Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Chiều 1 mình xuống phố, đi 1
đường xeo phi
Thơ Mỗi Ngày
To My POEMS
You led me into
the trackless woods,
My falling stars, my dark endeavor.
You were bitterness, lies, a bill of goods.
You weren't a consolation-ever.
1961
Gửi những bài thơ của tôi
Mi dẫn ta vô một cánh rừng không lối đi
Những vì sao rơi rụng của ta, nỗi cố gắng âm u của ta
Chỉ là cay đắng, dối trá, đồ dởm
Niềm an ủi ư, không bao giờ!
A poet has a secret relationship with everything that he has ever written
and this often is at odds with what the reader thinks about one poem or
another.
For example, in my first book, Evening (1912), I really only like
the lines:
Becoming intoxicated by the sound of a voice,
That resembles yours."
I even think that a lot of things in my poetry came out of those lines.
On the other hand, I very much like a somewhat dark and not at all typical
poem of mine: "I came to take your place, sister," which has remained without
sequel. I like the lines: And the tambourine's beat is no longer heard,
And I know, the silence is frightening."
What the critics still mention often leaves me completely indifferent.
[Nhật ký]
Thi sĩ thì
thể nào cũng có 1 liên hệ thầm kín, với mọi
câu thơ mà mình đã từng viết ra.
Tôi cực mê câu thơ sau đây.
Có thể nói, mọi cái gì gọi là thơ
của tôi, đều từ câu thơ đó, mà ra:
Tôi nhiễm độc xì ke từ 1 giọng nói
Giọng của Em, giọng Bắc Kít
Giọng BHD
Một con bé Bắc Kít, 11 tuổi
Hà, hà!
My NAME
From out of nowhere
it came,
Murky, a Tartar claim.
It sticks a pin in my bubble,
The name for this name is trouble.
1962
Tên của ta
Dưng không
trồi lên
U ám, có mùi Hung Nô
Chích 1 phát vô cái bong bóng của
ta
Đúng là 1 cái tên làm phiền ta
As her protégé
Joseph Brodsky writes:
When her father learned that
his daughter was about to publish a selection of her poems in a St.
Petersburg magazine, he called her in and told her that although he
had nothing against her writing poetry, he'd urge her "not to befoul
the good respected name" and to use pseudonym. The daughter agreed, and
this is how "Anna Akhmatova" entered Russian literature instead of Anna
Gorenko.
Khi biết cô
gái rượu của mình tính in thơ trên một
tờ báo ở St. Petersburg, ông bố bèn bảo, rằng bố
cũng không cấm cản một việc làm như vậy - làm thơ,
và rồi in thơ - nhưng theo bố, đừng đem xấu xa đến cho dòng
họ nhà mình, con nên tìm một bút
hiệu. Và thế là “Anna Akhamatova” đi vào văn học
Nga, thay vì “Anna Gorenko”.
The five open
a's of Anna Akhmatova had a hypnotic effect and put this name's carrier
firmly at the top of the alphabet of Russian poetry. In a sense, it was
her first successful line .... This tells you a lot about the intuition
and quality of the ear of this seventeen-year-old girl who soon after her
first publication began to sign her letters and legal papers as Anna Akhmatova.
Requiem
I never sought asylum among aliens
Never cowled myself in a crow's wings.
I stood as my people stood, alone-
In my marrowbones, their sorrow.
[Translated by Vladimir Azarov &
Barrry Callahan, in Strong Words]
REQUIEM
No, it wasn't under a foreign heaven,
It wasn't under the wing of a foreign power,-
I was there among my countrymen,
I was where my people, unfortunately, were.
1961
[Translated by Lyn Coffin]
++++
Không,
không phải dưới thiên đàng ngoại
Không phải dưới cánh quyền lực ngoại
Tôi ở giữa đồng bào tôi
Dân tộc tôi, bất hạnh,
Ở
Anna:
Nửa thế kỷ của tôi
Hôm
nay là ngày sinh của Anna Akhmatova, nữ thi sĩ Nga.
Nếu còn sống thì hôm nay bà tròn
125 tuổi.
Cảm nhận
của mình về thơ bà luôn rất phức tạp, gần gũi
nhưng xa lạ, đáng yêu nhưng cũng
đáng sợ... Tuy nhiên, dù sao chăng nữa thì
thơ bà cũng rất hay.
Anna Akhmatova
* * *
Ánh
sáng chiều tà mênh mang vàng úa
Lạnh mát tháng tư dịu ngọt vô cùng.
Anh đã đến muộn – nhiều năm lắm,
Nhưng dù sao vẫn khiến em mừng.
Hãy
ngồi lại đây, gần em một chút
Và hãy nhìn bằng cặp mắt vui tươi
Đây, cuốn vở bìa xanh này đấy
Là những vần thơ em viết thuở thiếu thời
Em xin lỗi,
vì sống trong buồn bã
Và ít khi vui với mặt trời
Em xin lỗi, vì em đã tưởng
Và nhầm anh với rất nhiều người.
1915
Bản tiếng Anh, trong Poems, selected and translated
by Lyn Coffin:
Broad and yellow is the evening
light,
The coolness of April is dear.
You, of course, are several years late,
Even so, I'm happy you're here.
Sit close at hand and look at me,
With those eyes, so cheerful and mild:
This blue notebook is full, you see,
Full of poems I wrote as a child.
Forgive me, forgive me, for having grieved
For ignoring the sunlight, too.
And especially for having believed
That so many others were you.
1915
V/v SN của AA
Late at night. Monday. The
twenty-third.
The capital's outlines in the mists.
Some idiot's given us the word,
He's informed the world that love exists.
And out of boredom or laziness
Everyone believes and lives that way:
They all look forward to trysts, no
less,
They sing their love songs night and
day.
But to some, the secret's revealed,
The smallest silence weighs like a
brick.
I too stumbled on what was concealed.
Since then I've felt as if I was sick.
1917
http://bookhaven.stanford.edu/tag/anna-akhmatova/
Người viết về AA, bảnh nhất, là cậu em trai của
Bà, là Brodsky.
Cách đọc & cảm nhận thơ Bà, của những
người Miền Bắc, theo GCC, do thiếu hẳn 1 nửa thông tin về Bà,
do nhà nước Xô Viết thiến bỏ, nên không làm
sao nhận ra được tầm vóc thơ & con người của Bà, như
những dòng sau đây, trong bài giới thiệu Nửa Thế
Kỷ Của Tôi, cho thấy. Nhân SN/AA, Tin Văn sẽ đi bài
Intro của Brodsky, sau được in với cái tít The Kneeling
Muse.
A BIOGRAPHICAL SKETCH
And fame carne sailing, like a swan
From golden haze unveiled,
While you, love, augured all along
Despair, and never failed.
-From "To My Verses" (1910s)
Translated by Walter Arndt
ANNA AKHMATOVA BELONGS TO the magnificent quartet of
Russian poets whose fellow members are Osip Mandelstam, Boris Pasternak
and Marina Tsvetaeva. Like her fellow poets, Akhmatova suffered a
bitter fate. Mandelstam died en route to a labor camp (1938); Tsvetaeva
hanged herself (1941); Pasternak, ostensibly the "luckiest" of the
four, fell victim to a vicious campaign after the publication of Doctor
Zhivago, followed by the Nobel Prize for Literature, and in the midst
of unbearable pressures died at home in 1960. After the brilliant success
of her first books, Akhmatova was forcibly silenced in the mid-1920s
and was unable to publish any verse until 1940. But the rehabilitation
was short-lived. In August 1946, the Central Committee passed a resolution
(rescinded only in 1988) that condemned the "half-nun, half-harlot" Akhmatova,
along with Mikhail Zoshchenko, one of the most remarkable satirists of
the time. It was only in the 1960s that Akhmatova began to receive the
homage due her.
AA thuộc bộ tứ thần sầu những
nhà thơ Nga, và số phận, cũng bi thảm như họ. Mandelstam
chết trên đường tới trại lao động khổ sai. Tsvetaeva treo
cổ tự tử. Pat, may mắn nhất, nhưng cũng bị chửi rủa thê thảm
nhất, sau khi được Nobel, và chết tại gia. Sau khi nổi tiếng
với tập thơ đầu, Bà bị bắt buộc phải im tiếng, giữa thập niên
1920, tới 1940 mới lại được in thơ, nhưng chẳng được lâu. Bà
được nhà nước Xô Viết ra hẳn 1 nghị quyết, cấm tiệt in
ấn mọi cái viết, sự xuất hiện của con mụ “nửa nữ tu, nửa gái điếm”, và
phải đến thập niên 1960 Bà mới được thanh thản.
Bài viết của Brodsky về Anna Akhmatova cực kỳ quan
trọng, ở điểm, nhìn ra được vị trí cực kỳ quan trọng
của Bà, trong dòng lịch sử văn học của toàn thể
nước Nga, suốt từ thời dựng nước.
Bà, phải nói, không ưa nhân dân Nga, không
ưa chế độ, nhưng không
hề bỏ đi.
Tin Văn sẽ đi bài này, as always.
cái
giá "một nghìn bốn trăm tỉ đồng" khiến mình
nghĩ đến những sự tốn kém khổng lồ và ngu xuẩn khác
của nhân loại. thờ hồ chí minh thực ra cũng chỉ ngớ ngẩn
ngang với thờ siddharta hay jesus mà thôi. thậm chí
là không ngớ ngẩn bằng. chúng ta đều biết rằng
siddhartha thực ra là một gã chán đời, liệt dương
do chơi gái quá nhiều, nhưng vì vẫn muốn tìm
sự thoả mãn nên phải quay ra cổ suý sự "diệt dục."
còn jesus thì rõ ràng là bị chứng
vĩ cuồng nặng, và chắc là phải hơi "thần kin...
See
More
122 Likes31 Comments2 Shares
Note: HCM là người
đương thời. Những gì ông ta làm, đương thời kiểm
chứng được, và lịch sử càng ngày càng cho
thấy, HCM là 1 tên tráo trở, lưu manh, mạt hạng.
Sự kiện, ông ta xoá thư viết bằng tiếng Tàu, đúng
văn phạm của đệ tử là Hoàng Văn Hoan, thay bằng 1 lá
thư viết sái văn phạm, do chính HVH kể, được kể lại trong
cuốn Hồ Sơ Đệ Tứ, là 1 thí dụ về tính lưu manh mạt
hạng của HCM.
Trong khi đó, Jesus là thuộc 1 thời quá
xa vời, thành ra những gì nhân loại biết về Jesus,
với tín hữu Ky Tô, là phép lạ, với 1 tên
vô đạo, thì là ngớ ngẩn…
Những tín hữu Ky Tô, khi họ tin vào đạo
của họ, là cho họ chứ đâu phải cho Jesus.
Nhờ niềm tin mà Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky, chỉ
kể hai trường hợp, sống sót hoả ngục Đỏ.
Viết như thế này, thì đúng là tên
khốn nạn, cực kỳ khốn nạn, và nó còn chứng tỏ,
đây là do nền giáo dục vô thần của Miền Bắc
gây nên.
Hậu quả sẽ rất là khủng khiếp.
Còn dài dài những tên khốn như tên
này.
NQT
Khoan nói đến tính tôn giáo, bạn
thử chỉ cho GCC, 1 tên nhà văn Bắc Kít, mà
trong văn của nó, có cái gọi là tâm
linh?
Khi mới viết, Phạm Hải Anh, khi còn là 1 học
sinh, viết từ 1 mái nhà Hà Nội, có cái
chất này, sau mất dần.
Sến? Cực độc, cực kỳ vô lễ, thí dụ, rũ bụi cũng
không thèm làm quen
Tâm linh, tôn giáo, không. Ngay cái
tầm thường, “nhân hậu”, cũng đếch có luôn.
Bắc Kít rất mê văn chương Nga. Giỏi tiếng Nga
không chỉ có nghĩa, bởi vì đó là
con đường tiến thân của họ. Nhưng có 1 sự khác
biệt rất “cơ bản” giữa cõi văn Nga, và cõi văn
Bắc Kít. Phải mãi sau này, khi quá mê
văn học Nga, khi ra được hải ngoại, và có điều kiện đọc,
thì Gấu mới hiểu ra được, “mặc dù” Cái Ác
Á Châu, văn học Nga vẫn sống sót, chính là
nhờ niềm tin Ky Tô ở nơi họ.
Cái chết của Bắc Kít, chính là
ở chỗ này, mặc dù - lại mặc dù – bốn ngàn
năm văn hiến, Bắc Kít không có niềm tin tôn
giáo.
Steiner, trong 1 bài viết tuyệt hảo, đã chỉ ra
điều này.
Đọc nó, Gấu bèn nhớ tới Hồ Hữu Tuờng và
giấc mơ Đức Phật sẽ trở lại với xứ Mít của ông, trong
Trầm Tư của 1 tên tội tử hình.
Nên nhớ, HHT là người Miền Nam.
Bắc Kít không hề, không thể có 1
giấc mơ như vậy.
Không phải tự nhiên mà TTT, khi viết về
Trầm Tư, đã nhắc tới giấc mơ của HHT và liên hệ
nó, với đồng bằng Bắc Kít, bờ nhiều hơn ruộng.
NQT
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục
nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp
nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô
nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn
ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm
quan này có thể chuyển dịch vào một thành
ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là,
Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là
cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào
khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa
Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.
Joseph Brodsky cũng nhận ra điều này, ở thơ của Anna
Akhmatova:
The
degree of compassion with which the various voices of this "Requiem"
are rendered can be explained only by the author's Orthodox faith;
the degree of understanding and forgiveness which accounts for this work's
piercing, almost unbearable lyricism, only by the uniqueness of her heart,
her self and this self's sense of Time. No creed would help to understand,
much less forgive, let alone survive this double widowhood at the hands
of the regime, this fate of her son, these forty years of being silenced and
ostracized. No Anna Gorenko would be able to take it. Anna Akhmatova did,
and it's as though she knew what there was in store when she took this
pen name.
At certain periods of history it is only poetry that is capable
of dealing with reality by condensing it into something graspable, something
that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the
whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity
and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well
as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of
human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first
through the prism of the individual heart, then through the prism of history,
such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
These two perspectives were brought into sharp focus through
prosody which is simply a repository of Time within language. Hence,
by the way, her ability to forgive-because forgiveness is not a virtue
postulated by creed but a property of time in both its mundane and metaphysical
senses. This is also why her verses are to survive whether published
or not: because of the prosody, because they are charged with time in
both said senses. They will survive because language is older than state
and because prosody always survives history. In fact, it hardly needs
history; all it needs is a poet, and Akhmatova was just that.
-JOSEPH BRODSKY
The Hut
I WAS BORN IN THE same year
as Charlie Chaplin, Tolstoy's Kreutzer Sonata, the Eiffel Tower, and,
it seems, T. S. Eliot.' That summer Paris celebrated the one-hundredth
anniversary of the fall of the Bastille-1889. The ancient festival
of St. John's Eve (Midsummer Night) was-and is still-celebrated on
the night of my birth, June 23rd. I was named Anna in honor of my grandmother,
Anna Yegorovna Motovilova.? Her mother, a descendant of Genghis
Khan, was the Tatar princess Akhmatova, whose name I took for my
literary name, not realizing that I was about to become a Russian
poet. I was born in Sara kina's dacha (Bolshoi Fontan, the 11th railroad
stop) near Odessa. This little dacha (more like a hut) was situated
at the bottom of a very narrow and steep tract of land next to the post
office. The seashore there is steep and the railroad tracks went along
the very brink. When I was fifteen years old and we were living in the
dacha at Lustdorf, we were traveling through this area for some reason,
and my mother suggested that we go and see Sarakina's dacha, which I
had never seen. At the hut's entrance I said, "Some day they'll put
up a memorial plaque here." I wasn't being vain. It was just a silly
joke. My mother was distressed. "My God," she said, "how badly I've brought
you up."
1957
Túp Lều
Tôi sinh cùng năm
với hề Charlot, “Kreutzer Sonata” của Tolstoy, Tháp Eiffel, và
có thể, T.S. Eliot.
Mùa Hè năm đó Paris kỷ niệm lần thứ 100
phá ngục Bastille – 1889.
Lễ hội cổ xưa St. John’s Eve thì vào
đêm tôi sinh ra đời, và vẫn là như
thế, 23 Tháng Sáu.
Tên tôi, là để vinh danh bà
ngoại tôi,
Anna Yegorovna Motovilova. Mẹ của bà, dòng dõi
Hốt Tất Liệt, công chúa Hung Nô, Akhmatova. Tên của bà,
tôi lấy làm bút hiệu, không biết rằng
thì là mình sẽ trở thành thi sĩ Nga [bà
khiêm tốn, đúng ra, trở thành nữ thần thi
ca Nga, một nữ thần sầu muộn, như Brodsky vinh danh bà.]
Tôi sinh ra tại dacha Sarakina, gần Odessa.
Cái dacha này thì cũng chẳng khác
chi một túp lều ở cuối 1 dải đất hẹp chạm biển. Bãi
biển có bực đi xuống.
Khi tôi 15 tuổi, có lần dạo chơi,
tới túp lều. Tới lối vô, tôi nói bâng
quơ, sau này người ta sẽ khắc 1 tấm biển, ghi lại cái
ngày mà tôi tới đây.
Mẹ tôi, nhìn tôi, lắc đầu,
không biết tao nuôi nấng mi tệ hại ra sao, mà
nên nông nỗi này!
Transtromer
Page
KYRIE
Sometimes my life opened its eyes in the
dark.
A feeling as if crowds moved through the
streets
in blindness and angst on the way to a
miracle,
while I, invisible, remain standing still.
Like the child who falls asleep afraid
listening to his heart's heavy steps.
Long, long, until morning slips its rays
in the locks
and the doors of darkness open.
Kyrie
Đôi khi đời của tớ mở
con mắt của nó vô bóng tối
Một cảm nghĩ, như thể những đám đông
chuyển động ở ngoài phố
Trong mù lòa, trong hốt hoảng
trên đường tới một phép lạ
Trong khi tớ, vô hình, đứng
sững
Như đứa trẻ thiu thiu ngủ, sợ
Nghe tiếng bước nặng nề của trái tim
của nó.
Lâu, lâu, cho tới buổi sáng tuồn những tia vô cái
khóa
Và những cánh cửa bóng
tối
Bèn mở ra
Poems
July 6, 2009 Issue
A Dream
By Jorge Luis Borges
http://www.newyorker.com/magazine/2009/07/06/a-dream-3
In a deserted place in Iran
there is a not very tall stone tower that has neither door nor
window. In the only room (with a dirt floor and shaped like
a circle) there is a wooden table and a bench. In that circular
cell, a man who looks like me is writing in letters I cannot understand
a long poem about a man who in another circular cell
is writing a poem about a man who in another circular
cell . . . The process never ends and no one will be able
to read what the prisoners write.
(Translated,
from the Spanish, by Suzanne Jill Levine.)
Tại 1 nơi hoang tàn ở Iran, có
1 cái tháp không cao cho lắm, không
cửa ra vào, không cửa sổ. Ở căn phòng
độc nhất (sàn tròn tròn, dơ dơ), có
1 cái bàn gỗ, 1 cái băng ghế. Trong
cái xà lim tròn tròn đó,
một người đàn ông trông giống Gấu, đang ngồi
viết, bằng 1 thứ chữ Gấu không đọc được, một bài
thơ dài về 1 người đàn ông ở trong 1 xà
lim tròn tròn khác đang viết một bài
thơ về một người đàn ông ở trong 1 xà lim
tròn tròn khác… Cứ thế cứ thế chẳng bao giờ
chấm dứt và chẳng ai có thể đọc những tù
nhân viết cái gì.
TTT 10 years Tribute
Đi tìm phê bình gia Mít
QUÊ
HƯƠNG
Nhớ, có
ai đó nói câu này rất hay: Một mảnh đất
chỉ trở thành quê hương khi có hài cốt của
ít nhất một hai thế hệ chôn cất ở đó. Quê
hương, như vậy, k...
See More
QUÊ
HƯƠNG
Nhớ, có
ai đó nói câu này rất hay: Một mảnh đất
chỉ trở thành quê hương khi có hài cốt của
ít nhất một hai thế hệ chôn cất ở đó. Quê
hương, như vậy, không phải chỉ
là đất đai mà còn là máu thịt của cha
ông và của đồng bào. Tính chất thiêng
liêng của lãnh thổ nằm ở phần máu thịt ấy. Đó
chính là lý do tại sao người ta, một mặt, không
dễ dàng chấp nhận một quốc gia mới nào đó mình
đang định cư là quê hương; mặt khác, có thể
sẵn sàng đổ máu để bảo vệ một mảnh đất xa lơ xa lắc do
cha ông để lại.
FB Thầy Kuốc
Note: Ý
đó của Garcia Marquez, Thầy vừa mới đi 1 đường tưởng niệm.
Vỗ ngực xưng tên nhà tiến sĩ phê bình,
mà “có ai nói hoài”.
Tuy nhiên, có thể Thầy vờ GM, vì GCC
là người khui ra hình ảnh thần sầu đó.
Khi GG mất, 1 tay trên tờ Người Nữu Ước cũng nhắc
tới chi tiết này, khi tưởng niệm ông.
Thầy Kuốc
chôm không chỉ, mà hơn… 1 lần. Câu
phán trứ danh của Todorov, chủ nghĩa CS là con đường “nhức
nhối”, đi từ chủ nghĩa tư bản đến… chủ nghĩa tư bản, Thầy cũng
chôm, nhưng đổi thành, con đường “đẫm máu”, và
cũng, “ai đó nói”!
Tên thi sĩ dởm bạn quí của TTT, chôm
thơ Joseph Huỳnh Văn, nhưng đi 1 đuờng chú thích, nhớ
đọc đâu đó, hình như trên tờ Thời Tập của
VL!
Tên Lăng Băm thì cũng rứa.
Ông
cũng không phải là nhà phê bình văn
học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Quả thế, Gấu không
phải là nhà phê bình như Thầy Quốc!
Gấu chưa
hề ăn cắp, chôm chĩa, của bất cứ ai. Và luôn sẵn sàng
xin lỗi, bất kỳ 1 sai sót. Và rất tởm, phê bình
gia.
Khi bắt đầu bước chân vô làng văn, Gấu cũng bày đặt viết phê bình, đọc
sách, nhưng 1 khi ra được hải ngoại, Gấu đã tự hứa với
mình, không để mình vướng vào cái chốn nhơ
bẩn đó nữa.
Chỉ từ khi lập trang Tin Văn, thì Gấu mới cầm lại
cái nick tên "sa đích văn nghệ", được thi sĩ Nguyên
Sa ban cho, bởi vì, chỉ có cách đó, may ra
mới có thay đổi.
Một
tên như… Gấu Cà Chớn, gần như cả 1 đời người sống với
chữ Mít, vậy mà tên Lăng Băm này phán,
ai cho phép mi dám đào mồ mả nhà văn Mít,
trong khi hắn, 1 tên cha căng chú kiết, vậy mà, chỉ
trong 1 cái còm, bôi bẩn, không chỉ những nhà
văn Mít, còn sống, mà luôn cả những người đã
chết, làm nhục 2, trong số 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất nhì
của Miền Nam trước 1975, và làm bẩn luôn cả 1 blog
văn học, của 1 vị nữ chủ nhân?
Mi có thấy nhục không, khi viết ra toàn những chuyện
nhơ bửn như thế?
Bếp lửa trong văn chương
"Nơi chốn không
chết như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng
còn chi được giữ lại, về một thời nó đã là..."
, W. Trévor viết về miền thơ ấu (Ái Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn thêm vô: "... chẳng còn chi được
giữ lại, cho một con người ngày xưa đã từng ở đó."
Tôi cũng có đọc một lời khuyên, nên viếng thăm
nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành phố. Buendia, trong Trăm
Năm Cô Đơn, (Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm một đất
lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi
chốn, khi dưới đất có một người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng,
nhưng quyết liệt, "nếu cần một cái mả, tôi sẽ ra đó
nằm." Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh
tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả,
ông bà mình làm sao ngủ yên ?...
Sự không đọc "một số" tác giả, ở một vài người, theo
tôi, có thể là do ngần ngại không dám gặp
lại một số nhân vật, một vài nơi chốn quá thân
thiết với họ. Hà-nội, thí dụ vậy. Như một nơi chốn. Như một
nhân vật quá đỗi thân thương; Eurydice, chẳng hạn. Đó
cũng là lý do, theo T. Tolstaya, khiến thi sĩ Joseph Brodsky
không thể trở về: ông sợ những ngôi mộ bị đào bới,
sợ quá khứ, kỷ niệm, những gì nhà thơ đã làm
được, cho St. Petersburg của ông.
Còn nhớ, cuốn truyện đầu tay, khi ra ngoài này, tôi
"ngỡ ngàng" thấy được tái bản, "đau xót" khi đưa cho
một người bạn coi, và khi anh ta trả lại, với lời trách nhẹ
nhàng, đại khái, treo đầu dê, bán thịt chó.
Ra ý, tên truyện, Những ngày ở Sài-gòn,
chỉ thấy, Hà-nội.
Đó là cuốn sách sau cùng, thành phố
được nhắc tới, "một thành phố của hương thơm và mặt trời ve
vuốt". Một anh bạn làm nghề xuất bản, liền sau đó đã
bị Phòng Kiểm Duyệt từ chối một tập truyện. Cũng không thể khác
được, chiến tranh lúc đó đã trở nên ác
liệt.
Khi Nguyễn Tuân than, "chúng ta" có ít trang
sách về Hà-nội, tôi nghĩ, ông không muốn
chấp nhận, "một số" trang sách viết về nó. Về một Liên,
ở đâu đó trong Hà-nội, của Thanh Tâm Tuyền (Ung
Thư; Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy). Lại càng không
thể chấp nhận một anh chàng Đại, trước khi bỏ Hà-nội ra "bưng",
đã để lại một cái bầu cho một cô gái. "Nó
là một thằng hèn! Tôi sẽ đập vào mặt nó!",
nhân vật chính trong Bếp Lửa đã giận giữ, về người bạn
của anh...
Có thể, Nguyễn Tuân không biết tới những trang sách
đó, những tác giả đó. Cũng vậy, Lê Đạt chắc cũng
chưa từng đọc, bản dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu, của Vũ
Hoàng Chương.
Theo thi sĩ, và cũng còn là ông thầy Việt văn
của người viết - năm học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết
Lưu, khi còn là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn
- bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát,
cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" - toàn
"vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say,
ông nổi hứng, dịch một lần nữa, tạo thế chân vạc cho bài
thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán, ông vẫn bị ám
ảnh bởi những hệ thống trục tọa độ, khi làm thơ. Nhưng cái
tam giác của ông, vô tình làm tôi
nhớ tới tam giác bếp núc của C. Lévi-Strauss.
Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh
xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài
người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée
ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước,
trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó
là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss.
Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói",
bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ
mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu",
tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn
minh.
Bắt chước Vũ Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss, tôi cũng
tưởng tượng ra một thế chân vạc của Hà-nội. Ở đây, không
có nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản. Một Hà-nội,
của những người di cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và
một của những người tù cải tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội,
như của Nguyễn Chí Kham, trong lần ghé ngang, trên chuyến
tầu trở về với gia đình.
"Treo đầu dê, bán thịt chó". Quả thế thật. Khi viết
Những ngày ở Sài-gòn, là lúc tôi
quá nhớ Hà-nội. Mới lớn, vừa mới kịp yêu mến cái
cột đèn, cái Hồ Gươm, cái Tháp Rùa, đùng
một cái, phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành
hiện thực, qua hình ảnh một cô bé Hà-nội. Mối
tình tan vỡ, chỉ vì người nghe kể, là một cô bé
miền Nam: "Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh thoảng
buổi sáng có sương mù...".
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham khác hẳn. Cũng khác
hẳn, Hà-nội của những người ra đi từ miền Bắc. Ga Hàng Cỏ của
Nguyễn Chí Kham không có cảnh đưa tiễn những người đi
vào Nam chiến đấu, và một cô gái, trong một truyện
ngắn của Lê Minh Hà, (Trăng Goá, Văn), chỉ ngửi thấy
chỗ nào cũng sặc mùi nước đái, và đó là
một trong những lý do khiến cô chấp nhận lời cầu hôn,
của "thủ trưởng" đám bộ đội trẻ. Xin đừng nghĩ đến sự thô tục
ở đây. Chỉ có mùi nước tiểu "quyến rũ" đó mới
tương xứng với lưỡi bom, liếm đến đúng căn nhà của cô
học trò thì dừng lại, như có hẹn với cô gái,
tuy đã đi sơ tán, nhưng hôm đó phải trở về Hà-nội
để lấy phần gạo. Như thể lưỡi hái B.52 đến lúc đó mới
thở hắt ra hết hơi nóng của nó.
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây
là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái
tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào
trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và
của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy
hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của
ân sủng và tình yêu." Tôi đã lầm,
khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại được đọc những trang sách tuyệt
vời, về Hà-nội. Có thể là do một câu thơ và
viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi. "Chỉ thấy mưa
sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now"
(Tận Thế Là Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội.
Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau
đó, không phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành
phố, rồi cùng với nó, là biểu tượng của cả một dân
tộc ?
Bạn hãy thử tưởng tượng Hà-nội, như một cuốn sách,
một bài thơ, một văn miếu, và cơn thử thách của nó:
lửa. Trong Farenheit 451, Ray Bradbury tưởng tượng, một Nhà Nước ra
lệnh huỷ diệt mọi cuốn sách. Và một bà già đã
chịu chết trong thư viện của bà, giữa những cuốn sách đang
cháy. Người ta túa ra khắp nơi, để học thuộc lòng những
cuốn sách bị huỷ diệt. Họ trở thành những cuốn sách sống.
"Chỉ cần một kẻ ném lửa, tương tư, rồi bắt đầu đọc một cuốn sách,
là sự ghê tởm, tính quái vật của Nhà Nước
lộ rõ." (Thử thách lửa, L'épreuve du feu, M. Delon,
Magazine littéraire, Văn Học Pháp, số tháng Chạp, 96).
Ở đây, có một điều gì thật trớ trêu, của định mệnh:
một cách nào đó, sự hung bạo của ngọn lửa, cũng "hung
bạo" như giấc mơ của loài người, về một cuốn sách toàn
thể, về một con người toàn thể. Nhân vật trong Lột Xác
của Nguyễn Tuân còn mơ tưởng một cuộc phần thư, chính
thân xác của mình.
Nhưng thư viện và cơn thử thách của nó, lửa, với
Hà-nội, chỉ mang tính "ẩn dụ". Với Sài-gòn,
nó bắt nguồn từ cuộc hỏa thiêu thư viện đầu tiên của
nhân loại, thư viện (thành phố) Alexandrie. Người ta buộc tội
ông tướng Ả Rập, Amrou Ben Al-As, người đã chiến thắng Ai Cập
vào năm 642, là thủ phạm. Ông tướng này đốt thư
viện thành phố, sau khi "thăm dò" ý kiến Omar, người
kế tục Mahomet. Ông này trả lời: "Nếu tất cả những cuốn sách
đều hợp với (tinh thần) Coran, chúng vô dụng, phải đốt hết.
Nếu không hợp, chúng nguy hiểm, phải đốt hết."
Sartre viết, Husserl không hề là một nhà hiện thực.
Nhà thơ như Trần Dần, nhà văn như Lê Minh Hà,
lại càng không. Đừng coi những dòng kể của bà
về Hà-nội, là hiện thực chủ nghĩa, theo một nghĩa thô
bạo nhất của nó. Vẫn Sartre, trong bài viết đã dẫn,
"Hiểu, là vỡ òa về...", (Connaitre, c'est "s'éclater
vers"), và đó là ý nghĩa câu nói
nổi tiếng của Husserl: Ý thức chỉ là ý thức về một điều
gì (Toute conscience est conscience de quelque chose): y hệt như vết
bom ngưng lại, vì biết rằng, có một người, sau này sẽ
viết ra, điều này.
Trong một truyện ngắn khác, của cùng tác giả, "bãi
dâu xanh mênh mông, hoa muồng muồng vàng rực, đình
tám mái sân đầy cứt chim..." như phô hết sự quyến
rũ của chúng dưới bầu trời: máy bay Mỹ đánh phá
khắp nơi.
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham đi từ văn chương ra ngoài
đời. Một Hà-nội của tưởng tượng, của mơ tưởng, hoang tưởng, không
tưởng... Chỉ là những chi tiết, mọc lên từ hư không, dứt
ra từ tưởng tượng. Anh tù cải tạo, tới Hà-nội, tần ngần, ngơ
ngẩn, giấu biệt "căn cước" của mình, nhất là những ngày
tù ghê rợn. Bố anh là quân nhân. Mẹ anh làm
nghề nấu hàng cơm. Anh giúp mẹ đưa cơm tháng cho cô
giáo. Rồi nhờ cô kèm thêm. Anh học trò
ngày xưa, thành sĩ quan như bố, đi cải tạo, mang theo cùng
với anh vầng trăng thơ ấu, chiếu vào hai mái đầu. Cô
giáo trong Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi (tập tuyện, nhà xb Tân
Thư, Cali, 1997), mơ mộng về một cái chết của người chồng phi công.
Anh mất tích, như một lần thất bại không thể mang trả bầu trời,
những cơn mưa, những cánh rừng... cho người vợ ở nhà.
Với Hà-nội của Nguyễn Chí Kham, chúng ta lại phải
đương đầu với một hoàn cảnh trái ngược, tựa thể bầu trời mùa
thu, chiếc áo trắng phất phơ bay trong gió, những chiếc lá
bàng... toàn những tưởng tượng, trong tiểu thuyết (như trong
Đôi Bạn, của Nhất Linh...), bỗng biến thành hiện thực. Cái
cô học trò mà anh tù cải tạo gặp ở nhà
ga, trên cùng chuyến tầu, như mang bóng dáng cô
giáo, của cậu học trò ngày nào. Làm sao
mà không chia sẻ với vầng trăng thơ ấu một kỷ niệm đẹp đẽ như
vậy!
Vẫn cái tam giác bếp núc: liệu chúng ta có
thể nhìn ra, hiện tượng mất cân bằng "sinh thái", - sự
phân phối nước - ở hai nhánh văn chương, tạo thành dòng
văn học hải ngoại? Phạm Thị Hoài, trong bài viết về vị thủ
lĩnh trong bóng tối, (Văn Học, Cali), có nhắc một câu
của Trần Dần, tôi đợi bọn trẻ chôn tôi. Bà cũng
coi, văn chương phản kháng ở trong nước, hiểu theo một nghĩa nào
đó, là Nhân Văn II. Người đọc vẫn chờ đợi Nhân
Văn II đi hết lưỡi lửa của nó, chờ đợi bao nhiêu chua chát,
cay đắng, bao nhiêu cái xấu, cái ác của nhân
vật, hoàn cảnh, trong tác phẩm của Dương Thu Hương, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... qua đi. Những trái núi,
bờ đê, "đập ngăn chặn Thái Bình Dương" (M. Duras) phải
được dẹp bỏ, hoặc trở nên dư thừa, khi những "cây non" như Lê
Minh Hà vượt cao hơn, sẵn sàng đương đầu với sức nóng
mặt trời. Thâm tâm những tác giả "đàn anh, đàn
chị" kể trên vẫn hằng mong như vậy. Và đó là ý
nghĩa "hoài bão" của Trần Dần.
Trong hoàn cảnh đó, người tù Nguyễn Chí Kham
thấy thật cần thiết, phải giấu biệt những khổ đau, (như một nạn nhân,
của Hà-nội?), khi ghé thăm thành phố.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết (Faulkner).
Tổng số những kinh nghiệm về khổ đau, anh có rồi. Về thời tiết, chỉ
thiếu Hà-nội. Người tù đi qua cầu Long Biên, thò
tay sờ lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa
nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn. Anh đang trên đường vào
Hà-nội, mang theo với anh tro than của những cuốn sách...
Nguyễn Quốc Trụ
Người tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ lên
thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng
lạnh, bao dấu vết bom đạn. Anh đang trên đường vào Hà-nội,
mang theo với anh tro than của những cuốn sách...
Bài viết
này, thoạt đầu tính viết như là lời giới thiệu cho 1
tập truyện ngắn, của NCK, nhưng khi đọc, cả người viết nó, lẫn tác
giả tập truyện ngắn, đều nhận ra, cái phần của LMH nặng hơn cái
phần của NCK.
Và GCC phải viết 1 bài khác thay thế, và đó
là bài
Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi
Tôi quen Nguyễn Chí Kham
đã lâu, từ cái hồi Nghệ Thuật. Truyện "đầu tay" của tôi,
Nghệ Thuật số 9. Của anh, số 10. Thành thử, giữa hai người viết,
không có tinh thần trên, dưới. Trộm nghĩ, cũng còn
may, ra tới ngoài này, được chiêm ngưỡng chiếu bồ đoàn
của một vị nữ tu, thí dụ vậy, chuyện trên, dưới tựa giấc chiêm
bao, hoặc thuộc tiền kiếp.
Dẫn nhập, theo kiểu thù tạc, cũng không. "Thì cứ lảm
nhảm đi, anh già này cũng làm cho tụi mình vui
lên được một vài phút!", hình như tôi đã
loáng thoáng nghe, có một người trẻ, nói về thế
hệ cha chú của mình, những chủ xị, "mastermind" của cuộc chiến
thịt da nát tan, người chết hai lần...
Khi đọc sơ mấy truyện anh đưa, (Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi], tôi
chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử đề nghị với anh,
với người đọc, một cách viết "kép", theo kiểu Faulkner, khi
viết Những Cây Cọ Dại, The Wild Palms: hai truyện viết song song, xen
kẽ, bề ngoài chẳng có chi liên hệ.
Ở đây, có quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng
thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và khi thoát
ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó
có ai còn lành lặn, sau một cuộc chiến như thế. Sau
những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương của anh,
có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế bên. Anh
mang theo vầng trăng qua những trại tù, và nó cứ thơ
ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh. Cái cậu học
trò này, ngày xưa, chỉ mong được cô giáo
gõ cho vài cái vào tay, sau này bắt chước
Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô
nằm trên giường bệnh: "Hãy ngủ đi, ngày mai chúng
ta sẽ lên đường." Cậu học trò, không có những bước
chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày
ngày mang cơm cho cô giáo của mình. Cậu có
một ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ phải tần
tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có
mãi một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau
một cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của những bài
toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng? Nếu cậu không
gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có tìm ra vầng
trăng "thề" thơ ấu mãi hay không? Và cái bài
học văn chương, phải chăng nó cũng bắt nguồn từ đó?
Có những truyện ngắn thuộc loại "kiệt xuất"; đọc, ta ngỡ ngàng,
đến nghẹt thở, nhưng kể cả tác giả, lẫn người đọc, đều không
tin, nó sẽ có những "đàn em". Tác giả khi viết,
và độc giả, khi đọc, đều cảm thấy sẽ có lúc phải chia
tay với nhân vật trong truyện. Truyện ngắn Bức Tường của Sartre, Kẻ
Xa Lạ của Camus, hay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu, chẳng hạn. Tôi
cứ nghĩ đến cảnh chia tay của họ Dương, với bầy sư tử của ông. Tôi
vẫn nghĩ, những truyện ngắn như vậy, là những ẩn ức, những phẫn nộ,
những nỗi đau, của đời sống, nhiều hơn là của văn chương.
Với Nguyễn Chí Kham, độc giả không gặp những truyện ngắn
như vậy. Truyện ngắn của anh không tạo những cú sốc, theo cả
hai nghĩa văn chương, lẫn cuộc đời. Cô giáo trong truyện Trăng
ơi, thơ ấu mãi không làm người đọc bận tâm với
một con quỷ của sự tò mò: cô có những nét
riêng, để người đọc nhớ, và làm cho cậu học trò
mới lớn phải bâng khuâng. Người đọc có thể tưởng tượng,
nhưng đừng quyết đoán, việc cô tức giận, khi cố gắng làm
cho cậu học trò hiểu một bài toán: một cố gắng để ngăn
chặn tình cảm, chỉ ở mức đó, giữa hai người. Có thể chính
vì vậy mà cậu học trò không thể chia tay với cô
giáo, và tìm cách cho cô giáo sống
lại mãi mãi, cùng với vầng trăng thơ ấu. Chúng
ta sẽ còn gặp cô, ở trong những truyện sau.
Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu học trò ngày xưa,
đã nói với cô giáo như thế này:
"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô
dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong
nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng
tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó,
như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng
nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup
de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier
dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir
de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement
pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là những ngày
dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu mãi?
NQT
Đọc/Viết
mỗi ngày
My Old Saigon
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|