt, mọi ngày, hàng ngày, mi nhìn.


*

https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1/posts/10200331690731343

Comments
Ngô Nhật Đăng Nhìn mặt ông anh đành phải than " Cao nhân ẩn tướng". Đừng giận nha hehe...
UnlikeReply14 hrs


JANUARY 16 

Rita Dove 

When Rita Dove was a young poet living in Europe, she wrote several poems about women saints. They are to be found in her second book, Museum (Carnegie-Mellen): 

Catherine of Siena 

You walked the length of Italy
to find someone to talk to.
You struck the boulder at the roadside
since fate has doors everywhere.
Under the star-washed dome
of heaven, warm and dark 

as the woolens stacked on cedar
shelves back home in your
father's shop, you prayed
until tears streaked the sky.
No one stumbled across your path.
No one unpried your fists as you slept. 

I thought of this poem-and the figure of a woman with a fierce inner life-when I read a poem from her most recent book, On the Bus with Rosa Parks (Norton) last year. Here it is: 

Rosa 

How she sat there,
the time right inside a place
so wrong it was ready. 

That trim name with
its dream of a bench
to rest on. Her sensible coat. 

Doing nothing was the doing:
the clean flame of her gaze
carved by a camera flash. 

How she stood up
when they bent down to retrieve
her purse. That courtesy. 

This stunning small poem does so much to capture the spirit of the time and of great-souled Rosa Parks in a few words. It made me think about the Catherine of Siena poem because of the connection between the saint and the quiet revolutionary. They are both very determined spirits. It also made me think how much Rita Dove's poems are about the right to a vivid inner life. One of her most moving poems on this subject comes from her Pulitzer Prize-winning collection, Thomas and Beulah, a sequence of narrative poems about an ordinary and remarkable African American family. Beulah, in this poem, is neither saint nor activist, but a woman in a life full of the demands of nurturing, trying to hold onto some corner of herself that belongs to her: 

Daystar 

She wanted a little room for thinking:
but she saw diapers steaming on the line,
a doll slumped behind the door. 

So she lugged a chair behind the garage
to sit out the children's naps. 

Sometimes there were things to watch-
the pinched armor of a vanished cricket,
a floating maple leaf. Other days
she stared until she was assured
when she closed her eyes
she'd see only her own vivid blood. 

She had an hour, at best, before Liza appeared
pouting from the top of the stairs.
And just what was mother doing
out back with the field mice? Why, 

building a palace. Later
that night when Thomas rolled over and
lurched into her, she would open her eyes
and think of the place that was hers
for an hour-where
she was nothing,
pure nothing, in the middle of the day. 

It's a space we all require-people with a religious passion, people caught in the turmoil of social change or in the steady drizzle of a daily life, young people trying to carve out for themselves the space to become artists, as Rita Dove did twenty years ago brooding over the lives of saints.
    This is my last appearance in this space. I'm going to try to give myself more time for the work of making poems. I've been doing this column weekly for four years and I will probably miss it. I know I will miss the responses of readers, and this is a chance to express my gratitude. The letters, suggesting topics or poets, offering alternative interpretations, correcting my not-always secure hold on the facts, telling stories that the poems each week stirred up, offering poems and translations in response to the ones printed here, have brightened my days. I'm leaving you in good hands. Rita Dove is not only a Pulitzer Prize-winning poet and a novelist and a playwright and a former Poet Laureate, but also she's what the poet Wallace Stevens said modern life requires: a figure of capable imagination.
    As my granddaughter has taken to saying, "So long. Have a good thousand years." 

Robert Hass: 2000 / Now & Then

Note: Thay vì một lời chúc Tết, thì là 1 bài viết, về thơ, về nữ thi sĩ, nữ thánh, của Robert Hass, xin được gủi tới độc giả Tin Văn, và riêng tặng hai vị thân hữu O & K:

Thèm 1 cái phòng riêng, như Woolf thèm
Nhưng thay vì vậy thì tã lót cùng khắp

Ui chao, lại nhớ lần O. phôn, Gấu đang bận cho Cu Tí Richie bú sữa.
Nghe tiếng thằng bé khóc, Bà bật cười, tưởng nhà văn nhớn không phải làm việc nhỏ như thế chứ!
Tks

Chúc Mừng Năm Mới
Take Care
NQT



*

  *


 *  

*

Tết @ Vientiane 

  *

@ Toronto

Mồng 1 Tết,chúc mọi người vạn sự như ý, cầu chúc BỐ MẸ mạnh khỏe .
Nguyễn Quốc Tuấn

Image may contain: 1 person, standing, sky, flower, tree and outdoor
Comment

Quoc Tru Nguyen shared a memory.
Lê Thị Thấm Vân năm mới chúc anh sức khoẻ và mọi sự tốt lành.
Quoc Tru Nguyen Tks Happy Tết to U & Family NQT

Anh Cu An & Ông Nội

Image may contain: 2 people
Tuyet Nguyen Hai cưng nhau và hai cưng ké.Tuyệt vời !
Chúc Ông và cháu dư dật lộc trời trong năm mới.
LikeReply3 hrs

 *

26.1.2017 @ Vientiane
Cu An Cúng Tết

*

 2016 @ Vientiane

Quoc Tru Nguyen shared a memory.
Just now

2 Years Ago
See Your Memories

Quoc Tru Nguyen
January 27, 2015

Anh Cu An & Ông Nội

Image may contain: 2 people


   SIGNS 

for Susana Bombal 

Around 19I5, in Geneva, I saw on the terrace of a museum a tall bell with Chinese characters. In 1976 I write these lines: 

Undeciphered and alone, I know
in the vague night I can be a bronze
prayer or a saying in which is encoded
the flavor of a life or of an evening
or Chuang Tzu's dream, which you know already,
or an insignificant date or a parable
or a great emperor, now a few syllables,
or the universe or your secret name
or that enigma you investigated in vain
for so long a time through all your days.
I can be anything. Leave me in the dark.
-S.K. 

Xin xâm

Khoảng 1915, ở Geneva, trên terrace của 1 viện bảo tàng tớ nhìn thấy 1 cái chuông cao, với những hàng chữ Tầu.
Vào năm 1976, tớ bèn làm những dòng sau đây:

Đếch làm sao đọc được, và trơ cu lơ một mình,
Tớ
biết
Trong đêm mơ hồ
Tớ có thể là cái người cầu nguyện bằng đồng
Hay lá
sâm, khắc trong nó
Mùi đời
Hay mùi buổi chiều
Hay giấc mộng Trang Chu
Mà mi hẳn biết,
Hay một ngày tháng vô nghĩa
Hay ngụ ngôn, thần chú cái con mẹ gì đó
Hay vị đại hoà
ng đế,
Bây giờ
chỉ là dúm chữ
Hay vũ trụ
Hay tên bí mật của mi
Hay b
í ẩn mi tra cứu vô ích
Trong thời gian dài, qua tất cả những ngày của mi
Tớ có thể là bất cứ cái gì
Thôi, hã
y xéo, kệ cha tớ trong đêm tối thui.

Jorge Luis Borges: “Susana Bombal”
April 5, 2015    · by Paul Weinfield    · in Spanish. ·

https://paulweinfieldtranslations.wordpress.com/2015/04/05/jorge-luis-borges-susana-bombal/

Susana Bombal

Tall in the evening, exalted and proud,
she crosses her chaste garden and suddenly
is caught in the light of an irreversible moment
that gives to us this garden and this image,
silent and profound.  I see her here and now,
but at the same time, I see her in the antique
twilight of an ancient Babylonian town
or slowly descending the shallow steps
of a temple now reduced to the infinite dust
of a planet once built of stone and pride
or deciphering the magical alphabets
of stars lying deep in distant latitudes
or breathing the scent of an English rose.
Wherever there is music, she is too,
in the soft blue of the sky, in Grecian verses,
in the solitudes of we who seek her,
in the mirror of water that flows from the fountain,
in the marble of time, in a sharpened sword,
in the serenity of an open terrace
that looks upon the gardens and the sunsets.
And behind all the myths and masks:
her soul, which is always alone.
Jorge Luis Borges

Translated from Spanish by Paul Weinfield, © 2015

*

New Year Tet Saigon 1967 - Chợ Hoa Tết đường Nguyễn Huệ
Đúng 50 năm trước đây: 1967-2017
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/32473236416/


NYRB Jan, 2000

Bài thơ này, được viết khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác giả, được kiếm thấy trong những giấy tờ của ông
.

Ngày 1 Tháng Giêng, 1965

Những Vì Vua sẽ đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc lịch dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc….  đốt đuốc chơi đêm?

Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng

Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!

Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông, cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những ngày tháng cũ.

Và bèn ngước mắt nhìn lên, nơi không một đám mây trôi giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời rồi, Gấu ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và bầy đoàn thê tử của Xừ Lủy

Và bất thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.

Note:

GCC viết "Những ngày ở Sài Gòn", sau khi thoát chết, mìn VC,
ở Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, 26-06-1965

Những ngày ở Sài Gòn (1965)

Tôi chờ đợi khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời và  khi đó chiến tranh đã hết. 

Chợ Hoa Nguyễn Huệ 2017

*

VIETNAM - OCTOBER 10: A young dancer in traditional dress appears pensive in this portrait, Hue, Vietnam (Photo by Wilbur E. Garrett/National Geographic/Getty Images)
 “Her face as radiant as the moon…. Clouds lost their loveliness beside her hair…. Flowers envied her brilliance, willows coveted her grace…. Beside her, of what value were empires and citadels?” Such a fair Vietnamese as this dancer from Hue may well have inspired these extravagant lines by the poet Nguyen Du (1765-1820). - NATIONAL GEOGRAPHIC Magazine October 1961

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/32125186340/

thượng thọ 02/2017

Today at 9:54 PM

năm mới kính chúc cô chú cùng qia quyến an khang và như ý

kính.

những dẫn nhập không số
mưa tháng giêng. giọt buồn. giọt lạnh. mùa đông năm nay khí hậu bất thường. buốt lạnh hơn. và mưa nhiều hơn tuyết. mưa tháng giêng nơi này rất ít. vậy mà mưa. rồi đông đá. cho những chiếc xe trượt dài. đổ vương vãi những nghĩ suy mông lung.
bắt đầu một năm mới. có mới? bắt đầu một cuốn lịch. còn muốn lật? đó là những sản phẩn của con người. thời gian thì luôn cần một cái mốc cố định. cái mốc tôi chuyển động. theo những chiều vô định. tất cả đều di động. thời gian? tôi không có.
đầu một năm mới kính chúc ông cùng gia quyến thật bằng an và như ý
- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?
- “thần sầu” chữ của ông. chỉ có những người đọc tinh. có những vốn liếng cần thiết. có những liên hệ thời gian không gian về một ký ức khó quên. sẽ nhận ra được một đoạn. một câu. văn hoặc thơ “thần sầu”. “thần sầu” cuả ông có phải vậy? nếu phải. thì là “thần sầu” người đọc hay “thần sầu” người viết? hay là cả hai?
- những đoản văn của ông. ngọt bùi trộn lẫn. kéo người đọc tới lui. hay hướng họ tới một cái nhìn khác. ông có nghĩ ông thành công trong cái viết như vậy?
- ông nhìn vào phía trong nhiều quá. theo nhận xét của tôi. còn cái đẹp ngoài ông để đâu? hay đó là cái chung của những người ở vào cái tuổi của ông?
- “bonus” cái ông thường nhắc trong những lúc sau này. muốn hỏi ông rằng.cái được thêm hay cái bị thêm? viết chỉ để viết? hay viết để chỉ ra những điều cần được viết?
và lại một năm mới ông nhỉ.

mưa. tháng giêng
 
mưa. tháng giêng
giọt. lạnh
những. con đường trắng. hếu
mùa xuân. về trên xa lộ
sau một tuần. công việc. chóng mặt
cái quạt nước. xoa
xoa mờ. hiện tại
tháng giêng. không. cỏ non
vàng. úa rơm. rạ
chạy. qua những cánh đồng. tít tắp
bài bình luận. về ngày. đăng quang
không rõ. có ai vừa. bóp kèn
tiếng. rỗng
giọt. mưa xuân. đính chặt vào. kiếng
lù mù. rơi. xa xăm
tháng giêng. mưa. ở đây. thật hiếm
nét. mưa nhòa.
chất ngất
mưa. tháng giêng
giọt. buồn
cùng. mùa xuân. lặng.rơi

Chúc DS và gia đình một cái Tết thật đầm ấm vui tươi hạnh phúc. Và xin cho gửi lời chúc Tết tới toàn thể mọi người trong Đại Gia Đình mà ngày nào, có GNV là 1 thành viên, đứa con nuôi, và hai đứa con ruột của Cụ.
Đó là quãng đời đẹp nhất của Gấu Nhà Văn.

Tks
Take Care

NQT

- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?

Câu hỏi này, thật căng, thật lạ.
Ở đây chỉ đưa ra hai gợi ý.

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky. 

Và, bài thơ sau đây.

Đây là bài thơ tôi viết trước khi chết, và được sống lại.

From LAST & LOST POEMS (1989)

This Is a Poem I Wrote at Night, before the Dawn

This is a poem I wrote before I died and was reborn:
- After the years of the apples ripening and the eagles soaring,
After the festival here the small flowers gleamed like the first stars,
And the horses cantered and romped away like the experience of
    skill; mastered and serene
Power, grasped and governed by reins, lightly held by knowing
    hands.

The horses had cantered away, far enough away
So that I saw the horses' heads farther and farther away
And saw that they had reached the black horizon on the dusk of day
And were or seemed black thunderheads, massy and ominous
    waves in the doomed sky:
And it was then, for the first time, then that I said as I must
    always say
All through living death of night:
It is always darkness before delight!
The long night is always the beginning of the vivid blossom of day.


*

LITERATURE

With his New Directions debut in 1938, Delmore Schwartz was hailed as a genius and among the most promising writers of his generation. Yet he died in relative obscurity, wracked by mental illness. Sadly, his literary legacy has been overtaken by the story of his tragic life.
    Among poets, Schwartz was a prototype for the confessional movement made famous by Robert Lowell and John Berryman. His stories and novellas about Jewish-American experience laid the groundwork for novels by Saul Bellow (whose Humboldt's Gift is based on Schwartz's life) and Philip Roth.
    This volume aims to restore Schwartz to his proper place in the canon and introduce new readers to the breadth of his achievement. Included are selected stories and poems, excerpts from Schwartz's epic poem Genesis (long unavailable) and his never-completed book on T. S. Eliot, letters, verse plays, and unpublished poems.

"Dazzling - a new kind of telling, with urgent bluntness of its own." -John Ashbery
"Delmore Schwartz catapults past the fickleness of mere reputation (that posture and position that Lionel Trilling defined as characterizing a 'figure') into something close to legend." -Cynthia Ozick
"What complicates and enriches Schwartz's comedy is a reaching out toward nobility, a shy aspiring spirituality, a moment or two of achieved purity of feeling." -Irving Howe
"I wanted to write. One line as good as yours. My mountain. My inspiration." -Lou Reed

Delmore Schwartz was born in Brooklyn and is one of America's greatest poets and short-story writers. Schwartz received the Bollingen Prize in 1959. After a difficult period, he died of a heart attack in 1966.
Craig Morgan Teicher is a poet and critic whose most recent book of poems is To Keep Love Blurry. John Ashbery has won nearly every major American award for poetry, including the Pulitzer Prize, the National Book Award, and a MacArthur "Genius Grant." His latest collection is Breezeway.


All Gone into the Dark

Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese? 
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?


Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối

Ông linh mục mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?

Charles Simic

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010

- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?

Có thể “đọc” câu trên, qua ý của Brodsky, thơ là thời gian được sắp xếp lại, that any poem is reorganized time, cái thiên thu gặp cái hiện tại:


Trong Borges Tám Bó, có 1 chương dành cho thời gian: Time Is the Essential Mystery, Thời gian thì huyền bí như là yếu tính của nó

*

University of Chicago,
March 1980
Time Is the Essential Mystery

I think that time is the one essential mystery. Other things may be mysterious. Space is unimportant. You can think of a spaceless universe, for example, a universe made of music .... The problem of time involves the problem of ego, for, after all, what is the ego? The ego is the past, the present, and also the anticipation of time to come, of the future.
Chính là trong chương này, Borges cho biết, bà cụ của ông, là người viết ra dòng chót của truyện ngắn "The Intruder", mà chính Borges phán, đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất mà tôi đã từng viết ra, và GCC áp dụng nó vô xứ Mít, khi cố tìm 1 cái giải thích có tí mùi "đạo đức", cho Cái Ác Bắc Kít
:

Trong bài viết về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges. Tò mò, Gấu kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”. Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!

"The Intruder," a very short story recently translated into English, illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so that their fraternity may again be whole. They now share a new bond: "the obligation to forget her."
Borges himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home and found the Aleph in the next patio.

Borges: … I remember I wrote a story called "The Intruder." Two hoodlums, two brothers, kill a woman because they are jealous of each other. The one way they had to get rid of her was to knife her. I came to the last sentence. My mother was writing it down. She disliked the whole thing. She was sick and tired of hoodlums and knives. Then I came to a moment when the elder brother had to tell the younger brother that he had knifed the woman that morning. Or he had strangled her, I don't know-why go into the gory details? He had to say that, and I had to find the right words. Then I told my mother: "How on earth can he say that?" And she said: "Let me think." This was in the morning. Then, suddenly, in quite a different voice, she said: "I know what he said." Then I said: "Well, write it down." She wrote it down and I asked her to read it. She read it and those words were: "To work, brother, I killed her this morning." And she found the right words for me. The story ended. I added a sentence or so. Then she asked me not to write any more of those blood- and-thunder stories. She was sick and tired of them. But she gave me the words, and at that moment she became, in a sense, one of the characters in the story, and she believed in it. She said "I know what he said" as though the thing had actually occurred. She gave me the key word for that story called "The Intruder," perhaps the best story-or perhaps the one story I have ever written.

Vưỡn trong cái dòng thời gian làm gì mi vs mi làm gì thời gian

Gunnar Thorgilsson

(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.

Ký ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và tầu thuyền
Và bụi bặm đế quốc
Và tiếng ùng ục của những vần thơ lục bát
Và ngựa chiến
Và tiếng la hét và Shakespeare.
Tớ chỉ muốn nhớ nụ hôn
Mà em ban cho tớ
Lần ở nghĩa trang Bắc Việt (1)


(1)
Lần Cuối Sài Gòn

1965. Những ngày viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách làm những giọt nước chín mùi, biến thành những chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào những năm cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần tham gia biểu tình, bãi khóa. Đã có người yêu đón đưa những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò có hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi học không phải để tham gia biểu tình, nhưng để đi chơi với người yêu. Lợi dụng thành phố đang trong cơn nhốn nháo, cả hai theo chiếc xe lên nghĩa trang Bắc Việt để thì thầm những lời yêu đương giữa những nấm mồ và lắng nghe những người đã chết kể về từng gốc cây ngọn cỏ.


http://www.openlettersmonthly.com/borges-and-you/

Borges và mi

The conceit of being a minor poet allows Borges “with pretended ease” to assume the identity of everyman. Some everyman. If we can, for the moment, forget the four ponderous volumes of the Collected Works, or the colossal erudition, or the mastery of seven or eight languages, or the Nobel Prize he should have won, Jorge Luis Borges truly was an everyman, inhabiting our identities as we inhabit his. “Oh destino de Borges, tal vez no más extraño que el tuyo”: “Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.”

Ôi số mệnh Borges, chắc cũng lạ hơn Gấu! Chính vì thèm [hách xì xằng]
là 1 nhà thơ làng nhàng, làm ông có cái căn cước của bất cứ 1 ai, của mọi người. Nếu bạn, có 1 lúc, quên  kho tàng đồ sộ là những tác phẩm của ông, hay cái Nobel mà đúng ra ông phải được, thì Borges thực sự là bất cứ 1 ai, bất cứ mọi người, an everyman, cư ngụ trong những căn cước của chúng ta như chúng ta cư ngụ trong căn cước của ông
Nhưng thèm 1 cú hôn, thì hẳn thú hơn nhiều, thay vì thèm, nhìn bướm của 1 em, hay bầu sữa của bà mẹ.

Nhưng, ngoài Bắc Kít ra, liệu có giống dân nào, thèm nhìn bướm của 1 em, trước khi từ giã cõi đời?

- “thần sầu” chữ của ông.

SN-GCC, 2015

*

Hộp thư Văn Học số 143, Tháng Ba 1998.
Tks. NQT
Vậy mà GCC cứ nghĩ, cái từ "thần sầu" là do GCC phịa ra để tự xoa đầu mình. Thần sầu chính trị văn chương!


*

http://tanvien.net/pv/pv_kincaid.html

Bài dịch này, cũng là từ hồi mới qua Canada, 1997. Ng. Tuấn Anh cũng là bút hiệu của Gấu Cà Chớn

Đọc bản tiếng Anh 1 phát, là trúng đòn liền, vì Gấu cũng 1 thứ không thương Mẹ mình, và đây là độc hại di truyền từ bà nội Gấu.
Bà rất thù cô con dâu, và đổ diệt cho mẹ Gấu, vì ngu dốt quá, khiến chồng bị chúng giết.

Bà cụ Gấu do tham phiên chợ cuối năm 1946, tại Việt Trì, và khi trở về làng quê bên kia sông, tay thủ lãnh băng đảng chiếm Việt Trì lúc đó, là 1 tên học trò của ông cụ, đã đưa cái thư mời dự tiệc tất niên, nhờ bà đưa cho chồng. Nhận được thư, đúng bữa ba mươi Tết, ông cụ đi, và mất tích kể từ đó. Gấu đã viết về chuyện này trong Tự Truyện.
Lần trở lại đất Bắc, Gấu muốn tìm hiểu coi cụ mất đích thực ngày nào, và thắp 1 nén hương cho bố mình.

*


Bãi sông Việt Trì, nơi ông cụ Gấu mất. Khi Gấu về, cầu đang thi công. Gấu xuống xe, thắp hương, cúng, khấn Bố.
Bà chị Gấu không xuống xe. Hình như Bà chưa lần nào cúng Bố.
Cúng Mẹ thì lại càng không.
*

Note: Bản trường ca, hoá ra là trang Tin Văn, chỉ để tố cáo Cái Ác Bắc Kít.

Kincaid viết về quê hương của Bà:

Bạn cứ tới những nơi chốn, nơi cái xiềng thuộc địa thật sự bằng thép, và tỏ ra hết sức hữu hiệu: Phi Châu, vùng Caribbean, hay một nơi nào khác trên địa cầu. Phi Châu là một thảm họa. Tôi không hiểu đất đai con người ở đây rồi có ngày lành mạnh trở lại, hay là không. Thật khó có chuyện, những ông chủ thuộc địa bỏ qua, không đụng tới cái phần tâm linh của con người Phi Châu. Bởi vậy, chuyện tiểu thuyết hóa là đồ dởm. Những người Phi Châu đối xử với nhau thật là độc ác; bạn chỉ việc nhìn tất cả những con người đói khát đó thì thấy. Làm sao có chuyện những ngài thủ lãnh Phi Châu nhìn vào mặt con dân của họ, và rớt nước mắt? Họ cứ tiếp tục duy trì, theo một con đường tệ mạt khốn kiếp, cái điều đã xẩy ra khi còn chế độ thuộc địa. Sự thực, là bất cứ đâu đâu, cái gọi là di sản của chủ nghĩa thuộc địa, đó là: độc ác, tàn nhẫn, trộm cướp. Cách những tên thực dân đối xử: mild way, nhẹ nhàng thôi, đôi lúc có xoa đầu những người dân cô lô nhần, bây giờ chúng ta đối xử với nhau, theo một cách cay độc hơn, khốn kiếp hơn. Và bạn biết không, chúng ta cứ mắm môi mắm lợi, lấy hết sức lực ra, full force, để mà "chơi" nhau. Bởi vậy, có thể dưới luật thuộc địa, người Phi Châu ăn rất ít; dưới luật của người Phi Châu, họ chẳng ăn gì hết - và cứ như thế.

Có 1 cái gì đó, y chang xứ Bắc Kít, thời Pháp Thuộc.
Khi vô Nam, là Gấu nhận ra liền, xứ này không giống xứ Bắc Kít, và Gấu mơ hồ hiểu ra, sự khác biệt là do đâu.
Gấu nhớ, hồi mới vô Sài Gòn, lần đầu vô 1 quán ăn xã hội, chỉ phải mua đồ ăn, cơm tha hồ ăn, khỏi trả tiền, thằng bé Bắc Kít sững người, ú a ứ ớ…. Rồi những lần đi chơi Bình Dương, vào vườn chôm chôm, cũng tha hồ ăn, nhưng đừng mang về, rồi, rồi, chỉ đến khi vô tù VC, thì mới gặp lại xứ Bắc Kít ngày nào.
C
ó thể
, bà chị Gấu không xuống xe, thắp nhang cúng Bố, là do Bà không quen với việc thắp nhang, cúng bái, sau bao nhiêu năm sống dưới chế độ CS.
Lần về đó, Gấu dự định, nếu điều kiện thuận lợi, là đem tro cốt của mẹ và thằng em trai về Đất Bắc. Thấy thái độ của bà chị, Gấu bỏ luôn ý định.
Thảo Trường, khi còn sống, biểu Gấu, ông về thắp được nén nhang cho ông cụ, chụp được hình cái lô cốt "đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt", là kể như quá OK rồi, khỏi cần về nữa!


*

Bạch Yến, cô gái lớn của vợ chồng Gấu.
Mẹ
có bầu đúng Mậu Thân, VC pháo kích khủng quá, ở đúng khu chúng cứ nhè, để pháo kích, ảnh hưởng đến cái thai, tưởng què luôn.
Suốt thời thiếu nữ, bị tật đái dầm. Chắc giờ cũng chưa hết!


DECEMBER

It snows
and still the derelicts
go
carrying sandwich boards- 

one proclaiming
the end of the world
the other
the rates of a local barbershop.

Charles Simic: The Voice at 3.00 AM

Tháng Chạp

Trời tuyết
vậy mà vẫn có hai đấng không nhà
đi ở ngoài đường phố
tay cầm cái hộp giấy đựng bánh mì sandwich

một đấng tuyên bố tận thế rồi
đấng kia
giá biểu cắt tóc
ở một tiệm gần đó.

Charles Simic: Tiếng nói lúc 3 giờ sáng

Note: Bài này mở ra tập thơ trên

Re: Sandwich boards

*

WITH ONE GLANCE

That mirror understood everything about me
As I raised the razor to my face.
Oh, dear God!
What a pair of eyes it had!
The eyes that said to me:
Everything outside this moment is a lie.

* 

As I looked out of the window today
At some trees in the yard,
A voice in my head whispered:
Aren't they something? 

Not one leaf among them stirring
In the heat of the afternoon.
Not one bird daring to peep
And make the hand of the clock move again. 

*

Or how about the time when the storm
Tore down the power lines on our street
And I lit a match and caught a glimpse
Of my face in the dark windowpane

Với Cú Nhìn

Cái gương biết mọi chuyện về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa! Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với Gấu:
Mọi chuyện ở bên ngoài thời khắc này đều là dối trá
Đều thuộc Vua Bịp
Hà, hà!

Khi Gấu nhìn ra ngoài cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái cây ở ngoài vườn
Một giọng nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu chúng là “cái gì gì cái chi chi, something”?

Không 1 chiếc lá trong bọn chúng động đậy
Trong cái nóng của buổi xế trưa
Không một chú chim nào dám hé nhìn
Và làm cho cái kim đồng hồ lại nhích nhích

Hay là như thế nào, ấy là nói về trận bão,
Khi nào thì nó quật sụm mấy đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng dáng thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên đường
Lần chạy theo BHD
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn
!

Adam Zagajewski: January 27 ( Nguyễn Quốc Trụ)

Adam Zagajewski

NEW YEAR’S EVE, 2004

You're at home listening
to recordings of Billie Holiday,
who sings on, melancholy, drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free themselves from fear?

Adam Zagajewski

Đêm Giao Thừa

Bạn ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật hiền hòa?
Trong khi người sống không thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?

*

Philip Jones Griffiths - Hue 1968
VIETNAM. Hue. US Marines inside the Citadel rescue the body of a dead Marine during the Tet Offensive. 1968
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31570609623/in/photostream/

http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/The_Invisble.html

The Invisible
1

It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.

Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,

Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.

1

Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám

Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,

Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:

Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè! (a)

2

Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.

Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.

Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?

2

Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta.

Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu

BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?

(a)

Ông này đúng là thứ dữ, đọc nhiều, nhớ lâu, bị chửi cũng khiếp nhưng vẫn tỉnh bơ, dịch thơ thì thần sầu. Sai nguyên văn ư ? Nhưng đố mà tìm được cách dịch nào làm người đọc thấy thống khoái hơn. Quái kiệt.

Tks

K phán, bị THNM, nhìn đâu cũng thấy VC. Bởi thế chúc SN:

HAPPY 78TH BIRTHDAY.

Today at 6:01 PM

CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC
CHÚC LUÔN QUÊN ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG TRÍ VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN AN ĐỂ HƯỞNG HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU ĐANG HIỆN DIỆN

K

Đa tạ.

GCC

Một vị độc giả ở trong nước, cũng quá mê kiểu "lộng dịch" này.
Nhưng về già, ngộ ra, do mắt lé, nhìn Gấu Cái ra cô phù dâu ngày nào, thế là khổ cả đời!

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/6.html

THE THREE AUTUMNS

I don't understand summer smiles at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.

And the first one is holiday disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.

The birches are the first to join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient tear
Onto the neighbor over the fence.

Here's what happens when you use a story to
        break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
        as conscience,
As somber as an air raid siren.

Everyone immediately appears pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their gold
-Music floats through the fragrant mist.

And in the waves of frankincense, cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.

Akhmatova
1943

Ba thu

Tôi đếch làm sao hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có tí “đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra rằng, có tới ba mùa thu

Mùa đầu tiên thì là một cú loạng quạng của ngày nghỉ lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù mùa hè, của ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang, những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long lanh sáng.

Những cây bu lô gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được phủ bằng một bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng xóm.

Và bây giờ, là điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn tiếp theo liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi báo động máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc Kít

Và mọi tên Bắc Kít, liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không còn, đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn dã, đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không gian, qua thềm sương mù thơm ngát.

Và trong những đợt hương trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa thu - một mùa thu năm qua, cách mạng tiến ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó ra cho lũ Mít cùng nhìn thấy.

[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng cực tới, hà, hà!
To SLN -
sáng nay (ở Hội An), Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch, cảm động vô cùng -
with Tks. NQT]

CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .

Độc đáo. Đúng như thế. Thơ văn tin tức văn học của TV, đa phần thuộc loại tươi, cực tươi, nói kiểu nhảm nhí, hai núm vú còn đỏ hồng, thí dụ, thơ Simic, tập "The Lunatic",  ngay từ khi vừa đăng trên mấy báo văn học, như The Paris Review, hay The New Yorker, là Gấu đã bệ về, và dịch. Những cuốn mới ra lò của Borges, như Borges Tám Bó, Borges Conversations, chưa nơi nào có cả, trừ Tin Văn. Khủng, cực khủng đến như thế.
Thông tin, tài liệu văn học, thì cũng thế.
Không đơn giản đâu.
Bởi thế mà bài nào cũng có nguyên tác đính kèm, để cho độc giả nhìn ra độ lé, độ lệch giữa "nấm vú còn đỏ", và "hết còn đỏ", sau khi độc giả thưởng thức, chúng!

Vả chăng, đây là ý của Borges. Ông phán, học trò khám phá ra Thầy. Gấu đã từng thuổng ý này, khi viết về cuốn "Bếp Lửa" của TTT. Sau, thì biết là ở trong bài viết Những Tiền Thân Của Kafka.
Bạn đọc b
n dịch loạn của Tin Văn, và sau đó, đọc nguyên tác, hay đọc nguyên tác, sau đó, đọc bản lộng dịch, và thể nào, bạn cũng khám phá ra 1 bản dịch khác nữa, và cứ thế cứ thế.
"Nghĩa" của 1 bài thơ, bằng với số lần, bạn, và những độc giả khác, đọc nó.

Tiền Thân Kafka

Nếu tôi không lầm, những mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái nào. Sự kiện thứ nhì này có ý nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka chưa từng viết một dòng, chúng ta sẽ không nhận ra tính chất này; nói một cách khác, chúng chưa hề hiện hữu.


Happy New Year

 

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31752818400/

Saigon 1969-70 - Photo by Leroy P. McCarty - Chợ Tết chợ Bến Thành
Hoa Tình Thương, là tên 1 tạp chí văn học của mấy bà tướng, nhằm yểm trợ vợ con sĩ quan, binh sĩ VNCH.
NDT, lần bị QC bắt, vì tội trốn lính, được Nguyễn Mạnh Côn bảo lãnh, cho về làm TTK báo này, Gấu lâu lâu có viết bài phụ đỡ gánh nặng, vác rổ đi chợ!

Image



Paradiso, XXXI, 108

J. L. Borges


Diodorus Siculus tells the story of a god, broken and scattered abroad. What man of us has never felt, walking through the twilight or writing down a date from his past, that he has lost something infinite?
Mankind has lost a face, an irretrievable face, and all have longed to be that pilgrim — imagined in the Empyrean, beneath the Rose — who in Rome sees the Veronica and murmurs in faith, “Lord Jesus, my God, true God, is this then what Thy face was like?”
Beside a road there is a stone face and an inscription that says, “The True Portrait of the Holy Face of the God of Jaen.” If we truly knew what it was like, the key to the parables would be ours and we would know whether the son of the carpenter was also the Son of God.
Paul saw it as a light that struck him to the ground; John, as the sun when it shines in all its strength; Teresa de Jesus saw it many times, bathed in tranquil light, yet she was never sure of the color of His eyes.
We lost those features, as one may lose a magic number made up of the usual ciphers, as one loses an image in a kaleidoscope, forever. We may see them and know them not. The profile of a Jew in the subway is perhaps the profile of Christ; perhaps the hands that give us our change at a ticket window duplicate the ones some soldier nailed one day to the cross.
Perhaps a feature of the crucified face lurks in every mirror; perhaps the face died, was erased, so that God may be all of us.
Who knows but that tonight we may see it in the labyrinth of dreams, and tomorrow not know we saw it.
[From Dreamtigers, by Jorge Luis Borges, translated by Mildred Boyer]

PARADISO XXXI, 108

Diodorus Siculus narrates the story of a dismembered and sundered god, who, as he walks in the twilight or traces a date in his past, never senses that something infinite has been lost.
    Mankind has lost a face, an irretrievable face, and every- one would like to be that pilgrim (dreamed of in the empyrean, under the Rose) who sees Veronica's handker- chief in Rome and murmurs with faith: Jesus Christ, My Lord, True God, this, then, was Your Face?
    There is a stone face on a certain road and an inscription which reads: The true Portrait of the Holy Face of the God of Jaén. If we really knew the likeness, we would have the key to the parables and would know if the son of the carpenter was also the Son of God.
    Paul saw it in the guise of a light which hurled him to the ground; John, as the sun shining in full force; Teresa of Jesus, oftentimes, as if bathed in a tranquil light, but she was never able to specify the color of the eyes.
    We lost those features, in the way a magical number may be lost, a number made up of customary figures; in the same way as an image in a kaleidoscope is lost forever. We may see them, and not know it. The profile of a Jew in the subway may be that of Christ; the hands which give us some coins at a change-window may recall those which some soldiers once nailed to the Cross.
    Perhaps some feature of the Crucified Face lurks in every mirror; perhaps the Face died, was effaced, so that God might become everyone.
    Who knows whether we may not see it tonight in the labyrinths of dreams and remember nothing tomorrow.

- Translated by ANTHONY KERRIGAN

Diodorus Siculus kể câu chuyện, một vị thần tàn phế, mảnh miểng bỏ vãi tứ lung tung, lang thang trong hoàng hôn chập choạng, hay mầy mò tìm một ngày tháng dĩ vãng, không hề cảm nhận ra, rằng thì là, một điều gì đó, thiên thu biền biệt, vĩnh viễn mất đi.
    Nhân loại mất mẹ mất bộ mặt của nó. Một bộ mặt đếch làm sao lấy lại được, và mọi người thì đều giống y chang vị lữ hành đó ( kẻ được mơ ước bởi Empyrean, dưới BHD).
    Tên khốn đó, có lần làm 1 chuyến thăm viếng La Mã, và nhìn thấy cái khăn tay của BHD, và thế là la toáng lên: Ôi Chúa Ky Tô. Chúa Đích Thực, Cái này – cái khăn tay của BHD, tất nhiên – là Khuôn Mặt Của Người ư?
    Có một bộ mặt bằng đá nơi ven đường nào đó, với dòng chữ: Đây là bộ mặt thực sự của Chúa. Giả như chúng ta biết sự giống như thiệt, chúng ta có được chìa khoá mở ra những ẩn dụ, và biết được người con trai của ông thợ mộc cũng là Con của Chúa.
    Paul nhìn thấy nó trong tia sáng quất anh ta sụm xuống đất; John, như tia lửa mặt trời với toàn thể sức mạnh của nó, Teresa of Jesus, thường thường, như thể tắm trong 1 thứ ánh sáng êm ả, nhưng bà không bao giờ có thể chỉ ra màu sắc của cặp mắt.
   Chúng ta mất những hình ảnh này, theo đường hướng mà một con số thần kỳ có thể mất, một con số được thành lập bởi những hình tượng thông tục: cùng 1 đuờng hướng mà một hình ảnh trong kính vạn hoa vĩnh viễn mất. Chúng ta có thể nhìn thấy chúng, nhưng không hiểu. Cái dáng nhìn nghiêng của 1 đấng Do Thái ở nơi đường xe điện ngầm có thể là của Chúa Cả, cái bàn tay thối tiền lẻ ở quầy cho Gấu Cà Chớn bữa đó đó có thể làm gợi nhớ, của 1 trong những tên lính đóng đinh Chúa lên Thập Tự.
    Có thể một hình ảnh nào đó của Bộ Mặt Bị Đóng Đinh Thập Tự, được lén lút tuồn vô mọi cái gương; có thể Bộ Mặt chết, đã được xóa bỏ, và nếu như thế, Chúa có thể là bất cứ một ai.
    Làm sao biết, đêm nay, hay là cái buổi chiều chiều hôm đó đó, ở khu PLT, GCC đã từng được chiêm ngưỡng hình ảnh đó đó, ở trong những mê cung của những giấc mơ, và chẳng nhớ gì hết, vào sáng hôm sau?
    Who knows?
    Who cares?
 

Empyrean: Thuộc về nhà trời, belonging to heaven

Ljubomir Simovic

1935- 

Simonic sinh tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết kịch và làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic Elegies, xb năm 1958, ông có thêm một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển. 

Ðóng đinh Chúa 

Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng tay
Như chơi đàn accordion. 

Người nghiêng tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn. 

Chúng bỏ rơi Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám nhảy nhót
Chỉ có chim sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ quanh Người. 

Cây thập tự thì ở ngã tư,
Khi đường làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe âm nhạc
Hãy ngưng lại, và lắng nghe
Thực đấy, bạn có thể nghe âm nhạc!


*

Boast of Quietness 

Writings of light assault the darkness, more prodigious than meteors.
The tall unknowable city takes over the countryside.
Sure of my life and my death, I observe the ambitious and would like to
        understand them.
Their day is greedy as a lariat in the air.
The night is a rest from the rage within steel, quick to attack.
They speak of humanity.
My humanity is in feeling we are all voices of the same poverty.
They speak of homeland.
My homeland is the rhythm of a guitar, a few portraits, an old sword,
the willow grove's visible prayer as evening falls.
Time is living me.
More silent than my shadow, I pass through the loftily covetous multitude.
They are indispensable, singular, worthy of tomorrow.
My name is someone and anyone.
I walk slowly, like one who comes from so far away he doesn't expect to
        arrive.
-S.K.

J.L. Borges
Gấu bốc phét về sự êm ả, trầm lắng của mình

Chúng huyênh hoang về nhân loại, về nòi giống Bắc Kít của chúng
nh nhân loại của Gấu Cà Chớn thì là ở trong cảm nghĩ
Chúng ta là tất cả giọng nói của cùng một sự nghèo khổ
Chúng nói về Quê Mít
Cái gì gì, nếu ai đếch có thì đếch được làm người!
Quê hương của Gấu là 1 dúm nhạc sến.

Thời gian bye bye Gấu
Lặng lẽ hơn cả cái bóng của mình
Gấu bước chầm chậm,
Như kẻ nào đó từ nơi nào xa thật xa,
Và chẳng hề mong, tới.

When I wake up, I wake to something worse. It's the astonishment of being myself.
Borges

Tớ thức giấc, thức vô điều tồi tệ: Mày là thằng Gấu Cà Chớn!


If only morning meant oblivion
Nếu buổi mai có nghĩa là quên lãng


Waking Up
Daylight leaks in, and sluggishly I surface
from my own dreams into the common dream
and things assume again their proper places
and their accustomed shapes. Into this present
the Past intrudes, in all its dizzying range-
the centuries-old habits of migration
in birds and men, the armies in their legions
all fallen to the sword, and Rome and Carthage.

The trappings of my day also come back:
my voice, my face, my nervousness, my luck.
If only Death, that other waking-up,
would grant me a time free of all memory
of my own name and all that I have been!
If only morning meant oblivion!
-A.R.
J.L. Borges

Happy New Year

   

*


*



Mon, June 21, 2010

Anh Tru than,
Lau qua khong nhan duoc tin tuc tu anh. Thinh thoang van vao TAN VIET doc bai.
Suc khoe anh dao nay ra sao?
Anh con nho hinh anh nay khong? Saigon 1972 tai quan Huong Xua quan GoVap. 
Nguyen Dinh Thuan hoi tham anh
Dia chi e-mail cua NDT:
Than,
Ng Tr Khoi

Hi, bạn ta!
Cái hình, luôn cả website của bạn, có trên TV rồi.


Gấu nhớ hoài không ra hình chụp khi nào, ở đâu, chỉ nhớ, thời gian làm cho ông Nhàn.

*



Sau Xin Xâm, với Borges, tới lì xì với Kafka.
Mẩu dưới đây, mở ra cuốn "Phải Kafka đó không", "Is that Kafka"?

*
 

Prague, Old Town Square, ca. 1880

1.  The Hapless Benefactor

Once, when I was a very little boy, I'd received a ten-kreuzer coin, a Sechserl, and I was very eager to give it to an old beggar woman who used to sit between the Old Town Square and the Little Square. But now it seemed to me like a tremendous sum, probably a bigger sum than any beggar had ever received, so I was ashamed of doing something that would seem so tremendous to this beggar. Still, I had to give it to her, so I changed the Sechserl, gave the beggar one kreuzer, ran all the way around the town hall complex and the arcades lining the Little Square, came back from the left as a brand new benefactor, gave the beggar another kreuzer, started running again, and cheerfully did the same thing ten times. (Or maybe somewhat fewer, since I think the beggar later lost her patience and slipped away from me.) In any case, in the end I was so exhausted, in moral terms as well, that I ran straight home and cried until my mother gave me another Sechserl.
    You see, I have bad luck with beggars, and yet I hereby declare that I am prepared to slowly payout my entire present and future fortune in the smallest Viennese banknotes to a beggar woman there by the opera house, on the condition that you are standing beside me and I may feel you near me.

1. Kẻ làm phúc rủi ro

Một lần, khi còn bé tí, tôi được người lớn cho 1 đồng 10 xu. Và tôi hăm hở đem cho 1 bà già hành khất, thường ngồi ở giữa quảng trường cổ thành phố và quảng trường nhỏ. Nhưng tình hình lần này hơi bị căng, đồng 10 xu đâu có vừa: Cả 1 món tiền lớn, nhất là lại cho 1 người hành khất! Tính cả thẹn, thế là tôi bèn đổi thành 10 xu lẻ, và đóng vai 10 vị ân nhân khác nhau!
Ui chao, chạy 10 cú như thế, khiến tôi bã người. Tôi bèn về nhà, khóc nức nở, khiến bà mẹ của tôi thương hại, bèn cho tôi 1 đồng 10 xu khác!
Bạn thấy đấy, tôi đúng là 1 thứ không may, kẻ mang rủi ro tới, ngay cả cho 1 người ăn mày già!
Kafka

[GCC dịch thoáng]

Ui chao, đúng là THNM, bèn nhớ đến BHD, và cái lần được em tin cậy, ra lệnh, mi đưa cho ta tí tiền lẻ…
Sao tin cậy Gấu đến như thế, mà nỡ bỏ Gấu, lấy 1 đấng vác gạo! 
Sự thực, ông chồng, là bác sĩ. Nhưng giỏi đoán ý của ông bố vợ tương lai, từ khi còn là sinh viên y khoa.
Cứ mỗi lần Saigon rục rịch đảo chánh, là khệ nệ vác mấy bao gạo tới nhà.
BHD biểu Gấu, mi ngu quá, không làm như vậy được, nên ta bỏ mi...

Among the numerous problems that arose between Kafka and his beloved Milena Iesenska were their very different relationships to money. "Once he gave a beggar woman a two-crown coin," she told Max Brod, "and asked for one crown back. She said that she didn't have any change. We stood there for a good two minutes thinking about how to settle the matter. Then it occurred to him that he could let her keep both crowns. But he had hardly gone a few steps when he grew very sullen. And yet the same person would happily, enthusiastically give me twenty thousand crowns right away, as if it were nothing." She brought up the two-crown coin incident with Kafka on another occasion, but he cleverly defended himself with this childhood Sechserl memory, among other things.
    Kafka criticized himself for his "greed in minor matters," and when it came to money he could indeed just as easily be petty as generous. He enjoyed giving gifts, even money, but it had to be done entirely of his own free will.
He could not easily reconcile himself to making donations under pressure, or to not getting the correct change back, or to spending money thoughtlessly-even if it was "only a Sechserl." *

41 An Unwritten Story

Kafka often read to his friends, and presumably also to his sister Ottla, from his unfinished works, particularly his three novels. However, he generally said nothing about his literary projects still in their early stages, or those he had not yet begun.
    A rare exception was the idea for a story that he revealed in January 1918 to the writer Oskar Baum, one of his closest friends. Baum was visiting Kafka in the village of Zurau [Sitem) in northwestern Bohemia, where Ottla was hosting her brother during the winter, after he had fallen ill with tuberculosis. Since Baum and Kafka slept in the same room, they had the opportunity for long conversations, and Baum later recounted that he had learned more about Kafka in that one week than in the ten years before or the five years after. Kafka also told him about numerous literary outlines and plans "which he had no hope, or even intention, of ever carrying out." Baum remembered one of these unwritten stories very clearly:


A man wants to create the possibility of a social event that takes place without anyone being invited. People see and speak to and observe one another without knowing each other. It is a banquet where everyone can eat according to his taste without imposing on anyone else. Each person can arrive and leave whenever he pleases, he has no obligations to the host, and yet the host is always genuinely pleased to see him. When the man finally succeeds in executing his absurd idea, the reader recognizes that this attempt to rescue people from their solitude has in the end only produced-the invention of the coffeehouse.

*
 

@ Irwin, Cali
[Gấu đó ư, Quán Chùa đó ư?]


K thường đọc cho bạn, và có thể cho cô em/chị, những tác phẩm chưa hoàn tất, đặc biệt là ba cuốn tiểu thuyết của ông. Tuy nhiên, ông không hề nói về những dự án văn học đang ở giai đoạn phôi thai, hay những thứ chưa bắt đầu.
Trường hợp đặc biệt, thuộc loại hiếm quí, là cái truyện ngắn sau đây, nó thuộc về 1 thứ, mà, như K thố lộ với bạn, ông, “vô hy vọng, vô toan tính, thực hiện”.

Một người đàn ông muốn tạo ra 1 khả dĩ thực hiện được, một sự hiện xã hội, xẩy ra, mà không ai được mời. Khách khứa nhìn, nói, với nhau, chẳng ai quen biết ai. Đó là 1 bữa tiệc mà mọi người ăn uống theo khẩu vị của mình, không ai đòi hỏi, với bất cứ ai. Mỗi người, tới rồi rời bất cứ khi nào muốn, chẳng có bắt buộc gì với chủ nhân bữa tiệc, và chủ thì tỏ ra rất hài lòng một cách thực tình về cái chuyện được gặp khách. Khi người đàn ông, sau cùng, thành công trong cái chuyện thực hiện được cái ý nghĩ phi lý của mình, độc giả nhận ra rằng cái toan tính này, là để cứu vớt đồng loại ra khỏi nỗi cô đơn của họ, và cái mục đích sau cùng của nó, chỉ là để ph
ịa ra [cái gọi là] quán cà phê!

   *

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31752818400/
Saigon 1969-70 - Photo by Leroy P. McCarty - Chợ Tết chợ Bến Thành
Hoa Tình Thương, là tên 1 tạp chí văn học của mấy bà tướng, nhằm yểm trợ vợ con sĩ quan, binh sĩ VNCH.
NDT, lần bị QC bắt, vì tội trốn lính, được Nguyễn Mạnh Côn bảo lãnh, cho về làm TTK báo này, Gấu lâu lâu có viết bài phụ đỡ gánh nặng, vác rổ đi chợ!*



 

LIU TSUNG-YVAN
773-819        

A fisherman in the landscape was a beloved subject of poets and painters. This poem, however, seems to me quite complicated, in spite of its apparent simplicity. For here there is action, and the fisherman himself appears only toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things

Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ sau đây xem ra rắc rối dù bề ngoài đơn giản. Bởi vì ở đây, có hành động, và tay ngư phủ già, chính anh già, chỉ xuất hiện ở cuối bài thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh làm 1 chuyến đi xa, thật xa.

OLD FISHERMAN

Old fisherman spends his night beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars: the mountain waters green.
Turn and look, at heaven's edge, he's moving with the flow.
Above the cliffs the aimless clouds go too.
Translated from the Chinese by J. P. Seaton

Người câu cá già

Người câu cá già qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này, thuổng Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc sáng sớm, anh già ngồi đun nước mưa, hứng ở mái sau nhà, ở Canada, đốt củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù tan, mặt trời bò ra, anh già bèn xuống thuyền, lên đường, làm chuyến viễn du chót.
Tiếng mái chèo đập trên làn nước xanh
Quay nhìn, ở đường ven Thiên Đàng, thấy thấp thoáng bóng anh già cùng di chuyển với dòng nước
Ở trên đỉnh Ải Tây, mây, đếch biết làm gì, bèn cũng đi theo anh già! 

I wonder how we can survive, this romance
But in the end if I'm with you, I'll take the chance

Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You

Note: Năm cùng tháng tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài thơ trên thì đúng là tuyệt cú mèo!

Làm sao Gấu qua khỏi con trăng này?
Nhưng sau cùng, nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!

Hà, hà!

Chúc bác Gấu luôn mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad Seagull

Tks. Take Care, Plse
NQT

Home Remedy

[Thuốc chữa bịnh nhớ nhà]

Một bài thơ không cần là một đầu vào nhật ký,
hay lá thư,
báo cáo một giấc mơ
mảnh, miểng quan sát của một ngày
cũng không phải câu trả lời ngắn cũn về điều mà ai đó nói

Nó không cần là một vòng cung điêu khắc
Bề thế, gỉ sét
Nó có thể là một hòn đá nhẵn thín
Sáng ngời như mắt mèo trong bóng tối
Chắc nịch như 1 con tốt bằng ngà.

Rìu phá biển băng, Kafka phán
Hay (công thức Northop Frye: thần thoại biến thái, thoái hoá...
thành ẩn dụ),
nếu đời là một cái lá đa, một con bướm,
thì bài thơ là 1 “sợi lôn” – THNM - của nó.

Không phải dĩa cá, trọn bữa ăn ư?- nghèo mà ham!
Cũng không, ngay cả một miếng trái cây chín mũm, sáng rỡ
Hơn cả 1 bí kíp kể những kẻ lạ tương lai, xấp xỉ, hay gần đúng như thế

Những gia vị, mà, đói như anh đang đói, trong cái thời của anh,
Anh trộn tất cả
Nấu, đớp, đọc, và, viết:
Hãy
nghĩ về một bài thơ,
Sau cùng,
như là
Nhà, gia đình, quê hương,
Một liều thuốc cho cái
mà lũ Mít gọi là
Cơn đau khẩu vị!
Chúng đi tới đâu, biến nơi đó thành bãi đánh hàng,
Là do như thế đấy

Cầm dương xanh 



 Birds

Chim là diễn viên không bao giừ tẩy trang còn tự nhiên là sân khấu luôn sẵn sàng cho người biểu diễn. Kiếm ăn, sinh sôi nảy nở là kịch bản không bao giờ kết   thúc. Khi diễn viên bay trước ống kính, cảnh quay hấp dẫn cứ thế bắt đầu, cho đến khi nó bay xa khỏi ống kính.       

(1)
.

(1)
Vưỡn giọng nhỏ? Sebald giải thích, "clairvoyant of the small".

*

"Tớ có ở đây không phải để viết mà để khùng."

  *

The Genius of Robert Walser
http://www.nybooks.com/articles/archives/2000/nov/02/the-genius-of-robert-walser/
J.M. Coetzee
November 2, 2000 Issue

Was Walser a great writer? If one is reluctant to call him great, said Canetti, that is only because nothing could be more alien to him than greatness. In a late poem Walser wrote:

I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much, and
To say nothing, just about nothing.

Walser, nhà văn nhớn?

Nếu có người nào đó, gọi ông ta là nhà văn nhớn, 1 cách ngần ngại, thì đó là vì cái từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser, như Canetti viết.
Như trong 1 bài thơ muộn của mình, Walser viết:

Tớ đếch muốn thằng chó nào như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm về tớ, hoặc mong muốn là tớ
Một mình tớ, chỉ độc nhất tớ, chịu khốn khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm đủ thứ, và
Đếch nói gì, về bất cứ cái gì

[Dịch hơi bị THNM. Nhưng quái làm sao, lại nhớ tới lời chúc SN/GCC của K!]

Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,” Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser [một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig. Benjamin, và Kafka;  đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều hơn, so với Kafka, hay Benjamin.

W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions. He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture, and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so…. He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows … who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency to dissolve upon reading, so that only a few hours la ter one can barely remember the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”

  *

Noel 1968, Mậu Thân, @ Thương Xá TAX

  *

 
 

31.12.2016

Mưa Sài Gòn, hình chụp góc Lê Lợi và Công Lý, ngày 12 tháng 6 năm 1968.

Image
Image     Image


H
APPY NEW YEAR

*  

Playboy Jan & Feb

Happy New Year

whether we be young or old,
Our destiny, our being's heart and home,
Is with infinitude, and only there;
With hope it is, hope that can never die,
Effort, and expectation, and desire,
And effort evermore about to be,

Trẻ hay già
Số phận trái tim, nhà, đời của chúng ta
Thì ở với vô cùng, và chỉ ở đó:
Với hy vọng chẳng bao giờ ngỏm
Cố gắng, hoài mong, và ao ước,
Và cố gắng nữa nữa
Về
sống ở trên đời


The moving Moon went up the sky,
And nowhere did abide:
Softly she was going up,
And a star or two beside –

Bà Trăng mò mãi lên trời
Và không đâu, không nơi nào, sững lại
Bà cứ thế nhẹ nhàng bay cao lên mãi
Với một, hay hai đệ tử,
Là hai vì sao, bên cạnh Bà

Virginia Woolf: How Should One Read a Book?

But also we can read such books with another aim, not to throw light on literature, not to become familiar with famous people, but to refresh and exercise our own creative powers.

Nhưng chúng ta cũng có thể đọc sách, với 1 cái đích, bảnh hơn thế nhiều: Không ném ánh sáng lên trang sách, không làm quen với những đấng văn thi sĩ, mà, lại làm tươi rói, và loay hoay, hì hục, thao tác, thao túng những quyền uy, sức mạnh sáng tạo của chính chúng ta



























Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây