*

1
2



TTT 10 years Tribute

Ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi
http://www.tanvien.net/Dich_1/burn_out_case.html

Câu thơ trên, của Nguyễn Du, trong truyện Kiều, tả cảnh Kiều ở trung tâm một trận bão, lụt, làm Gấu nhớ tới cái truyện ngắn chỉ có được mỗi cái tên truyện của Gấu: Mắt Bão.
Nhớ, cả cái bữa ngồi Quán Chùa, khoe cái tít với ông anh, ông biểu, còn nhiều từ như thế lắm, ở trong môn học địa lý.
Nhưng, "ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi", còn là cái dáng ngồi như ông Bụt của Marlow, khi anh kể lại câu chuyện của Kurtz, trong Trái Tim Của Bóng Đen.
Và đúng là cái tâm trạng của NHT, kẻ "chẳng bao giờ đi xa và cứ ở mãi đây", ở cái xứ Bắc Kít. Ở trung tâm của Bóng Đen.


Virtue, after all, is far from being synonymous with survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
Đạo hạnh thật khó mà coi là đồng nghĩa với sống sót. Nhập nhằng, OK!
It belongs to a nobleman to weep in an hour of disaster
Euripides, 412 BC
It would be impossible to live for a year without disaster unless one practiced character-reading
Virginia Woolf, 1927
Sao Gấu cay đắng hoài như thế?
Sến Cô Nương
Thật vô phương sống nổi 1 năm không tai ương, ngoại trừ đọc trang TV!
Càng nhìn sao trời - như MT đã từng nhìn,
Thì càng hiểu ra, con người sống thời gian vay mượn, đếch phải của nó
The more we learn about asteroid impacts, the clearer it becomes that human race has been living on borrowed time
Brian May, 2014


Brodsky cũng có ba búa TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông. Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống, thông qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ cái đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban cho nó hồi ức.

Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống sót, không phải là nhờ đạo hạnh mà nhờ bửn quá, do óc bị thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này có cái gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ lung tung, một phần là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề tài, tại sao Mít không thể tưởng niệm, nhân đọc Sebald viết về văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu, và, tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực kỳ thông minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có 1 bài viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố quá khôn, bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào tay Nazi, nhờ vậy gia đình ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong chuyện dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra trước tai họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1 Steiner, là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu chuyện về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo hạnh rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của bạn ló ra, thay cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là thứ văn chương tiên tri và văn chương hồi ức, như thế, là đều liên quan tới cái đuôi của con người đã bị mất đi theo đà tiến hóa của nó.

C.200: Rome

The Departed

When a house is on the verge of ruin the mice in it, and the martens also, forestall its collapse and emigrate. This, you know, is what they say happened at Helike, for when the people of Helike treated so impiously the Ionians who had come to them, and murdered them at their altar, then it was (in the words of Homer) that "the gods showed forth wonders among them. “For five days before Helike disappeared all the mice and martens and snakes and centipedes and beetles and every other creature of that kind in the town left in a body by the road that leads to Keryneia. And the people of Helike seeing this happening were filled with amazement but were unable to guess the reason. But after the aforesaid creatures had departed, an earthquake occurred in the night; the town collapsed; an immense wave poured over it; and Helike disappeared, while ten Lacedaemonian vessels that happened to be at anchor close by were destroyed together with the city I speak of.

Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher of rhetoric, Aelian earned the nickname Meliglottos, meaning "honey-tongued," based on his fluency with Greek. In addition to his seventeen-volume work on animals, Aelian published Indictment of the Effeminate, a posthumous attack on the emperor Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of fictional letters about Attic country life. Elsewhere in Animals, he describes the tradition of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom they called "Averter of Disaster," asking for neither swordfish nor dolphin to destroy their nets.

I am above the weakness of seeking to establish a sequence of cause and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp nối về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương và sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike đối với dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà cũng ngạc nhiên giữa họ, như thế, không mắc mớ gì đến tai ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi người, trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the end of the world to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống, trong khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen, D.H. Lawrence, 1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng ta hãnh diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary human disaster that lasted too long must be born a society of which all humanity will be proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện, sau tận thế, chăng?
GCC

Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria Tsvetaeva, Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này, phản ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn lại đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.


& *



448

I died for Beauty - but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth, was lain
In an adjoining Room -

He questioned softly "Why I failed"?
"For Beauty", I replied -
"And I - for Truth - Themself are One -
We Bretheren, are", He said -

And so, as Kinsmen, met a Night –
We talked between the Rooms –
Until the Moss had reached our lips -
And covered up - Our names -

This little fable, stemming ultimately from the motto "Beauty is Truth, Truth Beauty" spoken by Keats's Urn, is one of many poetic attempts to reconcile the Good, the True, and the Beautiful (traditionally known as the "Platonic Triad"). Perhaps no poet has been able to give equal weight to all three concerns. Keats himself was in fact beginning to put new emphasis on the Good in his last works, but he had spent most of his short life thinking about the relation of Beauty (aesthetic creation and its product) to Truth (both philosophical and representational). Dickinson resolves the old quarrel between the truth of Beauty and the truth of Reason by letting Reason deny the existence of the quarrel: '''We Bretheren, are; He said - ". How is it that these "Bretheren," if they are indeed brothers, have never met until the grave unites them? Dickinson allows the person who died for Beauty, who is the "lead speaker" of the poem, to revise the relationship a little: they are "Kinsmen,” but have strayed into a shared domain only now. "Truth" is male in this narrative, as the pronouns tell us; it seems probable that Dickinson intend "Beauty" to be female. Each a hemisphere, together they make a whole.
    Why have Truth and Beauty died? Truth puts the question first, to Beauty: "Why did you fail?" (in the sense of "weaken and die"). "For Beauty:' she replies. "And I - for Truth:' he says, but continues with his declaration of their intimate relationship (as though Beauty would not know, unless he told her, that Truth is her Brother). Beauty had apparently never thought about her relation to Truth; she was self-sufficient. But Truth had thought about his relation to Beauty-he had ascertained what his complement must be. This interesting asymmetry has separated them until now; but Truth has convinced Beauty that a near-relation of hers, a Kinsman, lies in the Room adjoining hers in the Tomb. Dickinson will not attempt a complete fusion. A wall separates Beauty from Truth, and it does not disappear.
    When we use an expression such as "He died for God and Country,' we envisage a battle; when we say, "She died for her faith:' we envisage a martyrdom. Apparently, Beauty and Truth have died in affirmation of the values they endorse; society will not permit their continued existence. Yet there is no recrimination in these two who have been so steadfast, nor any indictment of the values opposed to their own. They were not executed; they merely "died" or "failed" for Beauty or Truth. The idiom "I died [failed] for Beauty" substitutes a weak verb of nonaction for a strong verb of action, as in “I fought for Beauty" or "I spoke for Beauty." In the Tomb, the adversary no longer matters; to "fail" in the service of a cause places agency within the self, rather than in the hands of an enemy ("I was martyred for Beauty").
    In any case, what seems to be-astonishingly-the first mutual recognition of Truth and Beauty softens the impact of the grave, to which Beauty is “scarce/Adjusted" (as though it were a new climate). She is "Adjusted"; he is “adjoining": Dickinson's graphic and phonetic "matches" confirm the relationship of the two ideals. Beauty's "Tomb" matches Truth's "Room." They are Kinsmen indeed. Their warm talk continues, until-in one of Dickinson’s startling flashes of metaphor-they metamorphose into their own Tombstones.
    Eventually, but mercifully only after some time, the moss on the stone will grow high enough to obliterate the names of these Kinsmen, as, in a second flash-forward to the future, the lips that were enabling speech in the Tomb fall silent when the moss covers their names. It is not the attrition of the time and weather that obliterates the names, as it would be in an ordinary cemetery; rather, in Dickinson's gentle close, it is the beneficent green of nature that eventually resolves all distinctions. As "Tomb" rhymed with "Room" in the first instance, now "Rooms" rhymes with "names" as even the highest Platonic concepts gradually disappear under the Moss.
    The simplicity of both fable and diction has made "I died for Beauty - "none of Dickinson's best-known poems, but under the simplicity lies a real inquiry into the relations of Truth and Beauty. The fact remains that they can never occupy the same room, however much their lips can express kinship in words.

Helen Vendler: Dickinson, Selected Poems and Commentaries 

Đọc cái còm của nữ phê bình gia Thụy Khuê-Yankee mũi lõ, thì hoá ra là, bài thơ này, “mắc mớ” tới bài thơ Phượng Hoàng & Bồ Câu, của Shakespeare, TTT dùng làm đề từ cho Một Chủ Nhật Khác, và xoay quanh thứ tình yêu “Chiêm Ngưỡng & Kính Trọng”, tức tam giác tình lý tưởng, the Platonic-triad, mà em BHD đã từng phán, thứ tình yêu đó cũng làm Hương...  sợ!

Nếu như thế, TTT, đọc/dịch Dickinson, và hiểu, bài thơ, đúng như Vendler cắt nghĩa?

Thảo nào BHD….  sợ!

Phượng Hoàng và Bồ Câu

Cái đẹp, sự thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây.

Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ.

Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.

Vẻ thật không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.

Trước quanh quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.

Thanh Tâm Tuyền dịch

The Phoenix and the Turtle

Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclosed'd in cinders lie

Death is now the phoenix' nest,
And the turtle's royal breast
To eternity cloth rest,

Leaving no posterity -
"Twas not their infirmity,
It was married chastity.

Truth may seem but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she;
truth and beauty buried be.

To this urn let those repair
That are either true or fair;
For those dead birds sigh a prayer.

William Shakespeare
Tứ tấu khúc


Tình yêu, tình yêu, anh mơ tưởng hạnh phúc còn em nghĩ hạnh phúc không có, "Je t’aime parce que tu veux l’impossible", và chàng trả lời, "Muốn hưởng hạnh phúc thì ít nhất phải tin hạnh phúc có." Nhưng hạnh phúc ở đâu, ở trên trời, hay ở dưới đất, hay ở địa ngục? Chúng tôi sẽ phải làm một điều thiện vĩ đại để có vé vào thiên đàng, hay một điều ác thật ghê rợn, để chiếm lấy địa ngục, cho chỉ hai đứa?
(Thứ tình yêu chỉ gồm có chiêm ngưỡng và kính trọng, thứ amour platonique mà anh nói đó cũng làm Hương sợ).

BHD không nhắc tới ngôi mộ, nhưng mà là địa ngục, còn khủng hơn cả Dickinson!

The Phoenix And The Turtle poem by Shakespeare is perhaps his most obscure work, verging on the metaphysical as an allegorical poem about the death of a perfect love. The Phoenix And The Turtle was published untitled in 1601 as one of the Poetical Essays appended to Robert Chester’s ‘Love’s Martyr’.
http://www.nosweatshakespeare.com/shakespeares-poems/the-phoenix-and-the-turtle/

Phượng Hoàng & Bồ Câu là 1 bài thơ cực kỳ u tối, khó hiểu. Chúng ta tự hỏi, tại làm sao TTT lại dùng nó làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết?
Bây giờ, lại thêm 1 cú bí hiểm thứ nhì, là bài thơ dịch Dickinson.
Tin Văn sẽ đi 1 đường tiếng Mít, và sau đó, độc giả tùy nghi....

Bài ngụ ngôn nho nhỏ, bắt nguồn từ “Cái Đẹp là Sự Thực, Sự Thực Cái Đẹp” của Keats’s Urn, là 1 trong nhiều toan tính thi ca nhằm hòa giải Cái Tốt, Cái Thực và Cái Đẹp - hiểu theo truyền thống như là tam giác [tình] lý tưởng. Có lẽ chưa có ai đem đến một sức nặng đồng đều cho cả ba. Keats, chính ông, thực ra đã bắt đầu coi trọng Cái Tốt, trong những tác phẩm sau cùng, nhưng ông trải qua hầu hết cuộc đời ngắn ngủi để suy tư về liên hệ của Cái Đẹp (sáng tạo mỹ học và những sản phẩm của nó) với Sự Thực (cả về triết lý lẫn trình diễn). Dickinson giải quyết cuộc lèm bèm cũ rích này, về sự thực của Cái Đẹp và sự thực của Lý Lẽ, bằng cách, để Lý Lẽ chối bỏ sự hiện hữu của 1 cuộc lầu bầu như thế, Chúng ta là bằng hữu, là bạn quí, là tín hữu,  là… Anh ta phán. Bạn quí như thế nào, gặp nhau ở đâu (chắc ở Quán Chùa, “Chúa Ơi!”- thuổng NDT), cho đến khi nấm mồ kết nối họ. Dickenson để cho nhân vật chết vì Cái Đẹp, làm phát ngôn viên dẫn đạo của bài thơ, xì ra tí ti, về liên hệ, chúng là là đạo hữu, bị nhốt chung vào 1 nấm mồ. “Sự Thực” là “đực”, trong dòng kể, như đại danh từ “he” cho thấy. Nếu như thế, thì có thể, Dickinson coi “Cái Đẹp” là “cái”. Mỗi bên nửa trái cầu, cùng nhau, họ làm thành trọn ổ.
[Trong MCNK, nhân vật Hiền sau cùng biến mất, và Duy, có lần tính hỏi Kiệt, Hiền đâu rồi. Khi dịch bài thơ của Dickinson, có thể TTT  nhắm trả lời Duy, Hiền ở chỗ đó đó, chỗ mà Kiệt đưa cô tới, rồi trở về với vợ con. Và cái truyền thuyết về 1 miền đã mất, sản sinh ra những tác phẩm như Anh Môn, Gatsby, MCNK, sau cùng, do Dickinson trả lời: Nấm Mồ.]



*

* *

*

Tiếng Động, bản xb ở hải ngoại
Cast a cold eye
On life, on death.
Horseman, pass by!
Yeats

Ném cái nhìn lạnh
Lên sống, lên chết
Kỵ sĩ, Xéo!

Mấy dòng trên là của Yeats, ra lệnh khắc lên bia mộ của ông.

Nhưng cả bài thơ sau đây -nhất là dòng chót - vang lên lời thơ của TTT:

Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới:

Politics
'In our time the destiny of man presents its meaning in political terms.'
- Thomas Mann

How can I, that girl standing there,
My attention fix
On Roman or on Russian
Or on Spanish politics?
Yet here's a travelled man that knows
What he talks about,
And there's a politician
That has read and thought,
And maybe what they say is true
Of war and war's alarms,
But O that I were young again
And held her in my arms!

Yeats

Câu của Mann, cũng quá đúng cho TTT:

Vào thời của chúng ta, số phận con người trình ra cái nghĩa của nó, bằng những thuật ngữ chính trị.

Như những dòng tác giả viết, về Tiếng Động, thì đây là 1 thứ nhật ký, của 1 anh chàng, viết cho chính mình, về 1 người đàn bà vắng mặt, khác.
Đây là 1 "ấn bản khác" của "thư gửi đảo xa", có thể nói như vậy.
Thư gửi đảo xa, theo ông, là của riêng đảo xa, còn Tiếng Động là của độc giả chung của ông.
Ông không nghĩ thiên hạ được đọc thư gửi đảo xa, gửi riêng cho đảo xa.


Killing Time
Thời Giết Người

http://www.tanvien.net/Presentation/Killing_Time.html

"Seldom can a year have been blackened before its time as effectively as George Orwell did to 1984."
Họa hoằn lắm mới có 1 năm, bị bôi đen ngòm, trước thời gian của nó, hiệu quả, như Orwell làm, với cái năm 1984.

Ui chao, Steiner đếch biết, TTT cũng đã làm y chang, với Bếp Lửa 1954!

Le premier, Bêp lua (Foyer du feu, 1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant 1954, où ceux qui partent comme ceux qui restent sont contraints à des choix forcés, la séparation ou la mort. La réaction de la critique des écrivains révolutionnaires fut immédiate. Dans un compte rendu de Van Nghê (Littérature et Art), un critique m'a demandé : « Pendant que le peuple du nord du pays est en train de livrer toutes ses forces pour construire le socialisme, où va le personnage du Foyer de feu ? » J'ai répondu : « II va vers la destruction de l'histoire », chaque écrivain est un survivant.

Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.

La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù (1)

Lần Sến cô nương lôi bài viết ‘sao dám ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và ‘bạn hàng’ chê ỏng chê eo, Gấu bèn đi một đường ‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong tinh thần chờ đợi, tự mình khám phá ra, một định luật văn học, định luật này chẳng thua gì định luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng Koestler, khi ông coi Newton như là một ông nhạc trưởng của một dàn nhạc đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện tượng vật lý, thí dụ như thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con trăng này?, trái sầu riêng rớt trúng đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì với nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, thế là mọi thứ y khuôn một phép, ai vào vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà tấu “vạn vật hấp dẫn”!

Những trang Tin Văn tản mạn, không đầu không đuôi, làm xàm, bá láp…  cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, và thế là bản “Diệt Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha nội!
Sắp chết, hiền đi là vừa rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu dưới đây, làm "blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi vun vén nhằm chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới].

Đây là câu thơ – These fragments…  - kết thúc Hoang Địa, The Waste Land, của Eliot.

Câu thơ đưa chúng ta trở về với Xuân Sách, khi ông hỏi Chế Lan Viên:

Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu Tàn? (1)


*

HPA viết về TTT

Murakami trong 1 bài viết Gấu vừa mới ra hải ngoại đọc, trên tờ The New Yorker, khi bắt đầu làm cái nghề bán bảo hiểm nhân thọ, bye bye welfare, cho biết, ông đang ngồi coi 1 trận dã cầu, và mặc khải, mình sẽ là nhà văn.
Đây cũng chính là mặc khải của GCC, lần đầu tiên được bạn Chất kéo về nhà giới thiệu, và khi bước vô phòng khách, thấy ông anh ngồi ở 1 góc nhà, trước cái bàn nhỏ, co cả hai chân lên cái ghế, theo cái kiểu ngồi xổm, viết, đếch thèm để ý đến cái gì hết. Và thế là Gấu như nhìn ra Gấu, đúng rồi, ta đây rồi, sau này ta sẽ làm, chỉ 1 cái việc như thế.
Murakami cho biết dân Nhật đếch biết gì về mặc khải, đếch tin có mặc khải, và cũng đếch mê môn dã cầu.
Gấu Cà Chớn, 1 cách nào đó, cũng mặc khải ra cái từ mặc khải.
Và nếu như thế, viết là một mặc khải, và tình yêu, theo Gấu, cũng là 1 mặc khải.
Lần đầu tiên Gấu gặp BHD, như đã kể, 1 cô bé, 11 tuổi, ốm nhom, đen ngòm, răng khểnh, từ đâu bên ngoài đường chạy về, nhìn 1 phát, là mặc khải ra liền, đây là Hà Nội của GCC!
Và hơn thế nữa, mặc khải là 1 ý niệm toán học, theo kinh nghiệm của Gấu

*

Canvas

Tôi đứng im lặng trước bức hình tối thui
Trước tấm vải bố
Có thể là
Áo khoác, áo sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì vậy thì biến thành
Thế giới

Tôi đứng in lặng trước tấm vải bố tối thui
Tẩm trong nó là thích thú, đam mê và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật vẽ và sống
Tới những ngày trống rỗng, cay đắng

Tới những khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi lắc lư

Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt tôi ngộ ra rằng thì là
Tấm vải bố này, cũng, có thể trở thành tấm vải liệm.

Tưởng niệm 10 năm TTT cũng là tưởng niệm Đinh Cường vừa mới mất, với riêng Gấu. Họ là bạn của nhau, theo cái nghĩa chỉ cần 1 người bạn là đủ ở trong cõi đời này, như Gấu chỉ có Josep Huỳnh Văn, vào lúc cần nhất, và ông Trời bèn gật đầu, lời khẩn cầu của mi, đã được chấp thuận.


When Death Came
I wasn't with you when death came.
The municipal hospital was your last home:
white room, cobwebs, chipped
paint, a jar of cherry preserves,
an old issue of a rotogravure, a tin fork
with a tine gone, two glasses.
In the next bed, a tailor with cancer.
You were so old the doctors thought
you'd hardly weigh
in the numbers of death.
So old that the children on your street
thought you another century,
an empire slouching on the broken sidewalk.
As death came, though, youth came:
you suddenly spoke the language of childhood,
the white screen between you and the living
was the wing of a glider.
The intravenous drip muttered, a pigeon
impatiently paced on the sill.
You were taking all of yourself
from that dreary place into your death:
the dandy of eighteen, the mature thirty-year-old,
the German teacher with no truck
for indolent students, the pensioner
with his long daily walk
that may at the end have measured
the distance from earth
to heaven.
You'd regenerated yourself
for your death.
In the hall, the muffled laughter
of nurses; at the window,
sparrows fighting for crumbs.

Khi Thần Chết tới

Tôi không có, ở chỗ bạn, khi Thần Chết tới
Nhà thương là nhà chót của bạn
Phòng trắng, mạng nhện, sơn tường loang lổ,
Một lọ anh đào
Một cái tranh cũ từ máy quay tay
Một cái nĩa bằng thiếc, mất mẹ 1 răng
Hai cái ly
Giường kế là 1 anh thợ may bị ung thư
Bạn quá già và mấy đấng tu bíp nghĩ
Trong số những người chết
Bạn nhẹ hẫng
Bạn già đến nỗi mấy tên nhóc ở ngoài đường
Nghi bạn, tên khựa già này, chắc là từ thế kỷ khác
Một đế quốc luộm thuộm, loạng quạng, trên hè đường bể nát
Thần Chết tới, hay đúng hơn, tuổi trẻ tới:
Bạn bèn bất thình lình nói, bằng thứ ngôn ngữ của trẻ thơ
Cái bức màn trắng phân chia giữa bạn và những người sống
Thì giống như một cánh diều.
Tĩnh mạch thì thầm,
Một con bồ câu lững thững nơi cửa sổ
Bạn nói tất cả về chính bạn
Từ cái nơi chốn thê lương này, đi vào cái chết:
Anh chàng bô trai, dandy mười tám, gã chững chạc, ba mươi
Ông thầy giáo Hồng Mao không có xe truck
Cho những sinh viên biếng nhác
Người ăn tiền hưu với cuộc đi bộ hàng ngày dài
Tới ngày sau cùng, con đường trải qua có thể tương tương
Với quãng đường từ trái đất tới thiên đàng
Bạn tự tái sinh bạn
Bằng/vì/nhờ cái chết của mình
Nơi hành lang có tiếng cười bị bụm lại
Của những cô y tá
Ở nơi cửa sổ
Lũ sẻ tranh nhau những mẩu bánh vụn

Adam Zagajewski: Canvas



Gió O tưởng niệm TTT [1936-2006]

lời thầm. mộ đá
đúng 10 năm rồi. thật chóng.
những gì qua đã qua. chỉ những thứ ở lại thật buồn.
ngày tháng không chảy ngược
những đứa bé đã lớn lên
tối. nằm chơi dưới bàn viết của ông. thấy ông gạch thật đậm trên những con chữ. rồi vo tròn tờ giấy. rồi vứt vào sọt rác ngay dưới bàn. thật đều đặn. và sai đi đổ. vậy mà chiều đã bị ông la. với những tờ giấy cũng được vo tròn. và vứt đi. vì làm không ra bài toán.
người ta không thể giúp người khác khi chưa giúp được chính mình
đau không bố. có chứ con. rồi thiếp đi. câu trả lời ngắn vậy mà ngập ngừng đến nhiều lần. chắc phải đau lắm.
ly rượu vo trên tay. khề khà. thuốc lá. giọng nói ấm. tuyết tràn hiên ngoài.
nguyên soái của một dòng thơ. đó là nhất. phải nhớ. đừng đụng vào.
chiếc chiếu hoa. với những chỗ ngồi đã định vị.
khu rừng với những cây đại thụ nghìn năm. những bóng tàn phủ trùm. như cô bé alice đã lỡ lạc vào. và không thể tìm được lối ra. đến tận hôm nay.
người bác sĩ nói 6 tháng. những câu hỏi ngược lại. thừa thãi. cố không tin. sao lại có thể nói như vậy được. có thể nói khác đi được không. những lời khẩn cầu. âm u.
cứ tụt dần vào tuyết. tuyết lên tới chân. tới bụng. cả người chìm vào tuyết. kín bưng trắng toát. lạnh kinh khiếp.
chạy xe như điên. qua mặt. bóp kèn. nhưng lại không biết phải đi đâu.
trống. vắng. trơ trọi. chới với. và lạnh. đến mụ mị.
ra mộ ông. đốt hương. đốt điếu thuốc. rồi khóc. những giọt nước mắt lún thật sâu vào tuyết. ngồi trong tuyết trước mộ ông. đất trời mất dần. tối mịt mùng.
một nửa sự thật không phải là sự thật
những ngày cuối. đến với ông. lo ông uống thuốc. lo ông bữa ăn. rồi ra ngồi một góc. máy thở. ống dây. cái mền đắp tận cổ. những cuốn sách trên bàn cô đơn. ông nằm một góc khác. xót xa nhìn ông.
loay hoay tìm giấy bút viết bài thơ trong xe khi đậu ở một nơi nào đó đã không còn nhớ. ông vừa ra đi. mòn mỏi. chiều chủ nhật. phố hoang. ai vắng. trời xám chì. nặng buốt. và khóc trắng.
đừng dây vào ba cái đó. không có ích gì đâu. còn nghèo rớt ra.
nếu như thế sao tìm ra. vực thẳm có hà nội dưới đó. sao biết được. đã không còn cô độc. và để lần nào đến springfield. sanfrancisco. đụng những con dốc chúi đầu. thì đều có những chúi đầu nỗi nhớ. về màu. về nét.
trời tối như bưng. đèn đỏ lòe. chớp tắt trước nhà ông. chạy vào. những người bản xứ lạ hoắc. ông nằm trên một chiếc xe đẩy. không một chiếc mền đắp. ông co rúm. hét toáng lên. lạnh quá. sao không đắp mền cho ông. họ bỏ ông lên xe. chiếc xe có đèn bập bùng như ma trơi. những tiếng động chói tai. chiếc xe và ông chìm vào bóng đêm hun hút. tiếng khóc rưng rức đâu đây.
thế mới ghê. 20 tuổi. đã nói lớn được. như vậy.
dạ. thì bây giờ có loa. đâu cần phải lớn tiếng. những tiếng cười rung rinh. cái hình ảnh. cái âm thanh. cái màu. cái sắc. và cái chữ. đã lột xác.
bão tuyết. những chuyến bay với hàng chữ cancel đỏ chói. chới với. làm sao về. phải về cho kịp. chạy vòng quanh. xin được xếp chuyến về. sớm nhất. khi đường bay mở lại.
ông đã vào hospice. từ sân bay chạy một mạch vào tìm ông. ông mê man.
không. làm cho ông tỉnh dậy dùm. hãy cho ông tỉnh dậy. lời nói dội ngược. có ai nghe không.
nắm tay ông. xiết tay ông. nói với ông. giọng thầm. đã về. về để gặp ông. một lần nữa. một lần sau cuối. ông yên tâm ra đi. ra đi thanh thản. ra đi bằng an ông nhé. có các bạn ông ở nơi đó.
ông xiết nhẹ bàn tay. cái đau dâng lên ăm ắp. và tràn đến tận cùng.
vâng. biết đã mất ông. vĩnh viễn mất ông.
và tất cả chơi vơi
chạy xuôi theo những chiếc lá khô. vòng vèo theo những con đường ngắn trong nghĩa trang. luồn lách. và rung khẽ vào những nhành cây. đó. cơn gió. cơn gió đã về. đánh thức những búp lá nõn.  và còn cả nắng. nắng thả mình. nắng khui bật từng mảng tuyết. nắng cười giọng vàng óng ả. và nắng nhỏ từng đốm trên bia mộ ông. mùa xuân trở lại. trở lại lần thứ mười
có 10 vuông gió. có tròn búp lá. có 10 khuôn nắng. có vàng từng đốm.
có 10 lần xuân. có một người. đến viếng ông. và thắp 10 nén hương.
bố ạ. mọi người vẫn vậy. đã già đi. đã lớn hơn.
bố ơi. đã là 10 năm. con nhớ bố. nhớ bố lắm.


Tưởng niệm 7 năm TTT mất
http://www.tanvien.net/Tribute_1/7_year_TTT.html

TOMAS TRANSTROMER (b. 1931)

After Someone's Death

Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.

You can still shuffle along on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.

It is still beautiful to feel your heart throbbing.

But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated from the Swedish by Robin Fulton

Sau Cái Chết của Ai Đó

Một lần, có 1 cú sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.

Bạn có thể trượt băng trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.

Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.

Note: Bài thơ thần sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào còn, linh hồn thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ



TTT 10 years Tribute
 
V/v Không trả lời điện thoại.

Gấu cũng đã từng bị ông anh không trả lời điện thoại, và hình như cũng đã lèm bèm trên TV rồi. Đó là lần Nguyễn Đông Ngạc từ Montreal xuống, và trong khi nhậu nhẹt, anh ngỏ ý muốn làm lại nhà xb Sóng, thế là Gấu bèn gợi ý, để gọi điện thoại cho TTT, xem ông có tính in cái gì không, giá mà được cuốn Ung Thư, thì hết xẩy con cào cào. Thế là phôn, gặp vợ ông. Bà nói, anh ra ngoài mua tờ báo, mà có cần không, Gấu bèn trả lời, có NDN tính hỏi thăm anh.
Bà nói, lát gọi lại. Lát gọi lại, không ai bắt máy.
Hôm sau, gọi, gặp ông anh. Ông xạc cho 1 trận. Cấm không được cho ai số dt, cấm giới thiệu ông này, ông nọ….

VL, đúng ra là phải rất rành cái lý do tại sao, TTT nhờ VL, v/v tiền tạm ứng.
Đâu có phải ai cũng được TTT nhờ cậy, hà, hà!
Không lẽ quên cái vụ TTT gật gù phán, cái “cú” đó VL xử sự rất đẹp ư?
Cú nào, ra sao, thì thật khó viết ra ở đây.

MT cũng quê TTT, v/v bỏ chốn giang hồ gió tanh mưa máu, là Tiểu Sài Gòn.
Cũng nhờ có tiền nhuận bút tập Thơ Ở Đâu Xa, của TPK. Ông có nói với Gấu vụ này.
Mới qua, tao đâu có biết thơ, ai mà mua, thế là cầm tiền, thế là đi.
Nếu biết, chắc vẫn ở Tiểu Saigon?

ILLNESS AND POETRY

Between the vast deserts of boredom and the not-so-scarce oases of horror, there is, however, a third option, or perhaps a delusion, which Baudelaire indicates in the following lines:

Once we have burned our brains out, we can plunge
to Hell or Heaven-any abyss will do-
deep in the Unknown to find the new!

That final line, deep in the Unknown to find the new, is art's paltry flag pitting itself against the horror that adds to horror without making a substantial difference, just as one infinity added to another produces an infinite sum. A losing battle from the start, like all the battles poets fight. This is something that Lautreamont seems to contradict, because his voyage takes him from the periphery to the metropolis, and his way of traveling and seeing remains cloaked in the most impenetrable mystery, so that we can't tell if we're dealing with a militant nihilist or an outrageous optimist or the secret mastermind of the imminent Commune; and it's something that Rimbaud clearly understood, since he plunged with equal fervor into reading, sex, and travel, only to discover and accept, with a diamond-like lucidity, that writing doesn't matter at all (writing is obviously the same as reading, and sometimes it's quite similar to traveling, and it can even, on special occasions, resemble sex, but all that, Rimbaud tells us, is a mirage: there is only the desert and from time to time the remote, degrading lights of an oasis). And then along comes Mallarme, the least innocent of all the great poets, who says that we must travel, we must set off traveling again. At this point, even the most naive reader has to wonder: What's got into Mallarme? Why is he so enthusiastic? Is he trying to sell us a trip or sending us to out deaths with our hands and feet tied? Is this an elaborate joke or simply a pattern of sounds? It would be utterly absurd to suppose that Mallarme had not read Baudelaire. So what is he trying to do? The answer, I think, is perfectly simple. Mallarrne wants to start all over again, even though he knows that the voyage and the voyagers are doomed. In other words, for the author of Igitur, the illness afflicts not only our actions, but also language itself. But while we are looking for the antidote or the medicine to cure us, that is, the new, which can only be found by plunging deep into the Unknown, we have to go on exploring sex, books, and travel, although we know that they lead us to the abyss, which, as it happens, is the only place where the antidote can be found.

Bịnh và Thơ

Giữa đại ngàn sa mạc của buồn chán, và những ốc đảo ”không đáng sợ cho lắm” của ghê rợn, vưỡn còn một giải pháp thứ ba,- có lẽ cũng chỉ là ảo tuởng - điều mà Baudelaire miêu tả sau đây:
Một khi não của bạn lụi tàn, bạn có thể lao vào Địa Ngục hay Thiên Đàng - hay bất cứ hố thẳm nào – nghĩa là, chúi sâu mãi vào cái “Chưa Biết” để tìm cái “mới”!
Dòng chót, chúi sâu vào Chưa Biết để tìm cái mới, là ngọn cờ nghệ thuật, nhằm chống lại cái ghê rợn này tiếp cái ghê rợn khác, nhằm tạo sự khác biệt. Một trận đánh thua ngay từ đầu, như mọi trận đánh của đám thi sĩ.
Lautréamont nói ngược lại. Cuộc du ngoạn của ông, đưa ông từ vùng ven tới đô thị, và cách ông du lịch, cách ông nhìn, như mắc míu tới 1 bí mật không sao xâm nhập, thành ra chúng ta không thể nào biết được, chúng ta đụng tới 1 trường hợp hư vô, hay lạc quan, hay 1 cái đầu óc bí mật của một Công Xã bao la.
Rimbaud quá hiểu điều này, kể từ lúc mà ông lao vào cuộc đốt đuốc chơi đêm, cũng hăm hở chẳng kém, chỉ để khám phá ra rằng, chỉ là ảo ảnh: vẫn chỉ là sa mạc, và xa xa, ốc dảo dởm.
Thế rồi Mallarmé xuất hiện, kẻ ít ngây thơ nhất trong số họ, và ông nói, gì thì gì, vẫn phải đi, đi nữa.
Một độc giả, dù ngây ngô cỡ nào, thì cũng sẽ ngạc nhiên, tại sao mà ông ta hăm hở như thế?
Không thể nói, Mallarmé chưa từng đọc Baudelaire.
Theo tôi [Bolano], vấn đề cực đơn giản. Mallarmé muốn lại khởi đầu, mặc dù ông biết, như TCS biết,
đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, cũng theo hư không mà đi.
Nói 1 cách khác, với tác giả Igitur, bịnh ăn, không chỉ hành động của chúng ta, mà còn ăn ngôn ngữ, chính nó.
Thơ bi giờ, thơ hôm nay,
bịnh, TTT phán.
Và chỉ có mỗi một thứ thuốc trị, là lao vào cõi Chưa Biết, cho dù chúng dẫn chúng ta tới Hố Thẳm, vưỡn
OK Salem, vì đó là nơi độc nhất thuốc chủng có thể kiếm thấy.

ILLNESS AND KAFKA

Elias Canetti, in his book on the twentieth century's greatest writer, says that Kafka understood that the dice had been rolled and that nothing could come between him and writing the day he spat blood for the first time. What do I mean when I say that nothing could come between him and his writing? To be honest, I don't really know. I guess I mean that Kafka understood that travel, sex, and books are paths that lead nowhere except to the loss of the self, and yet they must be followed and the self must be lost, in order to find it again, or to find something, whatever it may be-a book, an expression, a misplaced object-in order to find anything at all, a method, perhaps, and, with a bit of luck, the new, which has been there all along.

Bịnh và Kafka

Elias Canetti, trong cuốn sách của ông về nhà văn vĩ đại nhất thế kỷ 20, phán, Kafka biết cục xúc xắc lăn, và sẽ chẳng có gì xẩy ra, giữa ông và cái ông viết, ngày mà ông thổ ra máu lần đầu.
Tớ, Bolano, thú thực cũng chẳng biết cái đéo gì xẩy ra, nhưng tớ thử đoán mò, rằng Kafka biết, du lịch, sex, sách… những con đường chẳng dẫn tới đâu, les chemins qui ne mènent nulle part, cẩm như Heidegger phán, ngoại trừ đưa đến cái mất của cái ngã, nhưng, gì thì gì, vẫn phải đi theo, và cái ngã phải mất, để lại tìm thấy nó, hay, để tìm một điều gì đó, bất cứ điều gì… và biết đâu đấy, với 1 chút may mắn, tìm thấy cái “mới”, hay, 1 “tên đá banh”, như đám hậu vệ tìm thấy!

*

Có 1 giai thoại về Mallarmé, Gấu không nhớ đã đọc ở đâu, khi nào, qua đó, vào buổi chiều tối, Người ngồi bên bếp lửa, và giới tinh anh, nghệ sĩ ngồi xa xa, im lặng, kính cẩn chờ Người phán, về thơ.

TTT có 1 thời y chang!

Nhớ 1 lần, Người, ngồi như thế, và Người phán, thơ hôm nay, bịnh.
Thế là bữa sau tất cả những tờ báo văn nghệ của Sài Gòn, hang ổ cuối cùng của Mỹ Ngụy - từ này thuổng của me-xừ Nguyễn Bá Chung, Trùm ổ nhện VC ở WJC - đều có bài, về thơ bi giờ bịnh!

Đừng nghĩ là Gấu bịa đặt.

Thành thử cái lũ bạn quí của ông, sau này trở mặt, là cũng do chúng sợ ông quá!
Kể cả 1 MT!

Gấu lèm bèm vài dòng, như thế, chỉ để lấy hứng đi 1 đường về Thơ Bịnh, của Bolano, sau đây, trích từ The Insufferable Gaucho

ILLNESS AND POETRY

Between the vast deserts of boredom and the not-so-scarce oases of horror, there is, however, a third option, or perhaps a delusion, which Baudelaire indicates in the following lines:

Once we have burned our brains out, we can plunge
to Hell or Heaven-any abyss will do-
deep in the Unknown to find the new!

That final line, deep in the Unknown to find the new, is art's paltry flag pitting itself against the horror that adds to horror without making a substantial difference, just as one infinity added to another produces an infinite sum. A losing battle from the start, like all the battles poets fight. This is something that Lautreamont seems to contradict, because his voyage takes him from the periphery to the metropolis, and his way of traveling and seeing remains cloaked in the most impenetrable mystery, so that we can't tell if we're dealing with a militant nihilist or an outrageous optimist or the secret mastermind of the imminent Commune; and it's something that Rimbaud clearly understood, since he plunged with equal fervor into reading, sex, and travel, only to discover and accept, with a diamond-like lucidity, that writing doesn't matter at all (writing is obviously the same as reading, and sometimes it's quite similar to traveling, and it can even, on special occasions, resemble sex, but all that, Rimbaud tells us, is a mirage: there is only the desert and from time to time the remote, degrading lights of an oasis). And then along comes Mallarme, the least innocent of all the great poets, who says that we must travel, we must set off traveling again. At this point, even the most naive reader has to wonder: What's got into Mallarme? Why is he so enthusiastic? Is he trying to sell us a trip or sending us to out deaths with our hands and feet tied? Is this an elaborate joke or simply a pattern of sounds? It would be utterly absurd to suppose that Mallarme had not read Baudelaire. So what is he trying to do? The answer, I think, is perfectly simple. Mallarrne wants to start all over again, even though he knows that the voyage and the voyagers are doomed. In other words, for the author of Igitur, the illness afflicts not only our actions, but also language itself. But while we are looking for the antidote or the medicine to cure us, that is, the new, which can only be found by plunging deep into the Unknown, we have to go on exploring sex, books, and travel, although we know that they lead us to the abyss, which, as it happens, is the only place where the antidote can be found.

ILLNESS AND KAFKA

Elias Canetti, in his book on the twentieth century's greatest writer, says that Kafka understood that the dice had been rolled and that nothing could come between him and writing the day he spat blood for the first time. What do I mean when I say that nothing could come between him and his writing? To be honest, I don't really know. I guess I mean that Kafka understood that travel, sex, and books are paths that lead nowhere except to the loss of the self, and yet they must be followed and the self must be lost, in order to find it again, or to find something, whatever it may be-a book, an expression, a misplaced object-in order to find anything at all, a method, perhaps, and, with a bit of luck, the new, which has been there all along.

Note: Những mẩu, như trên, nằm trong 1 chương có tít là: Literature + Illness = Illness


*

Đấng này, cũng bạn quí của TTT, khi thấy thư/thơ Lỗ Bình Sơn gửi cho Đảo Xa xuất hiện trên net, mừng quá,
bệ ngay về blog, la lớn, ơ hơ, tưởng Người vĩ đại cỡ nào, hóa ra cũng có bồ nhí, như mình!



* *

L’Édito
Par Pierre Assouline

Un peu de silence

Le Dialogue entre Char et Celan creuse la part inacessible de la poésie
Cuộc trao đổi giữa Char và Celan xoáy vào cái phần không thể nào tiếp cận được của thơ

Quel écrivain des années 1950 aurait imaginé que son courrier serait édité au 21e siècle grâce au mécénat de La Poste, notre bonne vieille poste des facteurs à la ville et aux champs, par le biais de sa fondation d'entreprise? C'est le cas entre autres de la Correspondance échangée entre 1954 et 1968 par les deux poètes qui ont dominé leur époque, René Char en langue francaise, Paul Celan en langue allemande. La clandestinité des années de guerre, leur lecture des présocratiques, le surréalisme, la politique, leurs relations avec les femmes, la passion de la syntaxe, le gout de la natation ... Mais, si leur dialogue fascine tant, c'est qu'il creuse la part inaccessible de la poésie : ni lyrisme ni célébration mais parole en acte, et à travers elle tout ce que leur siècle a connu d'enténébré. La mise creuse à nu de cette obscurité est au coeur de leur oeuvre comme de leur conversation épistolaire. Des lecteurs pressés et résignés en ont déduit un peu vite leur volonté supposée de rendre certains de leurs poèmes impénétrables, occultes sinon cryptes, alors que cela leur avait été imposé par la violence de ce qu'ils avaient vécu.
    Ils parlent boutique, c'est-à-dire technique, rythme et respiration, souffle et tissu sonore, cherchant l'un comme l'autre à consigner dans l'écriture le mouvement de la parole, quand le langage se fait voix. Chacun réagit à sa manière aux polémiques qui les agressent : Char cloue le bec publiquement à Étiemble, qui lui a fait de mauvaises manières à propos d'une virgule et d'un point-virgule qu'il aurait mal placés dans deux vers de Rimbaud (sur l'importance de ces choses, lire le dossier coordonné par Jacques Jrillon, p. 68-97). Celan, lui, affronte douloureusement la calomnie lancée par la veuve du poète Yvan Goll l'accusant de plagiat. Au fil des lettres, on les voit progressivenent devenir leur propre statue, Char celle du juste, Celan celle du désespéré. Ce recueil de lettres recèle quelques poèmes, notamment l'un de Celan adresse et dédié à son ami Char sous le titre “Argumentum e silentio”, expression empruntée au droit romain qui signifie en l'èspece, selon Bertrand Badiou, éditeur de ce livre, « qu'il s' agit pour une partie de tirer un argument du silence de l'autre », Une vérité tirée du silence: quel beau titre cela eut été ! C'était bien l'intention du poète, qui dut renoncer face à l'insistance de son éditeur lui imposant un De seuil en seuil moins bien inspiré.

    «A chacun sa parole,/la parole qui pour lui se fit chant/ quand la meute l'attaqua, sournoise;/ à chacun la parole/ qui avant d'être glace/ fut chant. » Face aux attaques, dont le souvenir le rongera jusqu'à son suicide, Paul Celan aurait tant aimé n'opposer que des paroles de silence, brutes et infracassables. Il n'eut pas la force de ne pas répondre, creusant un peu plus sa tombe dans le ciel à mesure qu'il argumentait pour se justifier.

De toute facon, qui sonde le silence interroge la poésie. Jean-Claude Pirotte le dit en poète dans Le Silence, justement. Ce beau texte posthume, écrit à la demande de Philippe Claudel, qui s'y connait en classiques modernes (lire p. 52-53, sa chronique consacrée à un autre silencieux, Robert Walser), a quelque chose de secrètement enivrant. Bien le moins pour celui qui ne pouvait célébrer la vie sans glorifier la vigne. Pirotte suggère que, dans les moments de grace où le corps autant que l'esprit prennent conscience du brutal passage de l'irremédiable, le silence s'empare de nous comme un saisissement. On se sent alors dans un état suspendu entre deux états de vie sonores et agités. Son cher Joseph Joubert, dont il n'a cessé de relire les Pensées, vient alors à la rescousse : « Qu'est-ce donc que la poésie ? Je n'en sais rien en ce moment; mais je soutiens qu'il se trouve, dans tous les mots employés par le vrai poète, pour les yeux un certain phosphore, pour le gout un certain nectar, pour l'attention une ambroisie qui n'est point dans les autres mots. »
Le reste n'est pas littérature, ni même litres et ratures. Se retournant vers ses amis disparus, renoncant à tout espoir de se délivrer du passé, Jean-Claude Pirotte reconnait alors qu'il ne lui reste plus que le silence .•

N° 564/Février 2016 . Le Magazine littéraire

Trong 1 lần phôn, khi ông chưa đi xa, tất nhiên, Gấu có hỏi, anh có tính viết lại không, ông nói, trời cho chỉ có thế.
Nhưng câu trả lời của ông, thực sự đã có, làm sao viết lại, coi như chẳng có gì xẩy ra?

Bài xã luận của PA, 1 cách nào đó, cũng là câu trả lời:

Qui sonde le silence interroge la poésie.
Kẻ nào thăm dò sự im lặng, kẻ đó tra hỏi thơ.
PA viết về cuộc trao đổi thư từ, qua Nhà Giây Thép, giữa hai nhà thơ, trong thời chiến tranh, Char và Celan, kẻ này cố moi 1 luận cứ, un argument, từ im lặng của kẻ kia.
Một sự thực moi ra từ im lặng!

Après ma libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.

J'ai écrit dans ma mémoire au camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe, comme si rien n'était modifié. »

Et maintenant je me dis : « Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.

Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."

Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?

Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa

5 năm TTT ra đi

(22.3.2006-22.3.2010)

*

Vượt biên

Cúi trông cố lý mây vô xứ
Ngầu trắng u mông táp mạn thuyền
Ngút ngọn triều dâng vách sụt lở
Bọt xóa thiên thanh dấp sóng quên

Thơ Ở Đâu Xa, trang 87
Note: Một độc giả, chắc là bạn của nhà thơ, gửi TV.

Mấy dòng thơ TTT viết cho con trai, không biết có phải người đã mất trong một lần vượt biển? (1)
Tks. NQT

(1)

Ít ai biết ông có một người con trai bị mất tích trên đường đi tìm tự do sau 1975.

Nguồn

Họ vẫn còn và Em vẫn còn
và viết cho những ai nữa…

MT
có những đầy vơi trên cốc rượu
có trắng một màu tuyết với đông
có dáng ai ngồi chân chữ ngũ
đậy chặt nút chai rượu với người

CT
có lá rơi đầy không thứ tự
có vàng ươm đẫy những mùa thu
có đôi chân cũ xào xạc cũ
nhốt tiếng dương cầm trong ngón tay

TTT
có hoa có cỏ và lệ đá
có tiếng xuân về gọi vang vang
có ai về gióng hồi chuông mới
khép lại một lần với lưu vong

DT
có đen có trắng không hơn kém
có bóng hạ mềm rũ trên môi
có bàn chân sỏi đều trên cát
ngày tắt trên nền khung vải đen

Và Em
có tháng năm già hơn tất cả
có em độ lượng với thời gian
có bờ ngực dậy cho tôi thở
những biến thiên thầm cõi ba sinh

Đài Sử

Note: Tuyệt cú. Thần cú!

Bài thơ nào ứng với ông nấy. Nhưng tuyệt nhất, là khúc sau cùng:
Có tháng năm già hơn tất cả. 

Câu này làm nhớ Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."

*


Ngày Xưa Xóm Gà

Chế lấy mây…

Hai câu thơ được Gió O dùng làm thương hiệu, của Mai Thảo, cho thấy Bà Huệ rất ghét cái chuyện vay mượn trong văn chương. Bà chê Kiều, chôm của Tẫu, thí dụ.
Mít phải có cái gì của riêng Mít.
Nhưng kẹt 1 cái là làm sao chế mây, đừng vay mượn của đất trời?

Có 1 giai thoại, về 1 nàng công chúa, nhìn mưa rơi, thấy đẹp quá, bèn tâu Vua Cha, xin cho làm 1 chuỗi ngọc bằng hạt mưa.
Thế là không biết bao nhiêu người chết. 
Chỉ chấm dứt khi có 1 tên Gấu Cà Chớn nào đó, đến gặp ông vua, phán, tui làm được, nhưng với điều kiện, nhờ công chúa đi thu gom những hạt mưa về đây, để tôi xâu vô sợi dây này…

Bản thân MT, cõi văn của ông, là từ…  Nguyễn Tuân. Mây của ông, nắng của ông, là từ Nguyễn Tuân.
Nhớ có lần ngồi với ông anh ở Quán Chùa, nhân nhắc tới VKK, MT, ông anh cảm khái, phán, cả hai may mắn có lần gặp Nguyễn Tuân, thế là về, tha hồ mà viết.
Thế đấy.

Gấu cũng có cái may, gặp được ông anh nhà thơ. Ông chỉ cho ba búa. Thế là viết hoài, còn hoài!
Thế đấy!


Sách & Báo Mới

Borges và TTT

Trên TV, đã từng giới thiệu truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn của Borges, và thêm cái nón cho nó, là, cái câu mà nhà thơ nói với thằng em, khi nhìn đám Bắc Kít vô tiếp quản Xề Gòn.
Truyện ngắn này, lần đầu đăng trên báo Văn Học của NMG, khi Gấu giữ mục Tạp Ghi của tờ báo.

Phép lạ bí ẩn

Jorge Luis Borges

 Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261
 
Lời người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT

Tuy nhiên, nếu bạn đọc Phép Lạ Bí Ẩn, thì ngộ ra điều này:
Tất cả cái gọi là văn chương hải ngoại của Mít, chính là cái “phép lạ bí ẩn” mà Thượng Đế đã ban cho chúng ta!

“Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.”

Với lũ Ngụy, và văn chương của chúng, thì không phải 1 năm, mà cả thế giới, cả thời gian còn lại của cả loài người….
Thần sầu thật!

"I alone have more memories than all mankind has probably had since the world has been the world," Funes laments
Ta có nhiều hồi ức hơn tất cả giống Mít, kể từ khi Vua Hùng dựng nước!  

Cũng chính Borges, chẳng đã từng nói, TTT còn quan trọng hơn cả hồi ức Mít!
H
à, hà!

*

Note: Mới tậu. Đi liền cú, Borges lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch Trước Pháp Luật:

Kafka Could Be Part of Human Memory
Kafka có thể là phần hồi ức của con người

"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít:
Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy.

Ferrari hỏi Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của thời chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng như thế, nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!

Để tưởng nhớ TTT, nhân 10 năm ông đi xa, TV bèn đi thêm 1 đường Borges nữa.

Trước, giới thiệu lời giới thiệu, của Aleksandar Hemon, và sau, truyện ngắn Funes, The Memorious của Jorges Luis Borges, trong cuốn giới thiệu truyện ngắn của The Paris Review, dưới đây

*
    
Aleksandar Hemon
on
Jorge Luis Borges's Funes, the Memorious

The work of Jorge Luis Borges belongs to the tradition of literature with cosmic ambition: the Bible, the Iliad, the Divine Comedy, Paradise Lost, Ulysses, etc.-the works that strive to convey complete universes, containing everything. They're contingent upon (and thus imply the belief in) the totality of language: all of history, all of memory, all of current cosmology and/or theology, all the unbreakable continuity of human experience can be deposited and narrated in language. Indeed, in such works language seems to be able to cover the perpetual entirety of the past, present, and future and involve the real, the imagined, and all that is in between. They offer crucial evidence that it is utterly impossible to conceptualize humanity without literature. Their philosophical/ethical/aesthetical ambition demands total commitment from the reader-an ideal reader would devote his/her entire life to the exegesis of, say, Joyce's Ulysses, thereby erasing all the nonreaderly aspects of his/her existence.
    Such a reader, of course, would be a perfect Borgesian character, for whom the experience of life is unavailable outside literature. Funes, the Memorious is as Borgesian a character as they come, a man tormented by his hyperencylopedic mind, tragically unable to forget anything. "I alone have more memories than all mankind has probably had since the world has been the world," Funes laments. Seemingly fulfilling the most hubristic of human ambitions-to remember/know everything-he is incapacitated by the compulsive absoluteness of his knowledge, unable to think and communicate with the rest of the humanity. Casting himself as the imperfect, inferior countercharacter to Funes, Borges suggests that forgetting- that is, forgetting ceaselessly-is essential and necessary for thought and language and literature, for simply being a human being.
    What makes human beings amazing is that we do not abandon our striving in the face of our constant failure to transcend our mortal, biological limits. The great works of cosmic ambition-including Funes's projects: "an infinite vocabulary for the natural series of numbers, a useless mental catalogue of all the images of his memory"- never achieve the totality they seek, because there is no way they ever could. The essential necessity of forgetting blocks the very possibility of containing everything, but without forgetting such ambition would not be possible at all. We think there is everything, because we forget everything. We want it, because we forget we can't have it.
The magnificent ambition is fundamentally reliant upon the indelible impossibility of its fulfillment. Visionaries and geniuses die drooling, just like everybody else.
    Of course, if there were God, everything would be available. "The truth is that we live out our lives putting off all that can be put off," Borges writes, "perhaps we all know deep down that we are immortal and that sooner or later all men will do and know all things." If Funes and his absolute knowledge could live on, God would be in evidence, and we would all be immortal beginning with Borges: "I thought that each of' my words (that of my movements) would persist in his implacable memory. Within a sentence, Funes and his implacable memory are dead, as is God. Death and forgetting triumph, and with them triumphs, in all its glory and tragedy, the humanity, forever enduring the "multiform, instantaneous and almost intolerably precise world."

*


*

Phép lạ bí ẩn
Jorge Luis Borges

LE MIRACLE SECRET

Et Dieu le fit mourir pendant cent ans, puis il le ranima et lui dit:
- Combien de temps es-tu resté ici?
- Un jour, ou une partie du jour,
répondit-il.
Coran, II, 261.

Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261

Lời người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này. [HHT]
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT

Truyện ngắn này, của Borges, vừa đọc vài hàng, là Gấu bèn nhớ liền đến lần gặp gỡ nhà thơ, liền sau 30 Tháng Tư 1975, khi Gấu vừa ra khỏi một trung tâm “rehab”, bèn lấy cái vespa chạy qua Gia Định, đến con hẻm nhà ông, vô nhà, xin ông một cuốn Một Chủ Nhật Khác. Ông lôi sách ra, viết vài hàng, ký một phát, rồi kéo Gấu tới một quán cà phê trong một con hẻm cũng gần nhà.
Trong khi trò chuyện, ông nói, có vẻ cũng có chút ngậm ngùi, vậy là khỏi phải viết nữa…
Cũng trong lần đó, ông phán, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!

Vào lúc đó, VC chưa đưa ra cái lệnh 10 ngày học tập cải tạo. Gấu cũng chưa trải qua 3 ngày học tập cải tạo ngay tại cơ quan Bưu Điện.

Truyện ngắn này, quả là thật là tuyệt vời. Nó tiên đoán cả cuộc phần thư liền sau đó.
Và có thể, còn tiên đoán, sự ra đời của GNV, lần thứ nhì, và trang TV.
Hà, hà!
*
Gần rạng đông, anh mơ thấy tự giấu mình, ở một trong những gian, tại thư viện Clementine. Một người thủ thư đeo kính đen hỏi anh: Anh kiếm gì? Hladík trả lời: Thượng Đế. Người thủ thư bảo anh: Thượng Đế ở một trong những con chữ, của một trong những trang, của một trong 400,000 bộ, của [thư viện] Clementine. Cha tôi, và những người cha của những người cha của tôi, đã tìm kiếm con chữ này. Tôi trở nên mù cũng chỉ vì tìm nó. Ông gỡ cặp kính, và Hladík nhìn thấy mắt của ông đã chết. Một độc giả bước vào, mang trả cuốn atlas. Cuốn atlas này vô dụng, ông ta nói, và đưa nó cho Hladík, anh mở ra theo ngẫu nhiên. Trong một thoáng bàng hoàng, anh nhìn thấy bản đồ xứ Ấn độ. Đột nhiên hết sức tự tin về mình, anh chạm vào một trong những con chữ nhỏ bé nhất. Một giọng như có ở khắp nơi, nói: Thời gian cho tác phẩm của mi đã được chấp thuận. Hladík giật mình thức giấc.
Phép lạ bí ẩn

Thời gian cho trang TV của mi, đã được chấp thuận!

Quái, là bây giờ, đọc lại, GNV như lại văng vẳng nghe, âm thanh của bản Exodus, được đài phát thanh Sài Gòn chơi, như nhạc nền, suốt ngày đêm, những ngày Mậu Thân!

5 năm TTT ra đi

Tôi không còn cô độc vì đã tìm thấy cô độc ở nơi không thể cô độc
NL

TTT đề tặng thơ, trong Tôi không còn cô độc, hay Liên Đêm..  là để ‘nói lên’ cái ý 'tôi không còn cô độc'.
Tinh thần của tập thơ là trong bài thơ viết về Cách Mạng Hung, mà ông mong, Việt Nam cũng có một cuộc cách mạng như thế.
Còn trong Thơ ở đâu xa, đề tặng, đa số là bạn tù của ông.

Đâu có ẩu tả như DTL. Ai khen thơ bạn ta, là bạn ta tặng!
Bạn ta đúng là thi sĩ, một thứ thi sĩ tán gái vào loại thầy!

Mr. Tin Văn đã từng bao giờ đụng độ DTL ở cái khoản "tán gái vào loại bậc thầy" chưa ạ?

Reply

Đọc comment dài dài của bác YMN đột nhiên tôi chợt nhớ ra là sắp đến 30-4.

Reply


tôi xa người, xa một mùi hương
bãi khuya, hồn ốc lạc thiên đường
nhớ ai buồn ngất trên vai áo
mưa ở đâu về ? - như vết thương.
DTL

Note: Đúng là vua tán gái!
Gấu có lần ngồi ăn phở với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài Gòn.
Khi đó bạn quí dọn lên San Jose rồi, nghe tin Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu qua, bèn gặp.
Cùng lèm bèm về thơ DTL.
Gấu có phán: Bạn DTL có rất nhiều đòn.
Nếu ra đòn, ‘anh yêu em’ không ăn, thì đánh vào "người chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ thánh, nữ bồ tát chuyên cứu vớt k
lầm lạc", ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục!
Bạn quí phì cười, gật gù: Đúng, đúng quá!

*

Cali 2/2008
Nghe tụi nó nói, mày phạng tao nặng lắm!
Tao đếch có đọc!

Elegy

Oh destiny of Borges-
to have traversed the various seas of the world
or the same solitary sea under various names,
to have been part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia, and Texas,
to have gone back across the generations
to the ancient lands of forebears,
to Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon fought with Dane, mingling bloods,
to have wandered the red and peaceful maze of London,
to have grown old in so many mirrors,
to have tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have witnessed the things that all men witness-
death, the weight of dawn, the endless plain
and the' intricacy of the stars,
and to have seen nothing, or almost nothing
but the face of a young girl in Buenos Aires,
a face that does not want to be remembered.
Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.

J.L. Borges
1964
Bi Khúc

Ôi số mệnh của GCC -
Đã phiêu du nhiều biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít & Nam Kít, Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại, sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất xưa của ông cha,
Ở Andalucia, Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu với nhau.
Đã lang thang những mê cung đỏ, hiền hòa ở London
Đã trở nên già trong rất nhiều tấm gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm bắt ánh mắt cẩm thạch của những pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng bằng vô tận, sự phức tạp của những vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì nó đâu!


   
SU MAN SHU
[dates unknown]

Sometimes the place of exile was farther than the poet's own continent-here, within the continent, it was in Japan.
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things

EXILE IN JAPAN
On the balcony of the tower
I play my flute and watch
The Spring rain.
I wonder
If I ever
Will go home and see
The tide bore
In Chekiang River again.
Straw sandals, an old
Begging bowl, nobody
Knows me. On how many
Bridges have I trampled
The fallen cherry blossoms?
Translated from the Chinese by Kenneth Rexroth

Lưu vong ở Nhựt Bổn
Ở nơi bao lơn ngọn tháp
Tôi thổi ống sáo và theo dõi
Mưa Xuân
Tôi tự hỏi có khi nào về quê nhà và lại được nhìn ngọn triều
Sông Chekian
Dép rơm
Cái chén ăn xin cũ
Chẳng ai biết tôi
Bao nhiêu cây cầu tôi đã dẫm
Những cánh hoa đào rơi rụng?

Đôi khi nơi chốn lưu vong thì xa hơn nhiều so với cố quận của nhà thơ ngày nào.

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
                                 sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
                                             bóng tối sâu thẳm

WANG WEI [Vương Duy]
701-761
And here is a charming poem about a marvel of a city to which we arrive by water for the first time. I, too, lived throu8h a similar experience, in which three of us, twenty years old, approached the embankment of the city of Constance in southern Germany by canoe, A.D. 19]1. I should add that if Wang Wei was not a very willin8 sailor, he was at least a curious one. He was forced by the duties of
his office to travel, but he lon8ed for a Buddhist detachment, which, in his verse, is always symbolized by white clouds.
Czeslaw Milosz

Và đây là 1 bài thơ thần sầu về cái tuyệt vời của 1 thành phố mà bạn đến với nó lần đầu tiên, bằng thuyền. Tôi đã trải qua kinh nghiệm này, khi còn đôi mươi. Ba đứa chúng tôi, đã cập bến thành phố Contstance, miền nam nước Đức, bằng ca nô.
Tôi cũng nên viết thêm, là, nếu Vương Duy không phải là một thuỷ thủ rất thuỷ thủ, thì ắt hẳn, ông là 1 người rất tò mò. Bị buộc phải làm bổn phận của 1 viên chức trên đường chu toàn trách nhiệm, nhưng ông vẫn thèm cái lãng đãng của 1 người theo đạo Phật, không màng việc đời, như đám mây trắng, trong những vần thơ của ông.

MORNING, SAILING INTO XINYANG
As my boat sails into Xingze Lake
I am stunned by this glorious city!
A canal meanders by narrow courtyard doors.
Fires and cooking smoke crowd the water.
In these people I see strange customs
and the dialect here is obscure.
In late autumn, fields are abundant.
Morning light. Noise wakes at the city wells.
Fish merchants float on the waves.
Chickens and dogs. Villages on either bank.
I'm heading away from white clouds.
What will become of my solitary sail?

Translated from the Chinese by Tony and Willis Barnstone and Xu Haixin

Liên Đêm

Còn trí tuệ trong thơ là gì? Nghe có vẻ khó, nhưng không khó đến thế. Charles Simic đã nói gần như đầy đủ về điều này trong cuốn sách dưới đây:


V/v thơ trí tuệ.

Reason and Rose

Adam Zagajewski


Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.
Tuyệt!
Milosz, giống như Cavafy hay Auden, thuộc dòng những thi sĩ mà thơ ca của họ dậy lên mùi hương của trí tuệ chứ không phải mùi hương của những bông hồng.
Nhưng Milosz hiểu từ trí tuệ, reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ. Ông hiểu nó, theo một đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly đoạn tuyệt lớn, nó cắt ra, một bên là, sự thông minh, trí tuệ của những nhà duy lý, còn bên kia là của sự tưởng tượng, và sự thông minh, trí tuệ của những nghệ sĩ, những người không thường xuyên tìm sự trú ẩn ở trong sự phi lý, irrationality.

GCC không có cuốn của Simic, nhưng từ những gì đọc được ở nhà thơ này, Gấu không tin, ông đặt ra vấn đề thơ trí tuệ tới một mức "sâu thẳm, xa vời" như Adam Zagajewski.
Gần gụi nhất với chúng ta, thì có cuốn Thơ Trí Tuệ, Thơ Tư Tưởng, từ thời Hellenism tới Celan, của Steiner.
Cuốn này, thần sầu. Những ai mê thơ tư tưởng, trí tuệ rất nên đọc nó.
Trích câu thơ nổi tiếng của Stefan George, làm mồi, dụ độc giả TV :
Khi từ ngữ thua, thì chẳng còn cái đéo gì hết [lại xổ nho, hà, hà!]:
Nothing can be where the word fails.

Ghi chú trong ngày

Cái trang web này, GCC chẳng đọc được 1 nửa chữ, vậy mà cũng giới thiệu...  Tin Văn, qua server cho biết.
Gõ Google: Tiếng Czech.
Bạn ra lệnh cho Google dịch trang net tiếng Czech, thì cũng ra được nội dung của nó, không hoàn hảo, tất nhiên, nhưng bảnh hơn rất nhiều, so với… dịch loạn! (1)

Chứng cớ: Bữa trước trên trang Hậu Vệ, có 1 vị so sánh bản dịch ra tiếng Mít, thơ Rimbaud, của HPA, bạn quí của GCC, với của Google.
Kết quả, bản của Google bảnh hơn!

* &

Note: Hai cuốn đều mới ra lò, 2011.
Cuốn của Woolf là bài cũ lượm lại, in thành sách.
Cuốn của Viện Sĩ Ưu Tú Nhân Dân [tuy rất thù chủ nghĩa toàn trị] & Nghiên cứu sinh & Thầy & Enfant terrible [Vargas Llosa gọi ông] cũng... được: Thơ của Tư tưởng từ Cổ Hy Lạp tới...Celan.

Chắc cũng giống thơ…. tán gái của Mít thôi.
Chưa chắc đã hách hơn thơ DTL!
Hà, hà!

Toute pensée commence par un poème.
(Every thought begins with a poem.)
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953

Il y a toujours dans la philosophie une prose littéraire cachée, une ambiguité des termes.
(There is always in philosophy a hidden literary prose, an ambiguity in the terms used.)
-Sartre: Situations IX, 1965

On ne pense en philosophie que sous des métaphores.
(In philosophy one thinks only metaphorically.)
-Louis Althusser: Éléments d'autocritique, 1972

Nhưng có lẽ cái nick tuyệt nhất dành cho Vị Viện Sĩ Ưu Tú của Nhân Dân, là của Ben Hutchinson, khi điểm cuốn mới nhất của G. Steiner, trên tờ TLS, số 30 Tháng Ba, 2012:

Hãy Nghe Thầy Cả Nói
Hear The High Priest.

The question of style is thus at the heart of the argument. Much of Steiner's previous work has circled around this issue without quite addressing it directly: the pioneering theoretical speculations on translation in After Babel (1975), the wager on the metaphysical resonance of art in Real Presences (1989), the distinction between "invention" and "creation" underlying Grammars of Creation (2001). In this sense, The Poetry of Thought represents the culmination of a life-time's work: in both philosophy and literature, asserts Steiner, "style is substance". The title of the book plays on the slippage between the subjective and objective genitive, evoking both the poetry inherent in thought and poetry about thought. Over the course of the book, Steiner identifies a range of stylistic aspects common to both, from rhythm and repetition to dialogue and aphorism, from fragment and setting to counter-factual verb forms such as the subjunctive and the future. While the comparative methodology allows him to juxtapose French pluperfects with German prepositions, the music of language, Steiner argues, is universal: Claude Levi-Strauss's claim that "the invention of melody is the supreme mystery of man" recurs throughout Steiner's ceuvre, itself a kind of musical motif. If this new book opens with the concession that language has neither the performative power of music nor the elegant precision of mathematics, it is language, for Steiner, that defines the human.

Câu chuyện văn phong thì ở ngay trái tim của mọi luận cứ. Đa phần tác phẩm của Steiner, trước cuốn này, thì đều chàng vàng chung quanh vấn đề văn phong, tuy không trực tiếp bàn thẳng vô: những ức đoán mang tính lý thuyết, khai phá về dịch thuật trong “Sau Babel”, 1975; cú đánh cược về cộng hưởng siêu hình của nghệ thuật trong “Hiện Diện Thực”, 1989, sự phân biệt giữa “phát minh” và “sáng tạo” làm nền cho “Văn Phạm của Sáng Tạo”, 2001.
Theo nghĩa đó, “Thơ của Tư Tưởng” là tụ đỉnh của trọn đời viết lách suy tưởng của Steiner: Trong cả hai, triết học và văn học, “văn phong là bản chất”.

Post th
êm 1 đoạn, qua đó, Steiner lèm bèm về Becktt, Trong Khi Chờ Godot:

Samuel Beckett read philosophers closely. He was in frequent exchanges with Schopenhauer. No counterpart to Hegel's diptych of Herr and Knecht is richer than that of Pozzo and Lucky in Waiting for Godot (1952).
    Lucky is almost literally a whipped dog, but a dog that can bite. Again the thematic question is that of "what is man?" Grudgingly, the slaver Pozzo concedes the marginal humanity of the two tramps. But to what extent is Lucky human? Held on a leash he performs his master's sadistic commands. Can one treat a human being in this fashion, inquires Vladimir? Pozzo allows that his mastery and the abjection of the slave might have been reversed. Wretched as he is, Lucky provides his tormentor with urgently needed reassurance as to his own status and identity (the essential Hegelian pendulum). If Lucky strives to wake his master's compassion it is so that he can preserve his life-giving dependence: "So that I keep him on:' Radicalizing all authority Pozzo bids his Knecht "think": "Pense." This imperative transcends the Cartesian cogito. In Hegel thought corresponds to the genesis of consciousness, to the potentiality of freedom. Beckett's is an allegory of coercion.
    At this ultimatum Lucky bursts into speech. Speech not only defines humanity: it is the sole but immensely consequential weapon available to the slave. Lucky's torrential monologue lays bare the poverty of Pozzo's jargon. His outpouring parodies epistemology, theological speculations, the suspect profundities of modern psychology. Its fractured litany of repetitions, its stumbling onrush are a linguistic détour de force unsurpassed in literature and archly de constructive of Molly's musicalized soliloquy in Ulysses. Its self-negating rhetoric hints at what language might have been, might still become if it shook off the banal confines of meaning. After emitting this avalanche of pseudo-grammatical "speech acts," this subversive mimicry of communication, Lucky relapses into comatose mute-ness. His awesome loquacity ends on the word inachevé. Which defines the play itself. Nothing remains but his trampled hat now worn by Vladimir. More than once the Beckettian endgame seems to look to Hegel's trope of the end of history.





Note: Tưởng niệm 10 năm TTT đi xa, chúng ta đọc thơ Đài Sử, con trai ông, Langston Hugh, Emily Dickinson, và nhiều người khác nữa...



bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào tương lai, một hiện tượng rất quái gở.
Blog NL

Không hẳn như vậy, theo GCC.
Bài thơ này nằm trong dạng "lưu đày & quê nhà".
Hiện tại là Saigon.
Câu thơ Buồn như bàn ghế không bày, Gấu đã từng lèm bèm.
Saigon về khuya, các tiệm lật ngược ghế móc vô bàn, ai đã từng ở Saigon, là biết, và buồn.
Quá khứ là "nửa đêm Hanoi" - quê nhà ngày nào của thi sĩ -
Tương lai mà ai cũng thèm, là "cho tí Paris để được làm thi sĩ".

Cái tên thi sĩ chỉ biết làm thơ nhại, NDT, không đọc nổi bài thơ này, bèn giở giọng chê bai, cực nhảm:

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!

Anh ta tự nhận, thơ của anh ta là ngôn ngữ đời thường!
Thế ngôn ngữ đời tù, anh ta có "đọc" được không?
"Làm" không được, vì có đi tù VC đâu.

Thơ TTT, như Gấu đã từng lèm bèm, cái nhịp thơ của nó, trước nhịp đời, lúc mới xuất hiện, còn khó đọc, nhưng sau đó, nó thở hơi thở của cuộc chiến, thành ra thật dễ hiểu.
Đây là ý của Brodsky, khi phán về thơ, và về Tsvetaeva:

Volkov. When you and I spoke in connection with Auden about the neutrality of the poetic voice, at the time you defended this neutrality.
Brodsky. This is not a contradiction. The source of rhythm is time. Remember I said that any poem is reorganized time. The more technically diverse a poet is, the more intimate his connection with time, with the source of rhythm. And Tsvetaeva is one of the most rhythmically diverse poets. Rhythmically rich and generous. Actually, "generous" is a qualitative category: let's stick to quantitative categories, all right? Time speaks to the individual in various voices. Time has its own bass, its own tenor-and it has its own falsetto. If you like, Tsvetaeva is the falsetto of time. The voice that goes beyond the range of proper notation.

Tuyệt! Cội nguồn của nhịp là thời gian. Bất cứ bài thơ là thời gian được sắp xếp lại...  
Gấu đã từng chôm ý này, khi viết về thơ của Cô Tú, cái gì gì, giọt mưa trời khóc ngàn năm trước, sao lại ấm áp ở trong lòng bàn tay của ta, lại có tí mằn mặn, hà hà!

*

Bài thơ tù này, cũng âm vang cái "thème" bi khúc "lưu đày và quê nhà", nhưng Bắc Kít ở đây là lưu đày, quê nhà là Nam Kít và vợ con.


*

*

*

*

Số Báo Thơ, tưởng niệm Mai Thảo.
Bài thơ của MT, Thơ Xa, có vẻ như nhắc tới Thơ Ở Đâu Xa
TTT, trong thơ tôi có thơ Mai Thảo.
Thú vị hơn nữa, có thơ của Đài Sử.

Và thi sĩ tái chinh phục cái vô hình của hắn.
Câu thơ của Jean Cocteau làm nhớ tới "thất bại, thất bại nữa, thất bại cho đẹp" của Beckett:
Vô hình thì còn gì vết trầy trên im lặng, trên hư vô?
 
from Poem of the End
Outside of town! Understand? Out!
We're outside the walls. Outside life-
where life shambles to lepers.
The Jew-ish quarter.

It's a hundred times an honor
to stand with the Jews-
for anyone not scum.

Outside the walls, we stand. Outside life-
the Jew-ish quarter.

Life is for converts only!
Judases of all faiths.
Go find a leper colony!
Or hell! Anywhere-just not

life-life loves only liars,
lifts its sheep to blades.
I stomp on my birth certificate,
rub out my name!

Go find a leper colony! With David's star, I stand-
I spit on my passport.
And back in the town they're saying, It's only right-
the Jews don't want to live!

Ghetto of the chosen! The wall and ditch.
No mercy. In this most Christian of worlds
all poets-are Jews.

PRAGUE, 1924
Thơ của Tận Cùng
Ra ngoài thành phố! Hiểu không! Ngoài!
Chúng ta ở bên ngoài những bức tường. Bên ngoài cuộc đời –
Nơi đời lê lết tới những người cùi
Khu Do-Thái

Hàng trăm lần vinh dự
Đứng với người Do Thái
Bởi là vì chẳng ai là cặn bã

Bên ngoài những bức tường, chúng ta đứng. Bên ngoài đời
Ổ, Khu, Xóm Do-Thái

Đời chỉ dành cho những kẻ cải đạo
Những tên Judas của tất cả những niềm tin
Hãy đi kiếm một thuộc địa cùi!
Hay địa ngục! Bất cứ đâu –

Đời không thế
Đời chỉ yêu những kẻ dối trá
Nhấc những con cừu của nó tới những lưỡi dao
Tôi chà đạp tờ khai sinh của tôi
Chà tên của tôi ra khỏi nó!

Hãy đi kiếm thuộc địa cùi! Với ngôi sao David, tôi đứng sững –
Tôi nhổ lên tờ thông hành
Trở lại thành phố, chúng nói, đúng, quá đúng, như thế -
Những tên Do Thái không muốn sống!

Ghetto của những kẻ được chọn lựa! Bức tường và hào rãnh
Không, cám ơn.
Trong những từ ngữ cực Ky Tô
Tất cả những thi sĩ - đều là Do Thái

Prague 1924   

MARINA TSVETAEVA

Volkov. People have referred to you as a poet belonging to Akhmatova's circle. She loved you and supported you at difficult moments, but from talking with you I know that the work of Marina Tsvetaeva had a much greater influence on your development as a poet than did Akhmatova's. Tsvetaeva was the poet of your youth. When you speak about Tsvetaeva's poetry, you often call it Calvinistic. Why?
Brodsky. Above all, bearing in mind just how unprecedented her syntax was. This allowed-or rather, forced-her to spell everything out in her verse. In principle, Calvinism is a very simple matter: it is man keeping strict accounts with himself, with his conscience and consciousness. In that sense, by the way, Dostoevsky is a Calvinist as well. A Calvinist, to put it briefly, is someone who is constantly declaring Judgment Day against himself-as if in the absence (or impatient for) the Almighty. In this sense, there is no other poet like her in Russia.
Soloman Volkov: Conversations with Joseph Brodsky

Trong “Trò chuyện với Brodsky”, của Solomon Volkov, có 1 chương dành cho Marina Tsvetaeva.
Brodsky coi Tsvetaeva là “nhà thơ thứ nhất của thế kỷ 20”, nhà thơ của thời trẻ tuổi của ông, và thơ của bà, có tính Calvinistic, và ông giải thích, Calvinism thì cũng đơn giản thôi: đó là 1 người bám chặt vào chính mình, với ý thức và lương tâm của mình. Theo nghĩa này, thì Dos là 1 Calvinist. Nói ngắn gọn, Calvinist là 1 kẻ lúc nào cũng phán Ngày Tận Thế, chống lại anh ta. 
Brodsky cho biết, ông đọc thơ Tsvetaeva, khi ông 19, hoặc 20. Không phải trong những cuốn sách mà đặc biệt là trong những bản in dưới hầm, but exclusively in samizdat typescript. Ông không nhớ là ai đưa cho ông, và khi đọc “Thơ núi”, “Poem of the Mountain” mọi thứ clich 1 phát, everything clicked. Chưa từng có gì đọc trước đó, ở Nga, gây ấn tượng như vậy: Nothing I’ve read in Russian has produced such an impression…. Tất cả thi ca của bà có thể giản lược, qui về câu này, If the content of Tsvetaeva’s poetry could be reduced to some formula then it’s this:
To your insane world
But one reply – I refuse


Bài trò chuyện này cũng thật là tuyệt, và quái làm sao, Gấu nhận ra, 1 cái gì đó, ở TTT, ở đây, qua cái thái độ quá nghiêm khắc với chính mình của ông.
Lũ bạn bè của ông, sở dĩ quê ông, cũng vì cái cú, "I refuse", y chang!
Có vẻ như sau cùng, ông cũng có 1 người bạn, qua DC - như GCC, qua Joseph Huỳnh Văn.
Một tên đủ rồi.

Vị bằng hữu K. của trang TV, chúc GCC nhân 1 SN, chẳng cần thằng nào, chẳng nghĩ đến thằng nào, lõ cũng như tẹt, chỉ mần thơ là được rồi!   

OK Salem!
Tks
NQT

Không có thơ không có chiều cao
Il n’est pas poésie sans hauteur
Philippe Jaccottet

Adam Zagajewski mở ra bài viết Cái đê tiện và cái thăng hoa, The Shabby and the Sublime, trong In Defense of Ardor.
Czeslaw cũng nói như thế, về thơ Brodsky, và chính Brodsky cũng nghĩ về thơ, như thế, không có đẳng cấp, không có thơ.

In one of his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself a poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with the deepest current of his century, in which man, threatened with extinction, discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the bowels of the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is the result of the principle of differentiation based on hierarchy. Mandelstam in the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the reality of tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting his poetry to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures.

Milosz

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

TTT 10 years Tribute

Dạ khúc

Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa

Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau

Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ

Hay nửa đêm Hà Nội

Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng

Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy

Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai

Bao giờ

 Tặng Doãn Quốc Sỹ

   Dù sao mai phòng triển lãm sẽ đóng cửa
(Rồi mở thêm một lần nữa
Để làm gì)

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống giòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá

Con thuyền xuôi
Chiều không xanh không tím không hồng
Những ống khói tầu mệt lả

Ai xui rằng mùa măng chưa tới
Mà mùa măng về măng thôi chẳng ngọt
Vườn măng rừng tháng sáu đêm sâu

Muốn làm người học trò mười bẩy tuổi
Đạp xe trên đường đồng

Bông mía trắng những căn nhà ngủ dưới cây
Sẽ thăm những bà con thân thuộc
Một người em hay một bà dì

Trời xẫm
Như mắt
Như ngõ hoang hồn này  
Hôm nay
Nghe lời hát quen quen  
Người đàn bà ấy mang tên lời từ biệt  
Trên một sân ga vắng  
Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray  
Đầy dĩ vãng

Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng
hay sang Bắc Ninh
Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình

Như kẻ say rót rượu lấy mà uống
Cho vui thêm cuộc hành trình
(Đúng rồi những người thù ghét thơ của tôi ơi)  
Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc

Thanh Tâm Tuyền

Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy

và gì đi nữa...

và gì đi nữa. chuyến đi. châu âu
cũng. bắt đầu
máy bay xuống. phi trường. de gaulle
trời. ảm đạm. úng. nước
chuyến xe điện. về nhà. trọ
thật sớm ngày. chủ nhật
người đàn ông. say khướt. ngồi phía. sau
hát. những giai điệu. buồn
và thả. những làn khói. thuốc
cũng buồn. trong. toa xe
sông seine. không thơ. mộng
\như đã. một lần thơ. mộng

và. gì đi nữa. ánh sáng cũng. thức giấc
soi. bóng mình vào. dòng sông
chảy. không. cặn bã
đường xiên của. nắng
và. hình hài của. bảy màu
này em. khi nào. về
cứ vào. cửa. không bao giờ. khóa
cứ về. như. lúc đi
closet. vẫn còn nguyên. vẹn
đồ đạc. của em

và. gì đi nữa. cũng đến lúc. rời paris
bằng con tàu. tốc hành
không. biết phải làm. gì
khi. nhìn những. cánh đồng nho
trụi lá. những thân cây. trơ cành
nói. lời mùa. đông

không biết. đã say. từ ly rượu. thứ mấy
cứ đi. lui. tới hoài. trên con phố
tìm. những đổi. thay
những quán rượu. đông người
la rambla. vẫn. biền biệt
dốc. cạn túi. không tìm ra. tiền
cho một ly rượu. kế
barcelona. vắng bóng. một người

và. gì đi nữa. khi trở lại
cố đi ra. khỏi giấc. mơ
nhưng chẳng. bao giờ được
này. em đừng. bao giờ vội
nhiều lúc. không cần phải. nói
chìa khóa cửa. đã mât. từ lâu lắm. rồi
nên. cửa không bao giờ. khóa

và gì đi nữa.. em
này. em…
em. gắng nhớ
chuyến bay. đêm về. new york
nhìn. thành phố. từ trên cao
nghe. nhịp đập. lệch. của trái tim

Đài Sử

SONG ABOUT SONGS

It will burn you at the start,
As if to breezes you were bare,
Then drop deep into your heart
Like a single salty tear.

And a heart full of spite
Will come to know regret.
And this sorrow, although light,
It will not forget.

Others will reap. I only sow.
Of course! When the triumphant horde
Of scythers lays the grain low,
Bless them, O Lord!

And so that I may lift
My eyes in thanks to You above,
Let me give the world a gift
More incorruptible than love.

                                            1916

Akhmatova

Bài Ca về Những Bài Ca

Nó sẽ đốt cháy bạn lúc thoạt đầu
Như thể bạn trần truồng trước những làn gió
Rồi thọi 1 cú thật sâu, ngay tim bạn
Như 1 giọt nước, mặn, cực mặn, chỉ 1 giọt

Và trái tim đầy thù oán
Sẽ biết như thế nào là, chưa đi mưa chưa biết lạnh
Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ,
Nghĩa là, biết, ân hận
Và nỗi ân hận, mặc dù nhẹ nhàng
Sẽ chẳng thể nào quên

Những kẻ khác, thu hoạch
Tôi, chỉ gieo.
Lẽ tất nhiên! Khi bầy người cầm hái chiến thắng
Để hạt xuống
Hãy chúc phúc cho họ, ôi Chúa

Và như thế, tôi có thể ngước mắt
Cám ơn Người ở trên cao
Hãy để cho tôi ban cho đời
Một món quà
Không thối rữa, hơn nhiều
So với tình yêu.

NINA ZIVANCEVC
[1957-] 

Zivancevic was born in Belgrade. She is a literary critic, journalist, and translator as well as a poet. She lived for several years in New York, where she wrote in English, and now resides in Paris. New Rivers Press published a book of her poems, More or Less Urgent, in 1980. The poems in this anthology come from her books The Spirit of Renaissance (1989) and At the End of the Century (2006).

Ode to Western Wind

O, great great Western wind,
lift me up and take me back
to people and places I loved,
save me from this neoclassical order
and its stupidities,
take me as far as you can from Gard du Nord
from which they took
200,000 Jews to camps,
so that not a single one came back,
carry me away from Europe
poisoned with wars and plagues,
as far as possible from the United States
where people die in hunger and ignorance,
take me back to Serinda where to breathe is more important
than sublime thought and moving about,
take me to the make-believe land of poetry
and keen spirit
where women don't speak of equality
and where men dance the tango all day
and all night,
lift me high, wind
and make me forget
this terrible ever-present reality,
since, if the spring has indeed come
why am I trotting
so far behind it?

Charles Simic: The Horse Has Six Legs, an anthology of Serbian Poetry.

Khúc Ode gửi Tây Phong

Ôi ngọn gió Tây nhớn ơi là nhớn,
Hãy nhấc Gấu lên, đưa Gấu trở lại xứ Bắc Kít mà Gấu hằng iêu dấu
Hãy kíu Gấu ra khỏi cái trật tự tân cổ điền, tân hình thức cái con mẹ gì này
Và tất cả những cái ngu si cà chớn của nó
Đưa Gấu đi xa, xa chừng nào tốt chừng đó
Xa Ga Bắc
Nơi chúng tống 200 ngàn tên Do Thái vô Trại Tù
Và đếch có 1 tên nào trở lại
Đưa Gấu ra khỏi Âu Châu
Tẩm độc với chiến tranh, bịnh dịch
Xa thật xa Mẽo Quốc
Nơi người ta chết vì đói, vì ngu si
Đưa Gấu trở lại xứ Đoài mây trắng lắm!
Nơi, chỉ nội được thở ở đó thôi, thì quan trọng hơn nhiều,
Và sướng điên lên rồi
So với tư tưởng vời vợi, hay, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Bắc Kít ôi Bắc Kít
Xứ sở của thi ca,
Của tinh thần Non Tản Sông Đà
Nơi đờn bà đếch cần bình đẳng bình điệc
Nơi đờn ông suốt ngày sáng đêm uống riệu, nhảy đầm
Ôi gió ơi
Nhắc Gấu lên cao, thật cao
Làm cho Gấu quên đi cái thực tại trần truồng luôn luôn hiện tại khủng khiếp này,
Kể từ mà, nếu Mùa Xuân đã thực sự tới
Thì hà cớ mà sao mà Gấu cứ lẽo đẽo ở mãi đằng sau nó?

Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa

NXH's Poems of the Night

*

Cầm bằng thí cho gió


Ngày chúng ta đi
Gió mò xuống
Lấy đi những dấu chân của chúng ta

Gió lấy bụi,
Phủ những dấu vết chúng ta để lại
Khi tản bộ

Ngoài ra,
Thì kể như là chúng ta vưỡn còn sống

Thế đó,
Gió là kẻ chúng ta,
Cầm bằng thí cho nó
"Bàn chân ai rất nhẹ,
Tựa hồn những năm xưa"!

Hà, hà!

Song Nam Tang

8 hrs ·

St

Blown away

The day we die...

See More

Like · Comment · Share

Song Nam Tang chữ "mò" của Mr TV hay cực, nhưng nếu đã "vưỡn" thì ngán gì mà bác hem cho "chúng ta đai"!

Like · Reply · 8 hrs
 

Mít bi giờ sính ngoại. Đi, hay “đai”, thì cũng một chuyến!

Tks

người. ở lại

em có ở lại? mùa đông năm nay có lẽ sẽ dài hơn. và lạnh hơn. không hiểu sao lại có cảm giác như vậy. những vỡ toang tận góc xa nhất của tâm hồn. rồi có ai nhặt lại những mảnh vỡ đó. nhưng để làm gì.
bài hát yêu thích nhất. vừa dứt. nốt nhạc cuối còn rưng rưng. đưa ly rượu cạn cho người phục vụ.
bước chân loạng choạng. theo chiếc lá khô xoay quanh quanh trên mặt đường. một mình. và một chiếc lá. em đã không đến?
mùa nào say khướt. mênh mông tiếng cười. đã là dĩ vãng. gió. gió heo may. chớm thu. vàng những lá.thẫm cả một trời riêng. rừng. lá. và núi. lặng câm. lá giấu biền biệt những bước chân em. chỉ còn lại xạc xào. biết em nơi đâu?
những trốn tìm ngày cũ. một trời lồng lộng. đâu dịu dàng những cánh áo hoa ngày đó. rồi em có đi?
mùa buồn nhất. cũng là mùa đẹp nhất. phủ. chụp một màu trắng toát lên mọi vật.
nước từng giọt đi vào thân thể. căn  phòng cũng một màu trắng đùng đục.
có người cúi đầu đọc ngàn câu thơ tình yêu. nói nghìn lời níu kéo. cánh buồm căng căng gió. và em có về?
đôi mắt khép. lặng im. một đường thẳng tít tắp. tiếng u u vô nghĩa.
thôi em đừng khóc. những giọt nước mắt. rồi cô độc vĩnh viễn. tiễn tôi.

Đài Sử

WALKING

I never run into anyone from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return ticket .
To wherever it is I came from earlier this evening 

Charles Simic: That Little Something 

Cuốc Bộ

Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào.
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.
Tất cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.

Note: Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà. Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân đất…

Bei Dao

THE ART OF POETRY

in the great house to which I belong
only a table remains, surrounded
by boundless marshland
the moon shines on me from different corners
the skeleton's fragile dream still stands
in the distance, like an undismantled scaffold
and there are muddy footprints on the blank paper
the fox that has been fed for many years
with a flick of his fiery brush flatters and wounds me
and there is you, of course, sitting facing me
the fair-weather lightning that gleams in your palm
turns into firewood turns into ash

Bei Dao
Nghệ Thuật Thơ
Trong căn nhà lớn tôi thuộc về nó
Chỉ còn cái bàn
Vây quanh là những đầm lầy vô tận
Trăng chiếu lên tôi từ những xó góc
Giấc mộng mong manh của bộ xương
Đứng im lìm
Từ một khoảng cách
Như hình giảo đài chưa được tháo dỡ
Có những vết chân dính bùn trên tờ giấy trắng
Con chồn nuôi nhiều năm
Lấy đuôi quất và làm tôi bị thương
Và có em, lẽ tất nhiên, ngồi đối diện
Ánh chớp sáng trong lòng bàn tay em
Biến thành củi thành tro

COMET

Come back or leave forever
don't stand like that at the door
like a statue made of stone
discussing everything between us
with a look that expects no answer

in fact what is hard to imagine
is not darkness but dawn
how long will the lamplight last
perhaps a comet may appear
trailing debris from the ruins
and a list of failures
letting them glitter, burn up, and turn into ash

come back, and we'll rebuild our home
or leave forever, like a comet
sparkling and cold like frost
discarding the dark, and sinking back into darkness again
going through the white corridor connecting two evenings
in the valley where echoes arise on all sides
you sing alone 

Sao chổi

Hãy trở về nhà, khúc ruột ngàn dặm
Hay là đi mẹ luôn đi cho rồi
Đừng đứng ở cửa
Như tượng đá
Lèm bèm đủ thứ chuyện giữa chúng ta
Với cái nhìn đếch chờ mong trả lời

Sự thực, thật khó mà tưởng tượng
Không phải đêm giữa ban ngày
[Không phải đêm tối mà là rạng đông]
Ngọn đèn đêm đứng im cúi đầu tới khi nào?
Có lẽ một ngôi sao chổi sẽ xuất hiện
Kéo theo sau cả một vệt những điêu tàn
Và cả 1 danh sách những thất bại
Hãy để chúng sáng lên, cháy lên, thành tro than

Hãy trở lại và chúng ta sẽ xây dựng lại căn nhà Mít
Hay bỏ mặc nó, vĩnh viễn, như ngôi sao chổi
Lấp lánh và lạnh như sương
Xua cho hết tối, rồi chìm nghỉm trở lại bóng đen
Qua một hành lang trắng, nối hai buổi chiều
Trong 1 thung lũng tứ bề vang lên những tiếng vang
Bạn hát một mình.





On Wednesday, March 2, 2016 7:58 AM

Chú Trụ,

Vào trang tanvien bữa nay và như vậy cháu đã chờ được đến hôm nay để viết cái email này.
Hy vọng chú hiểu cho và không trách. Những cái bóng quá lớn chú ạ!
Cháu tên tuệ, là người con trai thứ hai trong gia đình.
Thế mà đã hơn 10 năm, từ những ngày cuối của bố cháu, từ những lần mò và làm quen với tanvien với chú là “hai lúa” lúc đó. Những câu hỏi không biết chú còn nhớ?
Nếu có gì không đúng chú bỏ qua và cho cháu xin lỗi.
Cho cháu kính lời thăm cô cùng các anh chị và gia quyến.
Kính, cháu tuệ 

No star where
Rất mừng, vì không nghĩ là có người tiếp tục ông cụ
Tks.
Bà xã của tôi mừng quá, bà vẫn thích thơ của Đài Sử.
Khác hẳn thơ của những người khác.
Ngay từ khi mới đăng thơ của Tuệ, tôi đã xếp vào loại thơ trí tuệ
Thấy không?
Tuyệt

Cho gửi lời thăm gia đình, bà cụ và bạn C của tôi. Lâu quá không liên lạc
Xin phép post thư này?
HW?
NQT

Chú Trụ,
Cảm ơn những thăm hỏi của chú.
Chú cứ post, nếu chú thấy là cần thiết.
Kính

Tks
Take Care

NQT

Note: GCC mới nhận được 1 cái mail, của 1 vị độc giả, thắc mắc về cái tít 1 bài viết “thơ trí tuệ vs thơ tình cảm”. Cái tít thiệt là lạ, vị này viết.
GCC đã viết mail trả lời, nhưng lại delete. Vì muốn giải thích 1 cái tít như thế, là phải viện ra cả 1 lịch sử, không chỉ của thơ mà còn của nhạc Mít, hà, hà!
Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, trong bài viết về TTT, chẳng đã phán, thơ TTT không có truyền nhân.
Và GCC cũng đã từng trả lời, vì cái chất trí tuệ của nó.
Bây giờ, truyền nhân thơ TTT chính là me-xừ Tuệ này, quá tuyệt!
Món quà của lần kỷ niệm năm nay.
GCC đã tính chơi hai búa TGK, giới thiệu thơ da đen, nhạc Jazz Langston Hugh, và thơ Dickinson, bây giờ có thêm búa thứ ba, thế là đủ cả ba búa!
Lại Tks God!

V/v Những cái bóng quá lớn

Người phán quá đúng về thơ TTT, ông thân sinh của DS & ông anh nhà thơ của GCC, là Quỳnh Giao, cô học trò của ông. (1)
Có thể, chính TTT cũng nhận ra điều này, và thay vì cho in cái “tiếp nối" Bếp Lửa, là Ung Thư, thì bèn viết 1 cái khác, và đó là Một Chủ Nhật Khác.
Nó tiên tri ra được chuyện sau 1975.
Cuốn này quá bảnh, vì nó nhìn quá cả Cái Ác Bắc Kít, trước bị khoanh vùng ở cõi Mít, sau 1975, biến thành đại họa của cả thế giới, khủng khiếp đến mức như thế.
Nó tới đâu là biến nơi đó thành bãi đánh hàng, 1 “anus mundi”, như Milosz phán.

Thơ của DS, cố làm điều mà Borges nói, nghệ thuật, tự nó, nên rũ ra, không chỉ lịch sử, với những biến động của nó, mà ra khỏi thời gian.
Cuộc nói chuyện của Borges, giữa những bạn bè của ông, TV đã post nhưng chưa có bản tiếng Việt. Nhân lần này, bèn chơi luôn!

(1)

Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”

Art Should Free Itself from Time

OSVALDO FERRARI. Today we will talk about beauty. But before we do so, we will transcribe your views about the place of art and literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and free themselves from time. Often, I have been told that art depends on politics or on history. I think that's untrue. It escapes, in some way, from the organized causality of history. Whether art happens or doesn't, either depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about, apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days, artists or writers do not talk about what is supposedly always their inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept- because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible, doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it could do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made him forget not only literature but his literature. But he has remained in the histories of literature, which collects everything, as the founder of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to consult you about something that has caught my attention. Plato said that of all the archetypal and supernatural entities, the only visible one on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts aspire to the condition of music. I think that is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary that we perceive it as more than a string of  words. We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only a string of words, then that character has not been well created. For example, reading a novel, we must believe that its characters live beyond what the author tells us about them. If we think about any character in a novel or a play, we have to think that this character, in the moment that we see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission. And among us, Murena has said that he considers beauty capable of transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it as a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless. I believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example, my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora, in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive! She was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions are the ones he had casually overheard. But that could be another clever feature of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary for so many masters that perhaps what matters is to be a secretary and not the inventor of the sayings.

FERRARI. An individual memory of a
collective.
BORGES. Yes, exactly that.

*

Note: Mới tậu. Đi liền cú, Borges lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch Trước Pháp Luật:

Kafka Could Be Part of Human Memory
Kafka có thể [có, là] phần hồi ức lịch sử

Mới ra lò, 2014.

Tên nhà xb mới thú: Seagull Books
www.seagullbooks.org

"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy,
Ferrari hỏi Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của thời chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng như thế, nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!

Ui chao em của GCC, HA, trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết, thì mất liêu luôn, sao không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn cả hồi ức Mít!

— Hừm! Thời nay tục nay như thế rồi đi tới đâu?
— Tới thơ trí tuệ.
— Bạn nghĩ vậy thật đấy à?
— Không nghĩ vậy không xong. Một mặt bạn, chính bạn, bảo rằng thơ dịch bây giờ xuất hiện trên khắp tạp chí văn nghệ các nước; một mặt tôi nhớ ông Nguyễn Hưng Quốc có lần cũng nhận thấy bây giờ nhiều thơ trí tuệ. Người nào cũng đúng cả. Tôi chỉ thêm vào một ý kiến: E giữa hai sự việc có mối liên hệ. Bạn nghĩ coi: Khi bạn sống giữa một thời đại mà các đại danh gia quốc tế, các con đại bàng trên đỉnh Thi Sơn (Parnasse), các thi hào thi bá tiền tiến nhất của thế kỷ đều trao gửi đến ta toàn thơ xương cả thì ai còn lòng nào ngó ngàng tới chất thịt của thơ nữa. Trăm trường hợp như một: thơ các vĩ nhân dịch ra đều chỉ còn trơ cái ý thơ thôi. Thơ như thế đang thành công lớn; họa có điên mới làm khác.

Reason and Rose

Adam Zagajewski

Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.

Tuyệt!

Milosz, giống như Cavafy hay Auden, thuộc dòng những thi sĩ mà thơ ca của họ dậy lên mùi hương của trí tuệ chứ không phải mùi hương của những bông hồng.

Nhưng Milosz hiểu từ trí tuệ, reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ, có thể nói, theo nghĩa “Thomistic” [nói theo kiểu ẩn dụ, lẽ dĩ nhiên]. Điều này có nghĩa là, ông hiểu nó theo một đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly đoạn tuyệt lớn, nó cắt ra, một bên là, sự thông minh, trí tuệ của những nhà duy lý, còn bên kia là của sự tưởng tượng, và sự thông minh, trí tuệ của những nghệ sĩ, những người không thường xuyên tìm sự trú ẩn ở trong sự phi lý, irrationality.

Thơ trí tuệ vs Thơ tình cảm

Bài viết của Borges, theo GCC, là cũng nằm trong dòng cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, của Dos, hay Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh, của Brodsky.
Nhân mới đọc 1 bài của Vargas Llosa, cũng liên quan tới đề tài này, bài cũng ngắn, chơi luôn, trong dịp vui này.
V/v những cái mail DS nhắc tới, GCC có lấy 1 vài cái, đi trong mục thư tín, nhưng bỏ tên người gửi, và, thay vì TTT, thì là, Ông Số 1, để không lầm với Ông Số 2.
Giữa số 1 và số 3, cách xa nhau nhiều lắm, và đúng là, liên quan tới cái đẹp cứu chuộc, và Mỹ là Mẹ Đạo Hạnh.


1 Year Ago Today

Tháng Mấy

gửi một người không quen…

Tháng Mấy rồi, Em có biết?
tấm lịch sắp đi vào ngõ cụt
ngày không còn dông dài nói chuyện cũ
hàng cây thưa lá cho nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em về đậu mỗi chiều
con đường dầy thêm với lá
rung rúc còi tàu không tìm được sân ga
những ngôi nhà nhả khói
và đêm về thắp đèn
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
chạy luống cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh no tròn hạt sương sớm
đọng trên mái tóc
nụ hôn sâu trong đêm
những đổ vỡ chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
con sông ngưng chảy
nheo mắt qua những xa lộ
nhịp thở chậm

Rồi buổi chiều cuối năm sẽ đến
ai bấm chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh vô cùng

Tháng Mấy rồi sẽ qua

Vẫn còn một người đợi em

Đài Sử

Trích Gió O

Note: Vậy mà GCC chẳng biết 1 tí gì hết.
Bữa đọc báo Xuân Gió O, nghi nghi, nhưng không tiện hỏi

Chúc Mừng. Ít ra phải vậy.
Tks God

NQT

 

hai bạn văn hỏi thăm ông con trai ông Thanh Tâm Tuyền:

 

On Tuesday, February 23, 2016 6:53 AM, @yahoo.com> wrote:

 

Chị Huệ ơi

Cho em hỏi, nhà thơ Đài Sử, con trai Thanh Tâm Tuyền, tên thật là Tuệ phải không chị ? Chỉ biết là con TTT, nhưng không sure lắm về tên thật ...

2016-02-04 10:20 GMT-08:00 >:

Trông DQT giống Bố Thanh Tâm Tuyền như đúc.  …. Không biết DQT là con trai thứ mấy cuả TTT. Trong tù TTT chỉ cho biết đứa con trai út sinh không lâu trước 30/4/75 TTT đặt tên là TỪ " vì thấy cuộc đời quá nhiều cái ÁC". Còn người con trai vượt biển mất tích là đứa con trai đầu? Nói với DQT. chú ... gửi lời chúc Tết gia đình cháu...



Thơ trí tuệ vs Thơ tình cảm

Note: Lèm bèm về thơ trí tuệ mà bỏ qua sư phụ Heidegger, là nhảm, đại nhảm!

The Thinker as Poet
Heidegger

Tư tưởng gia như Nhà thơ
Được scan và sắp xếp, chấm, phết, xuống dòng
như trong bản in.

Note: Đúng là thơ của triết gia!

In thinking all things
become solitary and slow.
[Trong suy tư mọi vật
trở thành cô đơn và lừ đừ.]
Pain gives of its healing power
where we least expect it.
[Đau thương đem đến sức mạnh chữa trị của nó
Vào đúng lúc chúng ta ít mong chờ nhất]

Nhân tiện, post luôn bài Intro, của Albert Hofstadter, tay biên tập và dịch thuật cuốn Thơ ca, Ngôn ngữ, và Tư tưởng. Ông này, trích dẫn Heidegger: Trong ba hiểm nguy de dọa tư duy trí tuệ; tệ hại nhất, và do đó, lộn xộn nhất, là triết hóa, philosophizing. (1)
Mít gọi là lập ngôn. Thơ trí tuệ, thứ dởm nhất, tởm nhất thì cũng được, là thơ lập ngôn, theo Gấu.
(1)
Three dangers threaten thinking.
The good and thus wholesome
danger is the nighness of the singing
poet.
The evil and thus keenest danger is
thinking itself. It must think
against itself, which it can only
seldom do.
The bad and thus muddled danger
is philosophizing.
*
He who thinks greatly must
err greatly.
[Suy tư l
ớn, lầm lạc lớn]



1 Year Ago Today

Người êu dấu của Gấu

Theo D. Khrams

Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!

Thôi, kệ cha cặp em mắt mà lũ Mít chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà nội của cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan Bác Hồ

A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà Gấu xém điên cái đầu!

Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô pha,
Thì chẳng khác gì tên quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có cái bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái giũa xinh xinh

Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu Cà Chớn

Hà, hà!

Charles Simic

Quoc Tru Nguyen's photo.
Note: Post trên FB thời gian ở Lào, không vô Tin Văn được.



1 Year Ago Today

Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài thơ của ông, là Lưu Vong, Blanchot giải thích, đó là ông còn đặt tên cho số phận thơ… Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình lưu vong. Anh ta luôn luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa, phân ly, Hiu Quạnh Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô cùng của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có vậy… Gõ Google, ra trang này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang Thang Thi Sĩ, Đêm Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài thơ của TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi tù đầy, và lưu vong sau đó, khi đứng trước cơn la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là của ông?

When Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot says, "he named the poetic condition as well... The poem is exile and the poet who belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always lost to himself, [hors de lui-même], outside, far from home [hors de son lieu natal]; he belongs to the foreign, the outside which knows no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin names when in his madness he sees rythm's infinite space.

http://www.tanvien.net/Poesie/to_thuy_yen.html

Quoc Tru Nguyen's photo.





15Khiem Do and 14 others
Comments

Nguyen Trong Khoi
Thành thật chia buồn cùng tang quyến GS Nguyễn Ngọc Bích> Kỷ niệm với anh tại Virginia 2011: Ng Tr Khôi, Lữ Quỳnh, Trương Vũ, Ng Ngọc Bích.

Nguyen Trong Khoi's photo.
RIP
Nguyễn Ngọc Bích như vậy là cùng tuổi GCC, 1937, Đinh Sửu. 1954, Gấu là đứa con nít, học Đệ Lục, vô Sài Gòn trễ, vì mê VC, bị  thầy giám thị Nguyễn Trãi bắt học lại năm Đệ Lục, bèn ra trường tư, vậy mà vị này đã được học bổng đi Mẽo. Hay thật!

Bạn NTK cho biết, 1958. Thế thì OK. Vì 1958, GCC cũng đi xong cái tú tài, 1 ông thầy dậy ngoại ngữ, và còn làm ở Bộ Giáo Dục, Thầy Đỗ Xuất Tỵ, vẫn nhớ tên, có hứa, đậu xong, kiếm ông, ông lo cho cái học bổng du học, nhưng Gấu quả là ngu, không hề bao giờ có ý đi du học, tếu thế, thế là vờ.
Đi thi thì chỉ cần đậu, không cần đậu cao, thành ra cũng khó mà có cái học bổng.
Gấu chẳng đã kể cái lần thi tú tài hai, ban toán, cho thí sinh ngồi kế copy bài. Đến câu chót bài toán lý, có câu áp dụng bằng số, Gấu nghĩ đủ điểm đậu rồi, không làm, anh bạn ngồi bên bèn ký hoáy nhân chia trừ cộng, và nói, cho chắc ăn, anh ạ!
Ui chao, sau gặp đúng 1 tên y chang GCC, là Vi Bức Vương. Tay này mỗi lần ra đòn, là làm địch thủ đóng băng, Hàn Băng Chưởng cái con mẹ gì đó. Và chỉ 1 đòn, là đủ.
Vi Bức Vương không tin có tên nào chịu được hai đòn của ông!
Gấu rớt chứng chỉ Toán Lý Hoá, là do vậy. Hình như đã kể ra rồi.

1958, ăn nằm ở dề nhà bạn C. Trốn bà dì, Dì Nhật, cô em gái Bà Trẻ, cực độc, cực ác, luôn mắng Bà Trẻ Gấu, tại sao nuôi thằng Trụ, nó có mẹ, để mẹ nó lo.
Đi thi Tú Tài II ban toán, khoá II, sau khi rớt khóa I, được bà cụ thân sinh nhà thơ & bạn C cho đi nghỉ hè bãi biển Nha Trang, nhờ thế sáng tác được cái truyện ngắn đầu tay “Những Con Dã Tràng”.
Thi xong mỗi bài, là trình bản nháp cho nhà thơ. Đọc bài Triết, ông không nói gì, chỉ đến khi làm xong cả hai bài toán, vật lý, đều OK “chăm phần chăm”, ông mới cười, nói, thế thì đậu, chứ bài triết chỉ đáng trứng hột vịt, hoặc 1 gậy.
Đúng rồi, nhớ ra rồi, Gấu không nhờ Thầy Tỵ lo cho đi du học, là vì phải lo kiếm việc gì làm, để lo cho mẹ, lúc đó giữ trẻ cho người quen, và em trai, hầu hạ ông cử Ngô Thúc Địch, bà con ông anh rể Hiếu Chân.
Nhớ cả cái chuyện xin ý kiến ông anh, làm sao học tiếp, ông nói, kiếm cái gì làm... Thế là thi vô Bưu Điện...
GCC làm cho UPI, là nhờ Nguyễn Thành Tài, nhiếp ảnh viên UPI, giới thiệu, nhân thấy AP có ông Hưng. Khi đó, chưa có Dirck Halstead, trưởng phòng hình ảnh. Sếp trực tiếp của Gấu là 1 phóng viên UPI nói tiếng Tây rất cừ. Nhớ là, lương của Gấu cũng chưa có ai quyết định, nhiêu, và cuối tháng, anh phóng viên nói trên móc bóp đưa Gấu 5 ngàn tiền ông Diệm, so với 5200, lương Bưu
Điện của Gấu, thì cũng xêm xêm!
Nhớ luôn, đúng ra phải viết nhớ hoài, chuyện này: Gấu đi vô mấy tiệm sách ở Lê Lợi, tiệm Xuân Thu, xài hết số tiền năm ngàn đồng!
Cái tên Xìn Phóng TPG, khi thấy Gấu cầm cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp của Lukacs, bĩu môi, cậu mua để nhát ma ư, là đếch hiểu được Gấu, cũng thế là mấy đấng bạn quí. Gấu chưa bao giờ mua sách để trộ ai, nhưng mua rất nhiều cuốn, để chờ đọc, khi đủ sức đọc chúng.


*

KhongLo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119

THE IDEAL RETREAT


I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At limes I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.

1967, translated with Nguyen Ngoc Bich

Trong bài tưởng niệm NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:

Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả hai đã uống.
Source

Theo Gấu, thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt Nam.
Trước 1975, tình cờ GNV có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư Không Lộ, hình như vậy, trênThời Tập, và như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.

Theo như trí nhớ tồi tệ của GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn Nhan, về Không Lộ, có cái ý “thét lên 1 tiếng lạnh hư không”, chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin và Nguyễn Ngọc Bích chuyển qua tiếng Mẽo


Nơi thần sầu để rút dù


Tớ sẽ chọn một nơi mà rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay xác con gấu, hay con cáo gì gì đó [của Hemingway]
Mà để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!


Ngo ChiLan
Vietnamese
15th century

AUTUMN
   
Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from a long way off following one wild goose.
The fragrance gone from the ten-foot lotus
by the Heavenly Well.
Beech leaves
fall through the night onto the cold river,
fireflies drift by the bamboo fence.
Summer clothes are too thin.
Suddenly the distant flute stops
and I stand a long time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount the phoenix and fly there?

1968, translated with Nguyen Ngoc Bich

WINTER
Lighted brazier
small silver pot
cup of Lofu wine to break the cold of the morning.
The snow
makes it feel colder inside the flimsy screens.
Wind lays morsels of frost on the icy pond.
Inside the curtains
inside her thoughts
a beautiful woman.
The cracks of doors and windows
all pasted over.
One shadowy wish to restore the spring world:
a plum blossom already open on the hill.

1968, translated with Nguyen Ngoc Bich
My Tân Định

Tân Định là quê hương của Gấu. Mấy bài viết này, chưa nói được cái phần Gấu biết về nó.
Post, như 1 thứ chim mồi, chờ hứng.


Marina Tsvetaeva

Thơ Mỗi Ngày


LAMENT

O how far away and long gone
everything is.
I believe the star
whose brightness I take in
has been dead a thousand years.
I believe that in the boat
gliding by I heard
something fearful being said.
In the house a clock
just struck....
What house?....
I'd like to step out of my heart
and be under the great sky.
I'd like to pray.
And surely one of all those stars
must still exist.
I believe I'd know
which one alone
has lasted, -
which one like a white city
stands at its light's end in the sky ...

Rilke: The Book of Hours (1905)
from The Poetry of Rilke

Translated by Edward Snow
Introduction by Adam Zagajewski

For me, the happy owner of the elegant slim book bought long ago, the Elegies represented just the beginning of a long road leading to a better acquaintance with Rilke's entire oeuvre. The fiery invocation that starts “The First Elegy” - once again: "Who, if I cried out, would hear me among the Angels' / Orders? And even if one of them pressed me / suddenly to his heart: 1'd be consumed / in his more potent being. For beauty is nothing / but the beginning of terror, which we can still barely endure" -had become for me a living proof that poetry hadn't lost its bewitching powers. At this early stage I didn't know Czeslaw Milosz's poetry; it was successfully banned by the Communist state from the schools, libraries, and bookstores-and from me. One of the first contemporary poets I read and tried to understand was Tadeusz Rozewicz, who then lived in the same city in which I grew up (Gliwice) and, at least hypothetically, might have witnessed the rapturous moment that followed my purchase of the Duino Elegies translated by Jastrun, might have seen a strangely immobile boy standing in the middle of a side- walk, in the very center of the city, in its main street, at the hour of the local promenade when the sun was going down and the gray industrial city became crimson for fifteen minutes or so. Rozewicz's poems were born out of the ashes of the other war, World War II, and were themselves like a city of ashes. Rozewicz avoided metaphors in his poetry, considering any surplus of imagination an insult to the memory of the last war victims, a threat to the moral veracity of his poems; they were supposed to be quasi-reports from the great catastrophe. His early poems, written before Adorno uttered his famous dictum that after Auschwitz poetry's competence was limited-literally, he said, "It is barbaric to write poetry after Auschwitz"-were already imbued with the spirit of limitation and caution.

Adam Zagajewski: Introduction

Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.

*

Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?


*
Tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
Thứ Hai, 22 tháng 3 2010

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Và, nhận xét của D.M. Thomas, trong cuốn tiểu sử nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A Century in his Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi của nhà thơ Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nếu chúng ta nhớ lại, tình cảm sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại, khi được tin ông mất:
“Nỗi đau của dân Nga khi nhà thơ Pasternak qua đời vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô Viết.”
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.
*
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ năm nay, chúng ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau khi ra khỏi trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác, cũng như ông, thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân vật nổi tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng: I would prefer not to: Tôi chọn đừng.

Báo Văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Văn chương và những trại tù [La littérature et les camps], trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteur, dưới nhan đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết, Melville tưởng tượng ra nhân vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô, đã chọn lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng, vắng mặt trước những kẻ khác, và trước chính mình. “Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to, khi được dịch sang tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”, và mới nhất, “Je préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi chọn lựa đừng” này, có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D. Salinger… và nhà thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa đừng” này, là cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải tạo?

(1)
Après ma libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au camp: «II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe, comme si rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis: «Quand serai-je capable d'une telle chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền (1)

TOMAS TRANSTROMER (b. 1931)

After Someone's Death

Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.

You can still shuffle along on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.

It is still beautiful to feel your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales. 

Translated from the Swedish by Robin Fulton

Sau Cái Chết của Ai Đó

Một lần, có 1 cú sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.

Bạn có thể trượt băng trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.

Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.

Note: Bài thơ thần sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào còn, linh hồn thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ:

VC bi giờ coi bộ trân trọng cái bóng của ông cùng cái áo giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn cả đám bạn quí hải ngoại của ông! (1)

(1) Một bản dịch khác, của Robert Hass, trong Selected Poems:

AFTER A DEATH

Once there was a shock
that left behind a long, shimmering comet tail.
It keeps us inside. It makes the TV pictures snowy.
It settles in cold drops on the telephone wires.

One can still go slowly on skis in the winter sun
through brush where a few leaves hang on.
They resemble pages torn from old telephone directories.
Names swallowed by the cold.

It is still beautiful to feel the heart beat
but often the shadow seems more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.


Notes about Brodsky

Nghĩ về ông hoài hoài kể từ khi ông mất, tôi cố gọi ra bài học, to name the lesson, mà ông để lại cho chúng ta. Làm sao mà một người không hoàn tất học vấn trung học, chẳng hề bao giờ học đại học, trở thành 1 quyền uy được công nhận bởi những danh nhân của tri thức nhân loại: How did a man who did not complete his high school education, who never studied at a university, become an authority recognized by the luminaries of humanistic knowledge? Ông thông minh, và không phải ai cũng được ban cho món quà này. Nhưng còn có 1 điều gì đó và điều này mới là điều quyết định. Môi trường, the milieu, Leningrad, của thế hệ của ông, những nhà thơ trẻ, và những nhà dịch thuật không-Xô viết, nghiến ngấu sách vở. Cái thôi thúc đến ám ảnh đọc mọi thứ mà họ có thể kiếm thấy ở thư viện, hay tiệm bán sách cũ, thì thật là đáng sợ, gây choáng, stunning; họ cũng học tiếng Ba Lan, như Brodsky đã từng, để đọc văn chương Tây Phương, vốn chỉ có, available, trong ngôn ngữ đó. Bài học mà lịch sử cuộc đời của ông cung cấp, thì là 1 bài học lạc quan, bởi là vì nó chỉ ra sự chiến thắng của ý thức trên hiện hữu, it points to the triumph of consciousness over being.  

“Tôi cho phép tôi mọi chuyện, trừ phàn nàn”. Câu nói của Brodsky phải được nhập tâm bởi mọi người trẻ tuổi mà thất vọng, mà chán chường, mà chỉ muốn tự tử. Ông chấp nhận tù đầy một cách triết lý, không nóng giận, anger; ông coi cái chuyện đào đất, đào kinh, tại 1 nông trường cải tạo Xô Viết như là 1 kinh nghiệm hướng thượng, positive; bị tống xuất khỏi nước Nga, ông quyết định hành xử như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Ông coi, equate, giải Nobel văn chương như là 1 trò đùa trớ trêu của số mệnh, the capricious turns of fate, như ông đã từng trải qua trước đó. Những vị hiền giả cổ xưa đòi hỏi một cách ứng xử như thế, nhưng đâu có nhiều người làm được điều này, not many people who can behave like that in practice.
Milosz 

TTT cũng đâu có bằng cấp đại học, hà hà? Ông đi thi Tú tài chưa đủ tuổi, phải làm đơn xin được chiếu cố. Đậu xong hai cái Tú Tài, ông bỏ học, đi dạy học để nuôi mẹ, nuôi em, buồn buồn ghi tên học Luật, lấy đâu được 1 chứng chỉ. 

Khi Gấu đậu xong cái bằng Tú Tài, bà cụ thì đi giữ  trẻ cho 1 nhà người quen, thằng em thì hầu hạ 1 ông cử nhhân hán học, cụ Ngô Thúc Địch, chỗ bà con của ông anh rể Nguyễn Hoạt. Gấu bèn hỏi ông anh, nhà thơ, làm sao bi giờ, làm sao học Đại Học, ông nói, thì đi làm, vừa làm vừa học. May làm sao Bưu Điện mở lớp, Gấu bèn thi vô, và quả là Trời cứu, bởi vì nếu không học Bưu Điện, ra trường làm anh thợ sửa máy, thì vô phương làm thêm cho UPI.

Nhờ tiền Mẽo, thế là tha hồ mua sách Tây, đọc lia lịa, đọc chạy đua với chiến tranh với Thần Chết...

Trang Vila-Matas

Vila-Matas trả lời The Paris Review

*

Thú chôm chĩa

Note: Bài này mà chẳng thần sầu sao?

 Đọc, bỗng nhớ ông anh nhà thơ, Quán Chùa, và những ngày Mậu Thân, cả hai đánh chắn suốt đêm, khi ông phải trực chiến tại Cục Tâm Lý Chiến.
Gấu đã tả cái cảnh hai anh em len lỏi, xuyên qua những bức tuờng khu Trại Gia Binh, để đến điểm hẹn, là 1 chiếu bạc.
Gần sáng, Gấu về nhà, đánh răng, rửa mặt, chạy xuống UPI, số 19 Ngô Đức Kế, [con đường từ Tự Do đâm ra công trường Mê Linh, có tượng Đức Thành Trần], xem có radiopho cần chuyển cữ sáng, thường là không, vì chuyển hết cữ tối hôm trước, trừ khi có hình khẩn cấp mới nhận trong đêm.
Thế là hai anh em lại gặp lại, vừa uống cà phê, vừa bàn về đủ thứ chuyện, và thường là về sách, về 1 cuốn vừa đọc...  
Thời gian đó, vì là Mậu Thân, nên gần như chỉ có hai anh em.
Đọc thư gửi đảo xa lại bồi hồi thương ông anh, ông gần như chẳng có ai để tâm sự, có lẽ ý nghĩa của cái nick Lỗ Bình Sơn, là từ đó chăng?

Thời gian đó, thời gian Mậu Thân, GCC có cô bạn, tối nào cũng mò tới, hà, hà, nhờ đó viết được cái truyện ngắn Cõi Khác

[Cõi Khác thì cũng 1 thứ…  Đảo Xa chứ gì nữa!]:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy... 

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.


Tôi thích những trích dẫn, những dòng lạ mà chúng ta đưa vô bản văn của mình. Tôi không hiểu những người ghét chúng, và khẳng định một cách ngu ngu ngốc, "để viết, thì đừng nợ bất cứ ai".

Trong bài viết, Vila-Matas nhắc tới Susan Sontag, người đã từng chấp nhận thách đố của Walter Benjamin, viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn, và những gì của riêng mình, thì giống như giàn giáo, sẽ được dẹp bỏ, khi ngôi nhà xây dựng xong.

Ui chao, vào đúng đêm 30 Tết Ta vừa rồi, GCC bèn ngộ ra, GCC, chính hắn, đã thực hiện được cả hai giấc đại mộng của W. Benjamin:
Viết lịch sử từ đáy, và, viết 1 tác phẩm chỉ gồm toàn trích dẫn.

Trong hai cuốn tiểu thuyết của TTT, Cát Lầy, và Một Chủ Nhật Khác, nhân vật chính đều ngỏm, một người một kiểu. Người tự tử, người bị hiểu lầm là… VC.  Trong Bếp Lửa, thì bỏ đi sau khi phán, buộc vào với quê hương thì phải là 1 người bà con ruột thịt với mình. Người đọc, liệu có rút ra được 1 kết luận nào, qua những dòng trên?

gửi đảo xa
 

hỏi. người đã chết
những. lá thư. tình không. theo
người viết. về nơi cuối. cùng
những yêu. thương cần. có
cho. những bài thơ. ngày. giông bão
những bài thơ. câm. trơ trọi
người tình. loay hoay. hơn
phân nửa. cuộc sống. cất giữ
tình yêu. trên. trang giấy
cuộc sống cất. giữ và. cái chết
những bài thơ. cũ  hơn. 40 năm. sao
không. cho riêng mình. hay yêu thương
tan tác. có thấy. không crusoe
đã. trở lại. cuộc sống
không. có. điểm riêng. biệt
hãy. hỏi người. đã chết
có còn. nhớ. ngôi nhà màu. hồng
đã sơn. phết. lại không. còn
là. màu hồng. đà lạt quá. nhỏ
và. không tuyết. trắng
cello. giọng cao. vút vào mùa. đông
khi. nở cùng ly rượu. đêm
hỏi người. đã chết
những. lá thư nối. niềm. hy vọng
sao không. giữ. bởi. tình yêu không. già
ngày. còn rất trẻ. trên những. lá thư
hay đó là. đoạn kết. phải có
trong. cuốn tiểu thuyết. phải được. viết
cũng chỉ là. những lập lại
người tình. trên những. trang giấy
đảo. xa vẫn hoang. sơ
bài thơ. vẫn cô độc
sẽ đi. vào. cõi chết
nơi vĩnh hằng. với những điều. không tưởng

Đài Sử

*

*

* *

TTT dịch

Bà nữ phê bình gia Thụy Khê mũi lõ, "kinh điển" - từ này thuổng của bạn Cà - Helen Vendler, có đi 1 đường còm, bài thơ trên.
TV sẽ post liền.
4.8.2006
Kiệt Tấn

Tôi có còn cô độc?

1960. Bước sang năm thứ hai đời sinh viên ở Québec, Xứ Tuyết. Tôi thu mình quạnh quẽ trong căn gác trọ nhỏ nhít đường Garnier, gần đại học Laval. Cô đơn nhuộm người tôi vàng xỉn xanh xao. Như trái chanh non héo úa ai bỏ quên trong tủ đá. Rồi bỗng một tối nọ Thanh Tâm Tuyền tới gõ cửa gác trọ, tóc tai bù xù, dưới nách kẹp tập thơ mỏng Tôi không còn cô độc. Mở cửa nắm tay giắt vào, kéo ngồi xuống trên chiếc giường sắt sinh viên hẹp nhỏ ọp ẹp. Người mới bước vô là Khương, một du học sinh Việt Nam vừa bay sang Québec, nhập đại học Laval, cũng như tôi. Khương khoái thơ. Tôi cũng khoái thơ. Tôi khoái Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang. Khương khoái Thanh Tâm Tuyền, Tôi không còn cô độc. Trao đổi văn nghệ, bắt nhịp cầu tri âm. Và tối đó, tôi khám phá nhà thơ đứng đầu nhóm Sáng Tạo. Những câu thơ chém xuống hừng hực.
 
Thiệt ra không phải đợi đến tối đó tôi mới được đọc thơ Thanh Tâm Tuyền lần đầu. Tôi đã đọc thơ Thanh Tâm Tuyền hồi còn là học trò đệ nhị đệ nhất trung học, chuẩn bị thi Tú một Tú hai. Ðọc lõm bõm trên tạp chí Sáng Tạo nhưng không thấm. Thuở đó tôi chưa từng biết cô đơn là gì. "Khi ấy em còn thơ ngây, đôi mắt chưa vương lệ sầu…" Tôi còn rất hồn nhiên. "Tôi chưa hề cô độc". Có thể nói như vậy. Hồn nhiên? Chưa chắc. "Anh chỉ giỏi tài ba xạo", một bận Tuyết đã chỉnh tôi bằng lời lẽ đó. Trong thời kỳ này, tôi đã có Hoa, người yêu đầu tiên Xóm Bến Ðò Mỹ Tho. Tôi có Ánh, người yêu nữ sinh Cầu Cái Cá Vĩnh Long. Tôi có Tuyết, người tình quán nước bên bờ sông Cổ Chiên ngầu đục phù sa. Tôi đã biết rờ rẫm, biết hun hít mấy người em nhỏ hậu phương, tôi đã biết sục sạo đóa hoa thầm kín trong rạp hát bóng, đã biết vật lộn với em nhỏ bên bờ cỏ đêm trăng, đã biết xâm nhập và cư ngụ trong thân thể mượt ẩm, ấm hỉnh Liêu Trai của nàng. Cô độc sao nổi mà cô độc! Tôi còn đang lẩn quẩn trước hàng ba nhà nàng, còn đang đứng xớ rớ bên cạnh cái hàng rào dâm bụt, nhà nàng ở cạnh nhà tui, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh dờn, lẩm cẩm y hịch như sư phụ Nguyễn Bính. Còn xa lắm mới bước được vào lãnh thổ của Thanh Tâm Tuyền, bước được vào vương quốc của Hoàng Ðế Cô Ðộc, nơi đức vua có đủ quyền y để cai trị mọi người bằng… thơ tự do. Còn được gọi diễu là thơ hũ nút bởi phe đối lập. Một bận, trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong xuất hiện một bài thơ hũ nút nhái giọng Hoàng Ðế. Thơ rằng:

 bánh xe đạp quay tròn
xịt khói
trái tim giơ mười ngón tay
thét chết
cô độc! 

Xịt cười. Không hiểu ất giáp gì hết. Tuy nhiên, thấy ngộ ngộ cho nên còn nhớ tới bây giờ. Cũng như đã nhớ hai câu thơ vỡ lòng, em ơi em ở lại nhà, vườn dâu em đốn thịt gà xé phay của sư phụ mình. Và những câu thơ bá láp khác nữa, chẳng hạn: Ủa ủa giống gì trẹo? Ờ ờ chó mắc lẹo. Ðực vện ngổng đuôi trì, cái vàng cong lưng kéo… Mà càng bá láp lại càng nhớ dai. Trí nhớ con người nó khỉ như vậy đó. 

Tuy nhiên, ngay những năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã ngoái đầu nhìn lại lịch sử nhân loại mà không khỏi hãi hùng:

toa chở súc vật
bít bưng tức thở
bánh nghiến đường rầy

 chúng nó làm phát xít
chúng nó làm cộng sản
chúng con làm tù nhân 

Và ngay từ những năm 50, hình như nhà thơ đã linh tính tai họa thảm thiết sắp sửa giáng xuống đất nước kể từ tháng Tư 1975:

 mẹ bưng tấm hình úa cũ trước ngực
dò xét từng nét đau khuôn mặt
các anh nhìn cúi đầu
khóc lén
hai hàng rào quá khứ đăm đăm 

chúng nó làm phát xít
chúng nó làm cộng sản
chúng ta làm tù nhân 

Có phải, qua những câu thơ chặt khúc trên, Thanh Tâm Tuyền đã tiên đoán căn phần đày đọa của mình và bạn bè hai mươi năm sau, trong những trại tập trung cải tạo mọc lên như loài nấm độc trên khắp cùng đất nước tả tơi sau 75? 

mưa bay lất phất gió căm căm
đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
co ro đứng xem tù qua thôn 

Và khi làm thân tù đi chém tre đẵn gỗ trên ngàn, một bận bị tuột dốc nhào trên hẻm núi, nhà thơ lại thấy lòng mình thanh thản hơn bao giờ hết: 

duỗi soải chân tay gối trên nứa
ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
tưởng chừng thi thể ai thối rữa
hồn viển vông chẳng chút oán sầu 

Giọng thơ không còn uất hận như thuở ban đầu nữa. Tập Thơ ở đâu xa, tác phẩm cuối cùng của Thanh Tâm Tuyền đã xuất hiện im lìm, âm thầm xuất hiện tại Hoa Kỳ năm 1990. Ðể rồi mười sáu năm sau, nhà thơ cũng âm thầm ra đi tại Minnesota, để lại một vết chim bay trên nền trời băng giá giáp ranh Xứ Tuyết, nơi lần đầu tiên tôi khám phá Tôi không còn cô độc, tập thơ đầu tay của cùng một tác giả.