Ôi
chao, nhìn cái hình 1 phát, là bèn nhớ liền đến bài thơ thần
sầu của ông anh nhà thơ, và nhớ Sài Gòn đến phát điên lên được
Thanh Tâm Tuyền
Một chỗ trên ô tô buýt
Tặng Nguyễn
Buổi chiều vào chật khoang xe. Đèn thắp lên.
Tiếng máy nổ bỗng thành tiếng cười dài.
Mưa xuống bên ngoài cửa sổ. Những bàn tay níu lấy vòng sắt lạnh.
Mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen nhau,
Thân mật ngó lên mái tóc rối nền trời khuya.
Ngó vào mắt hoang xa giòng sông không bờ.
Sau một ngày làm việc em mơ về khói ấm khuôn mặt riêng.
Tôi nghĩ về cuộc đời thầm thầm hàng ngày,
Trên những thành ô tô buýt người ta xô chạm vô tình.
Tôi bám chặt cửa xe xin một chân đứng.
Nhớ đến chúng bạn: một người bên Xóm Cỏ, một người ngoài Phú
Thọ.
Muốn gặp nhau mang tình cảm cho nhau qua hai chặng đường len giữa
ồn ào.
Chuyến xe buýt chạy trong buổi chiều. Trời mưa, mưa ngoài châu
thành.
Không tìm thấy bến không đỗ lại.
Vai áo đã ướt đầy.
Tóc em rét mướt.
Một ngày mới bắt đầu với tờ báo phát hành sớm gói trong tay.
Xe còn chạy mưa hoài giòng sông hoang mắt bỏ cố níu lấy cửa xe.
Nhưng chúng ta không kiếm được một lời nào để mà nói.
Không tìm thấy bến không đỗ lại
Không kiếm được một lời nào để mà nói
Tóc em rét muớt
Câu này làm nhớ
đến cô bạn, và 1 buổi trú mưa ở Nhà Thương Đô Thành, gần bót Lê Văn Ken
và bài nhạc:
ừ thôi trí nhớ rồi như gió
đêm thổi
từng cơn qua biển đông
em vui áo
lụa mềm lưng phố
có động
lòng thương kẻ cuối đường ? (*)
Du Tử Lê
(*) Có bản
chép như hai câu trích của bác.
[Blog Tin
Văn]
1. Hai cặp
thơ trên, lạ. Không thể làm sao hiểu nổi tại làm sao chúng lại đứng cặp
với nhau để thành một khổ thơ?
2. Em đi hay
Em vui?
Gấu này
nghĩ Em đi, mới đúng [mới hợp tình hợp cảnh Gấu]
*
Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động
lòng thương kẻ cuối đường...
Có những câu văn, thơ, được viết ra, không phải để được đọc liền
tù tì, mà là để đợi một độc giả độc nhất, độc giả độc, độc giả xịn, độc giả
tri âm tri kỷ của nó.
Tao chỉ đợi mày, tao còn sống đây, là vì mày...
Tao đây nè, đọc, đọc đi để tao hoàn tất cái đời của tao.
Hoàn tất theo nghĩa, trở thành bình thường như mọi câu văn câu
thơ khác.
Cho đến một lúc nào đó, lại thức giấc và lại đợi.
Hai câu thơ trên của Du Tử Lê, là như thế đối với Hai Lúa.
Ghê gớm hơn nữa, nó liên quan đến một nơi chốn, của Sài Gòn.
Cũng cái cảm giác như thế, Hai Lúa nghe, lần đầu tiên trong đời,
bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, tại trại cải tạo Đỗ Hòa, Duyên Hải,
khi cuộc chiến kết thúc đã từ đời thưở nào, chẳng còn ai đi "lượm" xác
chồng...
Bản nhạc vừa cất lên một cái là thằng Hai Lúa rùng mình, toát
mồ hôi, chân tay bủn rủn, nó đây rồi, nó là của mình, không của ai
khác, ông nhạc sĩ sáng tác ra cho riêng thằng Hai Lúa này. Mấy người khác
chỉ nghe ké, thưởng thức ké, đau khổ ké....
Viết tới đây, bỗng Hai Lúa nhớ đến một ý của Benjamin. Ông này
nói, có những cuốn sách nằm ngủ ở trong thư viện, để cho bụi đắp đầy mình,
chờ có khi hàng ngàn năm, độc giả của nó khật khừ tới, và đánh thức
nó dậy...
Have you ever seen the rain?
Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại
có một lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.
Câu hát trọn vẹn của nó đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên má em,
bữa hai đứa mình đứng trú mưa, tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp
hát, kế bên Nhà Thương Đô Thành... (1).
Làm sao em nhìn thấy được!
Và bây giờ, sau bao nhiêu năm, làm sao em nhớ được!
Chỉ có một mình anh nhớ, cho cả anh và em.
Và cũng chẳng ai thèm nhìn, thèm để ý, trừ cái thằng ngố đứng
sững như trời trồng, buổi sáng bữa đó.
Đâu có thua gì Barbara, của Prévert.
Cũng có một cuộc chiến chó đẻ, rình rập.
Cũng cố vội vàng, hạnh phúc.
Đoạn mới viết đó, là để trả lời cái mail của Du Tử Lê, khi Hai
Lúa hỏi, trọn bài thơ trong có hai câu trên nó ra làm sao. Anh kiếm cả
buổi, nhớ cả buổi, không làm sao kiếm được, nhớ ra được, thế rồi anh chậc
chậc, mày đâu cần cả bài thơ? Cần làm quái gì?
Hai câu là đủ rồi, cha nội!
(1) Rạp Vĩnh Lợi, nhớ ra rồi. Còn Lê Lợi là rạp chiếu phim thường
trực, ở sau chợ Sài Gòn, gần trường Văn Khoa cũ, nơi có lần Hai Lúa rủ
em đi coi movie, hết ghế, chật cứng người, phải đứng coi ngay gần cửa, chưa
đầy phút, em đã đi ra, nói, có một thằng khốn nạn đứng phía sau em.
Have you ever seen the rain?
Someone told me long ago there's a calm before the storm,
I know; it's been comin for some time
When it's over, so they say, it'll rain a sunny day,
I know; shinin down like water
I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day
Yesterday, and days before, sun is cold and rain is hard,
I know; been that way for all my time
til forever, on it goes through the circle, fast and slow,
I know; it can't stop, I wonder
I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day
Yeah!
I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day
Bài Phượng Hoàng
& Bồ Câu, nếu đúng như Hendler cắt nghĩa, thì nó liên quan đến bài thơ
của Dickinson, TTT cũng đã từng dịch, và "nếu đúmg như thế", thì nó liên
quan đến nhân vật Hiền trong MCNK, tức Đảo Xa ở ngoài đời.
The Phoenix And The Turtle poem by Shakespeare is perhaps his most
obscure work, verging on the metaphysical as an allegorical poem about
the death of a perfect love. The Phoenix And The Turtle was published untitled
in 1601 as one of the Poetical Essays appended to Robert Chester’s ‘Love’s
Martyr’. http://www.nosweatshakespeare.com/shakespeares-poems/the-phoenix-and-the-turtle/
Phượng Hoàng & Bồ Câu là 1 bài thơ cực kỳ u tối, khó hiểu.
Chúng ta tự hỏi, tại làm sao TTT lại dùng nó làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết?
Bây giờ, lại thêm 1 cú bí hiểm thứ nhì, là bài thơ dịch Dickinson.
Tin Văn sẽ đi 1 đường tiếng Mít, và sau đó, độc giả tùy nghi....
Bài ngụ ngôn nho nhỏ, bắt nguồn từ “Cái Đẹp là Sự Thực, Sự Thực
Cái Đẹp” của Keats’s Urn, là 1 trong nhiều toan tính thi ca nhằm hòa giải
Cái Tốt, Cái Thực và Cái Đẹp - hiểu theo truyền thống như là tam giác [tình]
lý tưởng. Có lẽ chưa có ai đem đến một sức nặng đồng đều cho cả ba. Keats,
chính ông, thực ra đã bắt đầu coi trọng Cái Tốt, trong những tác phẩm sau
cùng, nhưng ông trải qua hầu hết cuộc đời ngắn ngủi để suy tư về liên hệ
của Cái Đẹp (sáng tạo mỹ học và những sản phẩm của nó) với Sự Thực (cả về
triết lý lẫn trình diễn). Dickinson giải quyết cuộc lèm bèm cũ rích này,
về sự thực của Cái Đẹp và sự thực của Lý Lẽ, bằng cách, để Lý Lẽ chối
bỏ sự hiện hữu của 1 cuộc lầu bầu như thế, Chúng ta là bằng hữu, là bạn
quí, là tín hữu, là… Anh ta phán. Bạn quí như thế nào, gặp nhau ở đâu
(chắc ở Quán Chùa, “Chúa Ơi!”- thuổng NDT), cho đến khi nấm mồ kết nối
họ. Dickenson để cho nhân vật chết vì Cái Đẹp, làm phát ngôn viên dẫn đạo
của bài thơ, xì ra tí ti, về liên hệ, chúng là là đạo hữu, bị nhốt chung
vào 1 nấm mồ. “Sự Thực” là “đực”, trong dòng kể, như đại danh từ “he” cho
thấy. Nếu như thế, thì có thể, Dickinson coi “Cái Đẹp” là “cái”. Mỗi bên
nửa trái cầu, cùng nhau, họ làm thành trọn ổ.
[Trong MCNK, nhân vật Hiền sau cùng biến mất, và Duy, có lần tính
hỏi Kiệt, Hiền đâu rồi. Khi dịch bài thơ của Dickinson, có thể TTT nhắm
trả lời Duy, Hiền ở chỗ đó đó, chỗ mà Kiệt đưa cô tới, rồi trở về với vợ
con. Và cái truyền thuyết về 1 miền đã mất, sản sinh ra những tác phẩm như
Anh Môn, Gatsby, MCNK, sau cùng, do Dickinson trả lời: Nấm Mồ.]
Brodsky cũng có ba búa TGK, như TTT, khi truyền lại
cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông. Con người sở dĩ
sống sót được, là nhờ truyền thống, thông qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ cái đuôi, và để bù lại,
Thượng Đế ban cho nó hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống sót, không phải là nhờ
đạo hạnh mà nhờ bửn quá, do óc bị thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này có cái
gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ lung tung, một phần
là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề tài, tại sao Mít không thể tưởng niệm,
nhân đọc Sebald viết về văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu, và,
tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực kỳ thông minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có 1 bài viết, Gấu ngộ ra được
điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố quá khôn, bỏ chạy kịp trước khi
Cựu Lục Địa vào tay Nazi, nhờ vậy gia đình ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong chuyện dưới đây, cho
thấy, là do chúng ngửi ra trước tai họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1 Steiner, là do hồi ức: Ông
sống sót để kể câu chuyện về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo hạnh rất dễ bị thương tổn,
và cái đuôi của bạn ló ra, thay cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là thứ văn chương tiên tri và văn
chương hồi ức, như thế, là đều liên quan tới cái đuôi của con người đã
bị mất đi theo đà tiến hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the mice in it, and the martens
also, forestall its collapse and emigrate. This, you know, is what they
say happened at Helike, for when the people of Helike treated so impiously
the Ionians who had come to them, and murdered them at their altar, then
it was (in the words of Homer) that "the gods showed forth wonders among
them. “For five days before Helike disappeared all the mice and martens
and snakes and centipedes and beetles and every other creature of that
kind in the town left in a body by the road that leads to Keryneia. And
the people of Helike seeing this happening were filled with amazement but
were unable to guess the reason. But after the aforesaid creatures had
departed, an earthquake occurred in the night; the town collapsed; an immense
wave poured over it; and Helike disappeared, while ten Lacedaemonian vessels
that happened to be at anchor close by were destroyed together with the city
I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher of rhetoric, Aelian
earned the nickname Meliglottos, meaning "honey-tongued," based on his
fluency with Greek. In addition to his seventeen-volume work on animals,
Aelian published Indictment of the Effeminate, a posthumous attack on the
emperor Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of fictional letters
about Attic country life. Elsewhere in Animals, he describes the tradition
of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom they called "Averter of Disaster,"
asking for neither swordfish nor dolphin to destroy their nets.
I am above the weakness of seeking to establish a sequence of cause
and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp nối về nguyên nhân và
hậu quả, giữa tai ương và sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike đối với dân Ionians, đến nỗi
những vị thần mà cũng ngạc nhiên giữa họ, như thế, không mắc mớ gì đến tai
ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi người, trong thâm sâu
của trái tim của họ, đợi tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the end of the world
to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống, trong khi chờ đợi ngày
đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen, D.H. Lawrence,
1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì một xã hội mới, mới
sản sinh ra, và làm chúng ta hãnh diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary human disaster that lasted
too long must be born a society of which all humanity will be proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện, sau tận thế, chăng? GCC
Hôm
nay Hiếu đi học.
Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều,
và trên không có những đám mây bàng bạc,
là Hiếu lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu
trường!
Your Memories on Facebook
Quoc,
we care about you and the memories you share here. We thought you'd
like to look back on this post from 2 years ago.
I never run into
anyone from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses,
offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they always
so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this
way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the red
fence?
Miss Harding is probably still at
her desk,
Sighing as she grades papers late
into the night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another tour
of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me
the way
And a place to sleep, since I've no
return ticket .
To wherever it is I came from earlier
this evening
Charles Simic:
That Little Something
Cuốc
Bộ
Tớ chẳng đụng đầu
với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào.
Mùa hạ, tớ một mình trong thành
phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà,
mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì
quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên – Xưa chúng
cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im
ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này,
đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm
cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường giống như
căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn
giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn
vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con
phố.
Tất cả những gì mà tớ làm, là
làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường
chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi
vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ
đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng
là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ,
Xóm Gà. Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà
ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá,
lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái
nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....Tới
đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại
quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò
ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay vào đó, là mấy con
gà đang lang thang trong sân đất…
Cuốn sách này không phải
một thứ chân dung tự thuật. Tớ để việc đó cho bạn bè và kẻ thù. Tuy
nhiên, trong nhiều năm tớ đặt tớ vào cái tình trạng tìm kiếm, truy
lùng một thằng cha nào đó, tự coi nó là Graham Greene.
He goes: I follow: no release
Until he ceases.
Some years ago in Chile, after I had been
entertained at lunch by President Allende, a right-wing paper
in Santiago
announced to its readers that the President had been deceived by
an impostor. I found myself shaken by a metaphysical doubt. Had I
been the impostor all the time? Was I the Other?....
Hắn đi, tớ đi, không nhả
Cho tới khi hắn ngưng.
Cách đây vài năm ở Chilê, sau khi tớ dùng
cơm với Tổng thống Allende, một tờ báo tả phái loan tin cho độc giả
của họ, Tổng thống bị lừa bởi một tên giả mạo. Một nỗi hồ nghi
siêu hình khuấy đảo tớ: Hay là suốt đời mình là một tên giả mạo?
Tớ là Kẻ Khác kia?
Kẻ
Khác.
Khi tôi mua Tuyện tập thơ
của Edward Thomas, hơn nửa năm chục năm trước đây,
một bài thơ tên là “Kẻ Khác” ám ảnh tôi, tôi không hiểu tại sao.
Nó không phải là 1 trong những bài thơ hay nhất
của ông. Bài thơ kể câu
chuyện môt vị lữ hành trên đường đi, ở 1 cái quán này, hay
quán kia, liên lỉ đụng những dấu vết của 1 kẻ nào đó, y hệt anh ta,
đi trước anh ta trên con đường đó:
Tôi thuộc con đường của anh ta, và
bất kỳ thế nào
Chắc chắn rồi, Tôi là Tôi, rời một cánh rừng
tối
Đằng sau, chim cắt, chim gõ kiến
Quán bên đường, mặt trời, lâng lâng hạnh phúc
Khi tôi lần đầu tiên thưởng thức ánh sáng mặt
trời ở đó
Tôi đi nhanh, hy vọng vượt kẻ kia
Sẽ làm gì, nếu tóm được,
Tôi nghĩ không,
Tôi tiếp tục săn đuổi
Để chứng tỏ sự giống nhau, và nếu thực
Để săm soi, cho tới khi, chính tôi, tôi hiểu
Và bài thơ chấm dứt:
Hắn đi, tôi theo: không ngưng nghỉ
Cho tới khi hắn ngưng. Và như thế tôi cũng sẽ ngưng
“Một Lời” của
Dương Nghiễm Mậu hiện gây nhiều tranh cãi, dù đó là quan điểm ứng
biến/ “snapshot” của ông vào tháng tư 1975. Sự tản cư của các đồng
bào Việt từ thành phố thất thủ này cho tới thành phố thất thủ khác vào
những ngày tháng đó có thể, theo ông, là một cách chạy trốn không đủ
ý thức hoặc vô vọng. Ông luôn muốn là một người “có ý thức” trong mọi
hoàn cảnh, cho dù quyết định của ông không giống người khác.
Tạm gác qua
một bên những phản ứng thúc đẩy bởi tình cảm hay quá khứ đau buồn, tôi
thấy “Một Lời” của DNM cần được phân tích như một khuynh hướng của nhà
văn về khái niệm “quốc gia.” Tôi hy vọng sẽ có thời gian trong tương
lai viết một bài so sánh ông với Thanh Tâm Tuyền. Theo sự nhận định
lúc này của tôi thì khái niệm quốc gia của DNM có liên hệ mật thiết đến
địa lý và tình cảm/tình yêu (qua tác phẩm Gia Tài Người Mẹ
của DNM). Do đó, DNM khác Thanh Tâm Tuyền ở chỗ từ chối quyết định lưu
vong. Ngược lại, Thanh Tâm Tuyền, ngay từ tác phẩm đầu tay là Bếp
Lửa, cho tới Một Chủ Nhật Khác, xem sự lưu
vong là cần thiết nếu đất nước (hoặc thể chế chính trị) không đáp ứng được
nhu cầu văn chương hay cá nhân của TTT – là một người muốn sống, viết và
suy nghĩ trong một môi trường không bị kiểm duyệt hay áp chế. Nhưng DNM
thà đổi nghề nghiệp hơn là đổi quốc gia. Truyện “Thuỷ Đao Lan” có thể đọc
như một ẩn dụ về quyết định treo bút của DNM. Cây Thuỷ Đao Lan – một loài
cây hư cấu – tượng trưng cho nghề cầm bút, vì như loài hoa lan có hình
thể như đao kiếm, ngòi bút cũng có thể giết người (hay một triều đại). Cái
chậu sứ đựng cây hoa bị kiếm sắc của một hiệp sĩ lạ chém ngang thành hai
mảnh nhưng cây trông vẫn tươi đẹp qua bao nhiêu mùa đông, cho dù cây đã
fossilized và trở thành như một cây giả. Những tác
phẩm của DNM, như Thuỷ Đao Lan, bị lưỡi kiếm thời đại chia cắt ra khỏi thời
gian.
Một văn bản,
tuy khởi đầu là một hình chụp một khoảnh khắc, vẫn cần sự phân tích vượt
ra ngoài cảm tính, ngoài giới hạn thời gian và không gian. Một bông hoa
“thật,” như nguồn sáng tạo của nhà văn, cho dù bị cắt đứt, hình thể của
hoa/những ý tưởng về một thời của DNM vẫn “sống”, vẫn cần được tranh luận,
và “cân nhắc” lại, như các quý vị đã chứng minh ở đây. Trong khía cạnh
nhìn nghệ thuật như một “di sản” thoát ra khỏi sự kềm hãm của chính trị
và lịch sử, thì DNM không khác TTT. Như thông điệp “Thủy Đao Lan” của DNM,
TTT đã gửi gấm di sản văn học miền Nam cho thế hệ mai sau qua những trích
dịch từ bài điếu “The Phoenix and the Turtle” của Shakespeare (“Phượng
Hoàng và Bồ Câu” — turtle ở đây là turtledove) như epigraph
cho quyển Một Chủ Nhật Khác :
Cái đẹp thật,
sự hiếm quý
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây
Cõi chết
Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ
Không lưu
truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật, không
sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.
Trước quan khách
đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
(bản
dịch Việt ngữ của Thanh Tâm Tuyền )
(Beauty, truth,
and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclos’d, in cinders lie.
Death is now
the Phoenix’ nest,
And the Turtle’s loyal breast
To eternity doth rest,
Leaving no posterity:
‘Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem
but cannot be;
Beauty brag but ’tis not she;
Truth and beauty buried be.
To this urn let
those repair
That are either true or fair;
For these dead birds sigh a prayer.
–William
Shakespeare)
Để phục hồi “Cái
đẹp thật, sự hiếm quý” của Văn học Miền Nam ra khỏi sự kềm chế của
chính trị và lịch sử, điều mâu thuẫn là chúng ta cũng cần thời gian,
một không gian khác, nhiều cái nhìn khác, từ ảnh hưởng của một hay nhiều
nền văn hóa khác, để thẩm định một cách chín chắn và đa diện nền văn học
này. Do đó tôi hoàn toàn đồng ý với chị Nguyễn Tà Cúc là sự nghiên cứu
khách quan và công phu về một nhà văn hay một nền văn học cần nhiều thời
gian, đòi hỏi nhiều tư liệu, kinh nghiệm và tinh thần sáng tạo. Đây cũng
là cách tôi hiểu câu cuối cùng trong bài phúng của Shakespeare, “For
these dead birds sigh a prayer” (“Vì những con chim chết này gửi (thở dài/trối
trăng) lời nguyện cầu.” (Bản dịch của TTT chưa được chính xác ở một vài
chỗ, cho nên ở đây tôi xin mạn phép chỉnh lại câu cuối — nhưng điều này
cũng cần được thảo luận trong một bài viết khác).
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý
- 30.08.2016 vào lúc 9:08 am
Này
những tên bất lương, hãy vơ vét, hãy chạy đi cho mau tiếp tục sống
làm đầy tớ cho những tên chủ, và hãy đừng bao giờ ngửng mặt lên, hãy
quên đi, đừng bao giờ nhắc đến hai tiếng Việt Nam. (DNM)
Cả ba thằng, cùng
xuất hiện 1 lúc, có thể nói như thế.
DNM với Rượu Chưa Đủ, trên
Sáng Tạo. Cung Tích Biền,
Ngoại Ô, trên Nghệ Thuật, 1 số
trước, thì tới Sơ Dạ Hương, với Những Ngày Ở Sài Gòn,
Nghệ Thuật số 9, vẫn còn nhớ, liền
sau đó.
Bientôt…
Soon, very soon….
Our Gang
Like moths
Around a streetlamp
In hell
We were
Lost souls
One and all
If found,
Returned to sender
Tụi Tớ
Như thiêu thân
Quanh ngọn đèn đường
Ở địa ngục
Tụi tớ
Những linh hồn mất linh hồn
Một và tất cả
Nếu kiếm thấy Gửi trả người gửi
Vẫn
trong cái dòng tưởng niệm ông anh TTT, Đinh Cường, người có thể coi
là người bạn độc nhất của TTT, như với GCC, là Joseph Huỳnh Văn, cái/lũ còn lại bỏ hết, và mới nhất, là Dương
Nghiễm Mậu, Tin Văn lèm bèm tiếp về 1 số tác giả khác, cùng thời với họ,
nhóm Sáng Tạo, Võ Phiến....
Đang tính viết về Walser, nhân đó, viết về tranh Đinh Cường, nhưng
Cô Út đem làm từ thiện cả kho sách, mất sạch, chỉ còn mấy cuốn quanh quẩn
nơi bàn viết.
Biết đâu, nhân đó, lời chúc của K thành sự thực, chỉ làm thơ thôi,
ngoài ra bỏ hết....
Ui choa, được như thế, thì quá tuyệt!
Note: Có hai tay, viết
truyện trinh thám mà cứ như làm thơ, hoặc ít ra, thật khó
mà sửa 1 câu văn của họ, theo GCC.
Đó là Raymond Chandler
và Ian Fleming.
Còn mấy tay nữa, không
chỉ hai tay này. Thí dụ, Len Deighton.
Mít, viết câu nào là
phải sửa câu đó, chán thế, "nhất là" mấy đấng có
tên tuổi, có đấng có cả chục đầu sách.
Nếu không sửa văn, thì
sửa lỗi chính tả.
Sến phán, đọc vài dòng,
là vứt thùng rác, chắc là do đó?
Thí dụ, Nguyễn Đăng Thường,
hay Nguyễn Văn Lục, chẳng hạn?
NDT đã từng chê bài thơ Dạ Khúc thần sầu của
TTT, trong có câu thần sầu, “ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới”, Gấu cũng đã từng chỉ ra, 1 bài thơ như vậy mà không đọc
được [tính kiếm lại mà không sao tìm ra], (2) làm sao đọc Beckett,
nhưng bây giờ, nghĩ lại, có thể do anh ta… quê một cục, tại sao chúng
chỉ đọc, chỉ khen thơ TTT, mà không tên nào khen thơ của… ta?
TTT cũng như thằng em của ông, cả hai đều bị chúng
ghét, và chúng, ở đây, đa số đều là bạn quí cả!
MT thì nghĩ bạn mình ngỏm ở trong tù VC rồi,
nên nhớ lại lần đầu gặp bạn, thì tưởng là, 1 tên thợ sắp chữ
nhà in báo Dân Chủ, và thằng khốn còn dám ngửa tay xin Công Tử Hà
Nội, 1 điếu thuốc lá.
Bạn VL, trong bài mới viết, tưởng niệm 10 năm, thì
lôi cái chuyện đã từng bỏ ra 10 ngàn đồng, giúp TTT thanh
toán 1 vụ tiền tạm ứng, hồi còn Sài Gòn, vậy mà khi ra hải ngoại, phôn, không
thèm trả lời!
Em Thụy Khê, Trùm 1 diễn đàn của Tẩy, phôn,
đếch thèm bắt phôn, gần như phát điên!
Thi sĩ Phố Văn thì bệ những
lá thư viết cho “đảo xa” về blog của chàng, ra ý, tưởng là đạo đức
thế nào, hóa ra cũng có bồ nhí!
NDT cả 1 đời làm thơ, đâu có cuốn thơ nào?
Mãi đến cuối đời, được nhà xb Giấy Vụn thương hại in cho 1 tuyển tập.
Đọc bài trường thiên phỏng vấn, mấy kỳ liên tiếp trên Gió O, thấy tinh thần có vẻ loạng quạng
rồi!
In, dối già, hay chạy tang?
Ông cho biết, không có ý định in, dù đã
từng là 1 trong những trụ cột của nhà xb Trình Bày.
Lý do theo Gấu, NDT chưa kiếm ra được giọng thơ
của ông, và mỗi lần làm thơ là nhại giọng của 1 nhà thơ nào
đó. Anh đã từng nhại giọng thơ TTT.
Sống chẳng làm cho chúng vui, khi chết làm sao
bắt chúng buồn cho được.
TTT đã từng căn dặn gia đình, như vậy, khi biết
mình sắp đi xa.
Cuốn
sách cuối cùng của Borges, là cuốn Conversations, và nó gồm
hai cuốn, cuốn thứ nhì cũng đã xb, nhưng Gấu đọc tin văn trên 1 tờ báo
mũi lõ, không nhớ tờ nào, cho biết, cuốn thứ nhì dở, do Borges già quá,
trí nhớ lộn xộn rồi.
"Phần hồi ức con người"
của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít: Chúng ta
không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy,
Nhưng chúng ta được biết
là chúng ta không thể có được cú diễn giải trung thực về thời của chúng
ta nếu không có sự giúp đỡ của Kafka.
Đúng, nhưng K quan trọng
hơn thời của chúng ta.Thật thê lương, K phải sống sót thời
kỳ này, và những giản lược của nó. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta chịu đựng cái
thế kỷ này mà chẳng có lấy 1 tí tự hào, Với tí hoài nhớ thế kỷ 19, mà
nó thì lại có tí hoài nhớ thế kỷ 18. Có lẽ Oswald Spengler có lý về cái sự thoái trào
mà chúng ta hoài nhớ - hiển nhiên là chúng ta có thể nói về cái thời cũ kỹ [trước 1975] của chúng ta,
và chúng ta có lý, hơn lũ VC, tất nhiên. Bất cứ cái chó gì dính dáng
tới trước 1975, thì đều bảnh tỏng cả!
Có em Carmen Gándara đi 1
đường tiểu luận thú vị về Kafka, tôi mới đọc gần đây. Em phán 1 phát cực
lạ về Kafka: Xuyên suốt đời mình, Kafka tìm kiếm một Thượng Đế “vắng mặt”
của thời của chúng ta.
Borges: Tôi bị hỏi hoài về
vụ này, mà thực sự không hiểu. (1)
Ý của tôi là, mặc dù mọi chuyện, Kafka có thể là 1 tín hữu,
hay có 1 tinh thần tôn giáo.
Borges: Đúng như thế, nhưng
tinh thần tôn giáo thì không cần phải tin vào một ông trời cá nhân. Thí
dụ tín hữu Phật Giáo đâu có tin vào một ông Phật có hình hài giống…
chúng ta, đúng không, và chuyện đó đâu cần. Cái ý tưởng tin vào 1
ông trời cá nhân thì không phải là 1 yếu tố cần thiết trong tinh thần
tôn giáo. Những kẻ phiếm thần, hay Spinoza – ông này thì thực là bí ẩn
và ông phán, “Deus sive natura”, Trời hay Thiên nhiên. Hai thứ đó là
một đối với ông ta.
(1)
Điều mà Borges, bị
hỏi hoài, mà thực sự không hiểu, theo Gấu, chính là cái gọi là Tận Thế
Là Đây, mà xứ Mít cần, trong bài essay trên tờ Harper's nhắc tới,
dưới đây.
Thượng Đế vắng mắt, là để cho Tận Thế xuất hiện.
Gấu nhức đầu, với câu hỏi này, cho tới khi cầm số báo Harper's
mới nhất lên...
Bây giờ chỉ có Tận Thế thì mới cứu Mít ra khỏi Địa Ngục Đỏ
do Cái Ác Bắc Kít gây nên thôi!
For those who have never experienced
defeat, destruction, or exile, there is an undeniable charm to loss
Với những kẻ chưa từng kinh nghiệm thất bại, huỷ diệt, hay lưu
vong, có 1 sự quyến rũ không thể nào chối cãi được về mất mát.
Lũ Ngụy, chỉ đến khi vô tù VC, thì mới hiểu được, chúng đánh mất Thiên Đường Miền Nam!
Khóc đi Nguyễn
Mùa này gió biển thổi điên lên lục địa TTT
Quá cả mép bờ thế giới
Cuốn tiểu thuyết
của Daniel Defoe, về 1 anh chàng thuỷ thủ bị đắm tầu, hớp hồn độc
giả bao thế kỷ.
Simon Willis có được cái thi vị, của cuộc đời Lỗ Bình Sơn,
khi ông thăm viếng hòn đảo của “phiện thú lắm” [inspiration, yên sĩ
phi lý thuần] này
Khi tôi [Simon Willis] mail cho hãng hàng không, họ nói,
không có thời khóa biểu. Họ hy vọng có chuyến bay vào những ngày Thứ
Ba, hay Thứ Sáu, nhưng Hè đang trở thành Thu, gió và mưa tới, thành
thử không chắc. Tuy nhiên, vào 1 buổi sáng mù sương, tôi thấy mình ở
trên 1 sân bay tư nhân mà hãng hàng không chia sẻ với sở cảnh sát Chilê.
Hành lý đã được cân, và thế là xong xuôi. Ngoài tôi ra, còn 4 hành khách.
Nơi tới là Lỗ Bình Sơn, 1 hòn đảo trong quần đảo, cách bờ
biển Chile chừng 700 km.
Cái lãng mạn của hòn đảo thì cũng văn học như tự nhiên, trời
sinh ra thì nó là như thế.
Trong 4 năm nó là nhà của Alexander Selkirk, một thuỷ thủ Ái
nhĩ lan bị đắm tàu, sống 1 mình, vào năm 1704, và câu chuyện sống sót
của anh ta đã gợi hứng cho Daniel Foe, và ông ta bèn viết 1 cuốn sách,
và cuốn sách này, gợi hứng cho rất nhiều người, khiến hòn đảo bây giờ
mang tên Lỗ Bình Sơn, vào thập niên 1960.
Nhưng vai trò của hòn đảo, mà nhờ đó, có cuốn tiểu thuyết,
và hòn đảo đổi tên, thì cũng chưa hết ly kỳ.
Sau đó, có
1 ông nhà văn Mít, bèn đi 1 đường thư từ cho bồ nhí của ông, tự coi
mình là Lỗ Bình Sơn, còn bồ nhí, là Đảo Xa, gây chấn động giang hồ trong
giới viết lách Mít lưu vong.
Nhưng cũng vưỡn chưa hết ly kỳ, như sau đây cho thấy.
Chỉ ít lâu sau khi hòn đảo được tạo thành, mầm hạt được gió
mang tới, làm xanh hòn đảo, với những giống cây cổ xưa như Lactoris,
xưa nhất trong mọi lục địa. Chim chóc, hải cẩu mò tới… Ngày nay, quần
đảo trở thành những nơi chốn tụ hội giàu có nhất của wildlife trên mặt
đất
Nhưng, đời sống ở đây, thực khó khăn...
Vẫn chuyện ly kỳ
liên quan đến Lỗ Bình Sơn.
Primo Levi, trong trò chuyện với Philip Roth, cũng cảm thấy ông
là LBS, khi ở Địa Ngục, Lò Thiêu!
Roth: Survival
in Auschwitz concludes with a chapter entitled "The Story of Ten
Days," in which you describe, in diary form, how you endured from 18
January to 27 January 1945 among a small remnant of sick and dying patients
in the camp's makeshift infirmary after the Nazis had fled westward with
some twenty thousand "healthy" prisoners. What's recounted there reads
to me like the story of Robinson Crusoe in Hell, with you, Primo Levi,
as Crusoe, wrenching what you need to live from the chaotic residue of a
ruthlessly evil island. What struck me there, as throughout the book, was
the extent to which thinking contributed to your survival, the thinking
of a practical, humane scientific mind. Yours doesn't seem to me a survival
that was determined by either brute biological strength or incredible luck.
It was rooted, rather, in your professional character: the man of precision,
the controller of experiments who seeks the principle of order, confronted
with the evil inversion of everything he values. Granted you were a numbered
part in an infernal machine, but a numbered part with a systematic mind that
has always to understand. At Auschwitz you tell yourself, "I think too much"
to resist: "I am too civilized." But to me the civilized man who thinks too
much is inseparable from the survivor. The scientist and the survivor are
one.
Levi: Exactly-you
hit the bull's eye. In those memorable ten days, I truly did feel
like Robinson Crusoe, but with one important difference. Crusoe set to
work for his individual survival, whereas I and my two French companions
were consciously and happily willing to work at last for ajust and human
goal, to save the lives of our sick comrades.
Survival in
Auschwitz
Cả ba thằng, cùng
xuất hiện 1 lúc, có thể nói như thế.
DNM với Rượu Chưa Đủ, trên Sáng
Tạo. Cung Tích Biền, Ngoại Ô, trên
Nghệ Thuật, 1 số trước, thì tới Sơ Dạ Hương,
với Những Ngày Ở Sài Gòn, Nghệ Thuật
số 9, vẫn còn nhớ, liền sau đó.
Bientôt…
Soon, very soon….
Our Gang
Like moths
Around a streetlamp
In hell
We were
Lost souls
One and all
If found,
Returned to sender
Tụi Tớ
Như thiêu thân
Quanh ngọn đèn đường
Ở địa ngục
Tụi tớ
Những linh hồn mất linh hồn
Một và tất cả
Nếu kiếm thấy Gửi trả người gửi
Charles Simic
I KILLED HITLER
IT IS LATE; I am old. I should
finally confess to what happened in the summer of 1937 in a small
town in Hesse. I killed Hitler.
I am Dutch, a bookbinder, retired for some years
now. In the thirties I was passionately interested in the tragic
European politics of the time. But then my wife was Jewish, and my
interest in politics was in no way academic. I decided to wipe out
Hitler myself, with a draftsman's precision, just as one would bind
a book. And I did it.
I knew that Hitler liked to travel in the summer
with a small group, practically without bodyguards, and that he stopped
in small villages, often in outdoor restaurants, in the shade of
linden trees.
What good are the details. I will say only that
I shot him and was able to get away.
It was a humid Sunday, a storm was on its way,
bees meandered as if they were drunk.
The restaurant was concealed beneath enormous
trees. The ground was covered with a fine gravel.
It was almost completely dark, and there was such
drowsiness in the air that it took great effort to press the trigger.
A wine bottle was knocked over and a red blot spread over the whit paper
tablecloth.
Then I sped away in my small car like a demon.
But no one was after me. The storm broke, down came a heavy rain
Along the way I threw the gun into a ditch overgrown
will nettles; I flushed out two geese, which began to run with an
awkward waddle.
Why the details?
I returned home triumphant. I tore off the wig,
burned my clothes, washed the car.
And all for naught, because the next day someone
else exactly like him down to the last detail and perhaps even crueler
than the one I killed, took his place.
The newspapers never mentioned the murder. One
man vanished, another appeared.
The clouds that day were completely black, the
air sticky as molasses.
Adam Zagajewski: Two Cities
Note: Đây là truyện ngắn
“Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc"
của DNM, được nhà thơ Ba Lan mô phỏng, hoặc viết lại, bằng 1 văn
phong nhẹ nhàng hơn nhiều!
Một anh chàng thú tội, đã từng ám sát Hitler,
nhưng lạ làm sao, chẳng ai phát hiện, và 1 kẻ khác, y chang Hitler,
có lẽ còn hung ác hơn nhiều, thế chỗ tên bị giết!
"Những con dã tràng", truyện ngắn
đầu tay của GCC, là cũng nằm trong dòng văn chương hục hặc hiện sinh,
như truyện Cuối Đường, hay Tư của TTT. Sau này, đọc Kẻ Xa Lạ, Gấu
nhận ra nhân vật chính trong truyện có dáng dấp của Meursault, và luôn
cả Camus, vì Camus có thời gian ho lao, như nhân vật chính trong
“Những con dã tràng”.
Như thế, có thể nói, Gấu đọc Camus, gián tiếp, qua
TTT.
Bởi là vì thời gian đó, Gấu chưa biết gì về Camus.
Truyện viết từ chuyến đi Nha Trang, trong dịp hè, sau
khi rớt Tú Tài Hai, Khoá I, và nhân bà bạn của bà cụ Chất,
bà Thời, tổ chức Trại Hè cho đám con cái công nhân viên hoả xa,
hai cụ cho đi theo luôn. Hết hè về, Gấu thi đậu khoá hai, bạn bè
rớt hết.
Gấu vẫn còn nhớ, là, khi
đọc bản nháp, bài luận Triết của Gấu, đưa về trình ông anh, TTT không
nói gì hết. Chỉ đến khi Gấu làm được cả hai bài Toán, và Vật Lý,
ông mới gật đầu, phán, đậu, nhưng do Toán và Vật Lý, chứ bài Triết
chỉ đáng 1 gậy!
Như thế, ông không tin
tài văn, tài triết con mẹ gì ở Gấu, và cũng thế, là nhận xét khi đọc
“Những Con Dã Tràng”, mi sẽ đi xa hơn DNM.
Ông đâu khen Gấu viết hay hơn DNM!
Chỉ đến khi viết được truyện
ngắn “Những Ngày Ở Sài Gòn”, thì Gấu hiểu ra, mình đã thoát
ra khỏi cái bóng của ông anh, và đã tìm ra được văn phong của riêng
mình, nhờ kiếm ra ông thầy, là Faulkner.
Đây cũng nằm trong lời khuyên của ông anh, mi hãy
đọc, đọc, đọc, đọc thật nhiều, và sẽ có 1 ngày, mi tìm ra cái dòng
văn của mi, qua ông thầy của mi.
Trên số báo sau đây, Asia Literary Review, Spring
2010, có bài viết “Pico Iyer và Dalai Lama”, thật là tuyệt, với
riêng Gấu.
Thầy của Iyer Pico là Graham
Greene. Và ông nhìn Dailai Lama qua Thầy của mình.
Không chỉ Dalai Lama mà còn luôn cả Phật Giáo,
qua cá nhân Phật Sống.
Số này có mấy đấng Mít, Gấu mua
là vì mấy đấng Mít, Nguyễn Quí Đức và Andrew Lam, bỏ qua bài về Pico.
May quá, mới kiếm thấy tờ báo!
Greene's book is widely regarded
as a classic, prophetic literary tale that examines the start of
American engagement in Vietnam. The acclaimed English novelist and
journalist, who covered the French war in Vietnam from 1951 to '54,
set the book in 1954 Saigon. The quiet American of the title is Alden
Pyle, who tries to forge an American solution to the Communist insurgency.
Another character, cynical British journalist Thomas Fowler, say of
Pyle : "I never knew a man who had better motives for all the trouble
he caused”. In a discussion of The Quiet American , essayist Pico Iyer
said: “Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous
opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are
a lanterned backdrop to a tale of irony and betrayal." Greene died in
1991.
Note: Bài viết ngắn trên,
trong số báo trên, trong nhắc tới câu của anh ký giả ghiền Hồng Mao,
nói về anh Mẽo trầm lặng: "Tôi chưa từng thấy thằng nào có những
ý hướng tốt đẹp hơn, như anh, về những khốn nạn mà nó gây ra [cho xứ Mít,
ở đây]".
Quả như thế thực. Đau thế.
Bài viết ngắn nhắc tới Pico
Iyer. Tò mò, Gấu lần ra bài viết của tay này, cũng thật là tuyệt vời,
về GG:
Pico còn viết cả 1 cuốn sách về ông thầy của mình,
ở trong đầu của mình, The Man Within My Head
Ever since he first discovered
Graham Greene's work, Pico Iyer has felt a haunting closeness with
the English writer. In The Man Within My Head, Iyer follows
Greene's trail from his first novel, The Man Within, to such
later classics as The Quiet American, examining Greene's obsessions,
his elusiveness, and his penchant for mystery. The deeper he plunges
into this exploration, the more Iyer begins to wonder whether the
man within his head might not be Greene but his own father, or perhaps
some more shadowy aspect of himself.
Drawing upon experiences across
the globe, from Cuba to Bhutan, and moving, as Greene would, from
Sri Lanka in war to intimate moments of introspection, this is the
most personal and revelatory book yet from one of our most astute observers
of inner journeys and crossing cultures.
Võ Phiến, khi qua Paris,
ở nhà Kiệt Tấn, khi nghe chủ nhà hỏi về TTT, đã phán, nhớ đại khái,
thằng chả nổi tiếng nhờ tiểu thuyết.
Thoạt nghe Gấu bật cười, nhưng sau nghĩ lại, có phần
đúng. TTT được đọc nhiều, và có đệ tử, là nhờ truyện ngắn, tiểu
thuyết.
Thơ của ông, số 1, nhưng đếch có đệ tử, đúng như
Đặng Tiến nhận xét.
Phải đến mãi bây giờ, trong khi ăn mừng thượng
thọ, thì GCC mới
ngộ ra, tiểu thuyết, truyện ngắn của TTT sở dĩ khủng như thế, là vì
cái viễn ảnh/ảnh tượng/thi ảnh.... của chúng.
Bóng dáng 1 anh chàng "lỡ độ đường", không nhà
nào dám chứa, lom khom bên lu nưóc, chiếu lên nền trời mỗi lần hoả
châu rực sáng, "cũng còn là" hỉnh ảnh 1 thuyền nhân Mít đếch nước nào muốn nhận.
Lạ nhất là Kiệt.
Bắc Kít di cư, bỏ chạy thoát cuộc chiến nhờ ông bố
khôn tổ cha, bò về để kịp chết - lỡ cuộc chết vs lỡ độ đường - GCC
cứ tự hỏi chính mình hoài, liệu có 1 tên Bắc Kít chịu chết thay cho cả
1 giống Bắc Kít như "cái tay này"?
Lạ nhất cũng là Hiền.
Như thể có 1 thoát xác, chuyển kiếp.... nếu chúng
ta biết tới nguyên mẫu "đảo xa", ở ngoài đời!
Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp
thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói với em là vẫn làm việc nhưng
anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có. Lúc nào anh cũng
ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em đi. Em
đi lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm,
máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ
Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình
muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy không. Lúc nào anh cũng cứ nghĩ
chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh
gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm
như với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như
mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh
sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh
mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn
đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em
có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm
học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những
đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn
đốn vì yêu người.
Note: Ui chao Le Petit Chose là cuốn sách Gấu
học tiếng Tẩy, với Thầy Roch Cường, thời gian học Đệ Nhị, sửa soạn
thi Tú Tài I, ở trưòng Hồng Lạc của Thầy Đoàn Viết Lưu, đường Sương
Nguệt Anh kế bên vườn Bờ Rô, sống nhờ ông anh rể Nguyễn Hoạt, bà
chị họ, Chị Hoạt, con ông Cả Hoán, tối đi làm bồi bàn ở tiệm chả cá
Thăng Long, một bữa ông thầy cùng bà vợ ghé ăn, bèn không lấy học phí nữa,
chuyện này kể rồi, in ra rồi trong Lần Cuối Sài Gòn, hình như thế.
Lại nói về Dickens, và những đứa trẻ bất hạnh. Graham
Greene, trong Gánh Nặng Tuổi Thơ, có 1 bài thần sầu về Dickens,
trên Tin Văn cũng đã từng chôm
Trong
cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận
định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú
mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về
những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi
thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà
văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng
cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một
kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng
cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene
viết:
"Có
vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống
ai, nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh
nặng tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường
hợp Dickens, còn với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn
nhà bà cô Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai
đều chẳng bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của họ,
đều như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn
của nó ra khi chúng ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê
thảm nhất, là bị nó cắn vào những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu
của một cái xuồng chứa toàn những cay đắng ngày nào, (1) thì có
lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm
cách nương tựa vào nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc
đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai
quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê hương đích thực cho dòng
Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất thình
lình, đúng vào lúc chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao,
là cách họ phản ứng, sau khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy.
Kipling, sự độc ác. Dickens phát hiện và khai triển một văn phong
dễ dãi, tự nhiên, easy and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại
vào trong sự hiểu biết của nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư là hợp
thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine,
Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm
nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté, les privations et la misère sont
l'école du bon soldat. Napoléon Bonaparte. Extrait d'une Lettre
à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1) Đây
là Gấu Cái nhớ lại kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai Lậy về
Sài Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than: Trên xuồng có đủ cay đắng, đủ dùng cho...
ba người, người thứ ba là cô phù dâu cũng ngồi trên xuồng!
* Gấu, nhà văn
Unpredictability,
not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is at the core
of our life.
Nguồn Không
thể biết trước, chứ không phải chết không thể nào tránh được,
đó mới là cốt lõi của cuộc đời của chúng ta.
Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.
The valley resounds
With the sound of the stars
With the vast stillness
Over snow and forest.
The cows are in their byre.
God is in his heaven.
Child Jesus in Flanders.
Believe and be saved.
The Three Wise Men
Are walking the earth.
W.G. Sebald: Across
the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của những vì sao
Bằng sự tĩnh lặng bao lao
Lên tuyết và rừng.
Bò thì về chuồng rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng ở Flanders
Tin và Được Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền Giả
Đang lang thang trên mặt đất.
Il ritorno d'Ulisse
Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin
For all his encounters in scattered
spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen
Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery
Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners
Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)
Note: Bài thơ này
làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa,
tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê
Bắc Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ
của TTY, Ta Về.
Ta Về
Trở về sau 1 chuyến dài
dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô
1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả những cú
gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những
người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần
sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì có bà ngoại
Tây Bán Nhà của Penelope
Bà chặn đường dẫn vô vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn
với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn
kíu nước,
Này khăn tay này, này thơ này,
Đường ra trận mùa này đẹp nắm!
Hà, hà!
Tất nhiên rồi, chắc chắn
có lũ con nít
– không phải nhếch nhác kéo nhau
coi tù Ngụy qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất
tự nhiên, mỉm cười với khách lạ
Những hy vọng ẩn giấu của chúng
vẫn hầu như quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý nghĩ thì
tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)
Allow me to offer an example
that will take us into the heart of the difficulty of
translating Sebald's poetry. Many of the poems in this
volume-which opens with a train journey-reenact travel "across"
various kinds of land and water (even if the latter is only the
fluid of dreams). Indeed, several, as the writer's archive reveals,
were actually written "on the road," penned on hotel stationery,
menus, the backs of theatre programs, in cities that Sebald visited.
Train journeys constitute the most frequently recorded mode of
travel. The following poem may refer to one such journey. "Irgendwo,"
translated in English as "Somewhere," was probably written in the
late 1990s and originally belonged to the sequence of "micropoems"
that provided the material for Sebald's posthumous collection Unerzdhlt
(Unrecounted), published in 2003:
Somewhere
behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting
Cho phép tôi đưa ra
1 thí dụ dẫn chúng ta tói trái tim của sự khốn khó trong việc
dịch thơ Sebald. Rất nhiều thơ trong tập này-
mở ra bằng 1 chuyến đi xe lửa – tái tạo, tái kích hoạt,cuộc lữ “qua” những vùng đất đai, sông nước (ngay
cả nếu thứ sông nước này chỉ là dòng mộng mị). Thực sự, một vài
bài thơ, như thư khố của nhà thơ bật mí, đúng là đã được viết
“trên đường", được gắn, ghim vào những tờ tiêu đề của khách
sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương trình kịch nghệ, trong
những thành phố mà Sebald từng thăm viếng. Những chuyến đi bằng xe
lửa thường được nhắc tới, trong số những phương thức du lịch. Bài
thơ sau đây, có thể là từ 1 trong những chuyến đi như thế. "Irgendwo,"
dịch qua tiếng Mít là “Đâu đó” có thể đã được in ấn vào cuối thập niên
1990, nguyên thuộc một chuỗi những “vi thơ”, chúng là chất liệu
cho tác phẩm được xb sau khi tác giả mất, Unerzdhlt
(Unrecounted), 2003:
Đâu
đó
Đằng sau Turkenfeld
Một vườn ương cây thông (1)
Một ao
Vùng truông,
Băng Tháng Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm tan
(1) Tuy dịch là "vườn" chứ thực ra, những vườn
ương thông này rộng bạt ngàn, như rừng .
K
Tks. NQT
The unadmitted reason why traditional
readers are hostile to e-books is that we still hold the
superstitious idea that a book is like a soul, and that
every soul should have its own body.
ADAM KIRSCH
Cái lý đo đếch làm sao chấp nhận
được e búc, e thơ, là, chúng ta vẫn khư khư giữ tục mê
tín, 1 cuốn sách thì giống như 1 linh hồn , và mỗi linh
hồn nên có riêng 1 cơ thể của nó.
in
Thắp Tạ
Note: Trong cuốn này,
có 1 bài "y chang" bài thơ của TTY tặng TTT!
Cả bài thơ của TTY, là nói về cú
đi ẩn của Lão Tử. Khi qua Ải Tây, người gác cổng năn nỉ, trước
khi đi ẩn, cố để lại cho đời bộ Đạo Đức Kinh.
Bài của Sebald thì mắc mớ đến 1 địa
danh của Lò Thiêu
Ải
Tây kể chuyện Lão Tử, đi ẩn, người gác cửa đời năn nỉ,
làm ơn để lại cho đời 1 cái gì đó, rồi hãy đi.
Nhờ vậy đời có bộ Đạo Đức Kinh
Cũng thế, là Thơ Ở Đâu Xa.
No money to bury him.
The relief gave Forty-Four.
The undertaker told 'em,
You'll need Sixty more
For a first-class funeral,
A hearse and two cars-
And maybe your friends'll
Send some flowers.
His wife took a paper
And went around.
Everybody that gave something
She put 'em down.
She raked up a Hundred
For her man that was dead.
His buddies brought flowers.
A funeral was had.
A minister preached-
And charged Five
To bless him dead
And praise him alive.
Now that he's buried-
God rest his soul-
Reckon there's no charge
For graveyard mold.
I wonder what makes
A funeral so high?
A poor man ain't got
No business to die.
Langston Hughes
Homo Poeticus.
Regardless
Con người Con vật thi sĩ
Bất kể
We are
exotica, we are political scandal, we are at best fond memories from
the First World War and the conscience of the old poilus' d' Orient
and members of the Resistance. We are also beautiful sunsets on the Adriatic,
balmy memories of beautiful, peaceful sunsets on the Adriatic, memories
dripping with sljivovica. And that's it. We are barely
a part of European culture. Politics? Fine! Sightseeing? Terrific! Slibowitz
(as the Germans have it)? Naturally! But who in God's name would expect
to find literature there? Who could be expected to make sense of their
nationalist nonsense, of all those languages and dialects so close to one
another yet (or so they claim) so different, of all those religions and
regions?
When it comes to literature, we've got more than enough,
we Europeans. Some pretty good stuff, too. While those-what-do-you-call-'
em?-srbo-krkrs, well, when they deal with their sensitive issues, when
they poke fun at their leaders and their system, when they write about
political scandals in picturesque settings-then they'll have a literature
of their own. We civilized Europeans, pure in heart and mind, we'll describe
the beauty of our sunsets and our childhoods (like St.-John Perse), we'll
write poems about love and whatnot. Why don't they stick to their politico-exotico-Communistski
problems and leave the real literature-the maid of all work, the sweet
servant of our childhood-to us. If they start writing about what we write
about-poetry, suffering, history, mythology, the human condition, "the
timeworn trinkets of plangent vanity"-we won't be interested. Then they'll
be like us, with their Andric and their Krleza (now how do you pronounce
that one?) and Milos Cmjanski (another krkr) and Dragoslav Mihajlovic
and so on, all of whom we can easily do without.
So Homo politicus
is for us Yugoslavs, while they have the rest, that is, every other
facet of that wonderful, multifaceted crystal, the crystal known as
Homo poeticus, the poetic animal that suffers from
love as well as mortality, from metaphysics as well as politics. Have
we deserved our fate? We have. We are guilty and must bear the consequences
in silence. For we have failed to resist the temptation of exporting our
minor (or major-what's the difference?) problems of nationalism and chauvinism
and shouting from the rooftops that we are not primarily Yugoslavs, no,
we are Serbs or Croats, Slovenes or Macedonians or whatever, listen carefully,
it's very important, ladies and gentlemen, you mustn't get us mixed up,
some of us are Catholic, others Orthodox, we've got Muslims and of course
a few Jews (mustn't forget the Jews!). So here we are, poor "Yugoslovaks"
back to our family squabbles. And we wanted to talk about literature, quote
that Croat monstre sacré Miroslav Krleza (krkr!) and that
Serb or Croat (take your pick) monstre sacre Ivo Andric, but no, we
are so clumsy we've gone and smashed the bibelot aboli, the timeworn
trinket known as literature. Which is why we don't deserve to be taken
seriously.
However-and this really is not our
fault, God is to blame-where in heaven's name are we to place this language
or languages and literature? Granted it's a Slavic language, a Slavic literature,
yes, a slavyanskaya zemlya, a Slavic country, correct, but with
a socialist regime slightly different from the rest. Which makes us "something
like the Russians." All right, then: all-but-Russians. At least Russians
don't make trouble. True, they come in a number of shapes and sizes (Azerbaijanis,
Bashkirs, Kalmucks), but we can always lump them together if we use the
term Soviet. So what? So nothing. No need to get excited. There have always
been great traditions, great literatures, and small languages, small nations,
just as there have always been large and small banknotes (dixit
Andric). So let's be modest, keep our voices down, and try not to drag
the whole world into our family altercations.
And most important, let's not be
taken in by the time-worn myth that we Yugoslovaks and other Hungarians
should give up literature and stick to entertaining he whole world with
politico-exotico-Communistski themes, give up trying to be anything
but Homines politici, everywhere and always, and get
it through our heads that poetry, play and playfulness, metaphysical obsessions
(who am I? where do I come from? where am I going?), and the transports
of love are not for the likes of us, that sunsets are none of our business
and belong exclusively to tourists enamored of literature and poetry
and hence entitled to admire them wholeheartedly and with a clear conscience.
No, literature and poetry (and like
Pasternak I put an equal sign between the two) are equally for us and
you, our barbaric dreams and yours, our myths and yours, our loves and
yours, our memories and yours, our day-to-day existence and yours, our
unhappy childhood and yours (which may just have been unhappy, too), our
obsession with death and yours (identical, I hope).
I am well aware
that poetry (=literature) is-and is becoming more and more-the description
and impassioned condemnation of social injustice (much as it was in Dickens's
day), the description and condemnation of labor camps, punitive psychiatric
clinics, and every variety of oppression aimed at reducing human beings
to a single dimension, the dimension of a zoon politikon, a political
animal. Yet, by so doing, it robs them of their wealth, metaphysical
thought, and poetic sensibility; it destroys their non-animal substance,
their neocortex, and turns them into militant beasts, naked, blind engagés
enragés, raving ideologues. The triumph of engagement,
of commit- ment-to which, we must admit, we adhere only too
often and which stipulates that literature which is not committed is not
literature-shows to what extent politics has penetrated the very pores
of our beings, flooded life like a swamp, made man unidimensional and poor
in spirit, to what extent poetry has been defeated, to what extent it has
become the privilege of the rich and "dec- adent" who can afford the luxury
of literature, while the rest of us ...
It is a danger that threatens us all. Yet we must realize
that literature-poetry-is a defense against barbarism and that even
if it may not "ennoble our sentiments" it does do some good: it does give
some meaning to the vanity of existence. If only on the strength of
this anthropological fact, then, we belong to the family of European
nations, and have as much right as they or more-given our Judeo- Christian,
Byzantine, and Ottoman tradition-to membership in the European cultural
community. Then, and only then, come the technical issues of translation,
commentary, references, parallels, and such. The rest . . . is literature.
The nations were exhausted
after many wars
and lay serenely in their marriage beds
vast as the Danube river basin.
Spring had begun, the first ecstasies.
In the boughs of trees, still naked,
Turkish turtle doves were cooing.
No one knew what to do, what to think.
We were orphans, since winter
had left us no testament;
a young butterfly studied flying
haphazardly, from scratch.
Butterflies lack tradition.
But we must die.
This is an inelegant
way to end a poem,
R protests. And adds:
A poem should end
better than a life. That's the point.
Adam Zagajewski:
Unseen Hand
Xuân Tới
Những xứ sở mệt nhoài sau nhiều cuộc chiến
Và nằm thanh thản trên những chiếc giường hôn
phối của chúng
Rộng như lòng sông Danube
Mùa Xuân bắt đầu, những cực khoái đầu tiên
Trong những nhánh cây, vưỡn trần truồng,
Rùa biển Thổ Nhĩ Kỳ gù gù
Chẳng ai biết làm gì, nghĩ gì
Chúng ta là những kẻ mồ côi,
Kể từ mùa đông chẳng để lại cho chúng ta
một cái di chúc nào cả;
Một em bướm trẻ học bay,
Theo kiểu may rủi, tình cờ, không chọn lựa.
Bướm đếch có truyền thống
Nhưng, than ôi, chúng ta phải chết
Đúng là 1 cách bất lịch sự, chẳng ra làm
sao cả
Để kết thúc một bài thơ.
TTT phản đối: Thơ là lời hơn lời
Và phán thêm, từ phiá bên kia nấm mồ:
Một bài thơ nên chấm dứt
Đẹp hơn là cuộc đời.
That’s the point
Of course nothing
changes
in the ordinary light of day,
when the great poet has gone.
Gray sparrows and dapper starlings
still squabble heatedly
in the tops of ancient elms.
When the great poet has gone,
the city doesn't miss a beat, the metro
and the trams still seek a modern Grail
In the library a lovely girl
looks in vain for a poem that could explain
it all
At noon the same noise surges,
while quiet concentration reigns at night,
among the stars-eternal agitation.
Soon the discotheques will open,
indifference will open-
although the great poet has died.
When we part for a long while
or forever from someone we love,
we suddenly sense there are no words,
we must speak for ourselves now,
there's no one to do it for us
-since the great poet is gone.
Nhà thơ lớn đã ra đi
Nghĩ về C.M.
Lẽ dĩ nhiên chẳng có
gì thay đổi
Trong ánh dương bình thường của ngày,
Khi nhà thơ lớn đã ra đi
Bầy sẻ xám, đám sáo đá lanh lẹn
Vưỡn cãi nhau loạn sạ trên những ngọn cây
đu
Khi nhà thơ lớn ra đi
Thành phố đếch thèm hụt 1 nhịp, xe điện
ngầm, xe điện,
vưỡn tìm kiếm một Grail hiện đại
Trong thư viện, một em xinh ơi là xinh, đáng
yêu cực đáng yêu
Kiếm đỏ con mắt một bài thơ giải thích mọi
chuyện cà chớn đó
Tới trưa, vẫn thứ tiếng ồn đó
nổi lên,
Trong khi một sự chú tâm lặng lẽ ngự trị
đêm
giữa những vì sao - một lay động thiên thu
Chẳng mấy chốc, quán nhạc mở cửa
sự lạnh lùng, dửng dưng cũng sẽ mở cửa –
mặc dù nhà thơ lớn đã chết,
Khi chúng ta bỏ đi, một
chuyến đi dài
Hay mãi mãi, xa một người nào đó mà
chúng ta yêu
Chúng ta bất thình lình cảm thấy đếch
kiếm ra lời.
Đếch có lời.
Chúng ta phải nói cho chúng ta, bây
giờ.
Đếch có ai làm chuyện này cho chúng
ta nữa-
Kể từ khi mà nhà thơ lớn đã ra đi
Adam Zagajewski
Note:
CM: Czeslaw Milosz
CLOUD
Poets build a home for us-but
they themselves
can't dwell in it
(Norwid in the poorhouse, Holderlin in a tower).
At dawn mist above the forest,
a journey, the rooster's husky call,
the hospitals are shut, uncertain signals.
At noon we sit in a cafe on the
square,
we observe the azure sky
and a laptop's azure screen;
a plane writes out the pilot's
manifesto
in clear, white script,
perfectly legible to the farsighted.
Azure is a color that happily
promises great events,
and then sits back and waits.
A leaden cloud draws close,
terrified pigeons rise
gracelessly into the air.
Storms and hailstones gather
in dark streets and squares,
and yet the light doesn't die.
Poets, invisible like miners,
hidden in the shafts,
build a home for us:
lofty rooms rise
with Venetian windows,
splendid palaces,
but they themselves
can't dwell in it:
Norwid in the poorhouse, Holderlin
in a tower;
the jet's lonely pilot
hums a lullaby; awaken, Earth.
Nhưng tôn vinh
cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ
làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có
một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách
phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính
chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống
mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ
như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình
hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm” được
ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà
lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm
trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt
một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng
đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng
phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không
gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu
Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta
trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng
ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ
như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi. Như Trang
nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm
bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói
chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh
nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến
lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng
Chương.
GNV không
biết TTT có về lại Đất Bắc lần nào không, khi đã ra hải ngoại. (1) Nhưng
có lần ngồi lèm bèm với Thảo Trường, hình như Gấu có than, giá mà về được
1 lần dối già, nữa, nhỉ, ông bèn ‘mắng cho’:
Ông về, một lần thắp hương cho ông cụ, ở đúng cái chỗ ông cụ
ra đi, bên mé sông Hồng, Việt Trì; một lần chụp hình cái lô cốt, vậy
là quả đủ rồi!
Ui chao,
sao mà bạn Gấu hiểu Gấu, quá cả Gấu hiểu Gấu!
Cái lô cốt trên đê làng Thanh Trì quả là khủng khiếp thật.
Cứ như Cột Đồng Mã Viện ấy, nhỉ!
Chắc là không. Ông trở lại Sài Gòn, lần bà cụ
đau nặng, rồi qua, ông em về thay ông anh, rồi qua, sau đó, ông mất, trước
bà cụ.Bài tưởng
niệm TTT của đấng bạn quí NTV, trừ mấy cái thư riêng mang ra khoe, là bài
trả lời phỏng vấn LHK, và bài này, thì GCC đã cho đăng trên Văn Học NMG,
từ khi ông còn sống.
Nội dung mấy lá thư riêng, cho thấy TTT vưỡn mong viết lại,
khi ông kể trường hợp mấy đấng mũi lõ, đến khi sắp xuống lỗ, vưỡn có
tác phẩm lớn, hay khi kể về 1 thứ cây gì gì đó, tưởng chết theo mùa đông,
nhưng mùa xuân bèn sống lại. Hiện tượng này, ở Canada rất là rõ nét. Thiên
nhiên chẳng những sống lại, mà sống nhanh sống vội sống ào ào.
Tuy nhiên, có hai ý tưởng mà NTV gán cho TTT, một, khi coi ông
là nhà văn lưu vong, cái gì gì “writer in exile”, và "tâm thái" thì lúc
nào cũng ở nơi quê nhà, làm GCC có tí thắc mắc.
GCC sự thực, không tin, TTT coi ông là nhà văn lưu vong. Ông
đi Mẽo là do tự nguyện, theo chương trình của Mẽo dành cho sĩ quan Ngụy.
Và ông đi, là nghĩ đến thế hệ tương lai của đám con cái của ông, khi ra
hải ngoại, gần như ông không viết nữa.
Có vẻ như ông không làm sao “viết như đếch có chó gì xẩy ra”,
và đây mới là tâm thái của ông, chứ đếch phải xứ Mít mà ông, có thể,
cũng đếch thèm nhớ.
Ông đâu trở về lại đất Bắc, trừ lần đi tù?
Còn Miền Nam ư? Tất nhiên, nhớ, thì ai mà chẳng nhớ, nhưng
nó mất mẹ mất rồi, và mỗi người tự chọn cho mình 1 cách nhớ, thương
nhớ đồng quê, thương nhớ.... biển, thí dụ vậy.
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn
rủ bọn này đi "bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi
trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn
gác sau BV Bình Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường
Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên,
Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà
Trỵ đó.
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc
đến 18/9 mới về nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt
Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột
xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali.
khoảng tháng 10 này, phải không ? Nếu nhất định được ngày gìờ thì
cho Tuyến biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Như vậy, Gấu đậu Trung Học Đệ
Nhất Cấp năm 1956. Kỳ 2. Kỳ 1, rớt vì bài Luận văn, vì ông Diệm, đúng
hơn
Tôi mê Ngô Đình Diệm đến nỗi…
thi rớt trung học đệ nhất cấp, kỳ một!
Kỳ đó, đề Việt văn: luận về hai chữ ‘anh hùng’.
Tôi, ngoài chuyện mê Ngô Đình Diệm ra, còn
mê chuyện Tầu.
Khi còn ở ngoài bắc, đã mê rồi, nhưng mới
làm quen sơ sơ những vị anh hùng như Tần Thúc Bảo, với đường
Sát Thủ Giản, La Thành với đòn Hồi Mã Thương… qua Thuyết Đường.
Vào tới Sài Gòn, như cá gặp nước, rồng ra biển! Thế là cứ thế
ngốn, hết Thất Hiệp Ngũ Nghĩa tới Tục Thất Hiệp; hết Chinh Tây tới
Chinh Đông…. Trong một cuốn, có chữ anh hùng, dịch giả cắt nghĩa là
con chim và con gấu.
Tôi ‘cọp dê’ luôn, đưa vào bài luận, rồi
cứ thế phăng phăng tiến về đất bắc, giải phóng quê hương ‘ngày
xưa’, thoát khỏi ngục tù Cộng Sản!
Người buồn nhất, khi biết tôi hỏng thi, là ông
anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông không tin, vì biết tôi học chăm,
và khá giỏi! Khi tôi đưa bản nháp, ông bật cười: đáng đời! Còn
nhỏ, lo học, chưa chi đã lo cứu đời, cứu nước!
Trớ trêu nữa, là sau đó, ông vô tù, vì chống
Ngô Đình Diệm.
Trong đời ‘ôi thi ơi là thi, sinh mi làm chi’,
tôi lận đận, đều là do văn chương, triết học.
Lần đầu, như kể trên. Lần hai, thi tú tài hai.
Sau bài triết, tôi đưa bản nháp cho anh Tâm (tức nhà thơ Thanh
Tâm Tuyền) coi. Anh không nói gì hết. Qua bài toán, và lý hóa,
biết tôi chẳng tha một bài nào, anh cười: vậy là đậu rồi. Hai
bài này đủ kéo cho bài triết, chỉ đáng ăn trứng (tức zéro), hoặc gậy
(tức một điểm)!
Tại sao nỗi cô đơn của tôi
Bài hát của tôi
Giấc mơ của tôi
Trì hoãn
Lâu
như thế?
Khuyên
Nè bồ tèo, nghe nè
Sinh dữ
Tử lành
Hãy có tí ti tình yêu
Ở giữa
Harlem
Chuyện gì xẩy ra cho giấc mơ bị trì hoãn?
Liệu nó khô queo dưới nắng gắt như lửa?
Hay mưng mủ như nỗi đau
Rồi bỏ chạy?
Hay thối rữa như đồ ăn thiu
Hay tráng tí đường
Như cục kẹo?
Có khi nào nó trũng xuống
Như chở nặng quá? Mà, có khi nào
Nó nổ cái đùng?
Vưỡn như ngày nào.
Cái cổng sắt khi đó chưa
có
WALKING
I never run into anyone from
the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they
always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the
red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the
night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another
tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return
ticket .
To wherever it is I came from earlier this
evening
Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào
quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày
xưa.
Cây trong công viên
– Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường
giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.
Tất cả những
gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm Hy vọng kiếm
ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi Và
kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi Trở về bất
kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng
là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm
Gà.
Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên
chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá,
vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng
tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa,
ở cuối cái sân....
Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và
tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển,
nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân
đất…
We have time to
grow old.
The air is full of our cries.
Samuel Beckett, Waiting for Godot
Thời gian, đủ để già
Trời kia, đầy tiếng khóc
Tôi vừa được tin Ngọc Dũng mất. Và cả một
thời niên thiếu của tôi, của "chúng tôi", có bóng
dáng của ông ở trong, bừng sống lại. Tôi viết ra ở đây, như
những lời chúc tốt lành nhất mong ông mang theo…
Nhà
cụ Chất khi đó, và bây giờ, vẫn nằm trong con hẻm
Đỗ Thành Nhân, ngay sau Tòa Thị Chính Gia Định. Căn nhà là
của bà Kh, bà cụ Chất thuê, tầng dưới. Sau cụ dành dụm đủ tiền
mua căn nhà. Trên lầu có hai phòng. Phòng anh Tâm ở phía
trước, có lối đi riêng là cầu thang ở bên ngoài. Tôi đã viết
về lần đầu tới, thấy anh Tâm ngồi ở một cái bàn góc phòng khách,
co cả hai chân lên ghế, cặm cụi viết… và tôi nhận ra một điều,
và tôi tự nhủ chính mình: hãy cố sống như anh, ở ngoài đời, cũng
như ở trong… văn chương!
Ngọc Dũng khi đó còn
sống độc thân, nghèo. Và thường tới cụ Chất để xin tiếp
tế gạo. Anh có chiếc ruột tượng, mỗi lần tới, cụ Chất đổ
gạo vô, rồi anh đeo quanh người, phủ chiếc áo lên, ra về.
Hai
cuốn tiểu thuyết của ông, quả đúng là chúng đóng dấu
ấn của chúng lên lịch sử Mít. Bếp Lửa, 1954, phát sinh cùng
chủng
loại Mít có tên là Bắc Kít Di Cư, trong nó, có thứ chủng loại
nhà văn - như là con hoang của 1 miền đất.
MCCN tưởng tượng ra 1 tên bỏ chạy cuộc chiến,
tới lúc nó sắp sửa chấm dứt, sợ quá, bèn vội vàng trở về để…
kịp chết!
Gấu học trước Thầy Đạo ít nhất
1 năm,
nếu ông học cùng ông anh BHD. Nhờ đậu đạt nhanh, ba năm làm ba cái
bằng.
Trung Học Đệ Nhất Cấp, cc 1955, đậu kỳ 2. Kỳ 1, rớt, vì tông tông Diệm,
như đã kể.
Giáo dục Ngụy cấm dính dáng tới
chính trị. Không chỉ ở Tiểu Học, mà luôn cả ở Đại Học.
Nghe lời xúi bẩy của đám bạn bè
như Ngô Khánh Lãng - đậu kỳ 1, ba tháng hè học Đệ Tam, vô năm
học - cũng theo lên
luôn Đệ Nhị.
Lúc này hết còn ăn chực ông anh rể Nguyễn Hoạt,
mà qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô từ Tây tháng tháng gửi tiền
về, tiền ăn, tiền học.
Cuối năm, mình Gấu thi đậu Tú Tài I. Cả đám rớt.
Trường tư lúc đó, chưa có Đệ Nhất,
thế là được vô học Đệ Nhất Chu Văn An, nhờ thế quen bạn Chất.
Cuối năm, thi kỳ 1, cả đám rớt, thi kỳ 2, cả đám rớt,
trừ Gấu đậu.
Ba năm chơi ba cái bằng, là thế!
Lần đầu gặp ông anh BHD, chắc là nghe bạn bè kể,
thằng đó giỏi toán, ông bèn nhờ giải 1 bài toán, chương trình
Đệ Tam, vẫn còn nhớ.
Thế là Gấu lôi cours ra, đánh vật với nó, giải
được, bèn mang tới nhà, không gặp ông anh BHD, bèn đưa cho bà cụ.
đang đứng bán hàng,
một cửa tiệm tạp hóa, nhớ đại khái. Nhớ là, bà ngạc nhiên ra mặt,
chắc là bà không tin thằng bé lùn lé này giỏi hơn con của bà.
Đúng lúc đó, BHD ở đâu chạy về. Thế là đến lượt cô bé ngạc nhiên
ra mặt.
Có thể là cái nhìn lé xệch của Gấu làm cô nhận
ra [nhận ra…. cái gì?], và cô ngạc nhiên, tại sao mi nhìn ta như
thế, không lẽ mi…. yêu ta, ư, mà mi là ai…. ?
Thì cú sét đánh, mặc khải, ngộ, bị cái rìu phá
băng bổ trúng đầu, kẻ mộng du đang lang thang bất ngờ vớ được chân
lý.... “cái con mẹ gì”, chắc là như thế!
Phải đến già, Gấu mới hiểu ra 1 điều, về mặc khải:
Bạn phải ở trong tư thế, sửa soạn, và quá nữa, sẵn sàng, ready, để đón nhận.
Cái học, cái đọc, cái đời của Gấu, trước kia, trước
khi ra hải ngoại, với bao nhiêu khổ đau… chỉ là 1 cái test, để nhận
cái họa mà Thượng Đế, thì vừa cười, vừa xoa đầu Gấu, vừa trao gói quà.
Cái cú gặp TTT, đang ngồi viết văn, mà nhận ra,
ngộ ra, sau này, Gấu sẽ y chang, sở dĩ xẩy ra, là nhờ cú đọc
cọp Bếp Lửa trên lề đường Xề Gòn, trước đó.
Ngô Khánh Lãng & Vũ Bạch
Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này
đi "bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe
đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình
Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ
còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày
ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó.
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về
nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và
Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau
vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng
10 này, phải không ? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết,
có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Như vậy,
Gấu đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1956. Kỳ 2. Kỳ 1, rớt vì bài Luận
văn, vì ông Diệm, đúng hơn
Tôi mê
Ngô Đình Diệm đến nỗi… thi rớt trung học đệ nhất cấp, kỳ một!
Kỳ đó, đề Việt văn: luận về hai chữ ‘anh hùng’.
Tôi, ngoài chuyện mê Ngô Đình Diệm ra, còn mê chuyện Tầu.
Khi còn ở ngoài bắc, đã mê rồi, nhưng mới làm quen sơ sơ
những vị anh hùng như Tần Thúc Bảo, với đường Sát Thủ Giản, La Thành
với đòn Hồi Mã Thương… qua Thuyết Đường. Vào tới Sài Gòn, như cá gặp
nước, rồng ra biển! Thế là cứ thế ngốn, hết Thất Hiệp Ngũ Nghĩa tới
Tục Thất Hiệp; hết Chinh Tây tới Chinh Đông…. Trong một cuốn, có chữ
anh hùng, dịch giả cắt nghĩa là con chim và con gấu.
Tôi ‘cọp dê’ luôn, đưa vào bài luận, rồi cứ thế phăng phăng
tiến về đất bắc, giải phóng quê hương ‘ngày xưa’, thoát khỏi ngục tù
Cộng Sản!
Người buồn nhất, khi biết tôi hỏng thi, là ông anh rể, Nguyễn
Hoạt. Ông không tin, vì biết tôi học chăm, và khá giỏi! Khi tôi đưa
bản nháp, ông bật cười: đáng đời! Còn nhỏ, lo học, chưa chi đã lo
cứu đời, cứu nước!
Trớ trêu nữa, là sau đó, ông vô tù, vì chống Ngô Đình Diệm.
Trong đời ‘ôi thi ơi là thi, sinh mi làm chi’, tôi lận đận,
đều là do văn chương, triết học.
Lần đầu, như kể trên. Lần hai, thi tú tài hai. Sau bài triết,
tôi đưa bản nháp cho anh Tâm (tức nhà thơ Thanh Tâm Tuyền) coi. Anh
không nói gì hết. Qua bài toán, và lý hóa, biết tôi chẳng tha một bài
nào, anh cười: vậy là đậu rồi. Hai bài này đủ kéo cho bài triết, chỉ
đáng ăn trứng (tức zéro), hoặc gậy (tức một điểm)!
Nhà cụ
Chất khi đó, và bây giờ, vẫn nằm trong con hẻm Đỗ Thành Nhân, ngay
sau Tòa Thị Chính Gia Định. Căn nhà là của bà Kh, bà cụ Chất thuê,
tầng dưới. Sau cụ dành dụm đủ tiền mua căn nhà. Trên lầu có hai
phòng. Phòng anh Tâm ở phía trước, có lối đi riêng là cầu thang ở
bên ngoài. Tôi đã viết về lần đầu tới, thấy anh Tâm ngồi ở một cái
bàn góc phòng khách, co cả hai chân lên ghế, cặm cụi viết… và tôi nhận
ra một điều, và tôi tự nhủ chính mình: hãy cố sống như anh, ở ngoài
đời, cũng như ở trong… văn chương!
Ngọc Dũng khi đó còn sống độc thân, nghèo. Và
thường tới cụ Chất để xin tiếp tế gạo. Anh có chiếc ruột tượng,
mỗi lần tới, cụ Chất đổ gạo vô, rồi anh đeo quanh người, phủ chiếc
áo lên, ra về.
Người viết đọc lại những gì đã viết, về một quãng
đời trong có bóng dáng một họa sĩ (Ngọc Dũng) vừa ra đi, và
nhận ra một điều: cái đói ám ảnh ngay từ dòng chữ mở đầu... Hay nói
một cách khác: đây là những kỷ niệm về cái đói.
Nào là cái ruột tượng đựng gạo, nỗi sợ mỗi lần nhìn
thấy... cháo, cơn đói lả mà cứ tưởng là bịnh...
Bác có anecdotes chi -
Phục Bác Gấu sát đất về các anecdotes quái dị của Bác - về cái
đói khát, túng thiếu.. tác động lên tâm hồn con người.
Bác thì kinh nghiệm đầy mình!
Một độc giả.
Tks. NQT
Phải đến già, sắp đi xa, thì GCC mới ngộ ra
1 điều, tất cả những gì Gấu trải qua trong đời, đều mắc mớ đến cái
test của Kafka, để nhận món quà Ông Trời ban cho Gấu:
Cái họa Lò Thiêu!
Khủng khiếp thực.
Phi Gấu ra, không tên Mít nào dám vô... Lò Thiêu!
Bốc phét dã man!
Hà, hà!
Nghĩ về ông hoài hoài kể từ
khi ông mất, tôi cố gọi ra bài học, to name the lesson, mà ông để
lại cho chúng ta. Làm sao mà một người không hoàn tất học vấn trung
học, chẳng hề bao giờ học đại học, trở thành 1 quyền uy được công nhận
bởi những danh nhân của tri thức nhân loại: How did a man who did
not complete his high school education, who never studied at a university,
become an authority recognized by the luminaries of humanistic knowledge?
Ông thông minh, và không phải ai cũng được ban cho món quà này. Nhưng
còn có 1 điều gì đó và điều này mới là điều quyết định. Môi trường, the
milieu, Leningrad, của thế hệ của ông, những nhà thơ trẻ, và những nhà
dịch thuật không-Xô viết, nghiến ngấu sách vở. Cái thôi thúc đến ám ảnh
đọc mọi thứ mà họ có thể kiếm thấy ở thư viện, hay tiệm bán sách cũ, thì
thật là đáng sợ, gây choáng, stunning; họ cũng học tiếng Ba Lan, như Brodsky
đã từng, để đọc văn chương Tây Phương, vốn chỉ có, available, trong ngôn
ngữ đó. Bài học mà lịch sử cuộc đời của ông cung cấp, thì là 1 bài học
lạc quan, bởi là vì nó chỉ ra sự chiến thắng của ý thức trên hiện hữu,
it points to the triumph of consciousness over being.
“Tôi cho phép tôi mọi chuyện,
trừ phàn nàn”. Câu nói của Brodsky phải được nhập tâm bởi mọi người
trẻ tuổi mà thất vọng, mà chán chường, mà chỉ muốn tự tử. Ông chấp
nhận tù đầy một cách triết lý, không nóng giận, anger; ông coi cái
chuyện đào đất, đào kinh, tại 1 nông trường cải tạo Xô Viết như là
1 kinh nghiệm hướng thượng, positive; bị tống xuất khỏi nước Nga, ông
quyết định hành xử như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Ông
coi, equate, giải Nobel văn chương như là 1 trò đùa trớ trêu của số
mệnh, the capricious turns of fate, như ông đã từng trải qua trước đó.
Những vị hiền giả cổ xưa đòi hỏi một cách ứng xử như thế, nhưng đâu có
nhiều người làm được điều này, not many people who can behave like that
in practice.
Milosz
TTT cũng đâu có bằng cấp đại
học, hà hà? Ông đi thi Tú tài chưa đủ tuổi, phải làm đơn xin được
chiếu cố. Đậu xong hai cái Tú Tài, ông bỏ học, đi dạy học để nuôi
mẹ, nuôi em, buồn buồn ghi tên học Luật, lấy đâu được 1 chứng chỉ.
Khi Gấu đậu xong cái bằng Tú
Tài, bà cụ thì đi giữtrẻ cho
1 nhà người quen, thằng em thì hầu hạ 1 ông cử nhhân hán học, cụ Ngô
Thúc Địch, chỗ bà con của ông anh rể Nguyễn Hoạt. Gấu bèn hỏi ông
anh, làm sao bi giờ, làm sao học Đại Học, ông nói, thì đi làm, vừa làm
vừa học. May làm sao Bưu Điện mở lớp, Gấu bèn thi vô, và quả là Trời cứu,
bởi vì nếu không học Bưu Điện, ra trường làm anh thợ sửa máy, thì vô phương
làm thêm cho UPI.
Nhờ tiền Mẽo, thế là tha hồ mua sách
Tây, đọc lia lịa, đọc chạy đua với chiến tranh với Thần Chết...
Granta, Số Mùa Hè, 1997. Mua tại 1 tiệm
sách cũ, cũng lâu lắm rồi. Tham Vọng, gồm những hồi ký, của toàn
những Trùm. Bài của Steiner, sau đưa vô Errata, hình như vậy. [Note:
Bài của S. là đoạn mở ra Errata.
NQT]
Đọc thấy câu, giả tưởng rồi sẽ trở nên già khằn, to be
outgrown, vì con người trở nên chín nẫu, ripened, ở trong cái gọi là
“nguyên lý thực tại”, “reality principle”.
Sau mấy cái cà chớn như "Đêm giữa ban ngày" [cũng hồi
ký "dởm", ngay cái tít, là đã đi chôm của người], hay, mới nhất "Bên
Thắng Nhục", Gấu tin là, phải 1 cuốn giả tưởng, thứ bảnh, thì mới đem
lại sự thực cho cuộc chiến Mít, cho cả đôi bên, cho cả nước!
Thời kỳ 1954 thì có "Bếp Lửa"!
Thời kỳ 1975, có “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, “Một Chủ Nhật
Khác”, “Thời Gian Của Người....”. Chúng, mỗi thứ trong cái riêng
của nó, nói được 1 phần nào sự thực.
Note: Đọc lại, thì lại vang lên ý của
1 tay, khi viết về Brodsly, đặt 1 dấu chấm hết to tổ bố cho thứ văn
chương Xạo Hết Chỗ Nói của Liên Xô:
Brodsky's greatest achievement, says
the poet Olga Sedakova, was to have 'placed a full stop at the end
of [the Soviet] literary epoch". He did so by bringing back to Russian
letters a quality crushed, in the name of optimism, by the Soviet culture
industry: a tragic conception of life.
Coetzee: Joseph Brodsky
V/v văn
học Miền Nam.
Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận
định của nhà thơ Olga Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của
Brodsky, là đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho
văn học Nga cái chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân
danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác: Thân phận bi đát được
làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic perception of
life.
Tên VC Nam Kít Trần Bạch Đằng, chẳng
đã từng gọi mỗi tên bộ đội cụ Hồ là 1 Phù Đổng Thiên Vương?
Một tên Quỉ Đỏ, thì cũng thế.
Đâu phải là người?
Trong NBCT, VC cũng phi xì ke như
điên, trước giờ xung trận.
Lạ, là vừa mới ra hải ngoại, bài viết đầu tiên của GCC,
là về NBCT.
Chẳng lẽ, Gấu nhận ra nó, nhờ mùi khói hồng hoang?
Note: Đọc
bài thơ này, THNM, GCC bỗng nhớ lần từ giã Trại Tị Nạn
Thái Lan, chờ máy bay đi tái định cư nơi Xứ Lạnh.
Quá khiếp hãi, với cái
ý nghĩ, sẽ chẳng bao giờ trở lại cái xứ sở khốn nạn
Á Châu cằn cỗi, cái xứ Mít đầy Cái Ác Bắc Kít,
bịnh cao áp ra đòn, huyết áp tăng vọt, khiến Bác Sĩ tính
hủy bỏ tên trong danh sách chuyến bay.
Chuyện này cũng đã kể
rồi.
Nhờ bữa đó Thứ Bẩy. Chuyến
bay Thứ Hai.
Thế là bèn đưa vô bịnh
viện, chích thuốc, tới Thứ Hai, trở lại bình thường.
After Nature gồm ba
bài thơ dài.
Sau đây là 1 mẩu, trong
bài thơ dài, có tên như trên:
Nếu tớ ở mãi nơi Mỏm Biển Bắc, Xứ Lạnh
... Immer steipetider hebst, Woge, du
dich!
Ach! die
letzte, letzte bist du! das Schiff 8eht unter!
Und den Todtetiqesang
heult dumpf fort,
Auf dem gro[b]en,
immer offenen Grabe der Sturm!
... Higher and higher, billow,
you rise!
Ah, you're
the last, the last! the ship's going down!
And muted,
over the grave yet open and huge,
Still the
gale howls its death-chant, its dirge.
Friedrich Gottlieb Klopstock,
"The Worlds," Feb. 1746
· ··IV···
When the ship sailed out
of Danzig Bay,
Steller, who had never
yet confronted
the sea, stood on the
deck for a while,
wondering at the passage
over water, at power and
weight,
at the salt in the air
and
the darkness pushed down
to the deep
under the keel. To the
left,
the outermost point of
the Putzig spit,
to the right, the headland
fronting the Frische Haff,
a pale grey streak endlessly
merging into a still paler
grey.
This behind him had been
Germany,
it occurred to him, his
childhood,
the woods of Windsheim;
the learning of ancient
languages,
protracted throughout
his youth
perscrutamini scripturas,
shouldn't that read, perscrutamini
naturas rerum? (1)
Cuộc gặp gỡ của Gấu với Woolf, cũng tình
cờ, cũng "nhiệm mầu", nhưng chưa ghê gớm như của Garcia Marquez.
Ông đọc, chỉ một câu, của Woolf, trong Mrs Dalloway, mà nhìn ra, trọn
cả tiến trình phân huỷ của Macondo, và định mệnh sau cùng của
nó ["I saw in a flash the
whole process of decomposition of Macondo and its final destiny"].
*
Lần đầu, là tại một tiệm sách ở Sài Gòn,
một ngày đẹp trời lang thang giữa những tiệm sách ở đường Bonnard,
(1), tình cờ cầm lên cuốn Bà Dalloway, vào thời điểm mà cả thành phố và
lớp trẻ của nó đã, đang, hoặc sẽ đợi cái ngày con quỉ chiến
tranh gọi đến tên mình, và trong khi chờ đợi như thế, đọc Sartre,
Camus, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, cuốn tiểu thuyết của Woolf
thật quá lạc lõng, nhưng chỉ tới khi bạn nhập vào một ngày trong
đời người đẹp, nhập vào cái giọng thầm thì, hay dùng đúng thuật ngữ
của những nhà phê bình, giọng độc thoại nội tâm, dòng ý thức... là
bạn biết ngay một điều, nó đây rồi, đây là đúng thứ "y" cần, nếu muốn
viết khác đi, muốn thay đổi hẳn cái dòng văn học Việt Nam...
Mấy ngày sau, khoe với nhà thơ đàn anh,
về mấy ngày đánh vật với cuốn sách, ông gật gù, mắt lim dim
như muốn chia sẻ cái sướng với thằng em, và còn dặn thêm: cậu hãy
nghe "tớ", phải đọc đi đọc lại, vài lần, nhiều lần...
Bonnard, hai "n", Gấu viết trật, đã sửa lại,
theo bản đồ Sài Gòn xưa, Việt Nam Xưa
Favourite trick Ventriloquism. Woolf was an exponent of the
“free indirect style”, whereby the narrator inhabits the voice
of the character. In “Mrs Dalloway”, for instance, the following
lines are attributed to the narrator, but they are unmistakably
Clarissa’s thoughts: “Hugh’s socks were without exception the most
beautiful she had ever seen — and now his evening dress. Perfect!”
As J. Hillis Miller put it, the narrator is a function of the character’s
thoughts in Woolf’s writing, not the other way around – “they think
therefore I am.”
Mánh thần sầu. Nói bằng bụng.
Ui chao, bèn nhớ đến Kim Dung.
Đúng hơn, Kiều Phong, trong trận đấu kinh
hồn lạc phách ở Tụ Hiền Trang. Kiều Phong mang A Châu tới, năn
nỉ Tiết Thần Y trị thương cho nàng, sau khi trúng đòn của Kiều Phong.
Mãnh hổ Nam Kít [Khất Đan] địch quần hồ Bắc
Kít [Trung Nguyên]... May được vị đại hán mặc đồ đen cứu thoát.
Trước khi bỏ đi, bèn tát cho KP 1 phát, và
chửi, tại sao mi ngu thế, chết vì 1 đứa con gái xa lạ, không
quen biết.
Ui chao, lại Ui chao, đây là đòn phục bút,
để sửa soạn cho cú tái ngộ Nhạn Môn Quan, Kiều Phong tung A Châu
lên trời, như con gà con, chờ rớt xuống, ôm chặt vào lòng, hai ta
ra quan ngoại chăn dê, sống đời tuyệt tích, không thèm dính vô
chốn giang hồ gió tanh mưa máu…
Trong đời KP, hai lần đánh xém chết người
đẹp, hai chị em sinh đôi, đều yêu ông, tếu thế.
Lần đánh A Châu, được Tiết Thần Y cứu, lần
đánh A Tử, nhờ đó, tìm lại được xứ Nam Kít của ông, rồi chết
vì nó…
Ui chao, lại nhớ Sến. Em chửi, sao ngu thế,
mất thì giờ với tiểu thuyết chưởng!
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng
đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất
cả
Cát
ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn
này
Số phận
còn thua hạt cát.
Hàng
cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn
lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
Canvas
I stood in silence before a
dark picture,
before a canvas that might have been
coat, shirt, flag,
but had turned instead into the world.
I stood in silence before the
dark canvas,
charged with delight and revolt and I thought
of the arts of painting and living,
of so many blank, bitter days,
of moments of helplessness
and my chilly imagination
that's the tongue of a bell,
alive only when swaying,
striking what it loves, loving what it strikes, and it came to me that this
canvas could have become a winding-sheet,
too.
Canvas
Tôi đứng im lặng trước bức hình tối
thui
Trước tấm vải bố
Có thể là
Áo khoác, áo sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì vậy thì biến thành
Thế giới
Tôi đứng im lặng trước tấm vải bố
tối thui
Tẩm trong nó là thích thú, đam
mê và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật vẽ và sống
Tới những ngày trống rỗng, cay đắng
Tới những khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi lắc lư
Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt tôi ngộ ra rằng thì là
Tấm vải bố này, cũng, có thể trở thành
tấm vải liệm.
Tưởng
niệm 10 năm TTT cũng là tưởng niệm Đinh Cường vừa mới mất,
với riêng Gấu. Họ là bạn của nhau, theo cái nghĩa, chỉ cần 1
người bạn là đủ ở trong cõi đời này, như Gấu chỉ có Joseph Huỳnh
Văn, vào lúc cần nhất, và ông Trời bèn gật đầu, lời khẩn cầu
của mi, đã được chấp thuận.
Đấng này, cũng bạn quí của TTT, khi thấy thư/thơ Lỗ Bình
Sơn gửi cho Đảo Xa xuất hiện trên net, mừng quá,
bệ ngay về blog, la lớn, ơ hơ,
tưởng Người vĩ đại cỡ nào, hóa ra cũng có bồ nhí, như mình!
Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam Zagajewski
Chuyện Tình Buồn
Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo. (a)
Cái tít Chuyện Tình Buồn này, thay vì Một chuyện về nỗi cô đơn, là do Gấu
nhớ đến cô bạn, và những ngày Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa,
1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và
khi 1 anh tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh
nhịp, Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên
ngoài, trong bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có
đến mấy nhóc:
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi thủi ra về. Trưa
hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô trường Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình
Triệu, vừa hết cữ vã, là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng
trốn Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.
Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước muốn
trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài trời
ngày hôm qua, tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những
người khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của mẹ nên được tổ
chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một con người nên lo
lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài
mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật sau
chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.
Những chiếc lá bạc hà làm dịu
cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn
thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp xướng
tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Có những bài để lại ấn tượng
thật lâu, sâu đậm như bài Phi trường
Amsterdam...
DV
Tks
Bài này, khi Gấu dịch, không
mấy xúc động, nhưng khi đọc lại, bồi hồi nhớ Mẹ, nhất là khổ thơ
sau cùng:
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Brodsky
cũng có ba búa TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh
ông. Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống, thông
qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất
mẹ cái đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban cho nó hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống
sót, không phải là nhờ đạo hạnh mà nhờ bửn quá, do óc bị
thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này có cái gọi là lương tri của con
người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật
trịa tứ lung tung, một phần là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề
tài, tại sao Mít không thể tưởng niệm, nhân đọc Sebald viết về
văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu, và, tại làm sao lũ
Bắc Kít cứ cực kỳ thông minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có
1 bài viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố quá
khôn, bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào tay Nazi, nhờ
vậy gia đình ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là
do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong
chuyện dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra trước tai họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1
Steiner, là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu chuyện về Lò
Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo
hạnh rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của bạn ló ra, thay
cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là thứ văn
chương tiên tri và văn chương hồi ức, như thế, là đều liên
quan tới cái đuôi của con người đã bị mất đi theo đà tiến
hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the
mice in it, and the martens also, forestall its collapse
and emigrate. This, you know, is what they say happened at
Helike, for when the people of Helike treated so impiously the
Ionians who had come to them, and murdered them at their altar,
then it was (in the words of Homer) that "the gods showed forth
wonders among them. “For five days before Helike disappeared all
the mice and martens and snakes and centipedes and beetles and every
other creature of that kind in the town left in a body by the road
that leads to Keryneia. And the people of Helike seeing this happening
were filled with amazement but were unable to guess the reason. But
after the aforesaid creatures had departed, an earthquake occurred
in the night; the town collapsed; an immense wave poured over it; and
Helike disappeared, while ten Lacedaemonian vessels that happened to
be at anchor close by were destroyed together with the city I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals.
A teacher of rhetoric, Aelian earned the nickname Meliglottos,
meaning "honey-tongued," based on his fluency with Greek. In
addition to his seventeen-volume work on animals, Aelian published
Indictment of the Effeminate, a posthumous attack on the emperor
Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of fictional letters
about Attic country life. Elsewhere in Animals, he describes the tradition
of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom they called "Averter
of Disaster," asking for neither swordfish nor dolphin to destroy
their nets.
I am above the weakness of seeking to establish
a sequence of cause and effect between the disaster and the
atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp
nối về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương và sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike
đối với dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà cũng ngạc nhiên
giữa họ, như thế, không mắc mớ gì đến tai ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán,
mọi người, trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting
for the end of the world to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống,
trong khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies
have fallen, D.H. Lawrence, 1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài,
thì một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng ta hãnh
diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary
human disaster that lasted too long must be born a society
of which all humanity will be proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện,
sau tận thế, chăng?
GCC
Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria
Tsvetaeva, Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này,
phản ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là
hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây giờ tôi phải làm gì
để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách nữa,
cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn lại đứng lên
được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the
phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.
Cuốn này, thấy lâu rồi,
nhưng không dám đụng vô. Bìa cứng,
xót tiền quá, và đọc, thì cũng cực
quá.
Nhân Tết Mít, bèn bệ về, vì,
cũng có ý, đi 1 đường tưởng niệm ông anh
nhà thơ, bằng cái bài của bà nữ phê bình
TK "Yankee mũi lõ" này, về Langston Hughes.
Lần đầu GCC nghe cái tên ông
nhà thơ da đen này, là qua thơ TTT.
Nghê thuật đen.
Đen, với ông anh là da đen, là
Jazz...
Nhưng với GCC, là… cơm đen!
Như cái note dưới đây
Suicide's Note:
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss
*
Christ is a nigger,
Beaten and black:
Oh, bare your back!
Mary is His mother:
Mammy of the South,
Silence your mouth.
God is His father:
White Master above
Grant Him your love.
Most holy bastard
Of the bleeding mouth,
Nigger Christ
On the cross
Of the South
Christ là tên mọi đen
Bị đánh đập, và đen:
Ôi, trật cái lưng ra đây!
Mary là Má của Nó,
Nam Kít
Hãy câm miệng!
Chúa của Nó
Da trắng ở trên Trời
Ban cho Nó tình yêu
Ôi đứa con hoang kia ơi
Miệng đầy máu
Christ da đen
Trên thập tự
Christ, Nam Kít!
*
The saxophone
Has a vulgar tone.
I wish it would
Let me alone.
The saxophone
Is ordinary.
More than that,
It's mercenary!
The saxophone's
An instrument
By which I wish
1'd never been
Sent!
*
Me and the Mule
My old mule,
He's got a grin on his face.
He's been a mule so long
He's forgot about his race.
I'm like that old mule-
Black-and don't give a damn!
You got to take me
Like I am.
Helen Vendler: The Unweary Blues.
The Collected Poems of Langston Hughes
[in The Ocean, the Bird and the
Scholar]
Rạp Cao Đồng Hưng, gần hẻm Đỗ Thành
Nhân, nhà bạn Chất.
Sáng
sáng, Gấu cuốc bộ từ Hẻm Đội Có, Phú Nhuận, đi hết con đường Chi
Lăng, qua Xóm Gà, được bạn Chất dẫn tới
tiệm phở ở đây.
Thời gian đó, cụ C đã mua tầng lầu bên
trên. C. có phòng riêng. Ông anh có phòng riêng. Cụ còn nuôi thêm
hai cô người làm. Hai chị em. Chắc cũng chẳng cần tới hai người, nhưng
nuôi cô chị, chẳng lẽ bỏ cô em, đại khái vậy.
Hai cô xẩm. Cứ mỗi lần, vào buổi tối, Gấu ghé, thường
là bụng đói, và cô chị biết liền, và bèn lấy cơm nguội ra cho
Gấu ăn.
Thế rồi Gấu mê, cả cơm nguội, lẫn người ban cho mình
cơm nguội.
Cô biết. Và có lẽ cũng thương Gấu!
*
Cụ nuôi cô chị trước, ít lâu sau, nuôi thêm cô em.
Cô em, nhìn cái cảnh thằng cu Gấu tới, cô chị lăng xăng săn sóc cái
bụng đói, hai con mắt đói, chắc là hiểu. Thành thử cô em đối với
Gấu rất ư là tự nhiên, cứ như là người trong gia đình, đây là anh
Hai của mình mà! Có những lần Gấu tới, không có cô chị, chắc là về nhà
thăm gia đình, thế là cô em thay cô chị, lo săn sóc anh Hai, còn thân
mật hơn cả cô chị, và chẳng hề có một tí mờ ám nào cả.
Gấu cũng thế.
Cho tới một bữa, Gấu, mắt lé, nhìn cô em ra cô chị,
và lỡ dại cầm tay. Thế là xong.
*
Lần về thăm cụ, vào năm 2000, Gấu vẫn canh cánh trong
lòng, về hai cô xẩm. Hỏi thăm, cụ nói, tụi nó đi nước ngoài hết
cả rồi. Gấu mừng quá. Nhưng một lát sau, cụ nói, tao nhớ lộn. Hai
đứa nó vẫn còn ở Việt Nam.
TTT, cũng dân Toán, cũng chỉ có cái
bằng Dự Bị Đại Học - năm thứ nhất, Luật – thành ra hai anh em
còn cái đồng điệu, là đọc những tác giả mà đám Văn Khoa không thể
đọc được, như Koestler thí dụ.
Nhớ, 1 lần ngồi Quán Chùa, nhân nhắc tới sự trù ẻo
của cái vòng tròn, la malédiction du cercle, đề tài của
cuốn Những Kẻ Mộng Du của K. ông cho biết, nó có ba cuốn chứ không phải
1, nhờ vậy, Gấu tìm đọc toàn bộ.
Cái
tít nguyên thuỷ của nó là Vòng tròn xấu xa, “The Vicious Circle”,
và Daphne đổi lại, như trên, khi K bị nhà cầm quyền Anh giam giữ
tại nhà tù Pentonville. K. tỏ ra thích cái tít này, mà ông nghĩ,
từ Milton: Oh, dark, dark, dark, amid the balze at noon, nhưng nguồn
của nó, qua Daphne, từ Book of Job.
Chỉ 1 cuốn sách, với bạn quí
của nó, là cuốn Trại Loài Vật,
mà Âu Châu không bị nhuộm đỏ, và Tây Phương thắng cuộc chiến
tranh lạnh!
Khi nó vừa mới ra lò, ở Pháp, Sartre ra lệnh cho đệ
tử đi từng tiệm sách thu gom, và đốt sạch!
Khủng khiếp thật.
Với riêng GNV, không đọc nó những ngày 1954, chắc
là lên rừng, phò HPNT, đúng như lời cầu chúc của 1 đệ tử Thầy Cuốc
rồi!
Cái từ khủng khiếp Tẩy Não, brainwashing, 1 cách nào đó, là do Koestler
phịa ra! (1)
Lần đầu tiên, Gấu biết tới
Những Kẻ Mộng Du, 1959, là đúng vào
thời mê BHD, quen HPA, và cùng anh hay la cà mấy tiệm sách cũ khu
Chợ Ðũi, Trần Quí Cáp, loanh quanh ngôi trường Kiến Thiết, nơi em học
tiểu học, cho đến khi đậu vô trường Gia Long, và nhà rời từ đường Phan
Ðình Phùng lên đường Gia Long.
Cũng nơi có quán cà phê hủ tíu, sáng Gấu hay ngồi,
chờ em, đưa em đi học trường KT, nơi chị học ngày xưa, rồi sau đó,
tới ngồi uống cà phe với Gấu! Có kể trong Hà Nội Của Gấu rồi.
Chính là 1 trong những lần
lục sách báo cũ đó, Gấu vớ được 1 số báo nrf điểm cuốn Những Kẻ Mộng Du của
Koestler, và không làm sao quên được sự chúc dữ của cái vòng tròn,
la malédiction du cercle, tức thời
kỳ Koestler gọi là Dark Interlude.
Do quá say mê cái vòng tròn, mà nhân loại chìm đắm
vào trong cõi u minh hai ngàn năm, vì cứ đinh ninh quĩ đạo của các
hành tinh là vòng tròn, thay vì hình quả trứng e-líp.
Lịch sử lập lại: Cái sự say
mê chủ nghĩa không tưởng Mạc xịt thì đâu có gì khác?
Nhớ 1 lần ngồi Quán Chùa,
nhắc tới Koestler, nhắc tới kỷ niệm trên, với ông anh nhà thơ. Hóa ra là
ông cũng mê Koestler. Nhân đó, ông giới thiệu Gấu cuốn Le Cri d'Archimède,
The Act of Creation,
1964, Hành động sáng tạo, của Koestler.
Koestler viết: Nhờ những cuộc
cãi lộn về bản chất con người mà tôi viết ra được những cuốn
tiểu thuyết. Những cuốn sách kia, là những toan tính của tôi, nhằm
nghiên cứu, cùng một số phận về bản chất của con người, nhưng bằng
những thuật ngữ khoa học.
Càng về già, Gấu càng biết
ơn Koestler, nhờ đọc Ðêm Giữa Ban Ngày đúng vào
lúc mới lớn, nói theo Applebaum, người viết Gulag Một
Lịch Sử, nó giống như 1 thứ thuốc chủng, nhờ vậy đã không lên rừng
phò HPNT, những ngày ở Sài Gòn!
NKTV
It was The Great Gatsby we were 'doing' for A-level,
not Tender is the Night, but my English teacher got me to read
it anyway. I was seventeen and remembered practically nothing about
it - but I never quite forgot it.
This, it turns out, is a not uncommon reaction,
or at least a variant of a fairly common one. Putting into practice
an idea he'd 'got from Conrad's preface to The Nigger', Fitzgerald
believed that 'the purpose of a work of fiction is to appeal to
the lingering after-effects in the reader's mind'. He was responding
to some surly comments about Tender from Hemingway; who, as if succumbing
to exactly these 'lingering after-effects', later told Max Perkins
of a 'strange thing' about Fitzgerald, namely that 'in retrospect
his Tender is the Night gets better and better'. John Updike bounces
this kind of response back into the works themselves. 'So often in
Fitzgerald,' he writes, 'we have only the afterglow of a dream to see
by.' I don't remember when I read Tender for the second time. Even
the note scribbled in the front of my Penguin edition is uncertain:
'Read 2, 3 times (?) before this, Paris, April/May 92.' I had gone to
Paris in 1991 to write a novel which, I hoped, was going to be a contemporary
version of Tender is the Night, so the afterglow of those undated re-readings
was, evidently; still strong. Appropriately enough
• This piece was commissioned by The American
Scholar for their Rereading series. They responded to the draft
I sent in by asking if I could make it more personal, so some of
what's here is me being obedient, not self-indulgent! (Note added
2010.)
Hình như có lần Fitz than với
Hemingway [trong Paris là 1 ngày hội?], anh nổi tiếng vì
thành công, còn tôi, thất bại.
Nếu đúng thế, thì đây là 1 tự hào.
Hemingway không thể viết được Tender.
Khi cố viết, bèn tự đòm mình 1 phát!
Geoff Dyer đọc Tender, coi đây là đề tài tủ, dành cho
ai tính nghiên cứu Fitz, chính cái sự thất bại làm cho chàng thành công.
‘An Adorable Bookling’
Looking at Pictures
by Robert Walser, translated from the
German by Susan Bernofsky, with additional translations by
Lydia Davis and Christopher Middleton
Christine Burgin/New Directions, 143 pp.,
$24.95
Tờ
NYRB số mới nhất, 23 June, 2016, đi 1 đường về Walser, điểm cuốn
Tin Văn đã/đang giới thiệu, Looking at Pictues, như 1 tưởng
niệm 10 năm TTT ra đi, và bạn ông, Đinh Cường, mới ra đi.
Bài
trả lời phỏng vấn Le Huu Khoa, “Thơ giữa chiến tranh..”, nằm trong loạt
bài của Le Huu Khoa, có tên chung là Mảng Lưu Vong, 1995.
Le Magazine Littéraire, Văn chương và Trại
Tù, Tháng Giêng, 2005.
TTT ra đi tháng 3, 2006.
Gấu tin rằng, nhà thơ chưa đọc số báo Le Magazine Littéraire trên, vậy
mà bài viết của ông nằm vào đúng dòng đó.
Một bên, là Lò Cải Tạo: Thơ giữa chiến tranh
và Trại Tù
Một bên là Lò Thiêu: Văn chương và Trại
Tù
Trong
những kỳ tới, TV sẽ giới thiệu một số bài quan trọng trong
số báo trên.
Họ gọi tên cái không thể gọi tên, Ils ont
nommé l’innomable, par
Pierre Mertens. Văn hóa thì đi đời nhà ma ở trong trại tù
ư?, La culture est-elle morte à Auschwitz? par Theodor W. Adorno.
Cuộc du ngoạn lớn của hồi ức. Le grand voyage
de la mémoire, par Jorge Semprun…
Và, áp dụng câu phán của Adorno
vô hoàn cảnh và thực tế Mít, đề xuất vấn nạn: Giả như cố đấm
ăn xôi, hăm hở viết, sau Lò Cải Tạo, thì cái sản phẩm đó, có thể
coi là văn chương Mít? Nó rõ hơn, giả như cứ vờ câu
hỏi “Tại sao Lò Cải Tạo”, viết “như chẳng có gì xẩy ra”, “không
chịu chọn đừng”, thì được cái gì?
Tôi nhớ bấy giờ là cuối năm
1970. Phạm Công Thiện, trong tư cách khoa trưởng Văn khoa Đại
học Vạn Hạnh, lên đường đi Âu châu dự một hội nghị đại học quốc tế
rồi đi luôn không bao giờ còn trở về Việt Nam nữa. Hết thảy chúng tôi
đều sững sờ, khó hiểu. Riêng Thanh Tâm Tuyền không. Bảo tôi: “Anh phải
nhìn thấy sớm muộn rồi Phạm Công Thiện cũng phải một lần bỏ đi như thế,
đi hẳn thật xa, mất tích. Có như vậy mới đúng là Phạm Công Thiện. Chúng
ta ít nhiều là những định tinh. Hắn hơn là một hành tinh. Hắn là một ngôi
sao băng”. (Mai Thảo, Chân Dung: Mười
lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam, Văn Khoa xuất bản, California, 1985,
pp. 146–147).
Cái chuyện PCT bỏ đi xa, đi hẳn
thật xa, mất tích, theo Gấu, không thực sự bảnh như TTT phán.
Bảnh là phải như Kiệt, trong MCNK cơ. Bỏ đi rồi
lại bò về để chết.
Vả chăng, MT phán, cũng đáng
nghi lắm. Trí nhớ của ông có vấn đề, theo Gấu.
Gấu có tí kỷ niệm về PCT.
Khi đám “tiểu thuyết mới” nổi
đình nổi đám, có lẽ ông bực, và đi 1 đường chửi mấy tên, bò vô nhà
sách Xuân Thu, mua tờ báo Tây, ra đường, cặp nách, nhún nhảy, rồi
tạt vô Quán Chùa.
Hình ảnh này, là từ Người Đi Trên Mây, theo Gấu.
Anh có dáng điệu nhún nhảy đúng như PCT mô tả.
Hình như PCT cũng thấy mình hơi lố, bèn thòng
1 câu, tôi chửi chúng cũng là chửi tôi.
Ông biết, cái viết của ông, thực sự là cũng của
thiên hạ.
Kỷ niệm kia, là về Simone Weil.
Gấu hồi đó, tiếng Tây ăn đong, làm sao đọc nổi Weil. Đọc PCT, thấy chê Weil
quá cỡ thợ mộc. Bèn bỏ qua tác giả này.
Rõ ràng là PCT không đọc, chưa từng đọc, hay
có đọc mà chẳng thể nào hiểu nổi, Weil.
Thầy của ông là Henry Miller, nhưng sau này, Gấu
đọc Miller, thấy PCT cũng chưa đọc thấu tay này, mà chỉ gãi ghẻ.
Miller dám sống, và sống tới, viết tới, hơn PCT
PCT bảnh nhất, theo Gấu, như 1 thi sĩ. Đúng ra
ông chỉ nên làm thơ, và dịch sách. NQT
Trường hợp PCT làm GCC nhớ
tới Alain, và lời phán thật tuyệt của ông, trong lúc hơi có tí
tự hào về… con người:
Man is not merely
one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is
one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong
một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống
sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
PCT lúc còn trẻ,
cực kỳ kiêu ngạo [như ông viết, và được trích dẫn, trong bài viết “nguồn”
nêu trên], nhưng do ông sợ cuộc chiến quá, bỏ chạy, thế là trúng thương,
và đếch làm sao viết được nữa: ông “sống sót”, ngược hẳn ý của Alain, mà
đúng như của Brodsky, khi phán:
"Virtue, after all, is far from
being synonymous with survival; duplicity is."
J. Brodsky: "Collector's Item"
Đạo hạnh mắc mớ gì tới sống
sót? Nhập nhằng, điếm thúi đồng nghĩa với nó
Cesare Pavese,
viết, “Buồn ơi là buồn, khi làm hỏng những giấc mộng của đời
mình, bằng cách thực hiện chúng”. (1)
GCC đã từng chép
tặng PD, câu phán tuyệt vời này, khi ông mất.
Câu của CP, một
cách nào đó, cũng có thể áp dụng vào trường hợp PCT.
“Il est une chose plus triste que
d’avoir raté ses idéaux: les avoir réalisés” Cesare Pavese, Le Métier de vivre,
Nghề sống
Cả 1 lũ, cả 1 thế hệ, tinh anh
Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, không tên nào ra hồn,
1 cách nào đó, đều “sống sót”, theo nghĩa câu của Brodsky: Một lũ
điếm thúi.
Đâu phải tự nhiên VC cấm cửa
chúng, không cho trở về lại xứ Mít?
MT có thể coi là người độc
nhất, trong nhóm ST - nếu không tính tới Ngọc Dũng, đi trước 30
Tháng Tư, 1975 - sống sót cuộc chiến Mít, sau 1975, ông không đi
tù VC, và vượt biển, qua xứ Người sớm sủa, làm bạn với PCT, nghe nói,
có hồi, cùng mê 1 em, và đã từng đánh lộn với nhau, vì bướm này.
Ông nhớ lại TTT nói về PCT
theo Gấu, là cũng để xoa đầu bạn quí PCT.
Với MT, TTT kể như chết rồi, nên ông nhớ “bậy”
về bạn, như TV đã từng khui ra: Ông lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ,
cũng trong cuốn sách được đám Hậu Vệ nhắc tới, “Chân Dung nhà văn”
cái con mẹ gì đó.
Cả cái vụ viết về DNM, rằng
ông [MT] nhặt truyện ngắn đầu tay của DNM trong sọt rác 1 tòa
soạn báo văn học Xề gòn, cũng rất đáng ngờ! DNM, còn sống, có lẽ nên
đi 1 đường về cú nhớ này, nên chăng? NQT
[Note: MT nhớ bậy. Chẳng hề có chuyện nhặt
truyện ngắn DNM từ sọt rác, như 1 tay, trên blog NL cho biết]
“Một Lời” của Dương Nghiễm Mậu hiện gây nhiều tranh cãi, dù đó là quan điểm ứng biến/ “snapshot” của ông vào tháng tư 1975. Sự tản cư của các đồng bào Việt từ thành phố thất thủ này cho tới thành phố thất thủ khác vào những ngày tháng đó có thể, theo ông, là một cách chạy trốn không đủ ý thức hoặc vô vọng. Ông luôn muốn là một người “có ý thức” trong mọi hoàn cảnh, cho dù quyết định của ông không giống người khác.
Tạm gác qua một bên những phản ứng thúc đẩy bởi tình cảm hay quá khứ đau buồn, tôi thấy “Một Lời” của DNM cần được phân tích như một khuynh hướng của nhà văn về khái niệm “quốc gia.” Tôi hy vọng sẽ có thời gian trong tương lai viết một bài so sánh ông với Thanh Tâm Tuyền. Theo sự nhận định lúc này của tôi thì khái niệm quốc gia của DNM có liên hệ mật thiết đến địa lý và tình cảm/tình yêu (qua tác phẩm Gia Tài Người Mẹ của DNM). Do đó, DNM khác Thanh Tâm Tuyền ở chỗ từ chối quyết định lưu vong. Ngược lại, Thanh Tâm Tuyền, ngay từ tác phẩm đầu tay là Bếp Lửa, cho tới Một Chủ Nhật Khác, xem sự lưu vong là cần thiết nếu đất nước (hoặc thể chế chính trị) không đáp ứng được nhu cầu văn chương hay cá nhân của TTT – là một người muốn sống, viết và suy nghĩ trong một môi trường không bị kiểm duyệt hay áp chế. Nhưng DNM thà đổi nghề nghiệp hơn là đổi quốc gia. Truyện “Thuỷ Đao Lan” có thể đọc như một ẩn dụ về quyết định treo bút của DNM. Cây Thuỷ Đao Lan – một loài cây hư cấu – tượng trưng cho nghề cầm bút, vì như loài hoa lan có hình thể như đao kiếm, ngòi bút cũng có thể giết người (hay một triều đại). Cái chậu sứ đựng cây hoa bị kiếm sắc của một hiệp sĩ lạ chém ngang thành hai mảnh nhưng cây trông vẫn tươi đẹp qua bao nhiêu mùa đông, cho dù cây đã fossilized và trở thành như một cây giả. Những tác phẩm của DNM, như Thuỷ Đao Lan, bị lưỡi kiếm thời đại chia cắt ra khỏi thời gian.
Một văn bản, tuy khởi đầu là một hình chụp một khoảnh khắc, vẫn cần sự phân tích vượt ra ngoài cảm tính, ngoài giới hạn thời gian và không gian. Một bông hoa “thật,” như nguồn sáng tạo của nhà văn, cho dù bị cắt đứt, hình thể của hoa/những ý tưởng về một thời của DNM vẫn “sống”, vẫn cần được tranh luận, và “cân nhắc” lại, như các quý vị đã chứng minh ở đây. Trong khía cạnh nhìn nghệ thuật như một “di sản” thoát ra khỏi sự kềm hãm của chính trị và lịch sử, thì DNM không khác TTT. Như thông điệp “Thủy Đao Lan” của DNM, TTT đã gửi gấm di sản văn học miền Nam cho thế hệ mai sau qua những trích dịch từ bài điếu “The Phoenix and the Turtle” của Shakespeare (“Phượng Hoàng và Bồ Câu” — turtle ở đây là turtledove) như epigraph cho quyển Một Chủ Nhật Khác :
Cái đẹp thật, sự hiếm quý
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây
Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ
Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật, không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.
Trước quan khách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
(bản dịch Việt ngữ của Thanh Tâm Tuyền )
(Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclos’d, in cinders lie.
Death is now the Phoenix’ nest,
And the Turtle’s loyal breast
To eternity doth rest,
Leaving no posterity:
‘Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem but cannot be;
Beauty brag but ’tis not she;
Truth and beauty buried be.
To this urn let those repair
That are either true or fair;
For these dead birds sigh a prayer.
–William Shakespeare)
Để phục hồi “Cái đẹp thật, sự hiếm quý” của Văn học Miền Nam ra khỏi sự kềm chế của chính trị và lịch sử, điều mâu thuẫn là chúng ta cũng cần thời gian, một không gian khác, nhiều cái nhìn khác, từ ảnh hưởng của một hay nhiều nền văn hóa khác, để thẩm định một cách chín chắn và đa diện nền văn học này. Do đó tôi hoàn toàn đồng ý với chị Nguyễn Tà Cúc là sự nghiên cứu khách quan và công phu về một nhà văn hay một nền văn học cần nhiều thời gian, đòi hỏi nhiều tư liệu, kinh nghiệm và tinh thần sáng tạo. Đây cũng là cách tôi hiểu câu cuối cùng trong bài phúng của Shakespeare, “For these dead birds sigh a prayer” (“Vì những con chim chết này gửi (thở dài/trối trăng) lời nguyện cầu.” (Bản dịch của TTT chưa được chính xác ở một vài chỗ, cho nên ở đây tôi xin mạn phép chỉnh lại câu cuối — nhưng điều này cũng cần được thảo luận trong một bài viết khác).
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý