Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Happy New Year
Bạch Yến, cô gái lớn
của vợ chồng Gấu.
Mẹ có bầu
đúng Mậu Thân, VC pháo kích khủng quá,
ở đúng khu chúng cứ nhè, để pháo kích,
ảnh hưởng
đến cái thai, tưởng què luôn.
Suốt thời thiếu nữ, bị tật đái dầm. Chắc giờ cũng chưa hết!
DECEMBER
It snows
and still the derelicts
go
carrying sandwich boards-
one proclaiming
the end of the world
the other
the rates of a local barbershop.
Charles
Simic: The Voice at 3.00 AM
Tháng
Chạp
Trời
tuyết
vậy mà vẫn có hai đấng không
nhà
đi ở ngoài đường phố
tay cầm cái hộp giấy đựng bánh mì
sandwich
một đấng
tuyên bố tận thế rồi
đấng kia
giá biểu cắt tóc
ở một tiệm gần đó.
Charles
Simic: Tiếng nói lúc
3 giờ sáng
Note:
Bài này mở ra tập thơ trên
Re: Sandwich boards
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Lunatic_Simic.html
WITH ONE GLANCE
That mirror understood everything
about me
As I raised the razor to my face.
Oh, dear God!
What a pair of eyes it had!
The eyes that said to me:
Everything outside this moment is a lie.
*
As I looked out of the window
today
At some trees in the yard,
A voice in my head whispered:
Aren't they something?
Not one leaf among them stirring
In the heat of the afternoon.
Not one bird daring to peep
And make the hand of the clock move again.
*
Or how about the time when the
storm
Tore down the power lines on our street
And I lit a match and caught a glimpse
Of my face in the dark windowpane
Với Cú
Nhìn
Cái gương biết mọi chuyện
về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa! Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với Gấu:
Mọi chuyện ở bên ngoài thời khắc này đều là
dối trá
Đều thuộc Vua Bịp
Hà, hà!
Khi Gấu nhìn ra ngoài
cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái cây ở ngoài vườn
Một giọng nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu chúng là “cái gì gì
cái chi chi, something”?
Không 1 chiếc lá
trong bọn chúng động đậy
Trong cái nóng của buổi xế trưa
Không một chú chim nào dám hé
nhìn
Và làm cho cái kim đồng hồ lại nhích
nhích
Hay là như thế nào,
ấy là nói về trận bão,
Khi nào thì nó quật sụm mấy đường dây
điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn mặt thảm
hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng dáng
thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên đường
Lần chạy theo BHD
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn!
Phạm Tăng
Họa sĩ Phạm Tăng, nổi tiếng trong
các lĩnh vực hội họa, trang trí, điêu khắc, thiết
kế sân khấu, nghiên cứu Phật học, vừa từ trần vào lúc
09 giờ 20 phút sáng ngày 12/12/Bính Thân
(09/01/2017) tại Paris, hưởng thọ 93 tuổi.
RIP
Phạm Tăng là anh ruột của họa sĩ Phạm Hoán,
1 trong nhũng vị chủ chốt trong ban biên tập Tập San Văn Chương.
Ông là bạn thân của Nguyễn Hoạt, và cùng
làm tờ nhật báo Tự Do, cùng đi tù vì
chống Diệm, với Nguyễn Hoạt.
Gấu biết ông, khi vừa vô Sài Gòn,
ở khu chợ Vườn Chuối, ông chắc cũng
mướn nhà trong khu này.
Adam
Zagajewski: January 27 ( Nguyễn Quốc Trụ)
Adam Zagajewski
NEW YEAR’S
EVE, 2004
You're
at home listening
to recordings of Billie Holiday,
who sings on, melancholy, drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free themselves
from fear?
Adam Zagajewski
Đêm
Giao Thừa
Bạn
ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không
về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật hiền
hòa?
Trong khi người sống không
thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
Philip Jones Griffiths - Hue 1968
VIETNAM. Hue. US Marines inside the Citadel rescue
the body of a dead Marine during the Tet Offensive. 1968
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31570609623/in/photostream/
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/The_Invisble.html
The Invisible
1
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì
được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay,
vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên
Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô
hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại
trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi
mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây
nè! (a)
2
Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
2
Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng
thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc
của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng
ta.
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu
tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn
Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất
thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu
Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ
u tối
Gấu không thể nào mà biết được,
dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày
nắng ấm Sài Gòn?
(a)
Ông
này đúng là thứ dữ, đọc nhiều, nhớ lâu,
bị chửi cũng khiếp nhưng vẫn tỉnh bơ, dịch thơ thì thần sầu.
Sai nguyên văn ư ? Nhưng đố mà tìm được cách
dịch nào làm người đọc thấy thống khoái hơn. Quái
kiệt.
Tks
K phán, bị THNM, nhìn đâu cũng thấy
VC. Bởi thế chúc SN:
HAPPY 78TH BIRTHDAY.
Today at 6:01 PM
CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ
GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN
CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ
NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC
CHÚC LUÔN QUÊN
ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG TRÍ
VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN AN ĐỂ HƯỞNG
HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU
ĐANG HIỆN DIỆN
K
Đa tạ.
GCC
Một vị độc giả ở trong nước, cũng quá mê kiểu
"lộng dịch" này.
Nhưng về già, ngộ ra, do mắt lé, nhìn
Gấu Cái ra cô phù dâu ngày nào,
thế là khổ cả đời!
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/6.html
THE THREE AUTUMNS
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
as conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their gold
-Music floats through the fragrant mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có tí
“đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra rằng, có
tới ba mùa thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù mùa
hè, của ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang, những mẩu, từ
những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới ngọt ngào
làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long lanh sáng.
Những cây bu lô
gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được phủ bằng một
bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì mọi giọt
lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện để phá
vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn tiếp theo
liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán như là
lương tâm,
Âm u như là tiếng còi báo động
máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc Kít
Và mọi tên Bắc Kít,
liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không còn,
đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn dã,
đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là chiến lợi phẩm
Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không gian, qua thềm
sương mù thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc chiến chấm
dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa thu - một mùa
thu năm qua, cách mạng tiến ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó ra cho lũ Mít
cùng nhìn thấy.
[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng
cực tới, hà, hà!
To SLN - sáng nay (ở Hội An),
Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch, cảm động
vô cùng -
with Tks. NQT]
CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ
GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ
GIỚI .
Độc đáo. Đúng như
thế. Thơ văn tin tức văn học của TV, đa phần thuộc loại tươi, cực tươi,
nói kiểu nhảm nhí, hai núm vú còn
đỏ hồng, thí dụ, thơ Simic, tập "The Lunatic", ngay từ khi
vừa đăng trên mấy báo văn học, như The Paris Review, hay The
New Yorker, là Gấu đã bệ về, và dịch. Những cuốn mới
ra lò của Borges, như Borges Tám Bó, Borges Conversations,
chưa nơi nào có cả, trừ Tin Văn. Khủng, cực khủng đến như
thế.
Thông tin, tài liệu văn học, thì cũng thế.
Không đơn giản đâu.
Bởi thế mà bài nào cũng có nguyên
tác đính kèm, để cho độc giả nhìn ra độ
lé, độ lệch giữa "nấm vú còn đỏ", và "hết
còn đỏ", sau khi độc giả thưởng thức, chúng!
Vả chăng, đây là ý
của Borges. Ông phán, học trò khám phá ra
Thầy. Gấu đã từng thuổng ý này, khi viết về cuốn "Bếp
Lửa" của TTT. Sau, thì biết là ở trong bài viết Những
Tiền Thân Của Kafka.
Bạn đọc bản dịch loạn của Tin Văn, và
sau đó, đọc nguyên tác, hay đọc nguyên tác,
sau đó, đọc bản lộng dịch, và thể nào, bạn cũng
khám phá ra 1 bản dịch khác nữa, và cứ thế
cứ thế.
"Nghĩa" của 1 bài thơ, bằng với số lần, bạn, và
những độc giả khác, đọc nó.
Tiền Thân
Kafka
Nếu tôi không lầm,
những mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không
lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự kiện thứ nhì này có ý nghĩa
hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc nhiều hoặc ít,
phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka chưa từng viết một
dòng, chúng ta sẽ không nhận ra tính chất này;
nói một cách khác, chúng chưa hề hiện hữu.
RIP
VHQ & Hai Lúa &
Hồ Thành Đức @ Quận Cam 1998
Cái
truyện Cháo Rắn thần sầu, tiếc không
còn, nhưng Lão Tặc Thiên hình như lúc
nào cũng “care” GCC, tên Mít độc nhất đã
qua được cái test của Kafka, thế là thằng chả bèn
chìa ra 1 số báo cũ, tờ The Paris Review
216, Spring 2016, trong có 1 truyện ngắn quá
thần sầu, cũng trong dòng Cháo Rắn,
của Witold Gombrowicz (1904-69), mà tòa soạn giới
thiệu: Một trong nhà văn chủ chốt, major, của văn chương Ba
Lan hiện đại, có lẽ được biết nhiều nhờ cuốn tiểu thuyết khôi
hài, comic, Ferdydurke.
The Tragic Tale of the Baron and
His Wife
WITOLD GOMBROWICZ
Witold Gombrowicz’s war against
cliché.
by Ruth Franklin
Note: Nhật ký của Witold
Gombrowicz, hay “cái gọi là” lưu vong Ba Lan
Bài này tuyệt lắm. TV sẽ scan và
dịch hầu độc giả.
Trích 1 câu trong nhật ký, entry
chót, viết trước khi ngỏm chỉ ít lâu:
“My entire life I have fought not to be a ‘Polish writer’
but myself, Gombrowicz,” he wrote. He nearly succeeded.
"Trọn đời, tớ chiến đấu để không là một
'nhà văn Ba Lan', nhưng là chính tớ, Gombrowicz".
Xém 1 tí, là ông thành
công. Tác giả bài viết kết luận.
Câu trên nếu....
“liên tưởng”, thì đúng là của...
Gấu:
“Cả đời, ta chiến đấu để đếch là
nhà văn Bắc Kít, mà chỉ là Gấu Nhà
Văn”
Hồi Ức Ba Lan, Cứu Rỗi Qua Tiếng Cười
http://www.nybooks.com/articles/2006/01/12/salvation-through-laughter/
Điểm Sách Nữu Ước, NYRB,
số đề ngày 12 Tháng Giêng 2006, Charles Simic
vinh danh nhà văn Ba Lan, Witold Gombrowicz: Cứu Rỗi Qua Tiếng
Cười, khi điểm một số sách của ông.
Trong Những Di Chúc Bị Phản Bội, Kundera vinh
danh Gombrowicz:
Rời quê hương năm 1939, khi 35 tuổi. Mang theo
cuốn Ferdydurke, như là
căn cước cá nhân của mình.... Cuốn sách
được in năm 1937, trước cuốn Buồn
Nôn của Sartre một năm, nhưng Gombrowicz,
vô danh, Sartre, danh tiếng như cồn sau Buồn Nôn.
Cuốn của Sartre đã chôm vị trí Ferdydurke của Gombrowicz. Nếu không
có sự bất hạnh này, văn chương Tây Phương, và
có thể cả triết học, đã đổi khác.
Tribute to Dinh Cuong
VOICES OVER WATER
There are spirits that come back to us
when we have grown into another age
we recognize them just as they leave us
we remember them when we cannot hear them
some of them come from the bodies of birds
some arrive unnoticed like forgetting
they do not recall earlier lives
and there are distant voices still hoping to find
us
RIVER
Li Po the little boat is gone
that carried you ten thousand li
downstream past the gibbons calling
all the way from both banks and they
too are gone and the forests they
were calling from and you are gone
and every sound you heard is gone
now there is only the river
that was always on its own way
Note: Cuốn thơ mới ra lò
của W.S. Merwin, nhà thơ Mẽo.
Tay này, Gấu cũng cực mê, có gần
như đủ tác phẩm của ông, dịch có, thơ có,
nhưng cuốn này, làm vào lúc cũng sắp
đi xa, thật là thần sầu.
Nấn ná mãi, mới dám mua, vì
bìa cứng, mắc quá, sau đành tặc lưỡi, Tết
mà!
Bài thơ sau đây, là trong số The
Paris Review, nhân đọc cái truyện của Witold Gombrowicz bèn chơi luôn.
Amit Majmudar
NOSTALGIA
Once upon a time. Twice on
her parents' bed.
She freaked out when she found the human stain
Dried rough in the rough shape of the male brain.
Cautious ever after, after that she said
She liked it when I shot her in the head.
She blew my brains out. Bang bang, I was dead,
Unarousable there in the first-floor master.
Sometimes, on long drives, she'd gun me. Faster, faster
I tongued the olive pressed between her thighs.
Floaters, she swore, as bright as rescue flares
Would dive across the dark behind her eyes.
I pearl dove and never once came up for air
There in her aunt's houseboat on Lake Champlain.
The wetter she got the harder I smelled the rain.
Danilo
Kis
January 18, 2016 ·
"Thiên
tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt".
Nadine Gordimer thổi Kis.
Trong "Một
cuộc gặp gỡ", Kundera viết về ông:
Trung thành
với Rabelais và đám
Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.
Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis,
cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi
với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và
ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ,
như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng
thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980
sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị
nữ thần có tên là Thời Sự chẳng có lý
do gì để mà giọi đèn vào mặt ông.
"Tôi không phải là một tên ly khai", ông
nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di
dân. Ông đi lại thoải mái giữa Belgrade và
Paris. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh,
écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất,
englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất,
thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất
năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu
Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến
thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là,
surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ,
có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền,
là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và
cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm
lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như
vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những
cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã
của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay
từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản.
Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm
sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết
của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa
toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược
cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính
trị, y hệt như những tên Mao ít trên tthế giới.
Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó
trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với
những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười,
nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc
mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của
ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai
của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton
majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến
mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng
thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực,
những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của
ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào
cõi mất.
Kundera: Gặp Gỡ
Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian
ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong
bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi.
Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng
chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa
đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo
Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và
mang những trang sách đã từng được xuất bản tại
hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng
dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại
chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!
Borges
There is no doubt: the short story
or, rather, the art of the short story must be divided
into pre-Borges and post-Borges. I am not thinking so much
of the way he broadened the scope of reality (in the direction
of the fantastic) as of the way he told his stories. The story
of the Maupassant-Chekhov-O. Henry variety, which emphasized
detail and created its mythologemic field by means of induction,
underwent a magic, revolutionary transformation in Borges: Borges
introduced deduction, which is merely another name for a kind of
narrative symbolism, the consequences of which in both theory and practice
are of the same magnitude as the appearance of symbolism in poetry
with Baudelaire. The inductive method, after reaching its apogee in
the three masters of the realistic story mentioned above, had exhausted
its possibilities and- given the principle of the alternation of sensibilities
and the literary reaction it provokes-feels anachronistic today
[suited]
Danilo Kis: Homo
Poeticus, essays & interviews
34
Once exiled from the home of their
language, writers are left with nothing but that language;
it is the mark of their exile. They go on writing in it as
if the high price they have paid made them the only ones able to
resist the "exile of syntax." And if they have escaped the perilous
semantic homogenization of newspeak, it is primarily because they
are keenly aware that as writers they use more than words alone:
they write with their entire being, with ethos and mythos, with memory,
tradition, and culture, with the impetus of linguistic associations-with
everything that the automatism of language turns into the flick
of a hand (and vice versa).
Danilo Kis: Homo Poeticus
Bourne: Ông viết, “Khi
một ai đó đọc Whitman, người đó là Whitman",
và tôi tự hỏi, khi ông dịch Kafka, có lúc
nào ông thấy mình là Kafka?
Borges: Well, tôi nợ Kafka nhiều quá, và
tôi nghĩ mình thực sự đếch cần hiện hữu (I owed too
much to Kafka that I really didn’t need to exist).
Khi ông dịch Kafka sang tiếng Tây Ban Nha,
ông có nghĩ, ông có “mission”?
Không, nhưng khi dịch Walt Whitman, Song of Myself,
thì tôi nghĩ, “Cái điều tôi đang làm
quá quan trọng”.
Bourne: Về "ý nghĩa" trong tác phẩm của
ông, hay sự vắng mặt của nó – trong tác phẩm
của Kafka có cái gọi là tội lỗi, guilt, dài
dài trong đó, trong khi, mọi cái ông viết ra thì
đều quá tội lỗi, beyond guilt.
Yes, that’s true. Kafka có cái cảm quan
về tội lỗi [Kafka had the sense of guilt). Tôi không
nghĩ là tôi có, vì tôi không
tin vào"free will".
Definition of free will
1
: voluntary choice or decision
"I do this of my own free will"
2
: freedom of humans to make choices
that are not determined by prior causes or by divine intervention
Viết Mỗi
Ngày
Nguyễn Khải
by VTH
tình
cờ đọc cái này trên facebook của giáo sư ngô
bảo châu mà thấy buồn đau. sau ngày 30/4/75 người
miền bắc tràn vào miền nam “thu hoặch” biết bao nhiêu
thứ. từ nhà cửa đến con búp bê gãy cổ. trong
khi người miền nam co rúm sợ hãi, tìm mọi cách
“bỏ của chạy lấy người”.
Chau NgoFollow
11
hrs ·
Chicago, IL, United States ·
Đây có lẽ là một bức tranh chợ,
của một hoạ sĩ vô danh. Nhưng quả thật tôi rất muốn biết người
đó là ai, và có một dịp gặp mặt. Để hỏi người
ấy về ý nghĩa của bức tranh này.
Sau năm 75, ông ngoại được đi công tác miền Nam. Đi
công tác miền Nam dạo đấy là dịp để thay đổi cơ bản
cuộc sống vật chất. Có người khuân về nhà cái
TV, có người khuân về tủ lạnh.
Không hiểu tại sao đi công tác miền Nam ông
ngoại chỉ mang bức tranh này về. Khi còn bé, tôi
luôn luôn thắc mắc tại sao hoạ sĩ lại vẽ cô gái
giống như một ngọn lửa nhỏ.
NBC
Note: Cái chuyện bỏ của chạy lấy
người, Miền Bắc nhận hàng.... thì bắt buộc phải như vậy
thôi.
Hỏi về 1 bức
tranh?
Sao không hỏi, về số phận không biết bao nhiêu
con người?
Liệu, câu
trả lời cho 1 câu hỏi như thế, nằm ở trong sự khác biệt giữa
Kafka và Borges, khi ông cho rằng, K có cái
cảm quan về tội lỗi, Kafka had the sense of guilty, còn với
Borges, có cái quá tội, beyond guilty.
Đây đúng là 1 vấn nạn lớn:
Bắc Kít không có cái cảm quan tội lỗi, chúng
chưa hề nhỏ 1 giọt nước mắt cho cả 1 miền đất bị chúng làm
nhục: Nhà Ngụy chúng lấy, phân phát cho nhau,
Ngụy, chúng bỏ tù dài dài, vợ Ngụy, chúng
hiếp, con Ngụy chúng cấm đi học...
Cái tay Nobel Toán thực sự thắc mắc về ý nghĩa của
1 bức tranh, và thực sự mong, gặp được tác giả bức tranh, để
hỏi.
Borges thú nhận, tôi không cảm thấy tội lỗi, vì
tôi không tin vào free will.
But I don't believe in free will, I can't feel guilty.
Liệu Bắc
Kít cũng sẽ trả lời như thế, về Cái Ác Bắc Kít?
Lạ, là
cứ như thể Borges đọc ra số phần những người, của cả hai miền, khi viết
cái truyện The Intruder.
Borges ca cẩm hoài, "số dách" của tôi, tôi
không hề nghĩ mình viết ra nổi truyện đó, hà,
hà.
Tuyệt vời hơn nữa, áp dụng truyện này vô xứ
Mít, theo kiểu liên tưởng, THNM mới cực đỉnh!
Thực sự mà
nói, Gấu không tin lũ Bắc Kít, những tên như Nobel Toán, hay "người tù
lương tâm" đọc nổi truyện ngắn The Intruder,
và cách đọc của riêng Gấu, về nó!
Note: GCC
kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader,
mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây, và
sẽ dịch sau.
Steiner viết, Borges
coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng
để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling.
“Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện
nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách
lạ thường.
Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng
cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn,
được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng
mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai
cùng có bổn phận, quên nàng:
Như thể,
sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên
bàn
(1)
THE INTRUDER
2 Samuel 1:26
[JLB 98]
They claim (improbably) that
the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen brothers, at
the wake for Cristian, the elder, who died of natural causes at some
point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must certainly
have heard it from someone else, in the course of that long, idle night,
between servings of mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom
I learned it. Years later, they told it to me again in Turdera, where
it had all happened. The second version, considerably more detailed, substantiated
Santiago's, with the usual small variations and departures. I write it
down now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically
the whole temper of life in those days along the banks of the River Plate.
I shall put it down scrupulously; but already I see myself yielding to
the writer's temptation to heighten or amplify some detail or other.
In Turdera, they were referred
to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor remembered
with some astonishment seeing in that house a worn Bible, bound in black,
with Gothic characters; in the end pages, he glimpsed handwritten names
and dates. It was the only book in the house. The recorded misfortunes
of the Nilsens, lost as all will be lost. The old house, now no longer
in existence, was built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could
make out a patio of colored tile, and another with an earth floor. In
any case, very few ever went there; the Nilsens were jealous of their
privacy. In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences
were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling on
Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall, with
red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never
hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood
feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible that
they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder to
shoulder, they tangled with the police. The younger one was said to have
had an altercation with Juan Iberra in which he did not come off worst; which,
according to what we hear, is indeed something. They were cowboys, team drivers,
rustlers, and, at times, cheats. They had a reputation for meanness, except
when drinking and gambling made them expansive. Of their ancestry or where
they came from, nothing was known. They owned a wagon and a yoke of oxen.
Physically, they were quite
distinct from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their
own bad name. This, and other things we do not know, helps to explain how
close they were; to cross one of them meant having two enemies.
The Nilsens were roisterers,
but their amorous escapades had until then been confined to hallways
and houses of ill fame. Hence, there was no lack of local comment when
Cristian brought Juliana Burgos to live with him. True enough, in that
way he got himself a servant; but it is also true that he showered her
with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the poor tenement fiestas,
where the more intimate figures of the tango were forbidden and where
the dancers still kept a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned,
with large wide eyes; one had
only to look at her to make her smile. In a poor neighborhood, where work
and neglect wear out the women, she was not at all bad looking.
At first, Eduardo went about
with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some business or
other; he brought back home with him a girl he had picked up along the
way. After a few days, he threw her out. He grew more sullen; he would
get drunk alone at the local bar, and would have nothing to do with anyone.
He was in love with Cristian's woman. The neighborhood, aware of it possibly
before he was, looked forward with malicious glee to then subterranean
rivalry between the brothers. One night, when he came back late from the
bar at the corner, Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence.
In the patio, the elder brother was waiting for him, all dressed up. The
woman came and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the Farias'.
There's Juliana for you. If you want her, make use of her."
His tone was half-commanding,
half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not know what
to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but not to Juliana, who
was an object to him, mounted, and trotted off, casually.
From that night on, they shared
her. No one knew the details of that sordid conjunction, which outraged
the proprieties of the poor locality. The arrangement worked well for
some weeks, but it could not last. Between them, the brothers never uttered
the name of Juliana, not even to summon her, but they sought out and found
reasons for disagreeing. They argued over the sale of some skins, but
they were really arguing about something else. Cristian would habitually
raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were
growing jealous. In that rough settlement, no man ever let on to others,
or to himself, that a woman would matter, except as something desired or
possessed, but the two of them were in love. For them, that in its way
was a humiliation.
One afternoon, in the Plaza
de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful
"dish" he had fixed up for himself. It was then, I think, that Eduardo
roughed him up. No one, in his presence, was going to make fun of Cristiano
The woman waited on the two
of them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference,
unquestionably for the younger one, who, although he had not rejected
the arrangement, had not sought it out.
One day, they told Juliana to
get two chairs from the first patio, and to keep out of the way, for
they had to talk. Expecting a long discussion, she lay down for her siesta,
but soon they summoned her. They had her pack a bag with all she possessed,
not forgetting the glass rosary and the little crucifix her mother had
left her. Without any explanation, they put her on the wagon, and set
out on a wordless and wearisome journey. It had rained; the roads were
heavy going and it was eleven in the evening when they arrived at Moron.
There they passed her over to the patrona of the house
of prostitution. The deal had already been made; Cristian picked up the
money, and later on he divided it with Eduardo.
In Turdera, the Nilsens, floundering
in the meshes of that outrageous love (which was also something of a
routine), sought to recover their old ways, of men among men. They went
back to their poker games, to fighting, to occasional binges. At times,
perhaps, they felt themselves liberated, but one or other of them would
quite often be away, perhaps genuinely, perhaps not. A little before the
end of the year, the younger one announced that he had business in Buenos
Aires. Cristian went to Moron; in the yard of the house we already know,
he recognized Eduardo's piebald. He entered; the other was inside, waiting
his turn. It seems that Cristian said to him, "If we go on like this,
we'll wear out the horses. It's better that we do something about her."
He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went
off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred his horse
so as not to see them. They returned to what has already been told. The
cruel solution had failed; both had given in to the temptation to dissimulate.
Cain's mark was there, but the bond between the Nilsens was strong-who
knows what trials and dangers they had shared-and they preferred to vent
their furies on others. On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had
brought discord into their lives.
March was almost over and the
heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom to retire
early), Eduardo, coming back from the corner bar, saw Cristian yoking
up the oxen. Cristian said to him, "Come on. We have to leave some hides
off at the Pardos'. I've already loaded them. Let us take advantage of
the cool."
The Pardo place lay, I think,
to the south of them; they took the Camino de las Tropas, and then a
detour. The landscape was spreading out slowly under the night. They
skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away the cigarette he had
lit and said casually, "Now, brother, to work. Later on, the buzzards
will give us a hand. Today I killed her. Let her stay here with all her
finery, and not do us any more harm."
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and
the obligation to forget her.
Favorite stories; insomnia; a changing picture;
Alice in Wonderland; Ulysses; Robert Browning; Henry James and Kafka;
Melville ...
BURGIN: You seem to disapprove of or criticize so much of your
writing. Which of your stories, say, are you fond of?
BORGES: "The South" and that new story I told you about, called
"The Intruder." I think that's my best story. And then "Funes the Memorious"
isn't too bad. Yes, I think that's quite a good story. And perhaps "Death
and the Mariner's Compass" is a good story.
BURGIN: "The Aleph" isn't one of your favourite stories?
BORGES: "The Aleph," yes, and "The Zahir." "The Zahir" is about
an unforgettable twenty-cent coin. I wonder if you remember it.
BURGIN: Of course. I remember.
......
BURGIN:
What about the story "The South"? Now you've said that story is your personal
favorite. Do you still feel that way?
BORGES: But I think I've written a better story called "La intrusa"
("The Intruder") and you'll find that story in the last edition of El
Aleph or of A Personal Anthology. I think that's better than the other.
I think that's the best story I ever wrote.
There's nothing personal about it; it's the story of two hoodlums.
The intruder is the woman who comes into the lives of two brothers who
are hoodlums. It isn't a trick story. Because if you read it as a trick
story, then, of course, you'll find that you know what's going to happen
at the end of the page or so, but it isn't meant to be a trick story.
On the contrary. What I was trying to do was to tell an inevitable story
so that the end shouldn't come as a surprise.
BURGIN: That's sort of like "The South," though. The sense of inevitability
in the story.
BORGES: Yes, yes. But, I think that "La intrusa' is better, because
it's simpler.
BURGIN: When did you write it?
BORGES: I wrote it about a year or so ago, and I dedicated it to
my mother. She thought that the story was a very unpleasant one. She
thought it awful. But when it came to the end there was a moment when
one of the characters had to say something, then my mother found the
words. And if you read the story, there's a fact I would like you
to notice. There are three characters and there is only one character
who speaks. The others, well, the others say things and we're told about
them. But only one of the characters speaks directly, and he's the one
who's the leader of the story. I mean, he's behind all the facts of the
story. He makes the final decision, he works out the whole thing, and in
order to make that plainer, he's the only character whose voice we hear,
throughout the story.
BURGIN: Is it a very short story?
BORGES: Yes, five pages. I think it's the best thing I've done.
Borges, cả đời viết như thế, cuối cùng chỉ chọn 1 truyện
ngắn, và đúng là cái truyện giải quyết cuộc
chiến Mít.
Cái cô gái bị hai thằng đàn ông
giết đó, chính là cái gia tài để lại,
mà cả hai tên khốn kiếp - 1 trong hai tên, đã
giết cô gái - có bổn phận phải quên nàng!
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and
the obligation to forget her.
Cái truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn, Gấu
đọc nó, dưới cái nền của cuộc chiến Mít, và
cứ nghĩ, do THNM.
Không hẳn như thế: Borges viết nó, dưới cái nền
cuộc chiến Nazi của Hitler. Mãi gần đây, Gấu mới nhận ra, sau
khi đọc những bài Borges viết về 1 nền văn hóa, văn học, giáo
dục của hận thù.
Naipaul chửi Borges, suốt đời mê mẩn với cái bất tử. Không
đúng. Sở dĩ, Kafka và Borges có liên hệ Thầy
Trò, chính là do, tưởng hai mà là
một. Kafka viết, dưới cái ám ảnh của thế giới toàn
trị của CS, cũng như Borges, dưới ám ảnh của chế độ Nazi. Trong
cuốn Phỏng vấn chót, Borges có đề cập tới Phép
Lạ Bí Ẩn.
Phép lạ
bí ẩn ( J.L.Borges)
PHÉP LẠ BÍ
ẨN
Jorge Luis Borges
Và Thượng đế làm anh
ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và
nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261
Lời
người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có
một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào
thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta
sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người,
thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình,
mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và
xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban
cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT
đây
là ông bạn già của tui những năm cuối thế kỷ trước.Tui
đã dựng Khúc Hát Đoạn Tình của ông cho khóa 3 Nhà Hát CL
Trần Hữu Trang. M cũng đã thành danh nghiệp diễn
trong vai dì ba Duyên trong vở Ngôi Nhà Không Có Đàn
Ông của Ngọc Linh, Hoa Hạ - Hoa Cát đạo diễn
nguoi-viet.com |By Người Việt
Note: Gấu cũng có tí kỷ niệm với Ngọc
Linh, liên quan tới cuốn của Malaparte:
http://tanvien.net/D_4/34.html
Trang Kundera
Tiểu thuyết –Trùm, L'Archi-Roman
Thư ngỏ nhân Sinh nhật Carlos Fuentes.
Mon Cher
Carlos,
Sinh nhật của bạn nhưng cũng là
của tôi : Bạn ăn mừng 70, thất thập cổ lai hy, và
cũng đúng 30 năm đã qua, kể từ khi tôi gặp bạn
ở Prague. Bạn tới đó, vài tháng sau cuộc xâm
lăng của Liên Xô, với Julio Cortazar, với Gabriel Marcia
Marquez, để tỏ mối lo âu của bạn, với chúng tôi,
những nhà văn Tiệp.
Vài năm sau đó, tôi định cư ở
Pháp, còn bạn, là vị đại sứ của Mexico.
Chúng ta thuờng gặp nhau, trò chuyện. Chính
trị thì ít, nhưng tiểu thuyết thì nhiều. Đặc
biệt là về cái món tiểu thuyết, cả hai thật gần
gụi với nhau.
Thời kỳ đó, chúng ta đều ngỡ ngàng
về cái sự bà con giữa xứ sở Châu Mỹ La Tinh
lớn lao của bạn, và xứ Trung Âu nhỏ bé của chúng
tôi, hai mảnh đất của thế giới đều mang nặng dấu ấn hồi ức
lịch sử về 1 thời kỳ baroque, và nó làm cho
nhà văn trở nên quá nhạy cảm với sự quyến rũ,
mồi chài của sự tưởng tượng mang tính kỳ quái
dị, thần tiên, ma mị. Và còn 1 điểm chung nữa
: hai phần đất của chúng ta đều đóng 1 vai trò
quyết định trong cuộc tiến hoá của tiểu thuyết thế kỷ 20,
tiểu thuyết hiện đại, hay có thể nói, thời kỳ sau-Proust
: thứ nhất, trong những thập niên 1910, 1920, 1930, nhờ ở nhóm
Nhị Thập Bát Tú, là những tiểu thuyết gia lớn của
phần Âu Châu của tôi : Kafka, Musil, Broch, Gombrowicz…
(chúng tôi ngạc nhiên vì nhận ra 1 điều là
đã dành cho Broch một sự ngưỡng mộ lớn lao hơn nhiều, so
với những đồng bào của ông ngưỡng mộ ông, và cũng
thật khác biệt, so với họ : theo chúng tôi, ông
ta mở ra những khả thể mới mang tính mỹ học của tiểu thuyết ; ông
ta, trước hết, là tác giả của cuốn Những kẻ mộng du)
; rồi thì, trong những năm 1950, 1960, 1970, nhờ ở 1 chòm
Nhị Thập Bát Tú khác, trong phần đất của các
bạn, tiếp tục biến đổi mỹ học của tiểu thuyết : Juan Rulfo, Carpentier,
Sabato, rồi bạn và những bạn bè của bạn.
Hai điều trung thành xác định chúng
ta : trung thành với cuộc cách mạng nghệ thuật hiện
đại của thế kỷ 20 ; và trung thành với tiểu thuyết.
Hai sự trung thành đó chẳng hề tụ hội. Bởi vì
[trường phái] tiền phong (nghệ thuật hiện đại trong ấn bản
ý thức hệ hóa của nó) luôn luôn
xếp xó tiểu thuyết ở bên ngoài chủ nghĩa hiện
đại, coi nó như là đã bị vượt qua, mang tính
qui ước không sao chịu đựng nổi, nghĩa là, miễn bàn.
Nếu, sau này, vào những năm 1950, và 1960, những
đấng tiền phong 'hậu phong' bắt đầu tái sáng tạo và
tuyên xưng chủ nghĩa hiện đại dành cho tiểu thuyết, họ đã
làm điều này, thuần túy theo 1 đường hướng mang
tính phủ định: một cuốn tiểu thuyết không nhân
vật, không tình tiết, không
câu chuyện, không chấm câu, nếu có
thể, thứ tiểu thuyết tự gọi nó, hay để cho mọi người gọi nó
là phản- tiểu thuyết [từ này của Sartre.
GNV].
Kỳ cục: những người sáng tạo ra thơ hiện đại
không có ý làm cái gọi là
phản thơ. Ngược lại,
kể từ Baudelaire, chủ nghĩa hiện đại thơ ca cố tới gần, một
cách thật là triệt để, cái yếu tính của
thơ, cái chiều sâu thật đặc trưng của nó. Trong cùng
1 đường hướng như thế, tôi tưởng tượng ra 1 thứ tiểu thuyết
hiện đại không phải như phản-tiểu thuyết nhưng mà
là tiểu thuyết-trùm, hay tổng-tiểu
thuyết, hay tiểu thuyết-vua, an arch-novel.
Cái thứ tiểu thuyết-trùm này,
thì, thứ nhất, xoáy vô điều mà chỉ tiểu thuyết
mới nói, đám khác đi chỗ khác chơi, cho
được việc tiểu thuyết; thứ nhì, nó sẽ làm sống
lại tất cả những khả thể bị lơ là, bị bỏ quên, mà
nghệ thuật này đã tích luỹ được trong bốn thế
kỷ của lịch sử của nó. Hai mươi lăm năm trước đây, tôi
đọc cuốn Terra Nostra của bạn: tôi đọc đúng cái
thứ tiểu thuyết có tên do tôi phịa ra đó:
1 cuốn tiểu thuyết-trùm. Điều này chứng tỏ, quả
có thứ đó, có thể có thứ đó, và
sẽ còn có nữa, nữa.
Thứ hiện đại lớn lao của tiểu thuyết. Cái
mới thật khó khăn, và thật ngỡ ngàng.
Ôm bạn quí của ta,
Milan
Cuốn tiểu thuyết-vua mà Kundera
muốn vinh danh, là cuốn « Thượng Đế Đã Chết
Trong Thành Phố », tức cuốn La Peau [Làn Da]
mà GNV này đã chuyển ngữ, từ những năm trước
1975, của Malaparte, một nhà văn Ý, mà Kundera
coi là 1 tiền khuôn mẫu, pré-modèle, của
nhà văn dấn thân. Một tay ở trong nước tính ‘đi’
lại cuốn này, và GNV có đề nghị, nếu đi, thì
phải đi trọn gói, nghĩa là dịch toàn bộ cuốn truyện,
vì khi GNV dịch, bỏ đi đến 2/3 cuốn sách, theo đề nghị
của ông Nhàn chủ nhà xb Vàng Son.
Có 1 giai thoại về bản dịch này. Khi
GNV dịch xong, ông Nhàn đem trình [chắc thế]
cho tay Khoát, [hay Quát], chủ nhà sách
& nhà xb Sống Mới, chủ đích thực của nhà
xb VS của ông Nhàn. Tay chủ Sống Mới bèn đưa
cho tay Ngọc Linh, tác giả Đôi Mắt Người
Xưa, kiểm tra ; theo ông Nhàn kể lại với Gấu, tay
này mê quá, nhưng tiếc hùi hụi, bản dịch
tuyệt cú mèo, nhưng bỏ đi nhiều quá !
Bạn phải đọc cuốn La Peau, thì mới hiểu được
cái sự tiếc hùi hụi của Ngọc Linh. Cuốn truyện miêu
tả những ngày Yankees mũi lõ giải phóng đất
Ý, và có rất nhiều nét y chang cái
cảnh quân đội Mẽo, những năm có mặt tại Miền Nam ! GNV
không hiểu tại làm sao mà ông Nhàn,
rất ư là cù lần, mà thật là tốt bụng,
lại kiếm ra cuốn này, và đưa Gấu dịch!
The president-elect approaches diplomacy
like a Qing-dynasty emperor, says The Economist’s Washington bureau chief
It says a
lot about the Qing emperors’ worldview that, for much of the time their dynasty
lasted, relations with foreign powers were handled by an Office of Barbarian
Control. Jump to late 2016 and the dawn of the Trump era in America, and
life for the nearly 180 ambassadors resident in Washington, DC is
almost as humiliating.
Before the
election, modern-day envoys spent months talking to foreign-policy experts
signed up with Hillary Clinton’s campaign – a veritable administration-in-waiting,
housed in think-tanks, universities and consulting firms, comprising several
hundred advisers organised into working groups and sub-groups and busy
holding conference calls and sending one another memos. Even the farthest-flung
country had friends within this system: a former National Security Council
director with a passion for the Caucasus, say, who might soon serve as a
principal deputy assistant secretary of state (an actual job title). In
contrast, embassies anxious to know what Republican foreign-policy grandees
were telling Trump faced an unusual hurdle. During 2016 dozens of conservative
thinkers and bigwigs from both Bush presidencies signed “Never Trump” letters
declaring the businessman a terrifying menace to global security – though
since his win, Washington being what it is, some are now pondering whether
they might work for him anyway.
For foreign
envoys, Trump’s victory was as disruptive and confusing as a coup behind
imperial palace walls. Diplomats and news outlets found themselves tracking
down anyone with a sense of the new ruler’s thinking, from business partners
to old friends to anyone in the small band of advisers who accompanied
him on his journey from insurgent to president-elect. Even arranging phone
calls of congratulation to Trump from heads of state and government was
a source of angst. Foreign diplomats have spent days swapping wry tales
of repeat-dialling the Trump Tower in Manhattan, the brass and pink-marble
temple to 1980s style that has become the hard-to-access centre of American
power, like a vertical Forbidden City. Some heads of government were offered
calls with the president-elect at such short notice that they ended up
talking to Trump on their mobile phones.
Soon after
the election, in a street-corner conversation that felt like a cross between
a joke and a bad dream, one diplomat confided that the Australian ambassador
had patched his prime minister through to the president-elect after being
given Trump’s private number by the Australian golfer, Greg Norman – a
story that leaked in the Australian press some days later (it was a “pleasure
and an honour” to help, Norman told reporters). More than one embassy
had invested heavily in ties with Governor Chris Christie of New Jersey,
a garrulous bruiser who backed Trump early and became head of his presidential
transition team. Alas for his foreign friends, Christie was abruptly demoted
after the conviction of two of his allies for abusing their power in New
Jersey.
Britain,
traditionally one of the best-connected allies, had to watch Nigel Farage,
boss of the United Kingdom Independence Party and a vocal admirer of Trump’s
America First nationalism, visit Trump Tower before any minister from the
British government. Trump then tweeted some advice to 10 Downing Street:
that Farage should be made British ambassador to Washington. Others
have it worse. The Washington Post caused a stir
by reporting that scores of foreign diplomats attended a marketing event
a week after the election at Trump’s new hotel in the capital, housed in
a grand old post-office building on Pennsylvania Avenue, having been
tempted by the chance to curry favour with the new president by booking delegations
into his property. “Why wouldn’t I stay at his hotel blocks from the White
House, so I can tell the new president, ‘I love your new hotel!’” an Asian
diplomat told the Post.
Such tales
of frantic sycophancy mask a more serious concern. In cables home, embassies
should now be reporting on the new administration’s priorities in trade,
foreign and security policy, drawing on conversations with an ever-expanding
team of senior players and position papers written by influential
members of Team Trump. This time it is different. Along with other journalists
and diplomats, I have met, interviewed and lunched with people who bear
impressive-sounding advisers’ titles in Trump-world. But when pressed in
private, few dare to claim decisive influence over their boss. Insiders
describe a leader who does not care to read policy memos, preferring to
absorb information in person, ideally by peppering a small group with pointed
questions. A frequent caveat in Trump-world is a nervous phrase like: “Now,
this is just me talking, not Mr Trump.”
In a famous
rebuff, the Qianlong emperor declared himself quite unimpressed by clocks,
telescopes and other gadgets brought by the first British envoy to China,
Lord Macartney. “We possess all things. I set no value on objects strange
or ingenious, and have no use for your country’s manufactures,” the emperor
wrote to King George III. The next American president seems to feel much
the same about ideas from outsiders. Asked in March about his preferred sources
of geopolitical advice, he cheerily answered: “I’m speaking with myself,
number one, because I have a very good brain.” Where that leaves foreign
leaders is anyone’s guess. Barbarians grow “arrogant” if treated too well,
the Qianlong emperor once grumbled. If President Trump proves half as imperious,
allies face a bumpy few years.
Sách
&
Báo
Mới
Note: Tay này,
vua viết trinh thám, biết mình sắp đi, ung thư
phổi, bèn viết cuốn này. Gấu mua, làm mồi,
viết cuốn của Gấu!
Chắc là sẽ viết về những
ngày ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa,
nơi Gấu tính chọn, để chết, đếch thèm trở về
Đời!
Nơi chốn hạnh phúc, là
nơi chốn để chết!
Khi ông anh của Gấu viết MCNK,
ông biết, mình là con voi già,
trở về cái nghĩa địa voi, tức là Đà
Lạt của ông, để chết.
Nơi chốn hạnh phúc nhất?
Thì đọc thư viết cho đảo
xa thì biết.
Hay đọc mấy bài thơ của ông
gửi cho đảo xa.
Ngôi nhà đỏ, trăng hồng
TTT
@ Phan Nguyên Blog
Những đứa trẻ
của Dickens
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu
lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày
em ở Sài Gòn, tuy nói với em là
vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm
mấy bài thơ thì có. Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai
bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không
có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em
nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc
là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão
- có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng
hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi
anh toàn nói bậy không. Lúc nào
anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy
cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh
gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như với những người khác, hay bình
thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi
anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có
lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi
anh ngày nhỏ: không bao giờ anh có được
cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh
mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn
đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những
đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến
cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào
không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã
thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn
đốn vì yêu người.
Phỏng Giái
Nhà Ngụy, chúng
chiếm; Ngụy, chúng tống vô Trại Tù mút
mùa lệ thuỷ;
Vợ Ngụy, chúng hiếp; con Ngụy, cấm
đi học, đứa nào lỡ đi học, cấm vô Đại Học!
Liberation-and Return?
MILAN RICHTER
Only in a dream would
you dare ask your mother
about Commandant Vasil,
who liberated her from Terezín
and from virginity.
"They
gave us freedom, and I and my friend
Zdena gave them love."
She did not say "our bodies"
or less plainly
"the scent of our Jewish hair."
"At the
command centre in Teplice we sorted
the diamonds confiscated from
the Germans.
Lesser gems went by courier to
Moscow;
Vasil kept the finest for himself.
'You are
the most beautiful jewel I have,'
he'd say, smiling, as he stowed
them in the safe.
If I'd hidden away just one
behind my blouse,
believe me, we'd be wealthy
today.
For me
he was a hero of Russian legends;
I found it enough to eat well,
to be sated with his embraces.
By then
I had no one else left in the
world.
That autumn
they ordered him home,
but he never returned to wife
and children.
His own chauffeur murdered
him on the way.
Death liberates. I was again
free and
alone," my mother tells me in this long dream.
"When
your father tracked me down a year later,
resignedly I fell into captivity,
the Babylonian bondage a new
generation
will emerge from. And one day
will be released
to freedom-and death."
[Translated from Slovakian by John
Minahane]
http://www.tanvien.net/tribute/koestler_2.html
Trong
bài Sự thách đố của chủ nghĩa quốc gia, The challenge of the nationalism, in trong Wellsprings, Llosa viết:
Trong
Đường tới nông nô, The Road to Serfdom
[1944-45], Friedrich Hayek viết, chủ nghĩa xã hội, socialism,
và chủ nghĩa quốc gia, nationalism, là hai hiểm
nguy lớn lao nhất đối với văn minh. Nhà kinh tế lớn lao người
Áo chắc chắn phải thêm vào nhận xét
của ông, vào những ngày như thế này,
chủ nghĩa chính thống giáo, religious fundamentalism.
Cái chủ nghĩa xã hội mà
ông nhắc tới ở đây, là chủ nghĩa Mác,
kẻ thù không đội trời chung của dân chủ tự
do, mà chủ nghĩa Mác gọi là một hình
thức bóc lột của tư bản, a form of capitalist exploitation.
Cái thứ xã hội chủ nghĩa này nhắm tiêu
diệt tư hữu mọi phương cách sản xuất, tập thể hoá
đất đai, quốc hữu hóa kỹ nghệ, tập trung và lên
kế hoạch kinh tế, ban hành nền chuyên chính vô
sản như là bước đầu tiến tới xã hội không còn
giai cấp trong tương lai. Chủ nghĩa xã hội mác xít
biến mất cùng với sự tan rã của Liên Xô và
sự chuyển đổi của chủ nghĩa CS Trung Quốc thành một chủ nghĩa
tư bản độc đảng cầm quyền, single-party authoritarian capitalism. Mộ
chí của nó, its epithah, là sự sụp đổ Bức Tường Bá
Linh vào năm 1989.
Không có gì tởm
hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác,
nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng.
Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch sử hiện đại.
Quê
hương của một con người, thì cũng chỉ là một mảnh
không gian - có thể một căn phòng khách
sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con
mắt của nhân dân hay sự phiền hà của một chế độ
thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép
một con người, và tác phẩm của người đó. Cây
có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau
khi lương tâm của nó nói: Không!
George Steiner: The Cleric of Treason
Chủ nghĩa quốc gia, ở xứ
Mít, là chủ nghĩa Bắc Kít!
Xã hội chủ nghĩa, qua cái tên
Mác Xít, ở xứ Mít, cũng là chủ nghĩa
Bắc Kít!
Cái sự tàn bạo
của nhà nước Bắc Kít… như hiện nay, cho thấy –chúng
không tha, ngay cả người dân bần cùng Bắc Kít
của chúng – nhờ Tẩy cai trị xứ Mít, mà có
cái gọi là Miền Nam trước 1975.
Trong
cuốn "Chữ Đuổi Thần Chết" có 1 giai thoại thật thú
vị liên quan tới Dr Zhivago: Bị sức ép
của nhà nước, Pasternak phải gửi “mail” chính thức
cho nhà xb ở Ý, ra lệnh ngưng in ấn, nhưng bằng 1 account
riêng, ông nhắn, in lẹ lên; trước khi ngỏm, tớ chỉ
mong được nhìn thấy nó!
Xịa,
nhờ Tòa Thánh La Mã, tuồn những ấn bản
Bác Sĩ Zhi Và Gồ, qua
những khách du lịch viếng thăm Rome, Tòa Thánh,
về Nga. Cuốn này, và cuốn của Conquest viết về Đại
Khủng Bố của Xì, đã đóng góp vào
việc xóa sổ Liên Xô.
Bắc Kít, trước 1975, gần như mù tịt
về 1 Miền Nam.
Dấu hiệu mặc khải, với DTH, về 1 thiên đường
Miền Nam, là, bà nghe dân chúng chửi Thiệu như điên!
Và bèn ngồi xuống vệ đường, và
khóc!
My Old Saigon
'I am memory come alive' … Franz Kafka. Photograph:
Culture Club/Getty Images
Kafka: The Years of Insight by Reiner Stach review
– a triumph of literary scholarship
http://www.theguardian.com/books/2015/jul/31/kafka-years-of-insight-franz-reiner-stach-review-shelley-frisch
Note: Câu của Kafka, I am memory
come alive, Gấu đã từng chôm, khi còn Sài
Gòn, trước 1975, qua bản tiếng Tây, "Je suis une mémoire
devenue vivante d’où l’insomnie", và đặt lên
đầu truyện ngắn Kiếp Khác.
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|