Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Playboy Jan & Feb
Happy New Year
whether we be young or old,
Our destiny, our being's heart and home,
Is with infinitude, and only there;
With hope it is, hope that can never die,
Effort, and expectation, and desire,
And effort evermore about to be,
Trẻ hay già
Số phận trái tim, nhà, đời của chúng ta
Thì ở với vô cùng, và chỉ ở đó:
Với hy vọng chẳng bao giờ ngỏm
Cố gắng, hoài mong, và ao ước,
Và cố gắng nữa nữa
Về sống ở trên
đời
The moving Moon went up the sky,
And nowhere did abide:
Softly she was going up,
And a star or two beside –
Bà Trăng mò mãi
lên trời
Và không đâu, không nơi nào, sững lại
Bà
cứ thế nhẹ nhàng bay cao lên mãi
Với một, hay hai đệ tử,
Là hai vì sao, bên cạnh Bà
Virginia Woolf: How Should One
Read a Book?
But also we can read such books with
another aim, not to throw light on literature, not to become familiar with
famous people, but to refresh and exercise our own creative powers.
Nhưng chúng ta cũng có
thể đọc sách, với 1 cái đích, bảnh hơn thế nhiều: Không ném ánh sáng lên trang
sách, không làm quen với những đấng văn thi sĩ, mà,
lại làm tươi rói, và loay hoay, hì hục, thao
tác, thao túng
những quyền
uy, sức mạnh sáng tạo của chính chúng ta
Noel 2016
Thất Hiền
Bếp Lửa,Tựa Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có viết: "Người ta không thể nào viết
lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không tin như thế. Trong nhiều năm sau khi quyển
sách này được xuất bản, dường như tôi đã hì
hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho
tái bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây
giờ, sau mười bẩy năm.
Note: Cái chuyện TTT hì hục viết lại Bếp Lửa, lý
do tại sao, phải mãi đến bây giờ, Gấu mới lờ mờ hiểu ra,
khi nhớ đến “cas” Lolita, của Nabokov.
Khi được hỏi, tác giả cay đắng nói, thiên
hạ chỉ biết đến Lolita, đếch biết đến thằng già Nga này,
với cái tên u tối, thật khó đọc!
Bếp Lửa bị đúng cái năm 1954 tóm lấy, đếch
chịu nhả ra nữa!
Theo ý đó, thì Ung Thư, sở dĩ tác
giả quyết định không cho in, dù hoàn tất, bởi là
vì đã có MCNK thay vào đó rồi. Hơn
cả thế, MCNK còn vượt cả Bếp Lửa, theo cái nghĩa mà
Borges nói, nghệ thuật tự nó nên tìm cách
thoát ra khỏi thời gian, đừng để bị nó cầm tù!
Cái chuyện MCNK sống sót cũng thật là tuyệt
cú mèo. Nhờ Ngọc Dũng, trong lúc vội vã rời
Việt Nam, quơ vội nó, mang theo, như Đinh Cường cho biết, rồi
Mai Thảo cho in nó, và cũng kể như tuyệt bản sau đó,
nếu không nhờ Nguyễn Đông Ngạc, trước khi té xuống
trong khi chờ ăn tô phở, đã dặn dò bà vợ, đưa
cuốn sách cho thằng Gấu!
Ôi chao, số phận 1 cuốn sách. Phải có Chúa
tính toán ở trong đó, hẳn thế!
Cái bài viết về cuốn BL của GCC, cũng có
1 số phận rất ư là ly kỳ.
Lần thứ nhất, đăng trên Tập San Văn Chương, 1972, Gấu thực
sự không hề có ý định viết nó.
Do gặp gỡ, quen
biết Joseph Huỳnh Văn, để tạ ơn ông Trời, đúng như thế,
vì ghiền nặng như thế, chết bất cứ lúc nào như thế,
bèn viết bài viết, như quà tặng cho tình bạn
của hai đứa.
Joseph Huỳnh Văn nhận ra liền, mi viết bài này là
vì ta, không vì TTT, không vì văn chương,
không vì cái đếch không vì gì
hết, đúng không?
Đúng như thế!
Hai câu thơ:
Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi
Của Joseph là cũng được viết ra, trong tinh thần như thế!
Vậy mà tên khốn kiếp nào đó dám
nói, đọc đâu đó trên Thời Tập.
Đúng là khốn nạn, cái gọi là văn học
hải ngoại!
Hà, hà!
Thơ
Mỗi
Ngày
POETS
Poets shouldn't commit
Suicide
That
would leave the world
To
those without imaginations
Or
hearts
That
would bequeath
To
the world
A
mangled syntax
And
no love
Of
champagne
Poets
must live
In
misery and ecstasy
To
sing a song
With
the katydids
Poets
should be ashamed
To
die
Before
they kiss
The
sun
Thi sĩ
Thi sĩ không nên tự tử
Bởi là
vì nếu làm như thế
Là để lại
thế giới cho những kẻ
Không biết
tưởng tượng, liên tưởng…
Là cái
chó gì
Và cho
những kẻ
Đếch có
trái tim
Để lại thế giới
Một cú
pháp nham nhở
Và không
tình yêu sâm banh
Thi sĩ nên
sống trong khốn cùng, và cực khoái, cực sướng
Để hát
1 bài hát
Với châu
chấu voi
Thi sĩ nên
xẩu hổ
Một khi chết
Mà chưa
kịp hôn mặt trời 1 phát!
Rain
Quite suddenly the evening clears
at last
as now outside the soft small rain is falling.
Falling or fallen. Rain itself is something
undoubtedly which happens in the past.
Whoever hears it falling has remembered
a time in which a curious twist of fate
brought back to him a flower whose name was "rose"
and the perplexing redness of its red.
This rain which spreads its blind across the pane
must also brighten in forgotten suburbs
the black grapes on a vine across a shrouded
patio now no more. The evening's rain
brings me the voice, the dear voice of my father,
who comes back now, who never has been dead.
-A.R.
Mưa
Hoàn toàn bất thình
lình, sau cùng, buổi chiều sáng ra
Như là giờ đây, bên ngoài mưa mềm, nhỏ,
đang rơi.
Đang rơi hay đã rơi?
Mưa, tự nó là một cái gì chẳng nghi
ngờ chi, xẩy ra trong quá khứ
Bất cứ ai nghe mưa rơi thì đều nhớ tới cái lúc
mà số mệnh, xoắn 1 phát,
Mang trả lại cho anh ta một bông hoa, tên là....
BHD
Cơn mưa trải dài
sự mùa lòa của nó dọc theo ô kính hẳn
cũng làm sáng lên,
nơi những vùng ngoại vi thành phố bị bỏ quên,
những trái nho đen nơi hàng cây dọc theo sân tẩm liệm nay không
còn nữa.
Cơn mưa buổi chiều mang cho tôi giọng nói,
giọng nói yêu thương của BHD,
bây giờ trở lại, chẳng hề đi xa.
The Rain
The afternoon grows light because
at last
Abruptly a minutely shredded rain
Is falling, or it fell. For once again
Rain is something happening in the past.
Whoever hears it fall has brought
to mind
Time when by a sudden lucky chance
A flower called “rose” was open to his glance
And the curious color of the colored kind.
This rain that blinds the windows
with its mists
Will gladden in suburbs no more to be found
The black grapes on a vine there overhead
In a certain patio that no longer
exists.
And the drenched afternoon brings back the sound
How longed for, of my father’s voice, not dead.
[From Dreamtigers,
by Jorge Luis Borges, translated by Harold Morland]
LA PLUIE
Brusquement s'éclaircit
le ciel embarrassé :
II pleut enfin. Le flot minutieux arrose
Ma rue. Ou l'arrosa. La pluie est une chose
En quelque sorte qui survient dans le passé.
Je l'écoute; à
sa voix, dans le soir remplacé,
Tout un temps bienheureux s'entrouvre et se propose:
Le temps qui m'enseigna le parfum de la rose
Et l'étrange couleur du rouge courroucé.
La rafale qui bat aux vitres
aveuglées
Rejouira les noirs raisins et les allées
Poudreuses d'un jardin qui n'est plus, vers le bord
Indécis d'un faubourg.
A travers la durée,
L'heure humide m'apporte une voix desirée :
Mon pere est là, qui revient et qui n'est pas mort.
Ibarra
Note: Rain, có hai bản tiếng Anh, khác nhau, và
1 bản tiếng Tây.
Woolf
Tuyệt tác thế giới
Câu phán này của Woolf
mà không thú sao:
Thi sĩ luôn luôn là người đương thời
của chúng ta.
The poet is always our contemporary
Thượng Thọ hay không Thượng Thọ
[To be or not to be]
Gấu sẽ té xuống như 1 cái cây,
Và kiếm thấy mộ của mình
Chỉ để nhớ ra rằng thì là
Gấu đã từng tính tự làm thịt mình,
vài lần.
I shall fall like a tree, and find my grave
Only remembering that I grieve
Gió Tây ui, khi nào mi thủi?
Mưa nhỏ sẽ rơi
Chúa ơi
Nếu tình của Gấu ở trong tay của Gấu
Thì Gấu bèn lại ở trong cái giường
của Gấu
Western wind, when wilt thou blow?
The small rain down can rain
Christ, if my love were in my arms,
And I in my bed again!
Tưởng
Niệm
Tám Bó
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái,
đã tìm cách nương tựa vào nhau,
đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót
hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai
quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê
hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng,
trốn thoát cả một lô những ông bạn quí
hoá."
THE BURDEN OF CHILHOOD
THERE are certain writers, as different as Dickens from Kipling, who never
shake off the burden of their childhood. The abandonment to the blacking
factory in Dickens's case and in Kipling's to the cruel Aunt Rosa living
in the sandy suburban road were never forgotten. All later experience seems
to have been related to those months or years of unhappiness. Life which
turns its cruel side to most of us at an age when we have begun to learn
the arts of self-protection took these two writers by surprise during the
defenselessness of early childhood. How differently they reacted. Dickens
learns sympathy, Kipling cruelty - Dickens developed a style so easy and
natural that it seems capable of including the whole human race in its understanding:
Kipling designed a machine, the cogwheels perfectly fashioned, for exclusion.
The characters sometimes seem to rattle down a conveyor-belt like matchboxes.
There are great similarities in the early life of Kipling
and Saki, and Saki's reaction to misery was nearer Kipling's than Dickens's.
Kipling was born in India. H. H. Munro (I would like to drop that rather
meaningless mask of the pen name) in Burma. Family life for such children
is always broken - the miseries recorded by Kipling and Munro must be experienced
by many mute inglorious children born to the civil servant or the colonial
officer in the East: the arrival of the cab at the strange relative's house,
the unpacking of the boxes, the unfamiliar improvised nursery, the terrible
departure of the parents, a four years' absence from affection that in child-time
can be as long as a generation (at four one is a small child, at eight a
boy). Kipling described the horror of that time in Baa, Baa Black Sheep
- a story in spite of its sentimentality almost unbearable to read: Aunt
Rosa's prayers, the beatings, the card with the word LIAR pinned upon the
back, the growing and neglected blindness, until at last came the moment
of rebellion.
'If you make me do that,' said Black Sheep very quietly, 'I shall burn
this house down and perhaps I will 'kill you. I don't know whether I can
kill you - you are so bony, but I will try.'
No punishment followed this blasphemy, though 'Black
Sheep held himself ready to work his way to Auntie Rosa's withered throat
and grip there till he was beaten off.
In the last sentence we can hear something very much
like the tones of Munro's voice as we hear them in one of his finest stories
Sredni Vashtar. Neither his Aunt Augusta nor his
Aunt Charlotte with whom he was left near Barnstaple after his mother's death,
while his father served in Burma, had the fiendish cruelty of Aunt Rosa, but
Augusta ('a woman', Munro's sister wrote, 'of ungovernable temper, of fierce
likes, and dislikes, imperious, a moral coward, possessing no brains worth
speaking of, and a primitive disposition') was quite capable of making a
child's life miserable. Munro was not himself beaten, Augusta preferred his
younger brother for that exercise, but we can measure the hatred he felt for
her in his story of the small boy Conradin who prayed so successfully for
vengeance to his tame ferret. '''Whoever will break it to the poor child?
I couldn't for the life of me!" exclaimed a shrill voice, and while they debated
the matter among themselves Conradin made himself another piece of toast.'
Unhappiness wonderfully aids the memory, and the best stories of childhood,
its humor and its anarchy as well as its cruelty and unhappiness.
For Munro reacted to those years rather differently
from Kipling. He, too, developed a style like a machine in self-protection,
but what sparks this machine gave off. He did not protect himself like Kipling
with manliness, knowingness, imaginary adventures of soldiers and Empire
Builders (though a certain nostalgia for such a life can be read into The
Unbearable Bassington): he protected himself with epigrams as closely
set as currants in an old-fashioned Dundee cake. As a young man trying to
make a career with his father's help in the Burma Police, he wrote to his
sister in 1893 complaining that she had made no effort to see A Woman
of No Importance. Reginald and Clovis are children of Wilde: the epigrams,
the absurdities fly unremittingly back and forth, they dazzle and delight,
but we are aware of a harsher, less kindly mind behind them than Wilde's,
Clovis and Reginald are not creatures of fairy tale, they belong nearer to
the visible world than Ernest Maltravers, While Ernest floats airily like
a Rubens cupid among the over-blue clouds, Clovis and Reginald belong to
the Park, the tea-parties of Kensington, and evenings at Covent Garden -
they even sometimes date, like the suffragettes. They cannot quite disguise,
in spite of the glint and the sparkle, the loneliness of the Barnstaple years
- they are quick to hurt first, before they can be hurt, and the witty and
devastating asides cut like Aunt Augusta's cane. How often these stories
are stories of practical jokes. The victims with their weird names are sufficiently
foolish to awaken no sympathy - they are the middle-aged, the people with
power; it is right that they should suffer temporary humiliation because
the world is always on their side in the long run. Munro, like a chivalrous
highwayman, only robs the rich: behind all these stories is an exacting sense
of justice. In this they are to be distinguished from Kipling's stories in
the same genre - The Village That Voted The Earth Was Flat and others
where the joke is carried too far. With Kipling revenge rather than justice
seems to be the motive; (Aunt Rosa had established herself in the mind of
her victim and corrupted it).
Perhaps I have gone a little too far in emphasizing
the cruelty of Munro's work, for here are times when it seems to remind
us only of the sunniness of the Edwardian scene, young men in boaters, the
box at the Opera, long lazy afternoons in the Park, tea out of the thinnest
porcelain with cucumber sandwiches, the easy irresponsible prattle.
Never be a pioneer. It's the Early Christian that gets the fattest lion.
There's Marion Mulciber, who would think she could ride down a hill on
a bicycle j on that occasion she went to a hospital, now she's gone into
a Sisterhood -lost all she had you know, and gave the rest to Heaven.
Her frocks are built in Paris, but she wears them with
a strong English accent.
It requires a great deal of moral courage to leave in
a marked manner in the middle of the second Act when your carriage is not
ordered till twelve.
Sad to think that this sunniness and this prattle could not go on for ever,
but the worst and cruelest practical joke was left to the end. Munro's witty,
cynical hero, Comus Bassington, died incongruously of fever in a West African
village, and in the early morning of 13 November 1916, from a shallow crater
near Beaumont Hamel, Munro was heard to shout' Put out that bloody cigarette.'
They were the unpredictable last words of Clovis and Reginald.
Borges Tám Bó
Danilo Kis
A Tomb for Boris
Davidovich
translated from the
Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph
Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey
Archive, 145 pp., $12.95 (paper)
Introduction
At first glance
A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem
like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago
(as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's
Hope against Hope, and the Medvedev brothers'
various writings. The point is that the bulk of the novel
has to do with the fate of several people who perished during
the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources
are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the
civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between,
Russia in this century has produced enough history to keep the
literati all over the world busy for several generations. The aforesaid
authors already belong to the second generation. The first was
Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general
resemblance to Darkness at Noon, although
surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.
Thoáng nhìn, Ngôi
Mộ có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác
phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa
được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn
và những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy
vào số phận một vài người bị tiêu trầm
trong cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên
1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu
con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng
Bố, Nga xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ
lịch sử để làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong
vài thế hệ.
Những tác giả được nói
tới ở trên thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ
có cái giông giống Đêm
Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói
về ghê rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự.
Ui chao Joseph Brodsky, như
thế, là đã tiên tri ra được "Đêm
Giữa Ban Ngày" của nhà văn người tù lương
tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!
Perhaps the only service
a real tragedy renders in leaving its survivors as speechless
as its victims is that of furthering its commentators'
language. The least that can be said about A Tomb for Boris Davidovich
is that it achieves aesthetic comprehension where ethics
fail. Of course, the mastery of language can hardly pass
for a safeguard in our enterprising century; but at least it creates
a possibility of response, without which people are bound to
remain slaves of their experience. By having written this book,
Danilo Kis simply suggests that literature is the only available
tool for the cognition of phenomena whose size otherwise numbs
your senses and eludes human grasp.
Có lẽ cú phục
vụ độc nhất mà 1 bi kịch thực, đem tới, khi để cho kẻ sống
sót cũng câm bặt như những nạn nhân, là,
cái trò lèm bèm về ngôn ngữ của
nó, sau đó. Nếu như thế, thì ít nhất,
chúng ta có thể phán về “ Ngôi mộ”, nó
hoàn tất cảm thông mỹ học, một khi/ở nơi mà
đạo hạnh thất
bại.
Lẽ dĩ nhiên, khó mà coi đây
là cái phao cứu nạn, trong thế kỷ “enterprising”
của chúng ta, nhưng ít nhất, nó tạo 1 khả thể
đáp ứng, không có nó, con người bị buộc
là nô lệ của kinh nghiệm của nó.
Viết “Ngôi mộ”, Kis giản dị đề xuất rằng, văn
chương là dụng cụ khả hữu độc nhất, nhìn nhận hiện
tượng, một khi tầm vóc của nó làm tê liệt
cảm quan của bạn, và tuột ra khỏi cái nắm, víu
của nhân loại
A Tomb for Boris Dauidooicb
is a very dark book, and its only happy end is that it
was published and now so splendidly translated into English
by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange
realm for an English reader to enter, but so it was
for the millions and millions who found themselves inside
it. Unlike them, an English reader can leave it whenever
he likes by closing this book, finished or unfinished. Only the
names here are fictitious. The story, unfortunately, is
absolutely true; one would wish it were the other way around.
“Ngôi mộ” là 1 cuốn sách quá
u tối, và cái hy vọng độc nhất của nó, được
xb, và bây giờ, được dịch thật là tuyệt vời qua
tiếng Anh. Chắc chắn cái cõi này thì thật
là lạ lẫm đối với độc giả người Anh, khi bước vô, nhưng
có hàng triệu triệu con người cảm thấy họ ở trong đó.
Không như họ, một độc giả tiếng Anh có thể ngưng đọc ở bất
cứ khúc nào, bất cứ khi nào, anh ta muốn, bằng cách
đóng nó lại.
Chỉ có những cái tên là
dởm. Câu chuyện, than ôi, bất hạnh thay, thực.
Tuyệt đối thực
Mới lướt net,
thấy NL đi 1 đường ngợi ca Genette. Tay này, cũng 1 khám
phá của GCC, và, 1 trong những tác giả gối
đầu giuờng, những ngày mới bước vào làng văn,
bày đặt viết phê bình.
Trong bài điểm cuốn Mù Sương
của NXH, Gấu có chôm 1 ý của ông, trong
Hình Tượng I, về 1 nhân vật, vô
thư viện, kiếm 1 cuốn, không kiếm thấy, bực quá, bèn
viết 1 cuốn.
Tình cờ, đọc Kis, ông cũng nhắc tới
Genette, khi phải giải thích, tại làm sao mà
cứ hết Mậu Thân, thì lại qua cô bạn ở Chợ Lớn, hoặc
thằng em trai sĩ quan Ngụy tử trận.
Cũng 1 câu, lôi ra từ Figures I
Life, Literature
I'd like to devote the first
part of our interview to biographical facts that may be of interest
to your readers. Despite your known resistance to biographical data
and the biographical approach to your work, I believe that much of
it-especially the novels you have called the autobiographical triptych"
(Early Sorrows; Garden, Ashes; Hourglass)-shows your childhood
to have been of fundamental importance to your literary development.
So let's try to delineate the part played by autobiographical material
in your work on the one hand and imagination and illusion on the
other.
My whole childhood is an illusion, an illusion
that has fed my imagination, and after writing two or three books
on the theme of "early sorrows," I feel that degrading the imagination
to "biographical facts" is rank reductionism. Life cannot
be reduced to books, but neither can books be reduced to life. After
I related the events of my childhood in a lyrical, consistent, definitive
form, that form became an integral part of my childhood, my only
childhood. Even I have trouble now distinguishing between the two
illusions: living truth and literary truth; they are so intertwined
that it is next to impossible to trace a dividing line between them,
and any other interpretation, especially by the author, is likely
to impoverish them. Paraphrasing a poem diminishes its spirit, its
rhythm, its élan, and reduces its metaphors to a common language.
Somewhere Gerard Genette quotes La Fontaine's line "Sur
les ailes du temps, la tristesse s'envole" (Sadness takes flight
on the wings of time) in a rhetorian's "translation" as "Le
chagrin ne dure pas toujours" (No sorrow lasts for- ever).
Hiện sinh vs Cơ cấu luận
GCC có nhớ từng viết
gì về cơ cấu luận và đăng tờ nào không?
Thời ấy GCC đọc Trần Thiện Đạo về CCL không?
(1)
TTD, tôi chỉ đọc ông
ta khi dịch Sa Đọa. Ông này mà
văn chương cái con khỉ gì.
Lạ, là làm sao mà ông
ta lại chọn đúng cuốn Sa
Đọa để dịch?
Không lẽ ông ta đã ngửi ra
cái thân phận 1 tên bỏ chạy cuộc chiến, trốn
qua Tây, và tự rủa xả mình, như nhân vật
của Camus?
(1) Một vị độc giả, Blog NL, hình
như vậy.
Kis, không chỉ mê Borges,
mà còn bị coi là bị ảnh hưởng Borges, cũng như bị coi là ảnh hưởng Koestler.
Ông bị chê là hết ăn cắp người này tới người
khác.
Bài viết của Kis về Borges, tuyệt lắm. Post liền sau
đây, cùng bài viết về Nabokov.
Cái nhìn của Kis về Nabokov cũng lạ. Thú
thực Gấu không đọc được, mà hơn thế nữa, tởm Nabokov.
Nhớ lần đầu đọc Lolita, đến cái đoạn tên đàn
ông dâm đãng tính làm thịt cô
bé "tiền thân" của Lo, dưới cái nhìn của cặp
kính mát ai bỏ quên trên bãi biển, là
Gấu thua không làm sao đọc tiếp.
Lạ là sao TTT mê và dịch Nabokov?
Lolita vs BHD
Ông chưa từng trở lại Nga?
Tôi chưa từng trở về lại
nước Nga, bởi vì một lý do đơn giản là tất cả nước
Nga mà tôi cần thì chưa từng rời bỏ tôi, dù
chỉ một khoảnh khắc: văn chương, tiếng nói, la langue, và
tuổi thơ Nga của chính tôi. Tôi sẽ chẳng bao giờ trở
về, tôi không bao giờ đầu hàng. Vả chăng, cái
bóng thô kệch gớm ghiếc của chế độ nhà nước cớm,
État policier, chắc chắn là không tan biến, trước
khi tôi ngỏm. Tôi không tin là người ta biết
đến những cuốn sách của tôi, ở đó, nếu có, thì
ở trong tay một vài tên mà VC xứ Mít gọi là
"cớm văn hóa", nhưng đừng quên điều này, nước Nga đã
khủng khiếp trở thành 1 xứ sở miệt vườn trong vòng 40 năm
nay, chưa nói cái chuyện, ở đó, người ta đọc, người
ta nghĩ, [đúng] cái điều mà người ta đọc và
suy tưởng. Mẽo là cái xứ mà tôi cảm thấy hạnh
phúc hơn hết thẩy các xứ sở khác. Ở Mỹ, tôi kiếm
thấy những độc giả bảnh, meilleux, của tôi, những tinh thần, esprits,
cận kề tôi, Trí thức mà nói, tôi cảm thấy
ở nhà của mình, khi ở Mẽo. Đó là bếp lửa, foyer,
thứ nhì của tôi, theo đúng nghĩa của từ này.
Nabokov trả lời BBC Télévision,
1962.
[GCC trích trong Bạo Miệng, Partis pris,
(Strong Opinions)]
Hình như Nabokov tiên
tri ra được cái xứ Mít sẽ có ngày dịch
Lolita, nên đã chửi trước!
Lolita made Nabokov rich and famous, but
the scandal surrounding its publication created a misunderstanding that is
still with us today.
Now that the beautiful nymphet is approaching, horror of horrors,
forty, it is time to locate her where she belongs, as one of the most
subtle and complex literary creations of our time.
Vargas Llosa
Nhân Lolita tiếng Việt ra mắt, TV sẽ chuyển
ngữ bài viết của Vargas Llosa về cuốn này. Bài
viết Jan, 1987, khi em nhí tới tuổi 40, horror of horrors, khủng
khiếp của những khủng khiếp!
What do you mean when you say "Yugoslav
reality"? That people didn't talk about the fate of the Jews? Or is
it more a personal thing, a kind of pride on your part, an "I don't want
to be seen as a victim" attitude?
Kis: Like it or not, being Jewish is
an exceptional condition humaine and one that-regardless of
time, place, or social system-has negative consequences for whoever
happens to be marked by it. It is an issue unfailingly broached with discomfort
and from a Manichaean perspective, either with hypocrisy or with sensitivity
(which I, too, invariably share). I have been-and am to this day-subject
to certain psychological inhibitions, and since I consider my fate to be
primarily that of a writer, I have tried to transform these negative factors
into what you might call positive literary ones. What I mean is I have concealed
the Jewish component in my literary works. I was equally afraid of the weight
of fact, which is dangerous for literature, and of the possibility of becoming
or being taken for a minority writer. And the danger of pathos and grandiloquence
is latent in all "minority literatures."
Ngã tư Phan Đình
Phùng & Lê Văn Duyệt
Bảo tàng viện của sự ngây
thơ
GCC tỏ tình mí
BHD khi em 11 tuổi tại góc đường này. Khi đó chỉ
có cái cột đèn chỉ đường. Nhà em kế ngay bên,
phía bên trái, bên dưới cái băng rôn,
quá chút nữa. Cái máy nước công cộng
cũng kế ngay đó. Quá nữa, trên đường PDP, tới ngã
tư Cao Thắng & Phan Đình Phùng. Trường mẫu giáo
Aurore gần đó. Gấu, khi đó đang học trường Quốc Gia Bưu Điện,
chiều nào cũng đạp xe chạy vội tới, đứng trên lan can tiệm
sách ABC, cũng là nhà BHD, để kịp nhìn thấy BHD
đón em trở về, ghé máy nước rửa chân. Ngã
tư này có tiệm chụp hình. (1) Có lần Gấu hộ tống em tới đây
chụp hình để gắn vô học bạ, nhờ vậy, cũng được ăn theo 1
tấm, sau nhờ họa sĩ Ngọc Dũng đi 1 đường phác họa, trở thành
kho tàng đầu tiên trong đời Gấu!
Và ngã tư trở
thành “lịch sử”: Nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu
ngay trước mắt Gấu, nếu thời gian co dãn, di chuyển hai đầu ngược
xuôi.
Trên đường Lê Văn
Duyệt, phía bên trái bức hình, là khu
Chợ Đũi, ngã tư Lê Văn Văn Duyệt & Trần Quí Cáp,
có quán cà phê Tàu, nơi Gấu vẫn thường
ngồi chờ BHD đưa em gái đi học, tại trường Kiến Thiết, cũng ngay
đó.
Ui chao, em chạy vội ra, chỉ
để lắc đầu, rồi lại chạy vội về nhà.
Cảnh này sau lập lại
ở Đại Lộ Cộng Hòa, trước cổng Đại Học Khoa Học Sài Gòn.
Nhưng phải đến khi đọc Pamuk,
Gấu mới nhớ ra ánh đèn chỉ đường, xanh đỏ, lập lòe
trên khuôn mặt của BHD, in rõ nỗi đau khủng khiếp của
Gấu:
Đứng trước một cái nghĩa
địa nhỏ, trong đêm tối lạnh buốt, cảm thấy những dòng nước
của con vịnh Bosphorus chạy rần rần trong xương tuỷ của cả hai chúng
tôi nàng thầm thì, nàng yêu tôi
biết là bao, và tôi nói tôi có thể
làm bất cứ chuyện gì vì nàng, và tôi
ôm nàng chặt cứng, như là tôi có thể,
với tất cả sức lực, niềm đau, và hạnh phúc của tôi.
Chúng tôi hôn nhau, một nụ hôn dài, như
bất tận, và bất cứ khi nào tạm ngưng, tôi hé
mắt nhìn, và thấy mầu vàng của ngọn lửa từ phiá
bên kia vịnh bập bùng trên làn da mịn màng
của nàng.
Tình đầu
Trường Quốc Gia Bưu Điện lúc
đó chưa xây, học nhờ trường Quốc Gia Thương Mại, kế nhà
thờ Phanxicô, đầu đường Phạm Đăng Hưng & Phan Đình Phùng.
Gấu tan học, là đạp xe thẳng con đường PDP tới ngã tư Lê
Văn Duyệt.
Gấu, khoá đầu, khóa đặc biệt, 2, thay vì 3
năm, điều kiện Tú Tài 2, trong khi khóa 3 năm chỉ
cần bằng Trung Học. Hai năm, nhưng với Gấu, còn 1 năm, , nhờ thầy
hiệu trưởng Trần Văn Viễn “đặc cách” cho vô học, chuyện này
kể ra rồi.
Ra trường Gấu làm việc ngay tại Trung Ương Cơ Xưởng VTD,
số 11 Phan Đình Phùng, đúng cái chỗ sau phá
đi xây trường QGBD
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|