Sách Mùa Thu
& Giả Tưởng Mùa Đông
Cái tít bài
viết về ông Trùm phê bình Harold Bloom, của Larissa Macfarquhar, trên
tờ Người
Nữu Ước, số 30 Tháng Chín 2002, mới ghê, cứ như là viết về Thầy
Cuốc: Harold Bloom is dangerous to know. Thầy
Cuốc thì rất nguy hiểm để mà biết!
Bài viết được
lắm. TV post bản tiếng Anh, và nếu có thì giờ, đi lai rai, nhân đó, lèm
bèm lai
rai về phê bình, gợi hứng từ câu phán của ông tiên chỉ VP: Mít đếch có
phê bình
gia.
Nhờ câu phán
của ông, mà chúng ta có nữ phê bình gia Thụy Khê, vì theo như bà trả
lời phỏng
vấn, sở dĩ bà viết phê bình, là vì nghe VP than, cõi văn
Mít đếch có thứ “của hiếm” này !
Số Mùa Đông
1999, cũng thần sầu! Có bài viết thú lắm, về "Xì Ta Lỉn", của 1 ông
“giống
ông bố VTH”, 1 cận thần của Xì. Chưa kể
mấy giả tưởng, thí dụ, của Tatyana Tolstaya, về tuyết, và nhất là bài
điểm sách Hãy nói đi, Hồi Ức, của chính tác giả
của nó, là Nabokov
Tiếc thật!
Gấu
cứ nghĩ Gấu được Ông Giời ban cho Phép Lạ Bí Ẩn, theo đó, sau ngày 30
Tháng Tư,
chỉ được sống tới năm 70.
Thế là đọc
như điên, và đốt như điên, để kịp chết!
Rồi thêm Gấu Cái nữa, mỗi lần dọn nhà, là mỗi lần than, khi còn trẻ,
khổ vì mi,
về già, khổ vì sách báo của mi.
Câu mà Gấu Cái
hay than nhất, là, tao có quá nhiều đứa mê, khi còn con gái, thế mà lại
lấy đúng
mi, đứa chẳng hề mê ta, nếu có chăng, là tí ti thương hại!
Ghi
chú
trong ngày
I honestly
can't believe I won. I really was preparing my runner-up speech,
because I
thought, 'Man, she's playing so great,"'
Serena
Williams
Tôi thực tình
không tin tôi thắng. Tôi thực tình sửa soạn mấy câu cám ơn khi kết thúc
trận đánh,
như 1 kẻ về nhì, bởi vì tôi nghĩ, “Trời ơi, cô ta đánh mới bảnh làm
sao!”
Tuyệt.
Bữa qua,
chắc
là cả nhân loại chứng kiến trận đánh thần sầu giữa hai siêu sao quần
vợt.
Nhưng Gấu
nghĩ, chẳng có ai nghĩ ra nổi ý nghĩ trên, ngoài Hemingway ra, trong Ngư Ông và Biển Cả: Con người có thể bị
huỷ diệt, nhưng không bị khuất phục.
Linda Lê,
une voix qui nous hante
Linda Lê, một
giọng ám ảnh chúng ta
Blog Pierre
Assouline giới thiệu cuốn sách mới xb của Linda Lê: Lame
de fond [sóng dữ bất thình lình: lame soudaine, provenant d'un
phénomène sous-marin. Petit Robert], 276 trang, 17 euros, nhà xb
Christian
Bourgois
TV sẽ có bản
tiếng Việt, sau.
Nhà văn nào
thì cũng viết so với sự bí mật của mình. Và cây kim để ở trong bọc mãi,
thì cũng
có ngày ló ra. Khi, bất thình lình; khi, nhỏ giọt. Những độc giả trung
thành của
Linda Lê, một câu lạc bộ không ngừng lớn mãi, rình mò từ hai chục năm
nay điều
này, qua chừng mười lăm cuốn sách. Và, “hình tượng lột da sống" ["écorchée vive", người tử đạo văn
chương), (1)
không phải thứ dễ dàng lôi kéo, hay hoảng sợ trước những cái micro, hay
dưới ánh
sáng chói loà ở phòng ghi âm, để trải ra sự loạn luân: cái vũ trụ đắng,
chát được
chuyển tải bằng 1 cách viết đòi hỏi, không dễ dàng đến với người đọc.
Và nếu bạn
chưa từng đọc, thì chỉ vào lúc này, hoặc là chẳng bao giờ. Bởi vì tác
phẩm mới
xb của bà, Lame de fond, (Sóng ngầm đáy biển), không
phải chỉ, hoàn hảo nhất, thành tựu nhất: lãng mạn hơn so với đa phần
tác phẩm xb
trước đó, cắm sâu hơn, vững hơn, vào cái thực, nó còn tự ban cho nó cái
quyền: chiếc chìa khoá của tác phẩm của bà, hay, ma trận, tử cung, cái
khuôn, từ đó
đẻ ra mọi tác phẩm.
Người ta tìm
thấy ở trong đó, cường độ và ý nghĩa của bi kịch của bà, những tang
tóc, trở đi
trở lại, đủ thứ tang tóc, về người, nơi chốn, ngôn ngữ, nhà cửa, mà lưu
vong và
bị nhổ, bật gốc mang theo (bà sinh năm 1963 tại Việt Nam) hay là từ tái
tạo gốc, cắm lại rễ trong tiếng Pháp sống như một xứ sở ngôn ngữ đối
với bà, một
tổ quốc
di động, ở đó, bà nương náu, và diễn tả bằng nói và bằng viết, trong 1
ngôn ngữ
độc nhất, trừ bỏ hẳn đi một ngôn ngữ khác, nơi bà sống hiệu quả, kể từ
những ngày
“ngày mai ca hát”, sau ngày 30 Tháng Tư của cuộc chiến Mít.
Trở lại nơi một thời vang bóng
Cứ theo lịch
sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao
chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến
lượt Gấu
buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của
Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The
Language of Betrayal, trong
Nhà văn
như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải
thích thêm:
Rất nhiều xứ
sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ
hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến
nhà văn
đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ
sĩ.
The worst
crime the country commits against the writer is to make him unable to
write
with honesty and artistic integrity. (1)
Ghi
chú
trong ngày
Trong Khi Chờ
Tầu!
Nhân đọc mẩu
viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong
Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý
của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT
LE TRAIN
MÉDITANT SUR
TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner
ouvre une brève
parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez
ces deux auteurs.
Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à
minorer
les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II
ne
faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à
l'indicateur
Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme
ceux de
Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture
de L'ldiot, quand le prince Muichkine et
Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou
encore à
la tragédie
d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on
le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus
enviables. D'autant que
le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses
héros vers
de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les
tribus
du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros
tolstoien s'évade
volontiers à la
campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans
le
royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand,
rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part.
Ainsi Tolstoi,
abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les
lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses
trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare,
à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux
livres, ultimes compagnons
de voyage: Les Frères Karamazov et
les Essais de Montaigne.
La Russie et
l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait
Stendhal. De son coté,
Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif...
Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan
Karamazov: « Je veux
voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais
que je
ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que
c'est! »
Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris,
Rome ou Vevey.
Indifférente
à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et
réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence
de contraintes
esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces «
grands monstres
informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a
écrit pas
moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il
se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec
l'infinité,
il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un
prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit
même trois
pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature
russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+
(1) George
Steiner, Tolstoi ou Dostoievski,
traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.
hồng vệ binh
30/4 (1)
Note: Được,
được!
V/v Nhà thơ Đại
Hàn này, TV cũng đã đi 1 đường bình loạn, khi anh “thú tội trước bàn
thờ” [thuổng Kiệt Tấn: anh viết, thú hơn, nhưng Gấu không tiện lập lại
ở đây!], 1 dòng thơ trong bài thơ thần sầu "quê hương", không phải của
ảnh!
Phúc
phương phì
Câu cuối
không hề có!
Ui
chao, trễ quá rùi
Một độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn. For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu?
Bà/Cô nhắc tuồng Gấu:
Phải so sánh với trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ
Lò Thiêu, Lò Cải Tạo: Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có
tí… cứt!
Quả có thế: Đỗ Thi Sĩ
chẳng có tí gì dơ dáy, sau một cuộc chiến nhơ bẩn như vậy!
PXA than địa ngục hết chỗ, ông không biết đi đâu, không phải vì ông
nghĩ ông sạch, mà là vì cỡ như ông, phải có một nơi nào khác, thí dụ,
Lò Luyện Ngục. Nhưng nếu nói huỵch tẹt ra thì cao ngạo quá. Nên nhớ,
chỉ những thứ long trời lở đất, khi còn sống, thì chết, mới được đưa
xuống Lò Luyện Ngục, Purgatoire, thí dụ Sartre, Aragon, chẳng hạn.
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une
sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như
vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người,
là đếch
có được!
Nhờ ông già khôn như… Bắc Kít,
gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông
già của
ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính
định cư luôn
ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý,
còn cái
mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu,
quanh quẩn
bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình
Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với
tờ The
Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ
Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không
bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay
lưng vào
bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên
sóng nước, thì
đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không
được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có
thể
cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện
tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất,
là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái
hình cánh
tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết
đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết
với gia đình
1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu
hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những
lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!
The Keening
Muse
Trong
căn phòng rưỡi ( J. Brodsky)
Note: Bức
hình trên, trong số TLS 10 September, 2010, Quyền uy của nhà thơ trong thời
không tưởng: Những nhà thơ trữ tình trở thành cái chó gì khi,
thay vì phục vụ nữ
thần thi ca, thì phục vụ nhà nước?
Bài này thần sầu!
TV sẽ đi luôn, cùng với bài
của Brodsky về Akhmatova
Causework
The poet's
authority in the age of utopia
ANDREW KAHN
Clare
Cavanagh
LYRIC POETRY AND MODERN
POLITICS
Russia,
Poland, and the West
344pp. Yale
University Press
Paperback,
£30 (US $45).
9780300
152968
Irena
Grudzinska Gross
CZESLAW MILOSZ AND JOSEPH
BRODSKY
Fellowship of poets
362pp.
Yale
University Press. £30 (US $40).
9780300149379
Sanna Turoma
BRODSKY ABROAD
Empire, tourism, nostalgia
296pp.
University of Wisconsin Press.
Paperback,
$29.95; distributed in the UK by
Eurospan.
£26.95 .
978 0 299
23634 2
I am
American
Tôi là Mẽo.
Đọc bài này
thì Gấu lại nhớ đến câu Mít thường nói, mi không chọn được bố mẹ.
Đối với
tay này, Úc chính là bố mẹ của anh ta, vậy mà anh ta từ bỏ, chỉ vì Mẽo
đối xử với
anh tốt hơn, do ngửi ra có thể “dùng” được anh ta: Mẽo Nhân Dụng, Mẽo
dùng người
mà!
Không phải
chỉ anh này.
Đọc bài viết làm Gấu nhớ thời gian ở trại tị nạn Thái Lan, anh Mít nào cũng chỉ 1 giấc mơ được Mẽo nhận!
Gấu làm bồi
Mẽo trên mười năm, rành Mẽo quá, chán Mẽo quá!
V/v Mẽo Nhân
Dụng.
Cái cụm từ này,
Gấu mặc khải từ cái nick của Ông Số 2.
Ông này cũng
dân Canada như Gấu, nhưng, cũng như rể quí của Râu Kẽm, mê Mẽo, và bèn
bỏ chạy
quê hương thứ nhì của ông qua Mẽo, để “Chống Cộng Kíu Nước”, làm Trùm
Bộ Lạc Cờ
Lăng.
Nhưng nhân
dụng, hay thực dụng, thực tế, đúng là
chính sách, của Mẽo, trên toàn cầu:
Những ông,
những bà vốn có quyền quyết định đường
lối ngoại giao tại nước Cờ Hoa – và hầu hết phần còn lại của thế giới –
họ đã cảm
nhận về chính họ: như là những con người "thực tế" (realists); nghĩa
là hành động vì lợi ích của chính quốc gia họ, và ít quan tâm tới những
công
chuyện có tính nội bộ (domestic affairs) của những nước khác. Viên bộ
trưởng
ngoại giao Mỹ, James Baker, đã diễn tả thật là tuyệt vời, cái tính
"thực tế"
của chính sách trên, qua câu nói, khi xẩy ra những vụ nhổ cỏ thì phải
nhổ cả gốc,
làm sạch những sắc dân khác (ethnic cleaning) ở Bosnia: "Chẳng có một
con
chó Mỹ nào bị kẹt ở đó." (We don’t have a dog in this fight: Chúng ta
không có một con chó nào ở trong trận đánh này).
Hồi
Ức Từ Địa Ngục: Diệt chủng
nghĩa là gì? (1)
Gấu
không hiểu, khi Mẽo quan tâm dến rể quí của Râu Kẽm, họ có coi ông,
“hơn 1 con
chó Mẽo”?
Nên nhớ, Mẽo đã can thiệp cho Râu Kẽm hồi chánh, khi anh y tá dạo, Trùm
VC, lắc đầu,
đếch cho tên tội đồ này về!
Có những ý
nghĩ giống như những cú mưu sát (1)
«Il y a
des
idées qui sont comme des attentats », écrit Milan Kundera dans L'Insoutenable Légèreté de l'être...
Hồi mới ra
được hải ngoại, GCC có đọc 1 "sáng tác" của Thầy Quân, không nhớ ở đâu,
báo nào,
nhưng đọc 1 phát, là biết liền gốc của nó, là truyện ngắn Bức
Tường của Sartre [Koestler thổi, truyện ngắn số 1 viết về cuộc
chiến Tây Ban Nha].
Thầy cũng không đi 1 đường tiểu chú, truyện "phóng tác" làm con mẹ gì
hết.
Sau,
Thầy lại đưa cho NMG đăng trên tờ Văn
Học.
Một bạn văn, thân với tờ VH, nhắc
NMG, truyện này thuổng của Sartre, đừng đăng, nhưng NMG hình như phán,
nếu thuổng,
thì lại càng nên đăng!
Đúng là đầu óc
lớn gặp nhau!
“Tính
chất phồn tạp này của sinh hoạt lý luận phê bình văn chương này ngay
đối với những
người trong giới chuyên ngành cũng là một thách thức trong kinh nghiệm
tìm kiếm
lộ đồ cho những giải đáp khả dĩ. Huống chi đối với những người ngoài
nghề
chuyên văn và những kẻ “ngoại đạo” với não trạng và thói quen lý luận
phê bình
văn chương trường ốc "xáo" ["sáo", không phải
"xáo". NQT], mòn thì hầu như trở ngại này khó có thể vượt qua.”
Thầy
Đạo
Thầy
Đ này, suốt 1 đời làm Thầy, đếch có 1 tác phẩm, vậy là lớn lối như trên!
GCC
đã từng kể, gặp lại Thầy lần đầu, lần đầu GCC qua Cali, tình cờ gặp
ở quán sách Văn Khoa của DDT.
Ông bực lắm khi GCC không nhận ra ông, và, như ông
cho biết,
liền sau đó, ông đã từng tới nhà Gấu, khi còn ở Hẻm Đội Có, với ông anh
của
BHD.
Nếu
như thế, thì ông học sau Gấu, và, nếu như thế, ông là học trò của NVT.
Vậy
mà có lần ông “mét” Sến, trong 1 bài viết trên talawas, NVT
đã từng thuổng 1 bài viết về Sagan, đăng
trên Sáng Tạo!
Bài
viết của Thầy, tố GCC đếch phải dân khoa bảng, nhưng lại đi 1 đường
"tiểu
chú" tố Thầy NVT
của ông ta!
GCC
tởm cái "tiểu chú", chứ không phải bài viết tố Gấu!
Sến biết gì về Miền Nam trước 1975?
Tại
làm sao lại làm 1 chuyện nhục nhã, là tố Thầy, với 1 em Bắc Kít?
Gấu
đã từng lèm bèm nhiều lần rồi, Gấu ra trường rất sớm, làm Bưu Điện,
buồn buồn
ghi tên học Văn Khoa, lấy cái Dự Bị Triết, lên đến chứng chỉ Triết Tây
thì dội,
vì không muốn học Thầy NVT. Học, dù nửa chữ, thì cũng phải gọi là Thầy,
mà Gấu
không muốn, thế là de!
Sau nhớ lại, thì Gấu có đi thi, khóa 1 chứng chỉ Triết Tây, nhưng
rớt, vì
bài làm của Gấu, là từ cours Sorbonne, mua ở tiệm Lê Phan, không học
cours
của Thầy
NVT, nên bị đánh rớt!
Nhà sách Lê
Phan khi đó bán gần như đủ thứ cours Sorbonne, nào Toán, Lý, Hóa,
Triết… Không
phải như 1 vị bỏ chạy cuộc chiến qua Tây học Sorbonne, bèn chửi Gấu, mi
ở Sài
Gòn, mà Sorbonne cái con khỉ gì!
Gấu biết đến
Husserl, là nhờ cours Sorbonne về ông.
Gấu, dân
Toán, đọc Triết, thì chỉ những tác giả cần riêng cho Gấu, không phải
đọc theo
kiểu nhà trường. Những Thầy như Thầy Quân, Thầy Đạo đâu có khi nào đọc
Lukacs,
thí dụ. Hai Thầy sau 30 Tháng Tư chuồn đi được sớm, đâu biết gì về… Lò Thiêu, thí dụ?
Còn
Heidegger mà Thầy Đạo mê, viết lia chia, chỉ để cho cho dzui, chứ dễ gì
có độc
giả?
Cả tư tưởng,
lẫn đạo hạnh, của Heidegger, đều khó nhá, lại thêm cái thứ văn dịch của
Thầy Đạo,
bố ai đọc nổi!
Chỉ nội câu
của Thầy, mà TV trích dẫn, trên, đủ thấy tài sử dụng tiếng Việt của
Thầy rồi!
Còn tiếng
Tây của Thầy ra sao, thì phải nhờ 1 vị nữ độc giả talawas, chỉ giáo!
GCC không
dám nhận mình rành tiếng Tẩy!
Thường ra,
khi dịch sai, được độc giả chỉ cho thấy, thì bèn cám ơn, và sửa. Gấu
chưa từng
thấy Thầy Đạo lên tiếng, về những chỗ dịch sai của “Thẩy”, lạ thế!
Trong khi Gấu,
là bèn cám ơn liền tù tì!
Maurice
Blanchot: “Admettez-vous cette certitude: que nous sommes à une
tournant? – Si
c’est une certitude, ce n’est pas une tournant. Le fait d’appartenir à
ce
moment où s’accomplit un changement d’époque (s’il y en a), s’empare
aussi du
savoir certain qui voudrait le déterminer, rendant inappropriée la certitude
come
l’incertitude.”
“ Liệu bạn
có chấp nhận sự chắc thực này không: rằng chúng ta
đang ở một bước ngoặt?
- Nhưng nếu đó là một sự chắc thực, thì
hóa ra
lại không phải là một bước ngoặt. Sự kiện ta thuộc vào thời điểm từ đó
một chuyển
biến thời đại hoàn tất (nếu như có một chuyển biến như thế) thì sự kiện
này
cũng sẽ ảnh hưởng đến sự chắc thực ta dùng để qui định sự thay đổi đó,
khiến
cho cả sự chắc thực lẫn sự không chắc thực chẳng còn thích đáng nữa.”
(Entretien
infini, Gallimard 1969, p.394)
Thầy Đạo đọc Thầy Quân
-Câu tiếng
Tây, “comme”, như là, không phải “come”.
-Theo GCC nên dịch là:
Bạn có chấp nhận xác tín này: Rằng chúng ta đang ở bước ngoặt?
-Nếu “xác tín”, thì không phải “bước ngoặt”. Sự kiện thuộc về thời điểm
giao thời
(nếu có) hoàn tất cũng chiếm đoạt tri thức
chắc chắn muốn xác định nó, làm không thích hợp, "xác tín" cũng
như "không xác tín".
Chiếm đoạt, s'emparer , đâu phải "cũng sẽ ảnh hưởng"?
Le
fait d’appartenir à ce moment… Sự kiện thuộc về khoảnh khắc thay đổi
thời đại
hoàn tất, [cái sự kiến đó] cũng chiếm đoạt tri thức xác thực muốn xác
định nó:
Làm gì có “ta” ở đây ?
Dịch 1
câu
tiếng Tây cũng chẳng ghê gớm gì, “hóa ra là” không nên thân, vậy mà lớn
giọng:
“Tính chất phồn tạp này của sinh hoạt lý luận phê bình văn chương này
ngay đối với những người trong giới chuyên ngành cũng là một thách thức
trong
kinh nghiệm tìm kiếm lộ đồ cho những giải đáp khả dĩ. Huống chi đối với
những
người ngoài nghề chuyên văn và những kẻ “ngoại đạo” với não trạng và
thói quen
lý luận phê bình văn chương trường ốc "xáo" ["sáo", không phải "xáo".
NQT], mòn thì hầu như trở ngại này khó có
thể vượt qua.”
Hồi mới ra
được hải ngoại, GCC có đọc 1 "sáng tác" của Thầy Quân, không nhớ ở đâu,
báo nào,
nhưng đọc 1 phát, là biết liền gốc của nó, là truyện ngắn Bức
Tường của Sartre [Koestler thổi, truyện ngắn số 1 viết về cuộc
chiến Tây Ban Nha].
Thầy cũng không đi 1 đường tiểu chú, truyện "phóng tác" làm con mẹ gì
hết.
Sau,
Thầy lại đưa cho NMG đăng trên tờ Văn
Học.
Một bạn văn, thân với tờ VH, nhắc
NMG, truyện này thuổng của Sartre, đừng đăng, nhưng NMG hình như phán,
nếu thuổng,
thì lại càng nên đăng!
Đúng là đầu óc
lớn gặp nhau!
How It Felt to Be There
Neal
Ascherson
RYSZARD
KAPUSCINSKI: A LIFE
by Artur
Domoslawski, translated by Antonia Lloyd-Jones.
Verso, 456
pp., £25, September, 978 I 84467 858 7
There are
two large question marks over Kapuscinski. The first is about his
writing. Did
he make things up? Did he manufacture quotes, say he had been to places
when he
hadn't, describe scenes that never happened? If so, did he tell lies in
his
routine reporting, as an agency man for the Polish Press Agency and
Polish
newspapers? Or did he reserve for his famous books a style of 'literary
reportage' in which embroidery and even manipulation of the facts were
skillfully
used to create a reality 'truer than the truth'? The second question
mark is about
his politics: what he did and said when he was young, and how he
covered it up
later. But here it's important to note a difference in the emphasis
given to
those two question marks. For foreigners, especially Anglo-Saxon ones,
the real
Kapuscinski problem is veracity. How should we read books like The
Emperor
(based, according to him, on interviews with Haile Selassie's courtiers
after
his empire had been overthrown) now that it seems unlikely that those
interviews
took place as he described them?
Tờ Điểm Sách
London, số 2 August, 2012 đọc tiểu sử của RYSZARD KAPUSCINSKI.
GCC bị tay này
ám ảnh! Và cứ nghĩ tới bạn của Gấu là Cao Bồi!
Có hai dấu hỏi
to tổ bố về Kapuscinski: Thứ nhất là
về những gì ông viết. Không lẽ ông bịa, bịp?
Thứ nhì là về
thái độ chính trị của ông
Du lịch cùng
với Herodotus
August 14,
2012
Job
Posted by
Isaac Bashevis Singer
Translated
by David Stromberg
Note: Cái
này là quảng cáo không công cho cuốn mới ra lò của Raymond Carver, Gỗ
Mùn dịch (3):
Hà, hà!
Carver được coi như là cha đẻ
của thứ truyện ngắn mini.
Truyện ngắn của ông, như Fat, được Enright diễn tả thật
tuyệt vời như sau đây:
Fat là 1 thí dụ lớn về làm
thế nào mà 1 truyện ngắn được “cắm vào đời” [dùng những từ của bà Huệ,
Gió-O,
khi "xoa đầu" NTHL, áp dụng vô đây thì thật là tuyệt: Cái gì của Linh
là do Linh nẩy bật ra. Tuổi đôi mươi sắc như một nhát dao. Linh cứa vào
đời
sống bằng tinh hoa và nội lực một ông cụ non lẫn một đứa trẻ già]: cái
đầu vô
của vết thương thì như là của 1 mũi dao, nhưng cái hệ quả thì lại chết
người!
Enright viết:
Như tất cả
những truyện ngắn của RC, Fat có vẻ
đơn giản. Một cô bồi bàn không được nêu tên, kể với cô bạn, Rita, về
chuyện
phục vụ 1 ông khách mập. Cô thích thằng chả, dù phì lũ. Cô thích phục
vụ ông
ta. Cuộc quen của họ mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và chỉ có tính giao
tiếp,
hình thức, nhưng thật là dịu dàng - và, như một truyện tình, nó xuất
hiện là để
chửi bố cái thế giới loài người còn lại vây quanh nó!
Ui chao, đọc 1
phát, là Gấu nghĩ ngay đến truyện ngắn của...
Gấu Cái!
Cái thứ truyện ngắn “viết như không viết”, về cái mảnh đất thần
tiên Tara không còn nữa, hóa ra y hệt thứ truyện ngắn của RC: đầu vào
thì nhỏ
xíu như vết muỗi chích, như cái xước da, nhưng đầu ra, là hậu quả của
cả 1 cuộc
chiến tàn nhẫn, dã man...
Thảo nào H/A phán, hay hơn cả
Cô Tư, vì nó rất tự nhiên.
Cái gọi là tự nhiên, là cái
viết mà như không viết, nhưng, để có
được như vậy, là nhờ cái nền của nó, là cái xã hội Ngụy, bị VC kết án
tử.
Một
tí tỉ tì ti tình mà cô bồi bàn cảm thấy – cái khoảnh khắc mà
cô gật gù, thằng chả mập này cũng đường được - mới nhức nhối làm sao,
khi, sau
đó, vào buổi tối, khi cô ở trên giường với Rudy, bạn trai của cô: Đúng
là cái
cảm tưởng, lén chồng, lên sân thượng “ngắm trăng sao", của người đàn bà
ngoại tình của Camus: giá mà có tí ti thay đổi, nhỉ?
Raymond
Carver's 'Fat' is simple but deadly, says Anne
Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó là truyện ngắn Fat, của RC
Source
Can John
Banville resuscitate Philip Marlowe?
Raymond
Chandler's estate have chosen John Banville to write a new Philip
Marlowe novel
– but can he capture the hero's loneliness and the bleak glitter of LA?
Cơ
sở quản lý di sản của Raymond Chandler đã chọn John Banville viết một
cuốn tiểu
thuyết mới, với nhân vật thám tử Philip Marlowe – nhưng liệu ông nắm
bắt được nỗi
cô đơn của nhân vật này, và vẻ rực rỡ ảm đạm của Los Angeles?
GCC phán:
Sure. Luôn cả sự cô đơn của Marlowe. Vẻ rực rỡ ảm đạm của LA, not sure.
- Tiểu thuyết Thánh
địa tội ác, dịch từ Sanctuary
của William Faulkner. Trần
Nghi Hoàng dịch. Thánh địa tội ác thuộc
bộ ba tác phẩm Faulkner in ở Việt Nam gần
đây, cùng Bọn đạo chính (tức The
Reivers) đã in và The Wild
Palms sẽ in. Ngoài
ra, Âm thanh và cuồng nộ cũng
đã được tái bản (dùng bản dịch của Phan Đan chứ
không phải bản dịch trước đây của Sài Gòn). (Bách Việt & NXB Văn
học).
Blog NL
Note: cái tít
tiếng Việt, hỏng. Thánh Đường, Giáo đường thì OK, chứ Thánh Địa, nhảm
quá. “Tội
ác” cũng nhảm. Dịch giả TNH chắc là thuổng cái tít bài viết của Vargas
Llosa về
cuốn của Faulkner: The Sanctuary
of Evil.
“Tội ác” là cú có
thiệt, danh từ cụ thể, đếm đuợc, count noun, còn "Evil" là Cái Ác, 1 ý
niệm, một
từ không đếm được, uncount noun. Khác nhau.
Dịch, chỉ mới cái
tít không thôi, đã nhảm rồi.
Số báo này
có quá nhiều bài tuyệt cú mèo. Bài về Giáo Đường, của Faulkner, khui ra
một chi
tiết thật thú vị: Cuốn Pas d'Orchidées
pour Miss Blandish (1938) của J.H. Chase, đã từng được Hoàng Hải
Thuỷ phóng
tác thành Trong vòng tay du đãng, là
từ Giáo Đuờng bước thẳng qua. Cái từ
tiểu thuyết đen, roman noir, của Tây không thể nào dịch qua tiếng Mẽo,
vì sẽ bị
lầm, "đen là da đen", nhưng có một từ thật là bảnh thế nó, đó là
"hard boiled", dur à cure,
khó nấu cho sôi, cho chín. Cha đẻ của từ này, là Raymond Chandler, cũng
một
hoàng đế tiểu thuyết đen!
Bài viết về
Chandler của nữ hoàng trinh thám Mẽo, Patricia Highsmith cũng tuyệt.
Rồi bài trả
lời phỏng vấn của Simenon, trong đó, ông phán, số 1 thế kỷ 19 là
Gogol, số 1
thế kỷ 20 là Faulkner, và cho biết, cứ mỗi lần viết xong một cuốn
tiểu thuyết
là mất mẹ nó hơn 5 kí lô, và gần một tháng ăn trả bữa mới bù lại được!
Bài trò chuyện
với tân nữ hoàng trinh thám Tây Fred Vargas cũng tuyệt luôn: "Tôi chơi
trò
thanh tẩy" ["Je joue le jeu de la catharsis"].
Viết trinh thám
mà là thanh tẩy!
Bài của JB
ngắn, ở lề, nhưng tuyệt vời, viết về nghệ thuật mất, “the art of
losing”.
TV sẽ
dịch bài này, tặng độc giả TV, thứ nghệ thuật, không khó làm chủ, the
art of
losing is one that is not hard to master, và có rất nhiều điều hình như
tắm đẫm
cái ước mong được mất đi, nhờ vậy mà cái sự mất đi của chúng không là
một thảm
họa [“seem filled with the intent/to be lost that their loss is no
disaster”], Banville mượn ý thơ của E. Bishop để giải thích.
Chúng ta chẳng
bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già -
và cái
nhu cầu đồ chơi, và chơi đồ thì chẳng bao giờ yếu đi.
Tay Banville
này, nhà văn, nhưng viết essay, viết review cũng thuộc bậc thầy.
Xứ Mít chưa
đẻ ra được thứ nhà văn này. Toàn thứ viết làm xàm ba cái truyện ngắn,
truyện
dài, bằng 1 thứ văn phong “có sẵn trong trời đất”, trên báo chí,
trong văn của người, nhiễm độc hồi nào không hay, bản thân, chưa từng
có ai đẻ ra được 1 thứ văn phong của riêng mình...
Influences
The novelist
Tibor Fischer summed up the general view on Banville's influences when
he said,
"You can sense the volumes of Joyce, Beckett and Nabokov on Banville's
shelves." Banville himself has acknowledged that all Irish writers are
followers of either Joyce or Beckett - and he places himself in the
Beckett
camp. A less obvious influence, which comes through most particularly
in
Banville's defence of his work as art, would be the Nobel laureate
Harold
Pinter. Banville's memories of his childhood in Ireland are also a
source of
inspiration in his later work, particularly in The Sea. "Even though I am
now on the brink of old age, childhood is still a source of material,"
he
has commented.
Sách gối đầu
giường của Banville: “Bạn có thể ngửi ra mùi của Joyce, Beckett và
Nabokov trên
giá sách của tôi"
GCC đọc Sến,
và lầm - tưởng mùi nữ bồ tát, hóa ra của nữ đại ma đầu!
Hà, hà!
Lại nói chuyện
“hửi”.
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng
chả bất lực phá trinh bằng cái bắp ngô - the
barbarous deflowering of Temple.
Vargas Llosa -
GCC nhớ, hình
như đọc1 tay phê bình, đọc cuốn sách, phán, trang nào cũng dậy
lên
mùi bắp
ngô!
Cái xen Đỗ Hải Yến, vào
vai em nhí, trong Cánh Đồng Bất Tận,
mà chẳng
bước ra từ Giáo Đường sao?
Đỗ Hải Yến
trong Cánh Đồng Bất Tận [hình từ Bee]
(1)
Ui chao,
nhìn là thấy hiển hiện ra tất cả những nhân vật nữ của Faulkner!
Nhất là cái
em trong Giáo Đường, Sanctuaire, bị
thằng liệt dương phá trinh bằng cái bắp ngô!
Liệt dương
ư?
Hay là tay
hiệu trưởng gì gì đó?
NNT
chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của
cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom!
Absalom,
Absalom! có thể
sánh với Âm
thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn
thế nữa,
về nó!
Borges
Tuyệt!
Khen 1 tác phẩm của Faulkner,
bằng 1 tác phẩm khác, cũng của
Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư
Thiếu
Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà
sư nổi
danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh
Đỉnh, để cứu
cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!
Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công
của chính Ngài!
Ẩn tàng trong giai thoại trên, là bí mật của sáng tạo: Mi muốn
viết văn là phải kiếm ra vị Thầy của mi, và mi sẽ dùng chính môn võ
công của
Thầy mi dậy mi đó, để làm thịt Thầy! (1)
Gối
đầu giường, ảnh hưởng, sư phụ & đệ tử…. Phùng Phật Sát Phật… là theo nghĩa đó.
Độc ác như rắn rết mà là đệ tử của…. Kafka
ư?
John
Banville còn thử thay nghề viết truyện trinh thám với cái nick Benjamin
Black.
TLS số April 13 2012 có nhắc tới ông, trong sổ tay văn học, với cái tít
Who’s
who, và tiện thể còn nhắc đến cả 1 lô những nhà văn viết bằng
những cái nick khác
nhau, như Romain Gary, người đợp hai lần Goncourt, dù giải này quy định, chỉ
1 lần là đủ, khác Booker Prize
của Anh.
Tin Văn đã từng đi một
đường tưởng niệm
Mai Thảo, khi ông dùng cái nick Nhị, để mần thơ.
Nhưng TTT không có cái may
này.
Trước khi thành danh với cái nick TTT, thì ông có vài cái nick, nhưng
sau khi “chết
tên” rồi, là thôi.
Chứng cớ, trong thư gửi đảo xa, ông kể, ông làm thơ tặng đảo xa,
đăng báo Văn, ký nick khác,
MT & Ông Vượng, chủ báo lắc đầu, no!
GCC thì nhiều
nick quá. Lần trốn cái tên NQT tên sa đích văn nghệ, mượn tên của
đứa cháu
gái, Jennifer Tran, viết VHNT & Việt Báo online, "chấn động giang
hồ", độc nhất có
1 tay phê bình gia BVP là nhận ra, vì quá rành những
tác giả GCC đọc & trích dẫn [Steiner, Kafka, Bejamin… thí dụ]
Banville
says that he started writing novels at the age of 12. His early
attempts were
"dreadful imitations" of Joyce's Dubliners; the opening line of one
was, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave".
Banville cho
biết ông khởi sự viết văn khi 12 tuổi, và những bản văn đầu tay “bắt
chước thê thảm,
chết người” Những người dân thành
phố Dublin của Joyce, thí dụ dòng mở ra 1 bản
văn, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave"
[tạm dịch, “Bông
Tháng Năm, trắng toát, xỉu dần đi trong miệng huyệt mở rộng”]
The
past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác
phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu] thì cũng như vết sẹo [ở trên tay
cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo! (1)
John Banville
“Even
though I am now on the
brink of old age, childhood is still a source of material," he
[Banville]
has commented.
Ngay bi giờ, sắp đi xa, Gấu, lâu lâu, mơ thấy thằng cu Gấu đang lúi
húi đào
trộm khoai ở đồng làng Thanh Trì, Quốc Oai, Sơn Tây!
Hay thấy đang đứng ở ngã tư
Phan Đình Phùng & Lê Văn Duyệt, đợi, “đời của Gấu”.
Nguyễn Ngọc Tư & William Faulkner
Viết xong Cánh
đồng bất tận, tôi thấy buồn, nặng nề
và đau đớn ghê gớm, hệt như trút ra hết những gì mình mang bên trong.
Chắc phải
nghỉ ngơi lâu lắm, tôi mới quên được hết ấn tượng về những điều tàn
nhẫn mà
mình đã phải mô tả. Tôi đã động tới cái ác vì có nó, thì cái thiện, sự
thương
yêu, sự yếu ớt mong manh của những tình cảm tốt đẹp mới nổi lên được,
để cho
người ta nhìn thấy rõ hơn. Chỉ vậy thôi.
NNT
Đâu có thua
gì Faulkner, khi trả lời phỏng vấn, tại sao viết "Khi tôi nằm hấp hối",
As I Lay
Dying: (2)
I took this
family and subjected them to the greatest catastrophe which man can
suffer -
flood and fire, that's all.
Tôi lấy gia đình này làm đề tài và đẩy họ vào một thảm họa
lớn lao nhất mà con người có thể chịu đựng - lũ lụt và lửa, chỉ có vậy.
Faulkner, Lion in the Garden
Cái
“gia đình này”, đối
với Nguyễn Ngọc Tư, có thể là cả
Miền Nam của Bà sau 30 Tháng Tư 1975: Độc ác như thời tiết, như đất
đai, như sông nước, như... Bắc Kít!
[Bundren
family
life, like the weather, like the land and the water, is elemental and
merciless, especially so for the women]....
Camus
có 1 câu cũng thú
lắm, nếu đọc nó trong cùng 1 dòng với Pasternak [Người
ta đâu
sống chỉ bằng bánh mì. Người ta sinh ra để sống, đâu phải để sửa soạn
sống]: Nếu
con người cần bánh mì, cần nhà ở, thì nó cũng cần một cái đẹp trong
trắng
làm bánh
mì cho trái tim, "he also needs pure beauty which is the bread of his
heart".
Ngợi Ca Những
Chuyến Đi
Tên của
chúng ta là một hòn đảo: Đảo Xa
Của chuyến
viễn du không tận cùng
Mỗi cái miệng
được gắn với một trái tim của một cái tên khác
Được biển cả
mang đi hơi thở sa mạc tiếng khóc đứa trẻ mới sinh
Chúng ta là
quần đảo
Vô tận
Trong thời
gian
“Tôi là 1 đứa
trẻ của thứ tiếng nói câm”, nữ thi sĩ viết.
Hay:
“Dưới tiếng
nói của tôi luôn luôn là im lặng”.
Vâng, đúng
như thế nàng Jeanne thân thương, thơ của nàng là đứa con gái của sự im
lặng.
Stefan Zweig memorial plan dismissed by
English Heritage
Cơ
quan “Gia Tài của Mẹ”
của nhà nước Anh đếch chịu đi một tấm biển, tưởng niệm Zweig, ở
căn nhà ông đã từng ở, khi bỏ chạy quê hương Nazi.
Witold
Gombrowicz’s war against cliché.
by
Ruth
Franklin
Note: Nhật
ký của Witold Gombrowicz, hay “cái gọi là” lưu vong Ba Lan
Bài này tuyệt lắm. TV sẽ scan và dịch hầu độc giả.
Trích 1 câu
trong nhật ký, entry chót, viết trước khi ngỏm chỉ ít
lâu:
“My entire
life I have fought not to be a ‘Polish writer’ but myself, Gombrowicz,”
he
wrote. He nearly succeeded.
"Trọn đời, tớ chiến đấu để không là một 'nhà văn Ba Lan', nhưng là
chính
tớ,
Gombrowicz".
Xém 1 tí, là ông thành công. Tác giả bài viết kết luận.
Câu trên
nếu....
“liên tưởng”,
thì đúng là của... Gấu:
“Cả đời, ta chiến đấu để đếch
là nhà văn Bắc Kít, mà chỉ là Gấu Nhà Văn”
Note: GCC biết đến cái tên
của me-xừ
Herbert qua bài viết của Coetzee, Thế
nào là cổ điển ? Cũng tính đọc, vì nghĩ Mít rất cần (1), nhưng lại
nhớ đến
cái "deal" với me-xừ Thượng Đế, giống như anh chàng trong truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn của Borges, mi chỉ được ta
cho phép tới năm 70, là lên tầu suốt đấy nhé!
Bữa nay, thì
lại nhớ đến cái tay triết gia bị tử hình, vào giờ chót còn xin học 1
điệu nhạc… sến!
Thế là đành tặc lưỡi bệ cuốn sách vừa
dày, vừa nặng ký, vừa nặng tiền về nhà mình!
Còn số báo
thì lại rẻ quá. Spring 2012, như vậy
là ba tháng mới ra 1 kỳ, vậy mà giá thua 1 số The New
Yorker, ra hàng tuần.
Có hai bài
phỏng vấn, đọc sơ sơ thấy được quá!
(1)
Với Herbert,
đối nghịch
Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ
mảnh đất
văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng giềng man rợ,
không
phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó, là làm cho cổ điển
sống sót
man rợ.
Nhưng đúng hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất
của chủ
nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi những con
người
nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ
mọi tổn
thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển
(2)
Bạn phải đọc
thêm câu này, của Milosz, thì mới thấm ý, và cùng gật gù thông cảm với
thằng cu
Gấu nhà quê, Bắc Kít:
It
is good to be born in a small country where nature is on a human scale,
where
various languages and religions have coexisted for centuries. I am
thinking
here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật
lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với
con người,
nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi
đang nghĩ về
Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Czeslaw
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
(2)
What does it
mean in living terms to say that the classic is what survives? How does
such a
conception of the classic manifest itself in people's lives?
For the most
serious answer to this question, we cannot do better than turn to the
great
poet of the classic of our own times, the Pole Zbigniew Herbert. To
Herbert,
the opposite of the classic is not the Romantic but the barbarian;
furthermore,
classic versus barbarian is not so much an opposition as a
confrontation.
Herbert writes from the historical perspective of Poland, a country
with an embattled
Western culture caught between intermittently barbarous neighbors. It
is not
the possession of some essential quality that, in Herbert's eyes, makes
it
possible for the classic to withstand the assault of barbarism. Rather,
what
survives the worst of barbarism, surviving because generations of
people cannot
afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs-that is
the
classic.
Coetzee: What is a classic ?
[Thế nào là 1 nhà cổ điển ?]
Không phải tự nhiên mà
Coetzee phong cho Herbert là nhà cổ điển vĩ đại nhất của
thời đại chúng ta, [như... Thầy Kuốc phong cho VP là nhà văn của
thế kỷ 20, hà hà!]:
Trong bài giới
thiệu Herbert, Charles Simic cho biết, thơ rất ư đầu đời của Herbert
lèm bèm về
cổ điển:
From the
very beginning, Herbert's poems had one notable quality; many of them
dealt
with Greek and Roman antiquity. These were not the reverential versions
of
ancient myths and historical events one normally encounters in poetry
in which
the poet neither questions the philosophical nor the ethical premises
of the
classical models, but were ironic reevaluations from the point of view
of
someone who had experienced modern wars and revolutions and who knew
well that
true to Homeric tradition only the high and mighty are usually
glorified and
lamented in their death and never the mounds of their anonymous
victims. What
drew him to the classics, nevertheless, is the recognition that these
tales and
legends contain all the essential human experiences. To have a
historical
consciousness meant seeing the continuity of the past as well as
recognizing
the continuity and the inescapable presence of past errors, crimes, but
also
the examples of courage and wisdom in our contemporary lives. History
is the
balance sheet of conscience. It condemns, reminds, robs us of peace,
and also
enlightens us now and then. In his view, our predicament has always
been both
tragic and comic. Even the old gods ended just like us.
Grey Area:
How Fifty Shades Dominated the
Market
Maman
Porno,
Mommy Porn
Erika Leonard,
dite E.L. James, sinh năm 1963, sống ở Anh. Bộ sách Maman
Porno, xb tại Mẽo, đã bán ra 30 triệu ấn bản tại Mẽo
Day |
Number of visits |
Pages |
Hits |
Bandwidth |
01 Jul 2012 |
230 |
328 |
1,079 |
76.44 MB |
02 Jul 2012 |
385 |
720 |
2,497 |
171.08 MB |
03 Jul 2012 |
370 |
675 |
1,893 |
119.04 MB |
04 Jul 2012 |
419 |
1,084 |
2,861 |
174.44 MB |
05 Jul 2012 |
367 |
669 |
2,393 |
153.90 MB |
06 Jul 2012 |
205 |
377 |
1,599 |
112.16 MB |
07 Jul 2012 |
196 |
653 |
2,530 |
145.59 MB |
08 Jul 2012 |
359 |
645 |
2,046 |
146.31 MB |
09 Jul 2012 |
444 |
897 |
2,457 |
162.48 MB |
10 Jul 2012 |
393 |
676 |
2,909 |
217.60 MB |
11 Jul 2012 |
386 |
696 |
3,004 |
224.98 MB |
12 Jul 2012 |
336 |
556 |
1,794 |
103.63 MB |
13 Jul 2012 |
406 |
680 |
1,928 |
113.10 MB |
14 Jul 2012 |
310 |
629 |
2,535 |
226.35 MB |
15 Jul 2012 |
251 |
426 |
2,212 |
152.48 MB |
16 Jul 2012 |
469 |
851 |
1,849 |
101.46 MB |
17 Jul 2012 |
386 |
751 |
2,584 |
211.93 MB |
18 Jul 2012 |
571 |
1,789 |
3,072 |
181.88 MB |
19 Jul 2012 |
366 |
638 |
1,522 |
85.76 MB |
20 Jul 2012 |
605 |
1,241 |
2,832 |
177.36 MB |
21 Jul 2012 |
351 |
975 |
3,744 |
211.57 MB |
22 Jul 2012 |
359 |
1,218 |
2,959 |
123.55 MB |
23 Jul 2012 |
186 |
1,211 |
2,888 |
115.59 MB |
24 Jul 2012 |
214 |
400 |
2,439 |
143.63 MB |
25 Jul 2012 |
214 |
404 |
2,140 |
135.01 MB |
26 Jul 2012 |
323 |
3,084 |
5,155 |
238.77 MB |
27 Jul 2012 |
8 |
35 |
169 |
3.60 MB |
28 Jul 2012 |
0 |
0 |
0 |
0 |
29 Jul 2012 |
0 |
0 |
0 |
0 |
30 Jul 2012 |
0 |
0 |
0 |
0 |
31 Jul 2012 |
0 |
0 |
0 |
0 |
Average |
337 |
826 |
2,410 |
149.25 MB |
Total |
9,109 |
22,308 |
65,090 |
3.94 GB |
Bài trò chuyện,
entretien, với Ellroy rất thú. Tôi là nhà văn điện ảnh, Je suis un
écrivain cinématographique.
Viết là tôn giáo, âm nhạc là triết học của tôi. Tôi muốn là ký giả. Tôi
muốn trở
thành Bob Woodward của tờ Washington
Post. Riêng nhạc, đã
từng cho ra lò 1 album cùng nhóm của ông, les Whiskey Poets.
Hồng Mao chính
hiệu, nhưng viết truyện xẩy ra ở Mẽo. "Những kịch bản phim của Hitchcok
đã cực ảnh
hưởng lên cách viết của tôi."
"Tiền kiếp hẳn tớ là 1 tên Mẽo"
Cuốn mới ra
lò, Những thiên thần ở New York, Saints
of New York
Ghi 1/chet_vi_tinh.html
Cali
Tháng Tám 2011
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about
an old woman are rare, as if there were a tendency to relegate her to
the realm
of half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several
times with love and compassion.
Thơ về bà
già thì hiếm, như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’,
[chân trong
chân ngoài, huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên
nhà thơ nữ Ba Lan, Anna Swir, trở lại với đề tài này vài lần, với tình
yêu và cảm
thông
THE GREATEST
LOVE
She is
sixty. She lives
the greatest
love of her life.
She walks
arm-in-arm with her dear one,
her hair
streams in the wind.
Her dear one
says:
"You
have hair like pearls."
Her children
say:
"Old
fool."
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ
đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối
tình lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước,
tay trong tay với người tình
Tóc nàng chảy
dài theo gió
Người yêu nịnh
nàng:
“Tóc em như
ngọc trai”.
Mấy đứa con
của nàng thì gật gù:
“Đúng là bà
già khùng!” (1)
Bài thơ này,
để ở mục “Cali”, là vì nó làm nhớ đến 1 kỷ niệm tuyệt vời liên quan tới
Cali
Tháng Tám, và hơn thế nữa, đến mối tình cực nhảm, cực già, và cũng cực
thê
luơng của GCC!
Hà, hà!
Thế giới
truyện ngắn Võ Phiến
[trích nhật báo Tiền
Tuyến, 12.1969]
Viết lớn là
ngồi xổm lên công chúng. Bởi chưng cơn đau đẻ của
nó là từ
trong xương trong tuỷ mà ra.
[Much great writing has no need of the public dimension. Its agony
comes from
within].
Salman Rushdie: Ghi về Viết và Nước.
Không
hiểu sao, Gấu vẫn đinh ninh, mình chỉ được Ông Giời cho
sống tới
tuổi 70.
Sau 70, tất cả là dư thừa,
cái giọng văn mất dậy của Gấu, có, là từ sau 70!
NQT
Mơ ước
của Gấu,
những ngày “bonus” của đời mình, sẽ dành cho Thơ.
Vậy mà không thể.
Bạn thấy đấy: Dạy cho lũ mất dậy quan trọng hơn nhiều, so với... Thơ!
Bất giác “liên
tưởng” tới 1 truyện ngắn của Thụy Vũ, về một bà ăn chay, niệm Phật suốt
đời, tới
khi hấp hối, bèn thèm một muỗng nước mắm.
Thân nhân lắc
đầu, ma quỷ quyến rũ đấy, cho nếm... mùi trần, là uổng 1 đời tu!
Ui chao đúng
chuyện…. Gấu, chỉ khác khúc chót, Gấu chơi liền!
Hà, hà!
Nhưng, không
hiểu với tu sĩ [hay cư sĩ?] họ Trần, thì sao? Liệu ông cũng chơi
muỗng nước mắm, và
bèn đi 1
nước về với VC?
Lại, hà, hà!
Writing a
story, you may need aspirations and skills of your own, but writing a
dissertation you need supports from many people. As an amateur writer
who
switched to write research paper, I have come to realize that a
dissertation is
not the work of one person, but rather a collaboration.
TKD website
GCC tò mò vô
trang net của TKD, đọc được đoạn trên, trong lời cám ơn của ông, trong
1 bài viết
về chiến tranh Việt Nam.
Theo GCC, một nhận định như trên về dissertation, hay essay, nhảm.
Đây là cách hiểu của mấy đấng chuyên viết phiếm, cóp, copy & paste
tưới bài
viết của người khác: collaboration mà!
Viết essay hay dissertation, theo Gấu, cần, không chỉ aspirations,
skills… gì
gì đó, mà còn cần “cái gọi là” sáng tạo.
Thiếu nó, thì chỉ là nhái đi nhái lại những ý đã có.
Có “hát nhép” thì cũng có.... “viết nhép”!
Chính vì thế mà Roland Barthes đã làm thịt, khai tử “tác giả”, trong Cái
Chết
Của Tác Giả, thứ tác giả sống tầm gửi trên chữ nghĩa của người.
Thú thực Gấu chưa đọc được 1 bài nào của TKD mà thấy có 1 ý mới, và bây
giờ, đọc
khúc trên thì mới ngộ ra. Ông đâu có.... viết?
Sau đây là
kinh nghiệm cá nhân, riêng tư của Gấu Gà Chớn, khi viết 1 bài tạp ghi.
Gấu
không coi đó là 1 bài “dissertation” hay “essay”, nhưng, ngay cả viết 1
bài tạp
nhạp, thổ tả, như thế, thì cũng phải có 1 cái gì của riêng mình, và
chính vì nó
mà mình viết.
V/v Collaboration.
Khi
cuốn Sau Babel của tôi xuất bản lần đầu tiên, có một bài điểm
sách do một
nhà ngôn ngữ kiệt xuất, bây giờ ông ta già rồi, nhưng vẫn còn sống, và
là một
người mà tôi hết sức kính trọng: vị tiên chỉ trong làng quan viên (the
high
priest of the mandarins). "After Babel
là một cuốn sách tồi", bài điểm sách bắt đầu, "nhưng than ôi, đây là
một cuốn sách cổ điển." Thế là tôi viết thư cho ông ta, nói, chưa có
một
bài điểm sách nào vinh danh tôi hơn thế, nhất là cái từ ‘than ôi’ mà
ông phải
ép lòng nói ra, thật là tuyệt vời. Tôi có thể sống với nó. Ông ta viết
trả lời,
một điều thật thú vị. Ông ta nói, rằng chúng ta đã đạt tới điểm mà
không một cá
nhân lẻ loi nào có thể bao trùm toàn thể bộ môn ngữ học và thi học về
dịch thuật.
Ông bảo, lẽ ra cuốn sách đó nên để 6, hay 7 chuyên gia phụ trách, còn
ông đóng
vai chủ biên. Thế là tôi viết trả lời, "Không, đừng như vậy. Mất thời
giờ,
phí phạm, và cuối cùng chỉ là thu gom bụi bặm trên những giá sách kỹ
thuật".
Tôi thích may rủi lớn. Trong
cuốn sách thực sự có những lầm lẫn, có
những điều
không chính xác, bởi vì một cuốn sách đáng sống, là hành động của một
giọng
nói, hành động của đam mê, hành động của một "nhân vật" (persona).
Chúng tôi bất
đồng, nhẹ nhàng, nhưng thật sâu đậm. Ông ta nói, không,
điều đó
không thể làm được. Nó có thể làm được, cho tới Đệ Nhất Thế Chiến,
nhưng sau
đó, tri thức tự xé lẻ, phân hạt... đến nỗi, ngay trong địa hạt nhân
văn, những
cái đầu mạnh mẽ nhất cũng phải bỏ ra cả đời, chỉ để sao cho chuyên
ngành của
mình đúng hơn, nhiều hoặc ít, chứ đừng nói tới toàn cảnh. Đây là một
bất đồng
thật cơ bản. Như vậy George Orwell, thí dụ vậy, là gì, nếu không phải
là một
văn nhân (man of letters), hay Edmund Wilson, người mà tôi kế vị, ở tờ Người
Nữu Ước, The New Yorker, cách đây 27 năm? - văn nhân ngày một thêm
bị nghi
ngờ.
Steiner
trả lời The Paris Review
Viết
nhái, viết nhép, thu gom bụi!