|
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Bài Tạp Ghi đầu tiên viết cho Văn Học NMG. Tháng 9/1996.
Cái hình Saigon Kids, của Dirck Halstead, Sếp UPI ngày
nào của Gấu, lấy trên net
Nhà hàng Givral, ngay chỗ em áo hường. Tới tí
nữa, nhà sách Xuân Thu. Rồi tới Quán Chùa,
La Pagode.
Tự Do & Ngô Đức Kế. Văn phòng UPI, 19 NDK, qua ngã
tư, bên phải. Phía trước là bùng binh Mê
Linh. Hình manhhai
Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có
Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn
sáng rồi
đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một
ngày rồi
ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi
bàn tự
động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm
tưởng
tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng
đường
Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự
nhủ thầm
buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học
Tây
Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học,
nếu có
chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh
rỗi cũng
dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó
cũng là
một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình
Toàn làm
canh xì.
Hàm Nghi, Chợ Cũ, 1965
Hình manhhai
Thiên đường ngày nào của GCC
Hồi còn nhỏ, có lần, Gấu suýt chết đuối.
Thấy người ta nhảy xuống sông, bơi ào ào, thì
bèn cũng nhảy xuống sông, và… cứ thế chìm
xuống đáy.
Một đấng đàn anh đứng kế bên, bèn vội nhảy xuống, lôi lên.
Lạ, là về già, nghĩ lại cú suýt chết, thì
lại hiểu ra, cái anh lớn tuổi, không phải vô tư đứng kế
bên!
Anh ta có cái nhiệm vụ, theo cái kiểu… thiên sứ của Sến!
Khủng khiếp nhất, là cái cú chết hụt, ngày còn
nhỏ, lại lập lại, lần ở PLT, Tiểu Sài Gòn.
Giả như không có vợ chồng ông bạn Bạn, thì chắc chắn ngỏm.
Bà vợ, ngồi trong xe, chỉ ông chồng, anh coi kìa, ông
bạn của anh hình như đang tính lên chuyến tàu
suốt, kìa!
Ông chồng phóng vội xe tới.
Kịp!
Sau này, nghĩ lại, Gấu hiểu ra là, vào mỗi cuộc đời
của Gấu, đều có 1 vì tiên nữ/thiên sứ/.... tới,
an ủi Gấu Cà Chớn!
Không có Cô Bạn, là không làm sao qua nổi cuộc chiến.
Không có nữ thi sĩ, là không làm sao qua được… dư âm cơn địa chấn đó.
Ta bận chồng, bận con, làm sao mà lo được gì cho mi?
Mi làm phiền ta quá, kiếp trước mi đúng là con đỉa!
Reflections
là những bài viết ngắn, về đủ thứ, những chuyến đi, những bài điểm
sách, điểm phim, giới thiệu sách. Trong có hai bài thật thú. Một, về
những tiệm bán sách cũ, và một, tưởng niệm Borges, cũng là kỷ niệm lần
Greene gặp Borges. TV sẽ chuyển ngữ cả hai.
Bài về
những tiệm sách cũ làm Gấu nhớ tới những tiệm sách cũ ở khu Chợ Đũi,
cũng một thiên đường tuổi mới lớn của Gấu cùng với Sài Gòn. Thời gian
quen HPA. Gấu đã kể về chúng trong một bài viết cũ. Đọc bài viết của
Greene còn làm Gấu nhớ tới cái tiệm sách cũ nằm giữa một con hẻm giữa
hai bức tường, của hai căn nhà trên con phố Catinat, cũng gần Quán
Chùa. Gấu thường ghé đó, cùng với ông Hưng, AP man. Cũng một trong
những đền thiêng của VNCH, và cũng bị VC ủi sập, cùng với Givral,
Passage Eden, Quán Chùa.
Tôi
không biết Freud giải thích thế nào về chúng, nhưng trong hơn ba chục
năm, những giấc mơ hạnh phúc nhất của tôi, là về những tiệm bán sách
cũ: những tiệm trước đó tôi chẳng hề biết, hoàn toàn vô danh đối với
tôi, hay những tiệm quen thuộc, cũ xưa mà tôi đang ghé.
Đó là những tiệm sách quen chẳng hề hiện hữu; tôi thật ngại ngần và
đành phải đi đến kết luận như vậy.
Đâu đó, không xa Gare du Nord ở Paris tôi vẫn còn nguyên những kỷ niệm
tươi rói về một tiệm sách ở cuối một con phố dài chạy mãi lên một đỉnh
đồi, một tiệm sách sâu hun hút, với những quầy, giá sách cao thật cao,
và cao như tôi mà cũng phải dùng tới một cái thang, để lục lọi những
giá sách gần đụng trần nhà. Trong ít ra là hai lần, tôi đã lục lọi như
vậy, và tôi tin rằng, đã vớ được bản dịch một cuốn của Apollinaire, nhà
xb Fanny Hill, trong một lần
đó.
Nhưng khi chiến tranh chấm dứt tôi cố tìm tiệm sách cũ trên, vô ích, vô
phương.
Lẽ dĩ nhiên, tiệm có thể biến mất, nhưng con phố, chính nó, cũng đếch
còn. Thế mới quái!
Rồi còn một tiệm sách cũ của London,
nó cứ trăn trở, đi đi lại lại hoài, trong những giấc mộng của tôi; tôi
có thể nhớ ra thật là rõ ràng mặt tiền của nó, nhưng chịu thua, phía
bên trong tiệm. Nó đứng đâu đó trong khu đằng sau Charlotte Street trước khi bạn
tới Euston Road.
Tôi chưa từng đi vô bên trong tiệm, và bây
giờ thì tôi tin chắc là làm đếch gì có
cái tiệm quỉ quái đó, và tôi luôn
luôn tỉnh giấc mơ với cảm giác, ôi chao, sướng ơi là
sướng nếu mình kiếm thấy nó.
Graham Greene
*
Ui
chao, không lẽ Sài Gòn, Khu Chợ Đũi, BHD, Quán Chùa..... của Gấu, thì
cũng chỉ như một trong những tiệm sách cũ, như trên, của Greene?
Nhưng,
giả như thế, thì lại càng tuyệt, tuyệt!
Bởi vì
rõ ràng là, khi dịch "Istanbul", Gấu cũng có cảm giác như vậy,
không phải về những con phố của Istanbul của Pamuk, nhưng mà là của
Sài Gòn. Những đoạn phóng bút, là về Sài Gòn, về BHD của Gấu, không
phải về Istanbul, về BHD của Pamuk!
[Bản
thảo dịch
"Istanbul", dài hơn nhiều, so với bản được in. Và có những đoạn tuyệt
vời về Sài Gòn, BHD. Bữa nào rảnh GCC soạn lại, và post lên TV, để bạn
đọc so
sánh với bản in, và thêm nhớ… cùng với GCC!]
Một
vị thân hữu nhận ra điều này, khi viết:
Những mối tình e ấp , sót lại
những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần đông trong chúng ta,
không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan Hương” của tác
giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể lồng bóng mình và người yêu một thời
(và một đời) của mình gần như vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà
anh đọc đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối tình lý tưởng, trong trắng
và mù quáng đến rũ rượi . Đọc truyện tình của anh, K có cảm tưởng như
nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ lao vào cuộc tình như thế,
không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách hạnh phúc.
Ui chao Gấu Cái đọc đoạn trên,
lắc đầu!
… nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng
sẽ lao vào cuộc
tình như thế, không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một
cách hạnh
phúc.
Đúng là tình
trạng GCC, và mối tình, thê lương tiều tụy, thuần tưởng tượng, với xứ… Bắc Kít, qua 1 em Bắc Kít, chưa từng gặp mặt!
(1)
Ta đâu còn
chút thì giờ nào dành cho mi? Ta bận chồng, bận con, bận đủ thứ, bận
“viết” nữa….
Hà, hà!
.... và tôi
luôn luôn tỉnh giấc mơ với cảm giác, ôi chao, sướng ơi là sướng nếu
mình kiếm
thấy "em"!
(1)
Tuy nhiên, đọc
kỹ, thấy mùi vị hiện sinh, Camus, trong Người đàn bà ngoại tình. Truyện
ngắn
này, hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus là đều chỉ để nói về Lưu đầy
và Quê
nhà: Quê nhà là cõi đã mất kia.
Coetzee đọc The
Pickkup của Gordimer, coi như được mặc
khải từ Người đàn bà ngoại tình của
Camus: Câu chuyện một người đàn bà Algeria gốc Pháp, steals away from
her
husband in the night in order to expose herself to the desert and
experience
the mystical ecstasy, physical as much as spiritual, that it induces.
[Coetzee:
Nadine Gordimer]
Cái câu tiếng
Hồng Mao, trên đây, của Coetzee, thì thật là quá tuyệt vời, để diễn cái
ý, ta đâu
có thì giờ dành cho mi, ta bận chồng, bận con…
Ui chao, nhảm,
nhảm thực!
SAIGON 1965 - Street Scene - Ngã
tư giao lộ Cách Mạng 1-11 với Nguyễn Huỳnh Đức, nay là ngã
tư NKKN-Huỳnh Văn Bánh
manhhai
GCC ở khu này, trong 1 con hẻm trên đường NHD, phía sau cây xăng.
Gấu, căn nhà ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức Phú Nhuận, chiếc solex ngày nào, và...
"Làm sao có thể quên được một người đã nói
yêu mình, lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón
H. trên đường tới trường Gia Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn,
buổi sáng sớm sau bao năm trời xa cách, H. đã tự nhiên
ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu."
Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó,
em không có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là
confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy..
Chàng nhớ lời nàng nói, khi phải trả lời tại sao nàng
yêu chàng: "Tại vì anh yêu em nhiều quá."
Tình yêu của nàng giống như một sự đáp ứng, một
sự dội lại tình yêu của chàng. Một lần khác, nàng
trả lời: "Tại vì anh hơn em mười một tuổi." Nàng tỏ vẻ tin
cậy chàng, tin tưởng mối tình của chàng đối với nàng,
tình yêu đồng nghĩa với sự tin cậy, tin tưởng, và kính
trọng. Nàng là một cô gái thông minh, học
giỏi, mới lớn lên, đứng ngập ngừng ở ngưỡng cửa đời sống, tò
mò ngắm nghía đời sống, những người khác, thế giới,
tò mò ngắm nghía xen lẫn chút e dè sợ
sệt, và nàng hy vọng ở chàng, mong có chàng
ở bên cạnh trong đoạn đường đầu tiên khó khăn, nguy hiểm,
và đầy bất trắc đó, như vậy nàng sẽ yên tâm
hơn.
We never grow up - only older, then old- Chúng
ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi
ra, già mãi ra, rồi già.
In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character
tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool
somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding
it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only
happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive
world.
Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại
là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân
vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì
đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên
dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và
một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại
được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái
thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù
thuỷ Nga....
Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười
của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành,
cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?
Hà, hà!
Note: Phần dưới đây, cũ.
Đô
Thị vs Bất Hạnh
Trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, có lẽ không có
giai đoạn
nào chịu nhiều bất hạnh như giai đoạn từ 1954 đến 1975 ở miền Nam. Theo
nhà văn
Võ Phiến, đó là nền văn học được đánh dấu bằng hai cuộc di cư: một,
cuộc di cư
của gần một triệu người từ Bắc vào Nam; và hai, cuộc vượt biên ồ ạt của
cả triệu
người hoặc trên đường bộ, băng qua Campuchia hoặc trên biển cả với cả
mấy trăm
ngàn người bị chết hoặc do hải tặc hoặc do bị đắm thuyền.
Chưa hết.
FB Thầy Cuốc
Một nền văn
học sống sót hai cuộc lưu vong, di cư 1954 & vượt biển 1975, cùng
với biết
bao tai ương của chúng, sống sót một cuộc phần thư, sống sót hội nhập
nơi quê
người…. liệu
có thể gọi là 1 nền văn học… bất hạnh?
Một nền văn
học của cả một miền đất đất, bị huỷ diệt, cho đến bây giờ, vẫn thường
xuyên được khai quật [những bài viết của Gấu, nhờ vậy mà lại có lại
được], liệu có
thể gọi là 1 nền văn học... đô thị?
Với GCC, cả
hai nhận xét, đánh giá như trên thì đều…. cứt đái như nhau!
Lại nhớ, hồi
mới ra ngoài này, thấy ông sĩ quan nhà văn Ngụy hăm he “save” tên lính
Ngụy giữa
những vòng dây kẽm gai của lịch sử, bèn ngứa miệng lèm bèm, bị ông ta
thù cho đến
tận giờ!
Brodsky
rất tởm cái trò vạch lưng cho người ta coi vết thương, phán, làm đếch
gì có thứ thi sĩ... nạn nhân.
GCC bèn
làm tới, làm đéo gì có thứ văn chương... bất hạnh?
NQT
Võ Phiến, nhà văn Bình Định
Những độc giả say mê Võ Phiến, những tác phẩm
đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Thác Đổ Sau Nhà... chắc
chắn là nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân vật của Võ Phiến, đều
như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ, và khi đã hoàn hồn, có vẻ
như nhờm tởm thế nhân: cô gái trong Thác Đổ Sau Nhà, sau gặp lại người
tình của một đêm, đã ngạc nhiên không thể tưởng tượng được tại sao mình
lại đã có lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần đến như thế! (Vì
không có văn bản trong tay, tôi viết lại theo trí nhớ, ở đây là những
cảm giác còn giữ được, khi đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không hiểu
đọc lại, những chi tiết có đúng, và cảm nghĩ có thay đổi hay không).
Những nhân vật tiểu thuyết hiện đại đều bước
ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại, với những nhân vật
của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông đã
đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một
Võ Phiến bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B.
(không hiểu khi bị bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình
huống đốt vội đốt vàng những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần"
trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô
gái trong một căn lều, giữa rừng, cách biệt với thế giới loài người, có
một cái gì thật quen thuộc với đối thủ của ông B., tay vô địch cờ tướng
nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là kẻ thù nào cũng đánh
thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục
nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép
lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều
đầy khôn ngoan.Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu
cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ
não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14
tuổi vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ
được dồn nén vào trong một ván cờ!
Hãy so sánh với sự thất bại của hầu hết những nhân vật của Võ Phiến,
trước cuộc đời: những ông Ba Đồng Thời, Bốn Thôi...
"Vết thương không thể lành", Levi viết trong
Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Thoát. Lò Thiêu địa ngục thứ
nhất, hậu Lò Thiêu, địa ngục thứ nhì. Tadeusz Borowski, tác giả Quí Bà
Và Quí Ông, Đường Này Tới Lò Thiêu, thoát cả hai lò thiêu Auschwitz và
Dachau, năm 1951, ông chưa tới 30 tuổi, ba ngày sau khi cô con gái chào
đời, ông đã trở lại nơi lò thiêu ngày xưa: tự tử. Nhà thơ Paul Celan:
tự tử. Còn nhiều nữa...
Người ta nói tới không khí hiu hắt, cô đơn trong văn phong của Võ
Phiến. Phải chăng đây cũng là một tình trạng "không thể lành", sau kinh
nghiệm 1945? Tính cách bất toàn, luôn bám lấy một tư tưởng cố định,
idée fixe, coi thường chính mình, của những nhân vật Võ Phiến? Nếu sau
này, Võ Phiến có giọng viết như nói, như trò chuyện thoải mái, tôi nghĩ
đó là do ảnh hưởng Miền Nam. Võ Phiến thời đầu
không có giọng văn này.
Có thể có người cho rằng người viết quá đáng, từ một văn phong hiu hắt,
cô đơn suy ra hậu quả một thời gian vào bưng? Nhưng hãy coi trường hợp
Tam Ích, một Mác-xít, cuối cùng tự tử. Hãy coi trường hợp Văn Cao, sau
"Mùa Thu", đành làm một người câm, người què gánh tội. George Steiner
còn đi xa hơn, khi khẳng định: so với phi nhân, văn chương nghệ thuật
là vứt đi, kịch Racine
là cái thá gì, so với [ngục] Bastille, thơ Mandelstam chịu nổi một giờ
của Stalin? (The flowering of the humanities is not worth the
circumstance of the inhuman. No play by Racine is worth a Bastille, no
Mandelstam poem an hour of Stalin) (5). Nhìn như thế mới thấy vinh
quang và bất hạnh của Võ Phiến, nhà văn Bình Định. Nên nhớ, ông đã có
một người em theo Cộng Sản và đã tử trận. Bạn văn cùng một thời Bách
Khoa với ông: Vũ Hạnh. Theo như người viết được biết, "phía bên kia" đã
từng móc nối, kéo ông về với "Cách Mạng".
Vết thương không thể lành, nhưng con người
vẫn cố chữa trị, làm sao không? Giọng văn bỡn cợt ảnh hưởng Maurois,
nói trạng ảnh hưởng miền Nam. Nhưng Maurois không
phải là người học trò duy nhất, hiểu thầy nhất của Alain. "Học trò
cưng"của ông, phải là Simone Weil. Như Zweig, bà tự huỷ bằng cách tuyệt
thực vào năm 1943. Trong bài viết "Thánh Simone - Simone Weil" (trong
No Passion Spent, nhà xb Yale
University,
1996), G. Steiner cho rằng khí hậu thế kỷ của chúng ta sẽ không thể
hiểu được nếu bỏ qua phần đóng góp của Simone de Beauvoir, Hannah
Arendt, nhưng trên hết vẫn là Weil. Trong cuộc thoại với những người
chết (những nghiên cứu về những người như Weil), chúng ta cần đi sâu
vào một Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới có thể
hiểu được một người như Weil. Bà đã từng đưa ra nhận xét, ngay phút đầu
tiên những binh đoàn Đức Quốc Xã tiến vào Paris: đây là một ngày trọng đại, cho
Đông Dương (cho tất cả những dân tộc bị Pháp đô hộ), thấy hết sự thuần
khiết lạnh lùng, của một câu châm ngôn khắc kỷ. Trong lúc dân tộc của
bà đi vào lò thiêu, Weil đã từ chối rửa tội, vì "Ca-tô-giáo La-mã vẫn
quá Do-thái" (Roman Catholicism was still too Jewish).
Khi đọc Alain, Võ Phiến không nhìn ra một
Weil ở phía sau. Do đó, ông không đọc được Đỗ Long Vân, một người cũng
say mê Alain. Cuộc sống ẩn dật, từ chối mọi đặc quyền của Đỗ Long Vân
(suốt đời sống ẩn dật, khi bị bắt đi trình diện nhập ngũ đã không trưng
bằng cấp, giấy tờ chứng minh giáo sư đại học, bằng lòng làm binh
nhì...) có thể bị coi là không bình thường, nhưng chưa trầm trọng như
Weil: ngay cả người thân của bà, André Weil, cũng kết luận, tính khí
của bà vượt quá mức bình thường. Còn tướng de Gaulle nói thẳng thừng:
người đàn bà này khùng.
Đỗ Long Vân, theo tôi, không chọn con đường tự huỷ, có lẽ vì đã đọc,
rất mê, và đã từng viết về Kim Dung, và đã nhận ra, chỉ ở trong thế
rỗng ruột (hư trúc), mới giải được ván cờ ma quái. Hư Trúc (nhân vật
trong chuyện chưởng của Kim Dung) khi đi nước cờ, không hề nghĩ chuyện
thua thắng: đấy mới là vấn đề. Võ Phiến khi đọc Zweig, không thấy
Dostoevsky, không nhận ra sự thiếu sót của phân tâm học, muốn đơn giản
con người như một sinh vật bị bịnh. Theo như tôi được biết Võ Phiến
không chịu được những trào lưu "thái quá", không phải chỉ về tư tưởng,
mà cả ở trong ngôn ngữ. Có vẻ như ông không chịu nổi thơ dịch. Không
chịu nổi Thanh Tâm Tuyền.
Võ Phiến rời Việt Nam
ngay 1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu chung với cả miền Nam
những cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm",
ông không cảm nhận được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một
cách nào đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại trong chiến
thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó ông không "trực giác" cơ
hội thống nhất đất nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ
ở trong nhục nhã cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể
hiểu những năm tháng ghê rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách
nước là chủ nghĩa Cộng Sản; và ôm lấy những đồng bào ruột thịt Miền Bắc
(6).
Đây là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc
Tiến, giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói cho vui, để lên
tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn phần của
con người, văn chương Miền Nam không hề mang chất đế
quốc, không hề nhắm tới quyền lực. Từ một văn chương như thế làm sao có
thể đi xâm chiếm Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?
Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về
nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác
nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và không hiểu cả
hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?)nhà văn Miền Nam.
Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh
thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai
hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho
mày một bài học, và phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý
nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra
tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản,
cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế
đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng
ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những
lời nói lành lặn của nó...
"Tại sao ta không thể yêu, những gì chúng
yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư vô", mê cung dành
cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là vậy. Đừng nhìn thơ tự
do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm Hư Vô (Huỳnh Phan
Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh Pháp. Chúng
là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của những trại tù
sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi họ
xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi đó
ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam,
những tác phẩm "chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô
cho Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ
Phiến cũng vậy; sợ Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn
nhẩn nha được là ông lại nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ
của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê thảm, Mac Namara
nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt Nam Cộng Hòa
không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa bao giờ
coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối.Họ không hề được trang bị
bằng một thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta mới thấm được
những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ "biên đình" của
những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca "đồn anh đóng bên
rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về". Đánh giặc, súng nổ
ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất cứ lúc nào, nhưng
cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người lính Việt Nam
Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ dậy, giữa vòng
dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự hài
lòng với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật,
nhưng thà rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền,
chắc chắn là hơn làm đao phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân
(J. Brodsky). Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa
Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ
ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống lại những điều dối trá,
phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà văn một kẻ sống sót, là vậy.
Blood
Brothers. Một chiến thắng bị trù eỏ, nguyền rủa [Cursed Victory: A
History of
Israel and the Occupied Territories].
Bài điểm sách trên The Economist
làm Gấu
liên tưởng tới chiến thắng của Bắc Kít:
Chúng ra sinh ra đời để thực hiện nó,
như là 1 lý tưởng kéo dài suốt lịch sử dựng nước của giống Mít, đến
đúng ngày 30 Tháng
Tư, 1975, chiến thắng hoàn toàn, thống nhất đất nước, tới lúc đó, lời
nguyền mới
biến thành hiện thực.
Một đứa con nít như Thầy
Cuốc, đậu cái bằng tú tài đúng vào
những ngày 30 Tháng Tư 1975, tức là cái bằng của VC, làm thầy dậy học
cho chế độ
đó, biết cái gì về văn học Miền Nam trước 1975?
Đó là sự thực.
Chỉ nội cái tên “bất
hạnh” gán cho nền văn học đó, đã là 1 sỉ nhục nặng nề rồi. NQT
Note: Bài điểm sách, TV sẽ
post liền, vì phải scan từ báo giấy, do hết credit đọc free!
“Nền tân nhạc
Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn
được hát
ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy thì chưa
có và
sau đó thì không còn...”
Quỳnh Giao (1)
Theo GCC, câu viết của QG
có thể áp dụng ở đây:
Bất
hạnh đúng ra là phải dành cho đám nhà văn VC, "bất hạnh", vì không được
viết
theo
con tim, dưới ngọn đèn lương tâm, thay vì vậy, dưới ánh sáng của Đảng,
với lương tâm mù, hay đám
VC nằm vùng [đám này thì đại bất hạnh].
Gấu bỗng nhớ đến "giai
thoại' về cà cuống và bọ hung, một, mang
túi tinh dầu thơm, một, thúi.
Bỏ cái túi thơm/thúi đi,
thì chúng như nhau. Rang/chiên lên, nhậu, như
nhau.
Thầy
Kuốc, chắc là không biết giai thoại này, nên.... lộn.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
@
Factory's
Bistro
Lần gặp ở nhà
NDT, NVL đang đóng vai bodyguard cho DN. Gấu ghé tai em nói nhỏ, có
vẻ tìm đúng người, em mỉm cười, gật đầu, em cũng có cái “feeling” như
vậy.
Nhưng cuộc tình
đúng là ở giữa 2 lần mở và đóng [and live the space
of a door that opens
and shuts] bởi vì chỉ được ít lâu, Gấu nghe nói bodyguard ôm đầu máu
chạy về
lại xứ lạnh, hà, hà!
Gấu bất giác
nhớ đến lần Gấu Cái [Gấu Cái nhe] gặp DN lần đầu tiên, trong đám cưới,
của
con của 1 cô bạn cùng học với Gấu Cái từ những ngày tiểu học, trường
tiểu học Ðốc Binh
Kiều, Cai Lậy.
Ðám cưới ở
tiểu bang Atlanta. Có Tara của Cuốn
Theo Chiều Gió. Cả đám bạn gái của Gấu Cái thì đều rành cuộc tình
của GCC với
cô phù dâu, vì họ đều cùng học Ðốc Binh Kiều. Ai cũng trách cô bạn lẫn
ông chồng
khốn nạn hết.
Hà, hà!
Mày đã thu xếp
qua chơi bên Mĩ này lần nữa vào dịp Tết cuối năm nay chưa? Chúc sức
khỏe.
À, Văn sẽ về
VN Thứ Tư tuần sau thăm ông già nó đang rất yếu, ăn uống không được.
NKL
Ðời
trong mộng
Rất nhiều kẻ như thằng cha
GCC trong số chúng ta. Nó tưởng tượng ra hình bóng này, hình
bóng nọ, rồi si mê, không phải 1 con người thực, mà là một ý tưởng mà
nó dâng lên
thánh nữ.
Lạ là không
bao giờ nó tỉnh mộng, vỡ mộng cả, thế mới cà chớn!
Sắp đi xa mà
vẫn như đứa con nít ngày nào dừng cái mobylette ở bên lề đường, nơi
cổng trường
Gia Long, đợi BHD tan học về, đến nỗi
bị Ban Giám Hiệu ra thông báo, cấm cái trò đưa đón như vậy.
Ðầy giọng cà
chớn, thật dễ ghét!
Tks again. NQT
Hồi này Thầy
Cuốc hết còn múa may trường phái văn học này, cách đọc gần, đọc xa kia,
và chỉ “đành
làm” [chôm chữ của TTT], 1 anh ký giả hạng bét, lèm bèm chửi VC, nhạt
đến nỗi
mấy đấng đệ tử cũng chán, hết còn hót rầm trời như hồi mới mở Blog. Bữa
trước
qua Cali, có 1 đấng hỏi GCC, Thầy Cuốc đâu có xứng để cho anh để mắt
tới, Gấu bèn
trả lời, đâu có phải như vậy. Gấu bị Thầy Cuốc đánh, qua diễn đàn Chợ
Cá của Sến
Cô Nương, từ những ngày nảo ngày nào, Gấu đâu có trả lời, đến nỗi Sến
mà còn bực
giùm, tại sao anh không trả lời, hay là già quá rồi, hết xí oát rồi.
Phải đến mãi
sau này, khi Gấu làm xong mấy chuyện kể như đại sự, thấy còn dư tí thời
giờ, mới
trở lại chuyện cũ, bởi nghĩ, một phần như Brodsky, khi trích dẫn 1 châm
ngôn của
anh Tẫu, cứ ngồi hoài bên bờ sông là sẽ có ngày nhìn thấy xác kẻ thù
trôi qua,
và một phần, như… Ðường Tăng, khi vượt
qua dòng sông sau cùng, tới Ðất Phật, nhìn thấy xác ‘kẻ thù’ trôi qua,
bèn hỏi
Phật, xác ai đó, Phật “xoa đầu” đệ tử GCC, phán, xác mi đó!
Hà, hà!
*
Trong những
thánh ngôn của thánh nữ BHD có câu này, thật là tuyệt.
Vào những ngày Sài Gòn đảo
chính lên đảo chính xuống, nhớ hồi em còn học Gia Long, lúc biểu tình
xuống, biểu
tình lên, có lần, nhờ Gia Long biểu tình bãi khoá mà Gấu có được hạnh
phúc chở em lên
nghĩa trang Bắc Việt, hôn em giữa những ngôi mộ, đám cỏ may, và thấy
những hồn ma
gật đầu, được, được, bèn nhờ Cô Nga điện thoại viên gọi điện thoại cho
em. Ðúng
như tiên đoán, ông bố khốn kiếp trả lời.
Không hỏi, có boyfriend
chưa, hẳn có rồi,
nhưng mà là, anh ta ra làm sao.
-Vừa ý ông bố
em lắm. Vừa nghe rục rịch đảo chính là đã vác mấy bao gạo tới nhà H rồi.
Một lát cũng
khá lâu, nói tiếp:
-Gấu không làm
được chuyện đó đâu.
Ui chao, Gấu
nghe mà sướng hết cả cõi lòng.
Về già, Gấu
nghĩ ra, quả như thế, mà cũng không như thế.
Gấu làm được
chuyện đó, dư sức làm chuyện đó, nhưng không làm sao nghĩ ra chuyện đó.
[Không
trình ra cuộc đời như nó là, mà như nó ở trong mộng].
Đọc, thì lại nhớ GCC đã
từng bị mấy ông nhà văn lính VNCH chửi, nhà văn gì mày,
tối ngày ngồi Quán Chùa, biết cái đéo gì về chiến tranh!
Cũng chỉ là
tình cờ, và có thể còn do liên tưởng “khùng”, tên VC nằm vùng TDBC,
trong chuyến
Du Mỹ vừa rồi, “tình cờ” gặp toàn thứ Trùm Nguỵ hải ngoại, nào LT, nào
NGK...
Cũng
“ngưu tầm ngưu”, hay nằm trong chủ trương lớn của Đảng?
Gấu Cà Chớn
có 1 nhận xét: Đám VC nằm vùng, tên nào cũng “dziếc dzăng” cả.
Nào Lữ Phương, nào Đào Hiếu, nào Tiêu Dao Bảo Cự....
Tất nhiên chẳng tên nào viết ra hồn cả.
Bảnh nhất,
chắc là đao phủ thủ HPNT, nhưng có thể vì bảnh nhất nên bị THNM nằm một
chỗ.
Mấy tên còn
lại, chắc là bây giờ mừng lắm, may quá, tụi mình viết như kít, nên Ông
Giời tha!
Sao Gấu tởm lũ khốn này
quá!
Như
thế, nếu không có "cái gọi là giải phóng miền Nam" thì
quân đội Mỹ cũng chẳng có lý do tiến vào VN để mà "xâm lược".
Cả hai cuộc
chiến đều có thế tránh được hết.
Gấu đọc mấy cuốn sách mới ra lò của
tụi Tẩy,
cho thấy Việt Minh mới là kẻ cố tình gây chiến, để có lý do làm cỏ các
đảng
phái khác,
biến họ thành Việt Gian.
Cũng thế là cuộc chiến thứ hai, biến 1 nửa nước thành Ngụy.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Đọc, thì lại nhớ GCC đã
từng bị mấy ông nhà văn lính VNCH chửi, nhà văn gì mày,
tối ngày ngồi Quán Chùa, biết cái đéo gì về chiến tranh!
Cũng chỉ là
tình cờ, và có thể còn do liên tưởng “khùng”, tên VC nằm vùng TDBC,
trong chuyến
Du Mỹ vừa rồi, “tình cờ” gặp toàn thứ Trùm Nguỵ hải ngoại, nào LT, nào
NGK...
Cũng
“ngưu tầm ngưu”, hay nằm trong chủ trương lớn của Đảng?
Gấu Cà Chớn
có 1 nhận xét: Đám VC nằm vùng, tên nào cũng “dziếc dzăng” cả.
Nào Lữ Phương, nào Đào Hiếu, nào Tiêu Dao Bảo Cự....
Tất nhiên chẳng tên nào viết ra hồn cả.
Bảnh nhất,
chắc là đao phủ thủ HPNT, nhưng có thể vì bảnh nhất nên bị THNM nằm một
chỗ.
Mấy tên còn
lại, chắc là bây giờ mừng lắm, may quá, tụi mình viết như kít, nên Ông
Giời tha!
Sao Gấu tởm lũ khốn này
quá!
Như
thế, nếu không có "cái gọi là giải phóng miền Nam" thì
quân đội Mỹ cũng chẳng có lý do tiến vào VN để mà "xâm lược".
Cả hai cuộc
chiến đều có thế tránh được hết. Gấu đọc mấy cuốn sách mới ra lò của
tụi Tẩy,
cho thấy Việt Minh mới cố tình gây chiến, để có lý do làm cỏ các đảng
phái khác,
biến họ thành Việt Gian.
Cũng thế là cuộc chiến thứ hai, biến 1 nửa nước thành
Ngụy.
LOVE
/ YÊU / THƯƠNG
Trong tiếng Việt, có hai từ tương
đương với động từ “to
love” trong tiếng Anh: yêu và thương. Hai từ này khác nhau ra sao? Theo
tôi,
khác ở một điểm: Khác với “thương”, “yêu” gắn liền với ý muốn chiếm
hữu. Bà mẹ
thương con; ai thương con bà, bà cũng mừng; nhưng người vợ yêu chồng
hoặc một
tình nhân yêu một tình nhân thì chỉ muốn một mình mình yêu và một mình
mình được
yêu mà thôi. Tình yêu đối với tổ quốc cũng vậy: cũng từ chối chia sẻ
đất nước với
ngoại bang.
FB
Thầy Kuốc.
Đám đệ tử của
Thầy hít hà, phát hiện thần sầu!
GCC thấy, buồn
cười!
Sống ở Miền
Nam, Thầy thừa biết, người ở đó không dùng, không biết đến từ “yêu”, và
cái từ dùng
thay cho nó, là “thương”.
Miền Bắc, có
cả hai từ.
Giả như đúng
như Thầy phát hiện, thì người Miền không muốn… “chiếm
hữu” chồng?
“Tay này”
sắp
khùng rồi! NQT
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Note: GCC tính viết, giới thiệu tên
“VC quốc tế”,
Victor Serge, tác giả cuốn Trường hợp
đồng chí Tulayev, nhân đọc bài về ông,
trên báo nhà, tờ Queen’s Quarterly.
Thế rồi vớ phải bài của tên VC nằm vùng TDBC,
bèn bực quá, xổ nho dài dài!
Sorry bạn đọc TV. NQT
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Quan điểm khác
nhau không ngăn cản người ta ngồi bên nhau trò chuyện thân ái (từ trái
qua Nguyễn
Hữu Liêm, Trương Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, TDBC). (2)
Note: Tên VC
nằm vùng này cực ngu. Có thể nói, tên VC nằm vùng nào cũng cực ngu như
hắn.
Viết
như thế, thì mi đúng hết, chẳng chừa chỗ cho ai đúng nữa.
Cả 1 lũ ngồi cùng đó,
ngoài NXH ra, thì cùng 1 ruộc.
Cũng bình thường thôi, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
Cũng vẫn bình thường thôi: Sở dĩ 1 tên như Gấu Cà Chớn, chẳng hạn,
không chịu nổi
lũ VC nằm vùng, là do chúng không nhận ra cái tội tày trời của chúng,
làm mất
Miền Nam, và đẩy nước Mít lâm vào đường cùng, mấp mé bờ hủy diệt như
bây giờ. Nếu
là dân Nhật, thì họ tự sát tất tật, để tạ tội rồi.
Không
có lũ
VC nằm vùng là thật khó mất Miền Nam. NQT
Đâu phải vấn
đề bất đồng chính kiến, Quốc Cộng, Nam Kít, Bắc Kít, hải ngoại, trong
nước, thù
hận lẫn nhau….
Vấn đề của Mít,
đúng là vấn đề được Ông Thánh Lò Thiêu khui ra:
"La
catastrophe nazie est désormais la référence absolue et radicale de
toute
existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để, tất cả hiện
hữu Do
Thái.
Tai ương 30
Tháng Tư 1975, và cùng với nó, Lò Cải Tạo... từ nay
là điểm
qui chiếu, tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít. (3)
Mấy
tên ngu đần này, làm mất Miền Nam, thong
dong du hí xứ Mẽo, không còn 1 chút lương tâm đạo đức, vậy mà vẫn ra rả
chửi người
khác:
Tự
do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác biệt là điều mà nhiều người
Việt Nam
đã học được khi ở Mỹ nhưng cũng không ít người vẫn muốn độc tài tư
tưởng chẳng
khác gì cộng sản, chỉ muốn áp đặt chính kiến của mình lên mọi người và
đả kích,
bôi nhọ, chụp mũ người khác quan điểm.
Sự thực
hải ngoại tởm tụi VC nằm vùng, chứ không hề áp đặt chính kiến cái con
mẹ gì
hết. Họ quá đau vì mất 1 quê hương, và quá tởm lũ nằm vùng. Nếu không
có chúng,
tình hình có thể đổi khác.
Có thể, PXA cũng quá đau vì cái phần đóng góp
lớn lao của ông cho địa ngục Đỏ, nên đến giờ chết, không làm sao đi
được, và giờ
này hẳn là đang ở Lò Luyện Ngục ăn năn sám hối tội ác của ông.
Lò Thiêu, là Đỉnh Cao Chói Lọi của cái
gọi là Thời Kỳ, Kỷ
Nguyên Ánh Sáng của Âu Châu, và được thực hiện bởi 1 giống dân cực kỳ
thông
minh của mọi giống dân của nó. Cũng thế, là trường hợp dân Mít. Chúng
được ông
Trời cho ra đời, từ thuở Hùng Vương dựng nước, để làm cuộc thống nhất 1
dải đất,
tạo thành 1 bức trường thành ngăn cản, chống giữ, kiếm chế họa Hoàng
Quỉ, là dân
Tẫu. Những Đỉnh Cao, Bước Ngoặt cái con mẹ gì, thật cũng chưa xứng với
nó, Tin
Văn đã từng lèm bèm nhiều về chuyện này rồi. Sở dĩ đến ngày 30 Tháng
Tư, mọi
chuyện trở nên khốn kiếp, là do Cái Ác Bắc Kít mà ra: Chúng đâu muốn ôm
lấy Miền
Nam, mà muốn làm tên ăn cướp, cướp sạch một miền đất, người chúng đẩy
đi tù mút
mùa. Người chúng gọi họ là Ngụy, tức đếch phải người, y chang Đức gọi
Do Thái.
Những tội ác như thế liên quan gì tới… chính
kiến? Chính kiến nào dung thứ tội ác đó?
Có tên Bắc Kít nào nhỏ 1 giọt lệ cho những tên tù cải tạo, có tên VC
nằm vùng nào
tỏ ra đau lòng vì 1 nhà văn Miền Nam, như
Thảo Trường chẳng hạn, đi tù cải tạo 17 năm?
Lúc đó tên TDBC ở đâu? Bây giờ ở đâu?
Ai cho mi đi Mẽo, trong khi những người khác, không được đi, mà đi tù?
Một tên nhơ bẩn như thế, mà cũng bày đặt viết lách!
Note: GCC tính viết, giới thiệu 1 tên
“VC quốc tế”,
Victor Serge, tác giả cuốn Trường hợp
đồng chí Tulayev, nhân đọc 1 bài về ông,
trên báo nhà, tờ Queen’s Quarterly.
Thế rồi vớ phải bài của tên VC nằm vùng này,
bèn bực quá, xổ nho dài dài!
Báo nhà, số
mới nhất, có bài về Victor Serge thật tuyệt. Đọc “Hồi Ký” của tay này,
thì lại
càng tởm mấy đấng VC nằm vùng ngày nào, những Tiêu Diêu Bảo Dạ, Đào
Héo... thí
dụ, khi chúng viết “Hồi Ký Nhảy Lên Rừng, theo Cách Mạng”!
Trên TV đã từng viết về
cuốn hồi ký của ông, The
Case of
Comrade Tulayev, Victor
Serge, introduction by Susan Sontag, translated from the French by
Willard R.
Trask (1)
Có một sự lạ, nhưng cũng
dễ hiểu, hồi ký của
VC nằm vùng như của Đào Hiếu, rất giống hồi ký của mấy ông tướng VNCH.
Chúng đều
có cái air chạy tội. Tội thua trận. Tội... thắng trận.
Đây là hai mặt
của cùng một cuộc chiến. Một, buồn và một, tiếu lâm. Y chang kịch
Chekhov, nếu
chúng ta chấp nhận cách nhìn của Nabokov.
Trong
"Những bài giảng về Văn Học Nga", Nabokov đưa ra nhận xét, Chekhov viết
'những cuốn sách buồn cho những người tiếu lâm' [that Chekhov wrote
'sad books
for humourous people'], và ông phán tiếp, "Những sự vật đối với ông thì
tiếu
lâm và buồn cùng một lúc, nhưng bạn không thấy cái buồn, nếu bạn không
thấy cái
vui của chúng, bởi vì buồn và vui dính vô với nhau."
Sau bao hồi ký của tướng
tá VNCH, chúng ta chờ
mãi, bây giờ mới được đọc cái phần tiếu lâm của cuộc chiến.
Thắng mà cũng phải chạy tội. Thắng mà biến
thành bọ, thành ruồi. Tiếu lâm thật!
Điều Nabokov
nói, một tay chuyên về kịch của Tây, mà Gấu quên tên, hình như Vialar
[1], gì
gì đó, cũng nhận ra. Trước ông này, kịch của Chekhov chơi theo
"tông", "gam" buồn, bi kịch. Ông đổi qua vui, hài kịch. Ông
giải thích, kịch của Chekhov được viết vào lúc lịch sử Nga sang trang,
và vào
những lúc sang trang như thế, nhân loại thường nhìn ngoái lại, với
tiếng cười!
Gấu có lần đã từng áp dụng
thông minh thiên
tài nhận xét trên vào lịch sử Miền Nam giữa hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị
Cộng Hoà.
Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt bằng cái chết đau thương của anh em ông Diệm,
và có
thể, đó là nguồn cơn đưa đến mất Miền Nam. Nhưng dân Mít chúng ta muốn
nhìn lại
nó bằng tiếng cười, khi nghĩ đến trò mạt cưa mướp đắng giữa hai ông
Diệm Nhu và
mấy tướng đảo chánh. Hai ông này kêu lớp tướng tá làm cú đảo chánh dởm
nhân đó
bắt gọn đám nổi loạn. Đám tướng tá thân tín của ông, lãnh tiền Xịa, bèn
đổi dởm
thành thực, và làm thịt hai ông.
Xế chiều,
chúng tôi đến Trung tâm Nhập ngũ.
Thực chất đó
là một trại tập trung.
Đào Hiếu: Lạc
Đường
Viết như vậy là sượng. NQT
Tởm, đúng
hơn. Hai miền Nam Bắc lâm cuộc nội chiến, thanh niên phải nhập ngũ,
chuyện quá
bình thường, làm sao lại có trại tập trung ở đây.
VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
Lý Chánh
Trung, Tố Hữu, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Đình
Thi...
Báo nhà, số
mới nhất, có bài về Victor Serge thật tuyệt. Đọc “Hồi Ký” của tay này,
thì lại
càng tởm mấy đấng VC nằm vùng ngày nào, những Tiêu Diêu Bảo Dạ, Đào
Héo... thí
dụ, khi chúng viết “Hồi Ký Nhảy Lên Rừng, theo Cách Mạng”!
Trên TV đã từng viết về
cuốn hồi ký của ông, The
Case of
Comrade Tulayev, Victor
Serge, introduction by Susan Sontag, translated from the French by
Willard R.
Trask (1)
Có một sự lạ, nhưng cũng
dễ hiểu, hồi ký của
VC nằm vùng như của Đào Hiếu, rất giống hồi ký của mấy ông tướng VNCH.
Chúng đều
có cái air chạy tội. Tội thua trận. Tội... thắng trận.
Đây là hai mặt
của cùng một cuộc chiến. Một, buồn và một, tiếu lâm. Y chang kịch
Chekhov, nếu
chúng ta chấp nhận cách nhìn của Nabokov.
Trong
"Những bài giảng về Văn Học Nga", Nabokov đưa ra nhận xét, Chekhov viết
'những cuốn sách buồn cho những người tiếu lâm' [that Chekhov wrote
'sad books
for humourous people'], và ông phán tiếp, "Những sự vật đối với ông thì
tiếu
lâm và buồn cùng một lúc, nhưng bạn không thấy cái buồn, nếu bạn không
thấy cái
vui của chúng, bởi vì buồn và vui dính vô với nhau."
Sau bao hồi ký của tướng
tá VNCH, chúng ta chờ
mãi, bây giờ mới được đọc cái phần tiếu lâm của cuộc chiến.
Thắng mà cũng phải chạy tội. Thắng mà biến
thành bọ, thành ruồi. Tiếu lâm thật!
Điều Nabokov
nói, một tay chuyên về kịch của Tây, mà Gấu quên tên, hình như Vialar
[1], gì
gì đó, cũng nhận ra. Trước ông này, kịch của Chekhov chơi theo
"tông", "gam" buồn, bi kịch. Ông đổi qua vui, hài kịch. Ông
giải thích, kịch của Chekhov được viết vào lúc lịch sử Nga sang trang,
và vào
những lúc sang trang như thế, nhân loại thường nhìn ngoái lại, với
tiếng cười!
Gấu có lần đã từng áp dụng
thông minh thiên
tài nhận xét trên vào lịch sử Miền Nam giữa hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị
Cộng Hoà.
Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt bằng cái chết đau thương của anh em ông Diệm,
và có
thể, đó là nguồn cơn đưa đến mất Miền Nam. Nhưng dân Mít chúng ta muốn
nhìn lại
nó bằng tiếng cười, khi nghĩ đến trò mạt cưa mướp đắng giữa hai ông
Diệm Nhu và
mấy tướng đảo chánh. Hai ông này kêu lớp tướng tá làm cú đảo chánh dởm
nhân đó
bắt gọn đám nổi loạn. Đám tướng tá thân tín của ông, lãnh tiền Xịa, bèn
đổi dởm
thành thực, và làm thịt hai ông.
Xế chiều,
chúng tôi đến Trung tâm Nhập ngũ.
Thực chất đó
là một trại tập trung.
Đào Hiếu: Lạc
Đường
Viết như vậy là sượng. NQT
Tởm, đúng
hơn. Hai miền Nam Bắc lâm cuộc nội chiến, thanh niên phải nhập ngũ,
chuyện quá
bình thường, làm sao lại có trại tập trung ở đây.
VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
Lý Chánh
Trung, Tố Hữu, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Đình
Thi...
Tks. NQT
(1)
GGC kiếm
ra
rồi. Ông này, là Jean Vilar. Số báo Le Magazine Littéraire, đặc biệt về
văn chương
Nhựt bổn, Mars, 2012, có đăng mấy bức thư của ông, gửi cho bạn bè.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Cái tít làm
Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày mới vô làng.
“Khí hậu ẩm ướt trong thế
giới tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng trên
Nghệ Thuật. VL đọc bản thảo, nghiêm giọng phán, mày viết sao là nó mang
cái tên
của mày, ký ở dưới bài viết đấy.
Ý anh muốn nói,
mày thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi
1 đường, tương tự.
Cái khí hậu
của TV, thì cũng là cái khí hậu tâm thần của Sebald, theo GCC
Sau cuộc chiến
[Mít], nếu bạn vẫn là con người, thì không thể lành lặn được.
Phải có 1 cái gì ở
trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu dở chứng.
NQT
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Bài
viết này, cũng “Top 10”, đúng ra phải để vô “Hà Nội ngày nào của Gấu"
/gochanoi/hn_pho_hang_lo.html
Phố Hàng Lờ
Nhà văn Nam
Phi J. M. Coetzer, trong bài điểm cuốn tiẻu sử nhà văn Ba Lan, Bruno
Schulz
(Regions of Great Heresy: Bruno Schulz, A Biographical Portrait, nguyên
tác tiếng
Balan của Jerzy Ficowski; Theodosia Robertson dịch qua tiếng Anh, nhà
xb
Norton, 255 trang, $25.95), đã kể ra, một trong những đam mê từ những
ngày còn
con nít của Bruno Schulz, là ngồi lê la trên sàn nhà, mải mê vẽ, hết
bức họa
này tới bức họa khác, trên những tờ báo cũ. Sau này, trong những chuyến
di chuyển
vào thế giới sáng tạo, chỉ là một đứa trẻ vẫn sống cái "tuổi thiên
tài" (the age of genius), vẫn cố – một cách vô thức - tìm cách tiếp cận
cõi huyền đó (the realm of myth). Và hình như, đây là người đàn ông mà
đứa trẻ
ngày xưa đã trở thành. Và tất cả những gì mà người đàn ông này hăm hở
đòi cho
được, chỉ là tái sở hữu những quyền năng đầu đời của mình, hay nói một
cách
khác, là để "trưởng thành ở trong tuổi thơ" ("mature into
childhood").
Khi trở về
Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi
cho được,
không phải tuổi thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên
đường,
sau bao phen dọ dẫm về nó.
Trong một lần
dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn
được ra
Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa
Đông
Dương.
Tôi viết,
làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi
Nhật chiếm
Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô
tôi nói,
cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà,
nhưng
tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn
hơn bà tệ
lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm
giá
thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.
Cái villa mà
hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu
khi
nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên
khác, và
rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.
Ngày xưa, đứng
trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một
viện bảo
sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma
ám, cứ
ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai
bên, tôi
đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia
đình
nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự
trước,
và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.
Còn bên
trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả
một khu phố
quanh hồ Hallais, ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm.
Đêm nào
cũng nghe tiếng người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi
kiếm một
góc khuất khuất ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.
Đi đêm mãi
có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường
thấp, nơi
tôi thường leo vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra
là chúng
chỉ mượn đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy
bà đẻ la,
tôi giật mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài
đường. Đuổi
theo, chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.
Đúng là để
gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công
nhìn sang
thằng bé bằng những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận.
Bà chửi
cháu thì ít, nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo
sanh,
hình như cũng học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và
ông sang
tận nhà xin lỗi.
Bài học đầu
tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang
họa,
tôi đã không học được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập
lại y
chang sự ngu ngốc kể trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần
Cuối,
Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.
****
"Ôi,
ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp
tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền). Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard, nơi
có
bót Hàng Ken [bót Lê Văn Ken mới đúng, như Thảo Trường, hồi sinh tiền,
có lần
mail cho biết], chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự mình
khám
phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người
đàn ông
đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé
chạy vào
bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời
sỉ vả,
người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ
Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen
thành
phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là
chừng
nào, trên khuôn mặt "cô bé". Trên khuôn mặt Sài Gòn.
NQT
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Gặp lại Thảo
Trường lần đầu, ở hải ngoại, 1990, đúng thời gian xẩy ra vụ Trần
Trường, tại
Car Wash của ông con trai của anh.
Gấu khi đó còn không biết
sử dụng máy chụp
hình!
Nguyễn Đình
Toàn kể, trong một buổi họp đầu thập niên (19 60) ở nhà xuất bản Cơ Sở
Xuất Bản
Tự Do, đường Võ Tánh, Saigon, cũ, cùng với nhà văn Thảo Trưởng, ông
được mời
tham dự, cùng nhiều nhân vật thuộc hàng “lão làng” thời đó.
Một trong những nhân vật “lão làng” này là nhà
văn Hiếu Chân (tức Nguyễn Hoạt). Ông hỏi một nhân vật “lão làng” ngồi
cạnh:
“Hai thằng
nhóc nào vậy?”
Ông này đáp:
“Đó là tác
giả “Chị em Hải” và “Thử lửa.” (1)
Tác giả “Tỵ Bái” thản nhiên bảo:
“Mang cho
chúng nó hai ly sữa!”
DTL
(1) Hai tác
phẩm trên, do Tự Do xb. NQT
Cái kỷ niệm
này, phải để vào đúng cái thời của nó, thì mới hiểu được.
Gấu cũng đã
bị, chính ông thầy của mình, là nhà văn Doãn Quốc Sĩ phán như trên, có
thể nói
như thế.
Bởi vì cái
món giải khát thịnh hành nhất vào những năm đó, là 1 ly sữa, sữa tươi,
chứ
không phải 1 ly cà phê.
Lần đó, Gấu
nhớ là Gấu vô quán giải khát trên đường Lê Lợi vì có hẹn với BHD. Quán
Kim Sơn,
nằm phía bên trái tiệm sách Khai Trí. Thấy Mai Thảo đang ngồi với Doãn
Quốc Sĩ,
Gấu đành kéo ghế ké né ngồi, và khi bồi tới, Gấu nói, cho ly sữa tươi.
Ông thầy
cũ ngạc nhiên quá, vẫn uống thứ đó hả, là nhà văn rồi mà!
Gấu ngồi với
BHD, chuyên môn kêu hai ly sữa, suốt cả 1 cuộc tình!
Buổi sáng,
thì khác. Hai ly cà phê sữa, thứ cà phê túi, ở 1 tiệm hủ tíu Tầu, trên
đường tới
trường Gia Long, Gấu đã kể trong Tứ tấu khúc
GNV & HPA @ Paris, 1999
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Cõi
khác
Nhờ mấy bạn ở
trong nước, Gấu có lại bản văn đầu tiên của Kiếp Khác, đăng trên 1 số
Văn. So với
bản sau cùng, của trước 1975, trong “Những Ngày Ở Sài Gòn”, rồi so với
bản sau
cùng, được viết thêm, trên Tin Văn,
chúng quá khác nhau, và cái văn bản
thứ nhất,
trên tờ Văn, thì đầy dấu vết của Faulkner, nhất là trong cách sử dụng
ngoặc
đơn, để lập lại, 1 ý trước đó, hoặc thay đổi nó đi, hoặc nhấn mạnh
thêm. Roland
Barthes, trong S/Z có nói tới đòn này: Bởi là vì bạn không thể xoá, nên
chỉ có
cách lập lại, hoặc thêm vô, từ đó, ra cái từ “connotation”. Lũ ngu thì
cứ phản
biện, phản bác, những từ này đâu phải của văn chương, mà là của chợ
búa, của
hàng tôm, hàng cá, của đám VC ở trong “Hội Nhà Thổ” của chúng – chúng
chẳng đã
choảng nhau thực sự, bằng vỏ chai bia, chứ không phải bằng những con
chữ.
Tất nhiên, của
Thầy Kuốc nữa chứ!
Michel
Foucault rất tởm cái trò “phản biện” này.
Trong 1 lần “đụng độ” với lũ Hạ
Tiện, Gấu đã trích dẫn ông, để cảnh cáo chúng:
Tranh Luận
Văn Học, theo Foucault
Michel
Foucault, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, khi được hỏi, tại sao không
dính vô
(engage) mấy vụ bút chiến (polemics), ông trả lời: Tôi thích bàn luận
(discussion), và khi được hỏi, tôi cố gắng trả lời. Nhưng đúng là tôi
không
khoái dính tới mấy vụ bút chiến. Nếu tôi mở một cuốn sách mà thấy tác
giả của
nó buộc tội địch thủ, một kẻ tả phái ấu trĩ, tôi đóng liền nó lại. Đó
không phải
là cách làm việc của tôi. Tôi không thuộc về thế giới những người làm
việc kiểu
đó. Đây là điều thiết yếu đối với tôi. Toàn thể vấn đề đạo đức được đặt
ra. Đạo
đức liên can đến việc truy tìm sự thực, và liên hệ với tha nhân. Những
câu hỏi
và trả lời tùy thuộc cuộc chơi - vừa thích thú vừa khó khăn - trong đó
mỗi bên
chỉ được dùng quyền của mình do đối phương ban cho, dưới hình thức đã
được chấp
nhận của cuộc đối thoại. Người bút chiến, ngược lại, tự cho mình quyền
ưu tiên.
Anh ta chẳng bao giờ bằng lòng hỏi. Đối phương không phải là bạn,
partner,
trong cuộc truy tìm sự thực, mà là một kẻ thù, một kẻ sai, gây hại, một
mối đe dọa.
Và anh ta có bổn phận phải tiêu diệt, không cho phép đối phương được
quyền thảo
luận. Mục đích tối hậu của anh ta không là tiếp cận sự thực khó khăn,
được chừng
nào tốt chừng đó, mà là chiến thắng sau cùng, của công lý (just cause)
anh ta
đeo đuổi từ đầu. Kẻ bút chiến tự cho mình cái quyền hợp tình hợp pháp,
điều mà
đối phương của anh bị từ chối ngay từ đầu cuộc chơi. Theo M. Foucault,
bút chiến
là hình nhiễu (parasite figure) của bàn luận.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
LUYỆN VĂN
Tôi thích ý này của Susan Sontag,
nhà văn Mỹ: “Nhà văn,
giống như lực sĩ, phải ‘tập luyện’ mỗi ngày.” Viết facebook, với tôi,
cũng là một
cách tập luyện. Chủ yếu để câu văn thêm gân guốc. Như, có lần nào đó,
tôi đã ví:
Như những cú đấm. Chan chát.
FB Thầy Kuốc
Câu
của Sontag, tếu
quá - có thể đếch đúng như Thầy Kuốc viết - bởi vì đâu chỉ lực sĩ phải
tập luyện mỗi ngày!
GCC ngày nào cũng dziết, nhưng
không hề nghĩ đang…. tập luyện!
Có, là hồi mới vô nghề, qua đọc, và viết, bằng
cách bắt chước Thầy Faulkner!
Lướt
net,
vớ
được bài viết của Sontag, về Camus, có câu liên quan tới đấm sĩ.
A
writer
who
acts as public conscience needs extraordinary nerve and fine instincts,
like a
boxer. (1)
Nhà văn, kẻ
hành động như lương tâm công cộng, cần cân não khác thường và linh
tính, phản xạ,
trực giác... cực bảnh, giống như một “bốc sĩ”.
Bài
này thú,
TV rảnh rảnh sẽ lèm bèm tiếp, vì cũng thuộc Sài Gòn ngày nào của GCC:
Camus,
hiện sinh, tiểu thuyết mới!
and if the
City falls and one man survives
he will
carry the City inside him on the paths of exile
he will be the
City
we look into
hunger's face the face of fire face of death
the worst of
all-the face of betrayal
and only our
dreams have not been humiliated
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
1956-1998
Và nếu Xề Gòn
thất thủ, và chỉ Gấu sống sót
Thì Gấu sẽ bèn ôm Xề gòn vào trong hồn của Gấu, và tha nó đi khắp con
đường lưu
vong [đếch giẫy chết]!
Gấu sẽ là Xề Gòn
Một thành phố
mà Gấu sống lại
Chỉ để kể về
nó
1968: Thời gian viết Cõi Khác.
Số báo này,
GCC có tí kỷ niệm.
Bữa đó, đến nhà cô bạn,
thấy số báo trên, trên mặt bàn, mở ra đúng bài
viết, "Đi tìm
một tác phẩm sẽ có", trong có câu, chắc là thuổng từ 1
nhà văn mũi lõ nào đó, nhà văn là kẻ kết hôn với xứ sở của mình.
Trong khi chờ
cô sửa soạn chở đi coi ciné, đọc bài báo của mình, đoạn
viết về Nhất Linh kết hôn với Mùa Thu xứ
Bắc Kít!
Có thể Cõi Khác đã manh nha từ kỷ niệm này:
Hay những lần
gặp sau đó, những
buổi tối
ngồi trò chuyện ở phòng khách trong khi mấy đứa em, mấy cô bạn ở chung
nhà đã
lui vào phía trong. Kể cô nghe những chuyện lặt vặt ở sở, cuốn phim vừa
coi,
cuốn sách vừa đọc, xứ Bắc Kỳ xa xôi, và Hà-nội. Nghe cô kể những năm
học trường
quận lỵ, trung học Mỹ Tho, đại học Đà Lạt. Nghe cô giảng giải về một
miền đất
không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu
thật mơ
hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay
đổi thời
tiết. Tự nhủ thầm cô bạn chắc không nhận ra, và sẽ chẳng bao giờ dám
thú nhận.
Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn,
lén viết
lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong, Je vous
aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành
nhờ
một cô bạn
ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.
Bức
hình GCC, cô bạn chụp, @ chung cư Nguyễn Thiện Thuật, trước Mậu Thân, từ căn
nhà cô trọ học,
cùng mấy cô bạn.
Cõi
khác
Kiếp Khác
Không phải
tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
NQT: Hát
ở đâu đâu
Henri
Michaux
French
1899-1984
MY LIFE
You go off
without me, my life,
You roll,
And me, I'm
still waiting to take the first step.
You take the
battle somewhere else,
Deserting
me.
I've never
followed you.
I can't
really make out anything in your offers.
The little I
want, you never bring it.
I miss it;
that's why I lay claim to so much.
To so many
things, to infinity almost…
Because of
that little bit that’s missing, that you never bring.
1962
W.S. Merwin: Selected
Translations
Đời của Gấu
Mi đi hoang,
bỏ ta
Mi lăn vòng
vòng
Còn ta, vưỡn
đợi bước thứ nhất
Mi lâm trận ở
đâu đó,
Bỏ chạy ta
Ta không bao
giờ theo mi
Ta không làm
sao xoay sở
Với những mời
chào, dâng hiến của mi
Cái ta muốn,
chỉ tí xíu, mi chẳng bao giờ đem tới
Ta nhớ nó;
chính là vì thế mà ta cứ cằn nhằn hoài
Về đủ thứ, về
thiên niên, vĩnh cửu….
Chính là cái
cuộc bỏ lỡ đó, mi chẳng hề màng tới
*
"Đời của mi hôm nay đâu rồi, sao không
đi đón mi?"
Tứ
tấu khúc
“Vẫn là nó. Nhưng không phải là
nó!”
Câu trên là của ông Tổng Giám
Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy
dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của
GCC, sau
khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ
mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần
rồi.
Sở
dĩ
nhắc lại,
là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng
phóng viên,
trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và,
cái
quần tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ,
đếch phải quần của mình, nhưng
nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là
mình, đếch mất
cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về
thể chất
lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!
Đúng là tình
cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái
gì đã mất
đi, theo nó.
I wanted
from Chicago what I had got from Sarajevo: a geography of the soul
Mapping Home
Learning
a
new city, remembering the old.
Tôi làm báo
Note: Bài viết
thú vị.
Có 1 số chi
tiết bổ sung.
Nguyễn Hoạt
tham gia báo từ những ngày đầu, nhưng ông còn ở lại Đất Bắc, [Hải
Phòng], để lo
chuyển người di cư. Đa số những người viết quen nhau từ hồi còn ở Hà
Nội, và có
thể, ý định làm tờ báo cũng từ Hà Nội, như tờ Lửa Việt [?] của nhóm
sinh viên
di cư, tiền thân của Sáng Tạo. Tờ Tự Do có thể nói, là của nhóm nhân
viên Bộ
Thông Tin, trong đó là Mặc Thu, Nguyễn Hoạt. GCC biết Mặc Thu, từ Hà
Nội, khi
ông ghé nhà ông anh rể NH, bà vợ là chị họ của Gấu, khi ở Bạch Mai.
Những chi tiết
về Như Phong, cũng thiếu 1 số thật thú vị. Ông là người của VNQĐ, như
NH, và là
đàn em của Hoàng Đạo. Tên Lê Văn Tiến là tên giả. Ông còn ký tên là
Cô Thần,
khi viết Tin Miền Bắc, hồi đầu di cư. Tình cờ, GCC, khi đi qua Mẽo, khi
đi xe đò
cùng ông bạn DTL qua Mexico chơi, trên xe gặp 1 tay là em ruột của Như
Phong,
và là Cameraman cho CBS của Mẽo, thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
GCC có viết về
ông trong bài viết
Ẩn hả, nhớ chứ
"Ẩn
hả nhớ chứ", câu trả lời của An, CBS' Cameraman, Hai Lúa tình cờ gặp
trong
chuyến đi Mexico, không ngờ mở ra đủ thứ chuyện. An là em ruột của Cô
Thần, tức
Như Phong, tức Lê Văn Tiến, bạn và đồng chí của ông anh rể HC. An cho
biết,
ngay cái tên Lê Văn Tiến cũng là tên giả. Ông họ Nguyễn, như Nguyễn An,
là tôi, là
em ông ấy. Như thế có thể An đã được xe buýt bốc đi tại đường Gia Long,
phía
trước nhà thương Grall, như nhiếp ảnh viên Hubert Van Es, người chụp
bức hình
trên, đã nói tới. An cho biết, trong chuyến đó, anh còn mang giùm
một đứa
nhỏ thuộc dòng dõi Nguyễn Tường, do ông anh gởi gấm. Như Phong là em
kết nghĩa
của Hoàng Đạo.
Hai Lúa cũng chẳng hỏi, tên thật của Như Phong là gì.
Có thể nói, Hai Lúa biết Như Phong, là từ Hà Nội, cùng đám bạn của HC,
như Lưu
Đức Sinh, tức Mặc Thu, lâu lâu ghé Bạch Mai, khi Hai Lúa trọ học nhà
chị Giậu,
tức vợ ông HC. Cô Thần chuyên đưa tin miền bắc trên tờ Tự Do ngày nào,
như thế,
chắc chắn cũng là điệp viên của VNQDĐ. Hai Lúa còn nhớ, còn hai ông
nữa, có tên
là Thái Đen, Thái Trắng, một trong hai ông được lệnh ở lại Hà Nội. Có
thể chính
ông này mới là Cô Thần.
Một cách nào đó, Hai Lúa còn nhanh chân hơn cả Bass. Bởi vì, tuy bài
viết của
Bass đã được trù tính từ trước, nhưng dù sao, cũng xuất hiện sau khi
Tin Văn viết
về Cao Bồi, nhân đọc ông trả lời phỏng vấn trong nước, tự nhận, ông là
người đã
đánh bức mật mã bật đèn xanh cho đại quân Miền Bắc vô tư vô nhận hàng,
là cả Miền
Nam.
Trên tờ Khởi Hành, Mặc Đỗ, khi trả lời phỏng vấn, cũng cho thêm nhiều
chi tiết
về việc thành lập tờ Tự Do, và về nhóm Quan Điểm. HC, khi vụ di cư xẩy
ra, nhẩy
qua sĩ quan đồng hoá, lo việc đưa đồng bào vô Nam. Đám bạn phòng thông
tin, như
Mặc Thu, vô trước, làm tờ Tự Do, Khi HC vô Sài Gòn, ông trả lại lon cho
quân đội,
viết cho tờ Tự Do, khai sinh mục Nói Hay Đừng, rồi dính vào vụ lật đổ
ông Diệm,
đi tù, khi Diệm đổ, mới ra tù.
Bài Bass nhắc tới Greene, coi PXA như từ tác phẩm của Greene bước thẳng
ra.
Greene mới là người đưa ra cụm từ lực lượng thứ ba, mà ông cựu thủ
tướng VC Víp
Ka Ka nói tới, trong bài phỏng vấn gây chấn động, và do đó, bị thiến
lên thiến
xuống. Víp Ka Ka coi DVM thuộc lực lượng thứ ba, nhưng với Greene, từ
này là để
chỉ Trình Minh Thế.
CBS's
Cameraman & UPI's Radiophoto Operator
Đồng Nghiệp
Thời Chiến
Gấu đang gửi
vô tuyến viễn ảnh cho hãng UPI.
Bên cạnh là
ông Hưng, AP man.
[Hình chụp
trước 1975 tại Sài Gòn]
Gấu và Châu
Văn Nam,
UPI's
photographer. Hình chụp tại Vientiane Lào, cc 1997.
Gấu: Nhớ xừ luỷ
không?
Nguyễn Ngọc An [CBS's Cameraman]: Ẩn hả? Nhớ chứ. Bữa nào mà chẳng gặp
ở Press
Center.
Cái Press Center này, ra
đời, sau cú GCC ăn mìn VC ở nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh, ở bờ
sông Sài Gòn.
Trước đó, tụi báo chí Mẽo
lên Đài Liên Lạc VTD/thoại Quốc Tế, tầng lầu
trên
cùng, building số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, là nơi Gấu làm việc, để
liên lạc và
chuyển
tin tức. AP và UPI đặt máy chuyển hình vô tuyễn viễn ảnh ở đó. AP
trước, sau
tới UPI,
và Gấu là người làm cho họ, cùng lúc làm cho Bưu Điện.
Làm ở đó, chuyển
hình ảnh
chiến tranh đi toàn thế giới từ đó, quen biết đám ký giả cũng nhờ đó,
viết,
cũng từ đó, nhớ BHD, nhớ cô bạn đúng hơn, cũng từ đó, bởi thế Gấu mơ
tưởng viết cuốn tiểu thuyết đầu tay Mắt
Bão, yên tịnh như
mắt
bão, chung quanh là giông tố.
Sau thờ Cô Ba, bỏ hết, bây giờ đọc thư
gửi đảo xa
của ông anh, thấy ông tính viết Mắt
Bão, mới nhớ ra cái tít này.
GCC có lần
ngồi Quán Chùa, và nói với ông anh về MB. Ông còn gật gù, cần tít đặt
tên cứ đọc
sách thiên văn, địa lý….
Sau khi ăn mìn VC, mất cây
súng nhỏ, nhưng thoát chết, ông trưởng đài sợ
quá, đề nghị Bưu Điện chuyển tụi Mẽo đi chỗ khác, vì không phải chỉ báo
chí mà
còn cả lính Mẽo cũng lên Đài nói chuyện với thân nhân.
Ông Trưởng Đài, sở dĩ thoát chết, là cũng nhờ 1 tay Quân Cảnh Mẽo
thường hay
lên Đài nói chuyện với gia đình. Tay này nhìn thấy ông nằm 1 đống, bèn
cho chuyển
ngay về bệnh viện dã chiến của Mẽo, sau gia đình chuyển về nhà thương
Grall. Gấu
được đám cảnh sát Ngụy đưa vô nhà thương Đô Thành, ở chỗ đường Lê Lợi,
gần chợ
Bến Thành. Vừa khiêng Gấu, chúng vừa chửi, tụi mày ham ăn nhậu làm khổ
tụi tao.
Gấu nhìn lên bầu trời Sài Gòn toàn sao, đến nhà thương thì ngất đi,
trước khi
ngất còn đọc được cái tên GCC cho 1 anh phóng viên, hình như báo Chính
Luận. Sau được ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện cho chuyển qua Grall.
BHD biết tin
Gấu bị thương là do đọc báo, và, vì nhà báo để Gấu vô danh sách bị
thương nặng,
em khóc quá, nhưng toàn khóc lén, cũng không dám dụi mắt, sợ mắt đỏ,
ông bố
sẽ biết!
GCC đã từng viết cái cảnh
một anh GI, từ phòng ghi âm bước ra, khóc
ròng, vì nửa
đêm gọi về, vợ không có nhà.
Cõi
khác
Lại nói về vụ
khóc quá.
Ông Trưởng Đài
có một cô bồ, nữ điện thoại viên ở Đài, Cô Phụng, dì của cô Mai, trong
Những Ngày
Ở Sài Gòn. Chẳng ai biết hết. Chỉ tới khi ông bị thương, còn nặng hơn
Gấu nhiều,
cô thương quá, bật khóc, thế là đến tai bà vợ. Lần GCC về lại Sài Gòn,
tính đi
gặp nhưng vội quá, định lần sau, nhưng chẳng có lần sau, cứ
tiếc mãi.
GGC cũng thương bà này. Bả không đẹp, nhưng có tiếng cười chết người.
Gấu mê quá,
có lần trực chung, tính làm tới, Bả không “thươn”, nhưng mà là “thươn”
hại Gấu,
buồn cười quá, nói, Cậu “Gấu”ơi, bề ngoài trông còn ngon dzậy,
nhưng trong
nát bấy rồi, hàng họ hư hết rồi!
Cái vụ Gấu mê
bà Phụng này cũng ly kỳ lắm. Sau cú bị ăn mìn, đám nữ điện thoại viên
được chuyển
xuống Trung Tâm Bưu Điện, chỉ để lại hai cô già, là Cô Nga, và 1 bà
nữa,
Chị Linh, chuyên mạch tiếng Tây. Một lần, nhớ bà Phụng quá, Gấu phôn,
nghe bà than, cái
headphone ở đó ẹ quá, thế là Gấu bèn mang 1 cái ở trên Đài xuống, ngồi
tỉ tê nói
chuyện cũng thật là lâu, cả Trung Tâm ầm lên, đến tai bà vợ ông Trưởng
Đài. Một
bữa, nửa đêm, ông phôn cho Gấu, đang ca trực, mày làm ơn nói
với vợ
tao, mày tự ý
mang cái headphone xuống cho bà Phụng, không phải tao ra lệnh cho mày!
Lần qua Mẽo
gặp lại vợ chồng ông Trưởng Đài, bà vợ hỏi Gấu, về Sài Gòn có gặp cô
Phụng của
"cả hai anh em chú" không?
Món quà, con
bọ hung màu nâu, có hai cái cánh, bấm vô hai cái tai, hay mắt, của nó,
thì nó mở
ra, để coi giờ, bà Phụng mua giùm Gấu, lần cùng đi Passage Eden, khi
Thương Xá
vừa khai trương, cho BHD.
Sau em gửi hết
cho cô chị họ, cô tên Vy, ở Đà Lạt mà Gấu cũng có nhắc tới. Lần đầu
tiên, có được
số điện thoại của BHD, Gấu nhờ Cô Nga ở Đài gọi giùm. Gặp ông bố, đoán
trước
như vậy, ông căn vặn hoài, sau mới đưa cho con gái. Em mừng quá, kể đủ
thứ chuyện,
có cô Vy đứng bên, khi biết là phôn của Gấu, cô bèn chạy qua nhà kế bên
cũng có
điện thoại, và gọi cũng số điện thoại đó, để cùng nghe!
Gấu đi chơi
với bà Phụng nhiều lần, sau đến tai cô cháu, khi đó không làm Bưu Điện
nữa [Bạn
có nhớ lần từ giã Gấu, cô viết cái note… (1)], làm nữ tiếp viên hàng
không. Lần Gấu
vô tận Gò Vấp, để thăm cô, cô nói, anh đừng có lẽo đẽo theo Cô Tám nữa,
không
phải là Mai ghen, nhưng mà để cô lấy chồng chứ. Anh muốn cô tôi thành
gái già ư?
Sau 1975,
GCC có lần gặp lại Cô Mai, ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi.
Cô đi
thăm thằng em, cũng ở trong Trại như GCC.
(1)
Mai thôi
làm
việc. Những dòng chữ cuối cùng nàng viết cho tôi trước khi từ biệt, là
trên mẩu
giấy ghi điện đàm mạch Sài Gòn – Hoa Kỳ: một người lính Mỹ đang nói
chuyện với
người yêu: "I love you" – "Don’t say anything. Let’s me think
good about you before leaving" (Đừng nói gì hết. Để Mai nghĩ tốt về anh
trước khi từ biệt). Tiếng nói người lính đầy những lệ, người yêu của
anh đang
nói những lời vĩnh biệt…
Mai thôi
làm
việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu thang, trong khi chờ thang
máy, đột
nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng
Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác
sĩ người
Pháp chữa trị cho tôi, khi còn nằm trong nhà thương Grall: Như vậy là
chiến
tranh đã chấm dứt đối với tôi? (Est-ce que la guerre est finie pour
moi?).
Tôi chờ đợi
khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở trước cổng nhà thương Grall nhìn ra
ngoài đời
và khi đó chiến tranh đã hết.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Tứ
Tấu
Khúc
Je t'aime
parce que tu veux l'impossible.
Ta thương mi
bởi vì mi muốn điều không thể.
BHD
Bất giác, lại
nhớ đến bạn C., một trong Thất Hiền. C. nhận xét, mỗi lời nói của BHD
với bạn Gấu
ta, đúng là một sấm ngôn!
Quả có thế!
Chỉ một sấm
ngôn, của BHD, mà Tzvetan Todorov viết cả một cuốn sách về nó:
Những kẻ
phiêu lưu đi tìm Tuyệt Đối, Les Aventuriers de l’absolu.
Trong hàng
bao thiên niên kỷ, nhân loại gọi tuyệt đối bằng cái tên BHD!
Tzvetan
Todorov
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
NGUYỄN-XUÂN
HOÀNG TRÊN CON DỐC TỬ SINH
Bài viết có
vài chi tiết, không đúng. Phải nói ra, vì không, có thể có người sẽ
hiểu sai đi,
tình hình văn học thời điểm đó.
V/v nhà xb Đêm
Trắng. Sự thực, chỉ có 1 mình HPA là người chủ trương, và để in những
tác phẩm
bị “Văn” của NDV, hoặc “Thời Mới”, của VP, lắc đầu. Cuốn của Gấu,
“Những ngày ở
Sài Gòn”, là cuốn mở ra nhà xb DT. Vì TPG lắc đầu, không chịu in, nên
HPA mới xúi
Gấu, “thì bỏ tiền túi ra in”. Gấu viết về chuyện này rồi.
NXH thì đã có
“Thời Mới” in, cần gì tới “Đêm Trắng”.
Tác phẩm đầu
tay của VP, là do nhà xb "Tự Do" in, “Kể Trong Đêm Khuya”. Cuốn đầu tay
của NDT, “Chị
Em Hải”, và của Thảo Trường, Gấu không nhớ tên, cũng do nhà xb "Tự Do"
in. Khi Phạm
Việt Tuyền mất, ở Pháp, Thảo Trưởng mail, biểu Gấu đi giùm phân ưu cho
anh và
NDT.
Đám Trung Kít
không hề in sách của đám Bắc Kít. Vết thương hình chữ S mà!
Trong số bạn
bè của NXH được anh đưa vô tiểu thuyết, đếch có Gấu.
Hà, hà!
Để bù lại, Gấu bèn
viết về bạn!
Gặp Gỡ Cuối
Năm
Khu Chợ Đũi,
Huỳnh Phan Anh, và tôi
HPA tại nhà,
ở 1 con hẻm đường Trần Quí Cáp, 2001 or 2002
HPA & Phạm
Năng Cẩn tại 1 tiệm thịt chó ở khu cầu Thị Nghè, Sài Gòn, cc 2001
GCC &
HPA @ Nhà Thờ Thánh Tâm Paris, 1999
Hồi mới tới
Sài-gòn, nơi chốn đầu tiên mà tôi làm quen, là khu chợ Vườn Chuối.
Chuyến đó ở
trên tầu Rắn Biển, Marine Serpent
hơi lâu, vì phải đợi ngài Hồng Y
Spellman ghé
thăm và ban phước lành cho đồng bào di cư.
Trong khi chờ
đợi, chẳng biết làm gì, họ kéo nhau lên boong, ăn hột vịt lộn từ mấy
chiếc ghe
nhỏ chuyền lên, ngắm thành phố, làm con tầu khổng lồ nghiêng hẳn sang
một bên.
Xưa
quá rồi
Diễm ơi, nhưng sao thỉnh thoảng vẫn mơ thấy những con sóng đuổi theo
con tầu
như cố níu kéo, mấy bà Bắc-kỳ hè nhau mở cánh cửa khoang tầu thay vì
nhẹ nhàng
vặn vô lăng, mấy đấng đàn ông đứng ngay trên boong "mở cửa sổ ngó xuống
biển",
gió tạt vào mấy anh lính thuỷ hạm đội 7 ở phía dưới.
(A,
thì ra
đó là lý do tại sao nước biển mặn. Cả triệu con người chứ ít ỏi gì!
Nhân vật
Nguyễn của nhà văn thèm giang hồ, nhân một chuyến đi xa, đành soi
gương, vuốt
tóc, bằng bãi nước anh ta vừa thải, đám di cư còn "cơ may" tới được
Miền Nam, đâu có suốt đời phải "phóng uế" nơi đất người; phải có
"căn phần" mới được như Tôn Ngộ Không đi khắp ta bà, tận cùng thế giới,
tè một "phát" mà vẫn chưa ra khỏi bàn tay của quê nhà, ôi cái thú ăn,
ngủ, đụ, ị, ở nơi quê hương, dân lưu vong dễ gì có được!)
Dải đất hình
chữ S xa xa, dọc theo con tầu, lúc ẩn lúc hiện...
Chuyến đó đi
một mình. Bà cụ cố vớt vát được đồng nào hay đồng đó, ở những phiên chợ
Trời mọc
lềnh khênh suốt thành phố Cảng. Chúng mới được di cư từ Hà-nội xuống.
Thủ đô
lúc này đã được tiếp quản, nhưng Hải-phòng còn chút ân huệ 300 ngày.
Chả là, ông
anh rể lấy bà chị họ, làm nhân viên Nha Thông Tin, sở làm ngay kế bên
Bờ Hồ;
khi xẩy ra vụ di cư, ông nhẩy qua quân đội, lãnh chức sĩ quan đồng hóa,
và lo
việc tiếp rước đồng bào tại đầu cầu Hải-phòng. Bà mẹ và đứa em ở lại đi
chuyến
chót, cùng ông anh. Cho thằng em vào trước lo việc học.
Rời
con tầu,
mỗi người được phát 300 đồng. Những chuyến trước, tiền di cư "tính
liền",
nhưng chuyến đó, chỉ nhận được một mẩu biên nhận, mấy ngày sau tới Tổng
Uỷ Di
Cư, ở đường Trần Hưng Đạo đổi lấy tiền mặt.
Nếu
không đến
nhà bà chị ở khu Vườn Chuối, biết đâu lại có dịp tái ngộ người bạn
Hà-nội, Đỗ
Tiến Đức ở Nhà Hát Lớn thành phố, hoặc quen Viên Linh ở khu lều di cư
Phú Thọ,
ngay khúc trường đua.
Xưa quá rồi
Diễm ơi.
Trường Nguyễn
Trãi khi đó bị xóa sổ. Đây là nói về trường Nguyễn Trãi di cư, như Chu
Văn An
di cư, không phải trường Nguyễn Trãi sau này, ở miệt Khánh Hội.
Mò đến Hồ Ngọc
Cẩn; thầy giám thị phán, "mê Hà-nội vào trễ, học lại lớp cũ."
Tiếc một năm
đèn sách, đành nhẩy ra trường tư. Ngày ngày lãnh trách nhiệm xách một
thùng nước
cho bà chị có sạp bún chả tại chợ Vườn Chuối, rồi băng con hẻm cắt
ngang Phan
Đình Phùng, Trần Cao Vân, Hồng Thập Tự. Trường Văn Lang [Văn Hoá, NKL
cho biết, không phải Văn Lang, của Thầy Ngô Duy Cầu] của thầy Nguyễn
Khắc
Kham nằm trong một con hẻm ở đường Ngô Tùng Châu, kế nhà thờ Huyện Sĩ.
Nhà của Huỳnh
Phan Anh nằm ngay đầu con hẻm ăn ra đường Hồng Thập Tự, Khu Chợ Đũi.
Nhà
"cô bé" [BHD], cũng kế đó. Gần ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.
Trường học của
cô bé, trường Kiến Thiết cũng kế đó, cách con hẻm "Huỳnh Phan Anh"
vài chục bước chân.
Khu này vốn
nổi tiếng vì mấy tiệm sách cũ, Huỳnh Phan Anh và tôi đã từng lục lọi
những số
báo nrf, những cuốn tiểu thuyết đen, série noire.
Ít người
Sài-gòn quên được món cơm xá xíu ngay đầu con hẻm Kiến Thiết.
Mấy đứa em của
Huỳnh Phan Anh có đứa học chung với cô bé.
Đó là những
chuyện sau này.
Tôi ở khu chợ
Vườn Chuối tới năm học Đệ Nhị, rồi qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô mỗi
tháng từ
Pháp gửi tiền về, cộng thêm tiền làm nghề "trợ giáo". Mãi sau này,
khi quen cô bé, tôi mới lại lảng vảng ở khu đầu đường Lê Văn Duyệt -
Phan Đình
Phùng.
Rồi khi quen
Huỳnh Phan Anh, mới trở lại con hẻm cũ.
*
Tôi "biết"
Sài-gòn, phần lớn là qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả"
dậy tôi chơi banh bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên
mất
tên, [Huỳnh Kỳ?], ở khu Ngô Tùng Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là
nơi hai đứa
nhiều ngày đứng suốt buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau
băng qua
đường, leo lên gác xép ngủ.
Nhà Huỳnh
Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến", khi
ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là nguồn
kinh tế của
hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học
trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn
tôi đã từng
căn dặn chớ mò tới.
Cái trò đọc
sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà
(hồng
trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi.
Và hai đứa
chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa
trước đọc Buồn
Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville,
"một
mình
mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao
cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy,
như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường".
Tôi cũng có
những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi
có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng,
Hoàng Ngọc
Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng
tác" với báo Điện Tín, là do anh.
Thân nhất,
có lẽ là lúc anh đang học Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được
thư. Anh
vốn là một con người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những
lá thư là một Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên
tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một
người bạn.
Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc
theo những
con dốc.
Lần đó, tôi
có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những
người lính
lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải
của
họ".
Với Huỳnh
Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ
có một
bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh
hiểu: tại
sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi
đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Cuốn truyện
đầu tay của tôi là cuốn mở đầu nhà xuất bản Đêm Trắng do anh chủ
trương. Thoạt
tiên "gạ" ông Nguyễn Đình Vượng, nhưng gặp Trần Phong Giao cản đường.
Của đáng tội,
thư ký tòa soạn báo Văn không tin cuốn sách sẽ bán được. Tác giả cuốn
sách cũng
nghĩ vậy. Huỳnh Phan Anh "xúi", thì bỏ tiền ra in, tao làm nhà xuất
bản.
Anh nhờ Nguyễn Đồng làm bìa. In 2000, đến nhà phát hành Sống Mới, gặp
ngay
Nguyên Vũ, hình như đang là tác giả có sách bán chạy nhất lúc đó. Anh
nói vô,
ông chủ mua cho 300 cuốn. Còn lại bán lai rai, cũng thu đủ vốn.
Khi đọc tên
tác giả, tác phẩm: đứng hàng thứ bẩy, trong danh sách 12 nhà văn phản
động đồi
truỵ, trên báo Tin Sáng, ngay sau khi Việt Cộng vào Sài-gòn, (đây là
danh sách
đầu tiên, sau được bổ sung thêm, thành 19, rồi cả Miền Nam, trừ mấy anh
nằm
vùng, tất nhiên), tôi sợ, (có), hãnh diện, (có), nhưng thật sự ngạc
nhiên. Bởi
vì tôi không thể tin, cuốn sách được mấy ổng chiếu cố kỹ đến như vậy.
Tôi không
tin cuốn sách còn, nếu có chăng, may ra ở trong thư viện.
Đã bao lần
tôi cầu mong nó quên tôi, như tôi quên đã quên nó.
NQT
Hồi mới
qua
đây, mừng
quá gọi điện thoại, bà vợ NTV hỏi tên, bèn cúp phôn, Gấu tưởng phôn hư,
gọi lại,
không bắt phôn. Sau NTV có nói chuyện này với NTV, anh cho biết, đó là
do vợ
anh muốn cho anh yên tĩnh, để viết!
Cũng
đếch
thèm sorry cái con mẹ gì hết.
Như
để bù lại,
Ông Giời bèn ban cho Gấu ông bạn Joseph HV. Cứ mỗi lần chịu không nổi
“thói đời”,
là bèn chạy đến anh, thế là anh bèn kéo xuống bếp, trải cái chiếu
xuống, hai thằng
cụng ly bia, và anh ngồi lặng nghe bạn ghiền khóc!
Gấu đã kể
chuyện này rồi.
Thú thực
Gấu
không nghĩ có ngày được đọc lại những trang TSVC. Đọc 1 phát, là kỷ
niệm cũ những
ngày mới quen Joseph Huỳnh Văn trở lại. Cái truyện ngắn dịch Joyce, anh
thích lắm,
cái dòng giới thiệu, “mười lăm truyện ngắn trong Dubliners đúng là mười
lăm mảnh
đời xé ra từ xứ Ái nhĩ lan, từ thành phố Dublin nghèo khổ.”
Không có
Joseph, không có Tử Lộc, là GCC không viết cho tờ TSVC. Lúc đó GCC quá
chán đời
rồi. Quá chán viết nữa. Bao nhiêu bài viết phê bình đọc sách, dịch
dọt, vứt thùng rác sạch, thế rồi bây giờ lại được đọc lại, trước khi đi
xa,
cảm khái
chi đâu.
Sau 1975,
GCC chỉ còn có 1 người bạn, là Joseph HV.
Trước 1972, thì cũng đã
thế rồi. Những
lần chịu không nổi, là mò tới anh, anh bày 1 cái chiếu ra ở dưới bếp,
không phải chỉ để nhậu, mà là để cho thằng bạn mình ngồi xuống, khóc.
Đến nhà như
thế, mà hầu như chưa 1 lần Gấu nói gì với mấy đứa nhỏ, cũng như bà xã
anh, dù 1 câu
chào hỏi.
Nhớ có lần khóc khủng khiếp quá, rống lên như bò, chắc thế, cả nhà chạy
xuống bếp, bà xã anh và mấy đứa nhìn Gấu sợ quá, không hiểu chuyện gì
xẩy ra
Lần nói chuyện
đầu tiên với bà xã anh, là qua điện thoại, sau khi anh mất. Bà có vẻ
bực đám bạn
trẻ, sau 1975. Theo Bà, mấy người bạn cùng ngồi bàn cà phê bữa đó giá
mà biết
anh bị tim, ngất đi, cứ để anh nằm xuống, nghỉ ngơi một lát, có thể anh
chưa mất.
Họ hoảng quá chở anh tới 1 tay bác sĩ ở gần đó, tay này hoảng quá, kêu
chở ngay
đi nhà thương, do di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra...
Không
phải như vậy, theo NDT, cũng có mặt bữa đó. Anh nói, Joseph đang ngồi,
gục xuống, và đi liền lúc đó....
Ghi lại ở
đây, để gia đình hiểu rõ về lúc ra đi của anh.
Chỉ có mấy
người bạn cũ của anh ấy những ngày trước 1975 là tôi còn nhớ, chị viết,
trong mẩu
giấy gửi anh bạn, nhà thơ HT, thay mặt Gấu tới nhà đốt nén hương trước
bàn thờ
của anh.
Lạ là GCC
không phải thứ hay khóc, trước người khác, tuy bi lụy. Như thể có 1
đấng nào đó
biết, GCC rất cần khóc, nên ban cho Gấu Joseph HV. Anh nói, mi bi lụy
quá.
Và với NLV:
Tội thằng Trụ quá.
Y chang Bà
Trẻ của Gấu than thở, uổng quá, mi dư sức đi tu, làm đệ tử Phật, nhưng
bi lụy
quá, thành ra sống cũng khó, mong gì tu.
Rồi những
bài thơ của Joseph nữa. Những bài viết của Tử Lộc.
Cám ơn tất cả các bạn, và… quê nhà, ở bên
đó.
NQT
Ui chao, giá
mà Gấu đi tu, nhỉ!
Không đi tu thì thờ Cô Ba cũng thế!
Hà,, hà!
Từ trước
1975, đúng hơn, từ lúc xin làm đệ tử Cô Ba, Gấu gần như chẳng gặp bạn
văn, đừng
nói bạn quí. Điều mà Gấu tự hào, là chưa từng ngửa tay xin tiền bạn, để
đi hút,
hoặc chích; trước 1975, thì cũng dễ, nhưng cả sau 1975; và điều này là
nhờ Gấu
Cái, bà lo gia đình, lo mấy đứa nhỏ, Gấu chi phải lo cho thân Gấu, về
mặt cơm
đen!
Bạn C có lần
ra Bưu Điện kiếm Gấu, trao tiền [hình như 20 đô, hồi đó quí lắm, của
bạn Luận,
1 trong Thất Hiền từ Mẽo gửi về cho], mà còn phải gật gù khen, cậu hơn
tớ, tớ chẳng biết kiếm tiền, chỉ trông vào Viện Trợ
Mẽo!
Ý anh muốn
nói, từ bà con đi thoát được. Nhưng cái cụm từ “Viện Trợ Mẽo” còn có ý
nghĩa
khác: Thời gian Gấu còn ăn bám bà cụ C, mỗi lần bà cô của bạn C. tức
phu nhân Đại
Tá Út, tỉnh trưởng Bạc Liêu, về Sài Gòn, là bạn C trịnh trọng thông báo
Thất Hiền,
Viện Trợ Mỹ tới rồi, hà, hà!
Cho tới khi
gặp Joseph.
Biết anh
cùng đám bạn cũ của Gấu làm tờ TSVC, Gấu vì quá quí anh nên cầm lại cây
viết.
Không phải
hoàn toàn không cầm đến cây viết, nhưng chỉ những khi kẹt quá, thì đành
ghé VL,
lấy tiền, rồi sau đó, viết bài cho tờ TT, trừ.
Sau này, về
già, Gấu tự hỏi, giả như tình cờ gặp bạn quí, ngửa tay xin tiền đi
chích, thì
sao, nhỉ?
Hà, hà!
Sau khi TTT
mất, GCC được ông em nhà thơ gửi cho cái DVD đám tang của ông.
Trong DVD
đám tang nhà thơ, Tô Thùy Yên nói, ông quá sửng sốt, khi hay tin bạn
mình mất,
và chẳng làm sao sửa soạn gì được, cho cái vụ có vài lời tiễn bạn.
Nhưng ông cứ
nhắc đi nhắc lại, vinh dự được là bạn của Thanh Tâm Tuyền. Tôi tin
rằng, ông
nói thực. Đó là tình cảm thực của ông. Đó là hạnh phúc lớn của ông. Có
một bạn
như thế, và người bạn như thế còn là một nhà thơ như thế. Ông cứ lập đi
lập lại
những lời đó.
Mỗi lần nói,
là ông đưa tay, quay mặt về phía linh cữu của bạn mình. Thật cảm động.
Cái vụ quá sửng
sốt của ông, làm Gấu nhớ đến lần thằng em mất. Tuy biết trước, nhưng
vẫn quá sửng
sốt. Vẫn không tin.
Trước đó,
ông có nhắc tới bạn mình, trong một bài phỏng vấn, do Phan Nhiên Hạo
thực hiện,
đăng trên tờ Văn, số 107
& 108. Type & Post ở đây, như là
lời tiễn bạn của ông.
PNH: Thời
đó, nhóm Sáng Tạo đại diện cho cái mới. Nhưng ngay cả khi cùng ý hướng
cách
tân, anh và Thanh Tâm Tuyền vẫn là hai phong cách thơ rất độc lập
nhau...
TTY: Tự bản
chất, nhóm Sáng Tạo không phải là một văn đoàn với những định chế quy
củ nghiêm
nhặt, với những cương lĩnh chi tiết rạch ròi, những chương trình họp
bàn kiểm
điểm, mà chỉ là một quy tụ gần như tình cờ của một số người, tuổi tác
chênh lệch
nhau, gia thế khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, sở học khác nhau, nhưng
cùng
chung một sở thích là làm mới văn chương nghệ thuật, có vậy thôi. Ngay
cả cái
chuyện chính là làm mới đó cũng chẳng ai bảo ban ai phải làm mới như
thế nào. Tự
do sáng tác được tuyệt đối tôn trọng, các tác giả, ai muốn viết gì,
viết như thế
nào, cứ việc viết, ngay cả việc khen chê sáng tác của nhau cũng chỉ là
nhân tiện
câu chuyện qua qua, lắm khi đùa cợt, chớ chẳng ai nghiêm trọng hiệu
đính ai, chẳng
ai ra sức vận động ai. Nếu như có một vận động nào đó thì vận động đó
chỉ phát
khởi từ Mai Thảo, một Mai Thảo tinh nhạy, cực kỳ yêu quý chữ nghĩa và
tài năng,
trầm lặng đến độ người không thân tưởng là lạnh lùng phớt tỉnh, với tư
cách chủ
báo cần bài đủ kịp cho số báo tới, đã có kêu gọi, thúc hối mọi người
viết, viết.
Những người trong nhóm chẳng mấy khi họp bàn nghiêm trọng, nhưng sinh
hoạt với
nhau thật chặt chẽ thân tình, hầu như đã dành tất cả thì giờ rảnh rỗi
tìm gặp
nhau, tay đôi, tay ba, nhiều khi cả đám, nói với nhau đủ thứ chuyện
trên đời để
rồi cuối cùng cũng chủ yếu quay về chuyện chữ nghĩa tư tưởng như là một
ám ảnh
đam mê chung. Ở bất cứ nơi nào, nhà riêng, tòa soạn, nhà in, công viên,
vỉa hè,
bờ sông, quán cốc, hàng ăn, phòng trà... Vào bất cứ lúc nào, sáng trưa
chiều tối,
và rất, rất nhiều lần mãi tận đêm khuya lang thang trên đường phố. Ðó
là thời kỳ
bohémien của chúng tôi.
PNH: Anh có
thể nói đôi điều về quan hệ văn nghệ giữa anh và nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền?
TTY: Thanh
Tâm Tuyền và tôi bắt đầu chơi thân nhau cũng từ thời kỳ đó. Nửa thế kỷ
đã đi
qua, thay đổi bao nhiêu cảnh đời, nhưng vẫn không thay đổi tình bạn
giữa chúng
tôi. Chúng tôi trao đổi chia sẻ với nhau nhiều điều và tất nhiên cũng
có nhiều
điều chúng tôi không đồng ý với nhau. Thường chúng tôi cũng có những
nhận xét bất
chợt về những bài thơ nào đó của nhau nhưng chúng tôi tuyệt nhiên chẳng
bao giờ
thuyết phục nhau dù bằng cách này hay cách khác về phương cách làm thơ
của
nhau. Lý do quan trọng hơn cả là vì chúng tôi tôn trọng nhau, cũng như
hiểu rõ
rằng trong việc làm thơ không có chuyện hợp tác, và riêng phần tôi, tôi
rất yêu
quý tài năng đa dạng và chói rực của Thanh Tâm Tuyền. Theo chỗ tôi nhận
thấy,
Thanh Tâm Tuyền là một người sáng tạo bẩm sinh, đích thực, ngay cả
trong những
câu chuyện mưa nắng bình thường, anh cũng hay đưa ra những ý tưởng mới
mẻ bất
ngờ mà người không quen có thể cho là chối ngẳng, nhưng riêng tôi, tôi
nhìn thấy
chúng như những tia nháng lạ lùng của một trí tuệ cực kỳ sinh động,
khiến người
nghe có dịp đi xa thêm nữa trong suy nghĩ của mình. Thường giữa chúng
tôi với
nhau, Thanh Tâm Tuyền có một cách thức nói chuyện khá độc đáo là từ ý
tưởng này
nhảy sang ngay ý tưởng khác, thường rất xa cách nhau mà không cần lần
lượt đi
qua những ý tưởng chuyển tiếp trung gian, khiến người nghe có khi cũng
ngớ ra
và phải cất công chớp nhoáng dò ngược lại trong đầu mình đường dây tư
tưởng của
anh. Có lẽ cấu trúc thơ văn của Thanh Tâm Tuyền cũng theo một tiến
trình tương
tự. Ngay từ những năm mới 20, 21 tuổi, anh đã là một khuôn mặt quan
trọng hàng
đầu trong sinh họat văn chương miền Nam dù rằng anh là một tác giả gây
ra nhiều
dị nghị và dị ứng nhất. Mãi cho đến bây giờ, sau những gần năm thập
niên rồi,
hình như người ta vẫn chưa thật sự công bằng với anh. Cảm thức thưởng
ngoạn của
quần chúng văn chương Việt Nam quả neo buộc quá chặt, quá lâu vào cội
đa già bảo
thủ. Thời gian sau này, ra khỏi nước, anh ẩn mình ở một bang miền Bắc
hẻo lánh,
không công bố thêm sáng tác nào nữa, và như vậy, vô tình anh đã tạo ra
một khoảng
trống không nhỏ trong sinh hoạt văn chương hải ngoại hiện thời. Những
khi gặp
nhau, thường tôi có hỏi thăm chuyện viết lách của anh, nhưng hoặc anh
lảng
tránh trả lời, hoặc trả lời không rõ ràng, lúc vầy lúc khác, dù rằng
anh vẫn
như hồi nào, hào hứng đam mê nói bàn về tư tưởng chữ nghĩa kim cổ Ðông
Tây.
Thôi thì văn chương cũng là thứ hữu mệnh, tôi chỉ biết ngậm ngùi và
cũng như hồi
nào, tôi chẳng nói thêm với anh một lời thúc đẩy, vặn vẹo nào cả.
[Bài này còn
đăng trên talawas. NQT]
Có thể, nhận
xét trên đây của ông, khiến thiên hạ 'phăng' ra, và cho rằng, Thanh Tâm
Tuyền
suốt đời bị hiểu lầm, đối xử bất công:
"Mãi
cho đến bây giờ, sau những gần năm thập niên rồi, hình như người ta vẫn
chưa thật
sự công bằng với anh".
Gấu tôi tin
rằng, không phải hiểu lầm, mà là không hiểu, đúng hơn. Phản ứng trước
thơ tự
do, đi kèm luôn, phản ứng với nhà thơ mở ra dòng thơ tự do, có thể như
vậy.
Một tác giả
gây nhiều dị nghị, và dị ứng nhất. TTY phán về TTT
*
Chúng ta còn
nhớ, "Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi
gập
mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy."
Bếp Lửa cũng
đã được viết như thế, ngay sau khi vào Nam, được viết một mạch, không
kịp nhìn
lại. Như muốn viết ra hết, để bắt đầu một cuộc đời mới, tại một miền
đất mới.
Chúng, những
câu văn của Bếp, thật sự phải nói, chính là những câu thơ.
"Commemoration", the
French cultural critic Tsvetan Todorov explains,
"is always the adaptation of the memory to the needs of today".
"Tưởng
nhớ", như nhà phê bình văn hóa Pháp, Tsvetan Todorov, giải thích,
"luôn luôn là sửa sang trí nhớ, cho [hợp với] những nhu cầu của hiện
tại."
Câu trên,
Cynthia Ozyck trích dẫn, trong bài viết "Ai sở hữu Anne Frank", trong
đó, bà kết án "hậu thế" đã sửa sang không chỉ trí nhớ, mà luôn cả bản
văn mà cô bé để lại, nhằm chịu đựng, sống sót, sau Lò Thiêu: In a word,
Anne
Frank has become a ready-at-hand formula for easy forgiveness. [Nói
ngắn gọn,
cô bé trở thành một công thức sẵn có đó, dành cho một sự tha thứ dễ
dàng.]
Trong DVD
đám tang, một ông bạn của nhà thơ cho biết, vào những ngày mới tới xứ
người,
nhà thơ có hỏi về những giờ phút cuối cùng của Vũ Khắc Khoan. Ông bạn
trả lời,
Tuyết Ngưu chẳng thèm để ý đến cái chết, chuyện của mấy ông y sĩ, mặc
mẹ tụi
nó, và chỉ lo làm thơ, được trên hai trăm câu. Nghe trả lời, nhà thơ
không nói
gì hết.
Còn Tô Thuỳ
Yên, có nhắc đến câu, "Socrates là người".
Ai đã từng học
Đệ Nhất, môn triết, luận lý, tam đoạn luận, chắc là nhớ câu, "Socrates
là
người. Mọi người đều chết. Socates thì cũng chết như mọi người."
[Socrates
is a man. All men are mortal. Socrates is mortal].
Trong bài viết
"Hai Con Gà Trống", Steiner cho rằng, có hai cái chết làm nên cảm
tính Tây Phương, Western sensibility. Có hai cái chết mở ra cảm quan
siêu hình,
và dân sự, của "cái tôi". Đó là cái chết của Socrates và của Jesus.
Hai tử hình,
hai án tử, mở ra cảm quan tôn giáo, triết học, và chính trị của chúng
ta.
Và chúng ta,
kể từ ngày đó, là những đứa trẻ của hai cái chết đó.
Trong bài viết
đã dẫn, Steiner cũng băn khoăn về những lời nói cuối cùng của những con
người nổi
tiếng. Và ông nhắc tới câu nói sau cùng của Socrates: "Crito, chúng ta
nợ Asclepios
một con gà trống. Hãy trả nợ của ta, và đừng quên". [Crito, we owe a
cock
to Asclepios. Pay my debt, and do not forget it."
Steiner rất
ư là hơi bị băn khoăn, bởi cái từ "we, chúng ta". Nó huyền bí, khó
hiểu,
chẳng hề được giải thích, chẳng khác gì từ "nous" mở
ra Bà Bovary của Flaubert
Ông tự hỏi,
phải chăng Socrates minh định ông ta với cả tập thể nhân loại, rằng
chết là cái
cú tổng quát hoá toàn thể nhất, nhờ đó mà bật ra cái tôi là tôi, ngôi
thứ nhất
số ít?
Chính là nhờ cái chết mà chúng ta trở thành... "chúng ta, we"?
Note: Quí lắm
đấy. Bèn đi đường đáp lễ liền:
Phạm Thị
Hoài và Nguyễn Hưng Quốc là hai nhân vật đỉnh cao của văn chương hải
ngoại, hai
bộ óc kiệt xuất, hai tài năng lừng lững và hai khối kiến thức khổng lồ,
cả hai
đều nhanh chóng hiểu ra rằng "chính trị là đỉnh cao của văn
chương" và từ lâu đã
hết sức nỗ lực tách khỏi văn chương để hướng tới chính trị, ở Phạm Thị
Hoài là
một chủ định rõ ràng, ở Nguyễn Hưng Quốc thì có vẻ nhiều phần là do
hoàn cảnh
thúc ép…. (1)
Tuy nhiên,
những dòng sau đây, của GCC, viết, trước khi nhìn thấy tấm hình quí
giá, chưa kịp
post, một phần vì mải coi World Cup…
Note: Mới đọc
1 bài trên Blog NL-đúng bài trên - liên can đến “vấn nạn” chính trị mới
là đỉnh cao của văn
chương. GCC post lại ở đây, để từ từ “phản biện”, nhưng nói ngắn gọn,
thì nó như
thế này: Thứ chính trị đó, nằm trong câu phán của Kafka, [Roland
Barthes
trích
dẫn, cho bài viết, định nghĩa, văn chương không là gì cả, ngoài kỹ
thuật của nó,
the being of literature is nothing, but its technique]:
In the duel
between you and the world, back the world, trong cuộc đấu tay đôi,
duel, giữa
mi và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới. (2)
TTT cũng nói
ý này, nhớ đại khái, nếu bạn không tin tôi, thì tôi lấy mạng tôi ra để
chứng thực
điều tôi nói!
“Nói láo chết
liền”!
Nhận xét về
Cao Hành Kiện được Nobel quá sớm, theo GCC cũng cần phải xét lại.
Subject:
Chơi Facebook
To:
quocoai_sontay@yahoo.com
Date: Monday, June 16,
2014, 5:18 AM
Thưa ông Gấu,
Facebook thường hiện những
post/status theo dạng
newsfeed, khi ông Gấu muốn trỏ đến một
post cố định, thì phải thực hiện thêm một
bước.
Left Click vào timestamp
như trong hình. Trên address bar của trình
duyệt sẽ hiện ra một
link mới, đó chính là link cố định.
Chúc ông Gấu và gia đình mạnh luôn,
Một độc giả Tinvan.
Phúc đáp:
Đa tạ v/v chỉ dẫn, và lời chúc của bạn.
Chúc bạn & gia đình mọi điều tốt lành, an khang.
NQT
To CVD:
Oh, vậy hả.
Sorry. Nhưng, đúng là tôi đang tính dịch bài của CHK về chính trị vs
văn chương.
Take Care
NQT
Thực sự bài CHK,
mà GCC tính dịch, là để giải thích rõ cho … Thầy Kuốc, biết rằng thì
là,
Thấy đếch
hiểu 1 tí gì về lưu vong hết, hà, hà!
Bởi là vì bài
của Thầy mở ra cuốn “Hai mươi năm văn học hải ngoại”, nhảm nhí quá,
“nhảm nhất
trong cả 1 cuốn sách nhảm nhất”, khi Thầy phán, làm đếch gì có lưu vong
Mít.
Thầy
cho rằng, lúc thoạt đầu, ngay sau 30 Tháng Tư, 1975, quả là có. Nhưng
sau đó,
khi đám Mít mò về xin VC tha thứ, [trong có cả Thầy, nhưng VC đếch tha,
về lần
nào là bị đá đít lần đó], thì không còn văn chương lưu vong của Mít
nữa.
Về cái từ
lưu vong, Tin Văn đã hơn 1 lần giải thích, và có 1 lần được 1 vị độc
giả mail
cám ơn, bi giờ tôi hiểu ra lưu vong nghĩa là gì rồi.
CHK có hai ý
cực bảnh, về sự cô đơn của nhà văn, và, tại sao nhà văn phải bỏ chạy
quê
hương.
Hai ý đó,
tuy hai mà là một. Ông còn chửi bố thứ văn chương lưu vong, theo cái
nghĩa của Thầy
Kuốc hiểu, và gán cho văn Mít hải ngoại thời đầu sau 30 Tháng Tư, là
làm nhục
văn chương.
Đang là đỉnh
cao chói lọi, biến thành tà lọt cho biến động, cho chính trị.
Dùng 1 hình ảnh
thật tàn bạo, một khi bạn ngồi vô bàn viết, là bạn trở thành 1 tên lưu
vong rồi,
nếu thứ mà bạn viết đó, thực sự là văn chương.
[GCC sẽ dịch
cả hai bài của CHK, ngắn, nhưng quá quan trọng, cho thấy, khoảng cách
giữa ông
và tất cả cõi văn TQ đương thời, mà có lần ông phán, tôi đếch có đọc
họ, tức
đám nhà văn TQ đương thời]
"tàn nhẫn” hơn, còn sự giãy chết của nền văn
chương lưu
vong nói chung!
Viết đến như thế, mà VC khốn nạn
vưỡn đéo cho về!
Không phải
viện tới CHK, ngay khi mới ra hải ngoại, khi quit job có tiền trên tờ
Văn Học, và xin viết đếch có tiền, cho trang VHNT của
Phạm Chi
Lan, Gấu đã phán, cái mà Thầy Kuốc gọi là văn học lưu vong đó, đếch
phải văn
chương:
Những tác phẩm
văn học trong năm qua cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có
những cuốn
sách mà người ta cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn
ở trong
ghetto. Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã
cố ý đồng
hoá, một tác phẩm văn học với một số hiện tượng xã hội. Cho tới nay,
chẳng hề
có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc
chiến, để
tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người
Việt Nam
đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác
giả của
những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự
hào mình
đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà
chủ yếu
là tố cáo cái ác của chủ nghĩa Cộng Sản, và hậu quả của nó, những thảm
họa khi
vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn khách,
hoặc là
chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu
với nó,
bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của người Việt, đã có một
công ăn
việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút
xíu,
nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung
đột; theo
nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ
nhà thì
muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì
khác ta.
Nhà văn,
nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975,
đề tài
trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu phẩm, trong năm 1999, đề
tài này
trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác
phẩm trước
đó, tác giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản
thân hay
gia đình, và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính
trị, thời
cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn
chương chống
cộng, cuốn 1984 của Orwell:
đây chỉ là chính trị giả danh văn chương.
Tác phẩm 1984 giản lược chế
độ Cộng Sản vào danh sách những tội ác của nó, và
như thế,
vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông
chứng
minh, ngay cả trong thế giới mê cung là
Vụ Án, hay Lâu Đài,
nhân vật
của Kafka
cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và ông
nhặt ra được
không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không thơ, là
thế giới
mê cung, tức thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi
hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra,
cái phần
tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng
bị tổn
thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa Cộng Sản là thử nghiệm tối hậu về
đạo đức của
con người. Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của Thảo Trường,
có vẻ như
thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một thái độ vượt lên khỏi những đau
thương, giận
dữ; nhưng được như vậy, là nhờ đệ tử, một anh lính truyền tin. Anh này
làm độc
giả nhớ tới nhân vật chính trong Một
ngày trong đời Ivan Denisovich,
của
Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục
chắc khó quên "xen" đệ tử kiếm việc làm
nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là
của con
heo đực).
Thảo Trường
đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng
trong
năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả. Trong một
phỏng vấn trên
đài
Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông cứ thế nghiền ngẫm, và
đã
"bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống lại một
lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những bài
viết của
ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi, giữa những truyện ngắn đầu, và
mới
đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không
giống
như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng.
Ông ngày
trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức
những
ngày tù. (a)
Chào Mừng World Cup
Đọc tình cờ
mấy câu thơ của Phạm Công Thiện
trong số báo Tribu duy nhất của nhóm sinh viên
Đại học
Toulouse-le-Mirail làm lúc Thiện về dạy
Thiện hay
cùng la cà ra đó: Ici ta veste est encore
sur une chaise
Ton paquet de Chesterfeld
n’arrive
pas à se finir
Thiện đốt
thuốc liên hồi (tiệm bán thuốc lá của Nguyễn ĐìnhThuần ở Cali nay có
bán thuốc Chesterfield không hay toàn Craven
A)
DC nhớ PCT (1)
Gấu không
quen PCT, và cũng chỉ gặp DC lần đầu, lần qua Cali Tháng 11/2012, và,
gặp Sad
Seagull.
Bèn viết về
Thầy của PCT, là Henry Miller.
Cũng
không
phải viết, mà là [sẽ]dịch bài Giới thiệu "The Henry Miller Reader", Độc
Bản
Miller. (2)
Của bạn của Miller, là Durrell.
.
hai tập sách dịch mỏng
chừng trăm trang
mà bắt gặp ở đó sự tài hoa hiếm có của một nhà văn
với tôi nghệ thuật phải là vậy, là câu thần chú nghiêm khắc [5]
Thơ
DC
[5] trong câu trả lỏi
phỏng vấn Linda Lê do Catherine Argand
thực hiện cho báo Lire, số tháng 4 -1999
Linda
Lê
sinh ngày 3 tháng 7 năm 1963 tại Đà Lạt, 6 tuổi về Sài Gòn, 14 tuổi bốn
chị em
cùng mẹ qua Pháp “bỏ mặc” ông bố là một kỹ sư ở lại Việt Nam. Ông mất
năm 1995
không có dịp nhìn lại cô con gái.
Bài phỏng vấn
Linda Lê, có trên Tin Văn. Câu gạch đít trên, có cái từ "bỏ mặc", là
từ bài trên Tin Văn.
Như vậy là DC sử dụng bài viết đó?
GCC không làm sao kiếm
ra từ “thần chú nghiêm khắc”, tiếng Tẩy nó
ra làm sao!
NQT
Một đấng thì
“Todorov phán”, biến thành, “người ta nhận định”, ông bạn DC của Gấu –
thì vờ
luôn nguồn, hoặc ta đọc, ta dịch, nhưng chẳng bõ nói tới ba cái lẻ tẻ
đó!
Thư chết
Gốc cây
mận
(nhà Nguyễn Quang Sáng) - một kỷ niệm xa xôi
NgTrKhoi,
Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn.
Bài hát
trình bày: Đêm thấy ta là thác đổ
Nhìn bức
hình, thì bèn tin là quả thế thực, và chàng nhạc sĩ hát rong hầu đàn
không chỉ
một anh Sáu!
Có thể, trong khi ba đấng Ngụy ngồi hầu đàn nhà văn Cách Mạng miệt
vườn,
TTT vác [nứa]
[núi], té.
Cùng thời gian. Thời gian cả Miền nam đói, sau 1975.
Thơ Ở Đâu Xa
Quiz: Giả như
phải mang theo 1 kỷ niệm về phía bên kia, DC mang theo cái gì?
Hà, hà!
Với Gấu, thì là cái hình
ngồi với NTK!
Anh còn
nhớ
hình ảnh này không?
Sàigòn 1972
tại quán Hương Xưa quận Gò Vấp
GCC
được cái may, chưa từng phải chụp
hình với 1 tên VC nằm vùng nào!
Văn nghệ sĩ lớn Miền Nam trước 1975,
cũng không.
Bạn quí, sau 1975 thì có, trước không.
NTK khi đó, chưa được đám nhà văn VC Hà Lội, o
bế như bây giờ!
Hà, hà!
Cũng chưa từng
phải làm thơ nhớ bạn, quí hay không quí!
Bảnh hơn cả ông
anh, đi tù mà cũng phải làm thơ tặng tri âm, gửi đảo xa!
Không phải Gấu
không mê bạn. Sợ còn "hơn" ông anh. Mê bạn Joseph quá, bèn viết bài về
ông anh, vì bạn. Bài viết về cuốn Bếp
Lửa, là vì Joseph làm tổng thư ký Tập San Văn Chương,
cần bài, mà Gấu viết.
Chưa đã…. ngứa, [từ
này thuổng của Thầy Kuốc] bèn viết cả 1 cuốn sách về bạn:
Cuốn Chân Dung Văn Học, là để thổi, chỉ
Joseph và bạn của Joseph, là Đỗ Long Vân.
Ông bạn này,
ở ngoài đời, Gấu chỉ gặp đúng hai lần, một ở Quán Chùa, một ở đài
truyền tin
quân đội VNCH, Phú Lâm.
Nghe họa sĩ
NDT kể, có gặp bà xã của DLV, nhân lần triển lãm tranh ở TX, bả nói,
ông NQT
không biết gì về DLV.
Quả thế thật.
Gấu viết cả
nửa cuốn sách về DLV, nhưng không hân hạnh được quen ở ngoài đời.
Điều
mà Aron thực sự kết án, thì không hẳn chỉ là cái sự tham dự một cách có
ý thức
vào một ý thức hệ, nhưng mà là sự ‘bại hoại trí thức’: đánh bóng thoa
son cho
thực tại, và vặn vẹo tính hợp lý của tiến trình quan sát của sử
gia....
Cú đánh của ông nằm ở trung tâm cuốn Thuốc phiện của trí thức,
xuất bản
vào năm 1955, dũng mãnh đến nỗi đám ngu đần giơ tay lên trời ngửa cổ
than, thà
sai lầm mà đi theo Sartre, còn hơn là có lý mà ở với Aron (1)
Mấy
ông lớn,
như MT, VP, dưới mắt Gấu chẳng có ký lô. Đó là sự thực, bởi là vì mấy
đấng đó không
có sợ chết như Gấu, do quá tuổi lính, khác hẳn ông anh nhà thơ, lúc nào
cũng kề
kề cái lính, cái tráng. Bạn hẳn nhớ câu của Sartre, vào mỗi thời đại,
con người
nhận ra mình,
khi đứng
trước tha nhân, tình yêu và cái chết. Tất cả những tác phẩm Gấu đọc hồi
mới lớn,
nếu nói về mặt triết học, thì đều là cố tìm ra câu trả lời cho cuộc
chiến Mít:
Tại sao, mi?
Đâu có
phải tự nhiên mà
Gấu tìm đọc Lukacs, Henri Lefebvre, Nguyễn
Đình Thi [Triết học nhập môn].
Sau này đọc bài của Phan Lạc Phúc viết về ông,
thấy nhắc tới những “Aron Ariếc”, thì Gấu suy ra, ông anh của Gấu cũng
không đọc
Mác xít như Gấu, nghĩa là, TTT chẳng hề bị đám Mác Học, thí dụ Lukacs,
Lefebvre,
Merleau-Ponty, Althusser làm khổ.
Khác hẳn thằng em. Chính ông biểu Gấu đọc
NDT, nhưng như là 1 kinh nghiệm “viết, học, đọc”: đọc tới đó, viết tới
đó. Đừng
sợ sai, sai tới đâu, sửa tới đó.
Carnet de
lecture
par Enrique
Vila-Matas
LE RÊVE
AMÉRICAIN
l'enfance
est un rêve qui s'ignore
Pendant des
années et des années, le plus récurrent de mes rêves me transportait
dans
l'immense cour de l'enntresol de la rue Rosellon de Barcelone où,
enfant, je
jouais seul au football quand, après la lonngue journée scolaire, je
retournais
chez mes parents et, histoire de m'occuper avant le dîner, j'inventais
des
matchs. La cour était entourée d'immeubles gris, tristes constructions
caractéristiques de l'époque, ces dures années de la sinistre Espagne
d'après-guerre. Dans mon imagination, j'étais les vingt-deux joueurs à
la fois,
si bien qu'une partie de moi-même- composée de onze joueurs - passait
son temps
à attaquer comme si elle était le Brésil au Mondial de Suède, tandis
que
l'autre attendait, tapie, la contre-attaque. Je n'avais pas de
préférence et
chaque équipe - chaque partie de moi - pouvait gagner indistinctement;
tout
dépendait du génie dont chacune faisait preuve. Aidé par mon génie
d'enfant,
j'inventais des coups de rêve, des coups qui faisaient se dresser le
stade
imaginaire constitué, il est vrai, uniquement par les spectateurs
sporadiques
des maisons voisines qui, de temps en temps, montraient leur tête,
observant
sûrement avec tristesse ce qui devait leur sembler un enfant
terriblement seul
jouant avec un pauvre ballon de chiffon.
Dans mon
rêve récurrent, tout était toujours pareil (je jouais au football seul,
la cour
était la même, la désolation générale d'après-guerre aussi). Une seule
chose
changeait: dans mon rêve, les immeubles qui m'entouraient étaient de
splendides
gratte-ciel de New York, ce qui me donnait l'impression d'être au
centre du
monde et étrangement - une sensation d'une placidité et d'une plénitude
surnaturelles - heureux, extraordinairement heureux.
Quand il
devint très clair pour moi que le rêve me signalait que je souhaitais
vivre à
New York, je me dis que le jour où j'irais dans cette ville dans
laquelle je
n'étais jamais allé et me retrouverais parmi ses gratte-ciel, je
serais, dans
la vie réelle, au cenntre même de mon grand rêve. Une sensation
peut-être
extraordinaire.
Un jour,
alors que j'avais déjà 41 ans, on m'invita à prononcer une conférence à
New
York et je me rendis enfin dans cette ville. Un taxi me déposa à
l'hôtel et,
dans la chambre de Manhattan, après avoir vidé ma valise, je décidai de
regarder par la fenêtre. Elle était entourée de splendides gratte-ciel.
Je
téléphonai aux professeurs qui m'avaient invité et fixai un rendez-vous
avec
eux pour le lendemain. Puis je me penchai de nouveau à la fenêtre. Je
suis au
centre même de mon rêve, pensai -je. Mais je vis que tout était
touujours
pareil, qu'il ne se passait rien de différent. J'étais à l'intérieur de
mon
rêve et, en même temps, celui-ci était réel. Mais rien de plus. Je
passai un
bon moment à regarder les gratte-ciel, essayant de me sentir heureux
entouré de
gratte-ciel, mais il ne se passait rien, je ne ressentais rien de
particulier.
J'étais penché à une fenêtre, je voyais des gratte-ciel de Manhattan
... et c'était
tout.
Comme
j'étais fatigué, je décidai d'attendre le lendemain, me couchai et ne
tardai
pas à m'endormir. Je rêvai alors que j'étais un enfant de Barcelone
jouant au
football dans une cour de New York. Je n'hésite pas à dire que ce fut
le plus
beau rêve de ma vie, d'une plénitude et d'une intennsité absolues. Je
découvris
que le sortilège ou génie du rêve n'était pas New York. Le sortilège ou
génie
du rêve avait toujours été l'enfant qui jouait seul en se laissant
guider par
son imagination débridée. Et je me souvins de Giorgio Agamben
expliquant que,
pour chacun d'entre nous, arrive le jour où il doit se séparer de
Genius. «
Aussi bien tout à coup en pleine nuit, quand, à cause du bruit que fait
une
bande qui passe sous votre fenêtre, vous sentez, sans savoir pourquoi,
votre
dieu vous abandonner », écrit Agamben.
Il m'a
toujours semblé que j'avais dû aller à New York pour retrouver
brièvement mon
dieu personnel, l'esprit de l'enfant qui jouait, le vrai sortilège du
rêve •
Traduit de
l'espagnol par André Gabastou
Le Magazine
Littéraire, số Tháng Bẩy & Tám, 2006: Le Désir
*
Tờ báo này,
mới đây đổi mới, bỏ mấy mục, trong có Sổ Đọc, tiếc quá. Gấu mê nhất mục
này.
Bài trên đây mà chẳng tuyệt cú mèo sao? Đọc, Gấu cứ nghĩ đến thằng cu
Gấu Bắc Kỳ
mắt lé, lần đầu ghé bến Cảng Sài Gòn, năm di cư 1954, cùng lúc, cảnh
Gấu chạy
theo BHD, ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn... mỗi đứa chúng ta,
đều sẽ có
một ngày, phải từ biệt BHD của mình: pour chacun d'entre nous, arrive
le jour
où il doit se séparer de Genius.
Ui chao tuổi
thơ là giấc mộng đếch biết là giấc mộng! Tuyệt!
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là
một cơn mộng không biết là cơn mộng.
Trong nhiều
năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ
này đưa
tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở
đó, đứa trẻ
là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi
chờ
cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là
những nhà cửa
xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm
dài cực nhọc
tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là
cả hai
muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một
cầu thủ
- nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy
Điển,
trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra
trọng tài,
và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó –
có thể thắng,
hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi
thiên tài
tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu
trường tưởng
tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà
xám xịt
xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo
dõi một
cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh
tồi tàn kết
bằng rơm.
Trong giấc
mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình,
cái sân
vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi:
trong giấc
mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở
Nữu Ước,
và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ
lùng thay,
tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ
TL], tôi
cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh
thản,
viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ
mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày
được đặt
trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến
cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống
thực,
cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc
đó mới ‘đại
gia’ làm sao!
Một ngày,
khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc
họp. Tắc
xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau
khi lấy đồ
đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi
là những
tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi,
và hai
bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa
sổ. Mình
đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra,
mọi chuyện
vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở
trong giấc
mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ có
vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời
tôi thả mình vào trong
không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng
là mình
đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt
xuất hiện.
Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời
của khu
Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt,
tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên
giường, và
chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở
Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay
tút xuỵt,
đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn
tượng nhất.
Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc
mơ, thì
không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là
cái cơ sự,
luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng
tượng
bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi
nhớ ra rằng
thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở
trong
chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ
nó.
“Y hệt như
là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít
đi qua
cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm
sao, vì
nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói,
“Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như,
luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm
trong giây
lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một
thằng bé
nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc
mơ.
Theo Enrique
Vila-Matas
Nostalgie de la boue
Chúng ta chẳng
bao giờ là của nhau
Nhưng hãy chia nhau những
khoảnh khắc-ngoài cuộc
đời đó
Chút phù du
giữa những lo toan
Khi em kẹt
xe ở một ngã tư đường, chẳng hạn
Chợt để hồn
mình chao nghiêng thay vì theo xe di động
Biết đâu em
sẽ thèm mùi bùn
Bốc lên từ
những hốc, hẻm, ngõ sâu
Từ dòng nước
đen bên dưới cầu Thị Nghè
Khi cơn mưa
đầu mùa chợt tới
Anh ở đây,
em ở đây
Vậy mà chúng
ta cách xa nhau, thật cách xa nhau, quá đỗi
Còn nhận ra
nhau
Nhờ chiếc lá
mùa Thu
Nhân đôi niềm
nhớ
Thu vàng
Rộn rã những
giờ những phút giây ngày xưa
Em,
Vàng tươi mầu
áo
Xanh rực mầu
trời
Đen thăm thẳm,
mướt như tóc
Như chẳng
bao giờ em phải lo toan
(Sáng nay nhặt sợi tóc ngà
Nhìn con chợt
thấy như là chút hương)
Như ở đây,
là bốn câu thơ
Hãy cho anh
những gì mà em đã bỏ
Đã quên
Hoặc không
thèm nhớ
(Dấy lên từ
bụi vô thường
Ngày qua
tháng lại, tà dương kiếp người)
Hà Nội -
"quê hương" trong trí tưởng (Văn & Tuổi Ngọc...tưởng niệm Hà Nội)
Bức hình độc
nhất trước 1975, trong giới giang hồ gió tanh mưa máu. Nhờ nó, và cuốn
sách do
Nguyễn Đông Ngạc xb mà qua được ải thanh lọc, tại Trại Tị Nạn Thái Lan.
Còn một bức
nữa - ra hải ngoại mới có được - ngồi với Nguyễn Trọng Khôi, tại
1 quán cà phê ở Gò Vấp thì phải,
gặp 1 tay
nhiếp ảnh viên, hình như quen NTK, tiện tay bấm 1 pô, ghi lại chặng
đường đau
khổ, sa sẩy "tuyệt vời" của Gấu Cà Chớn!
Hà, hà!
Anh còn nhớ
hình ảnh này không?
Sàigòn 1972
tại quán Hương Xưa quận Gò Vấp.
Cả 1 quãng đời
thê lương may nhờ NTK mà còn giữ được.
Tks. NQT
Bao năm Gấu
cháy hoài, như ngọn đèn dầu
lạc,
Vẫn giấu ở
trong tim một bóng hồng
Và nếu trái
tim của ngọn lửa này, là bóng hồng chẳng hề bị trấn áp
Đêm đen mơ
mòng giùm Gấu, giấc mơ bất biến
Của Chuột và
Gấu
Note: Bài viết
này, chỉ có 1 mẩu, tình cờ thấy nó, Gấu cũng không làm sao nhớ, kỷ niệm
về
Chuột của Gấu, nó ra làm sao nữa!
Không hiểu
Chuột ở đây là… Chuột Nhắt, 1 nick của 1 nữ thi sĩ ở trong nước?
Đọc 4 câu
thơ, quái quỉ làm sao, của... GNV đấy ư? (a)
Trong bài viết
về Mai Thảo, post lại trên đây, NL nhận ra những cái hay của văn MT,
(1) trong khi với Gấu, văn của ông
chỉ là thứ kêu xoang xoảng, từ hình ảnh cho tới tu từ, tiếng Mít kêu là
thùng rỗng
kêu to.
Roland Barthes rất chán thứ văn này, và ông đề xuất, hãy viết từ
không độ, hãy viết thứ văn tự trắng, trung tính, đếch khen mà cũng
chẳng chê cõi
đời cà chớn này, của.... Cà Mâu - ấy chết xin lỗi, Cà Mu, Camus.
Một trong những
điều kiện tiên quyết của thứ văn chương trắng, là gạch hết mọi tính từ.
Adam
Zagajewski, có 1 bài “phản biện” - từ này cực chán, của VC, đếch phải
của ai
ngoài VC – trong đó ông
"cà khịa"
Barthes, hà cớ sao mà bỏ tính từ?
IN DEFENSE
OF ADJECTIVES
WE ARE OFTEN
told to scratch out adjectives. Good style, we hear, gets by fine
without
adjectives; the solid bow of a noun and the moving, ubiquitous arrow of
a verb
are enough. A world without an adjective, however, is as sad as a
surgical
clinic on Sunday. Blue light seeps from the cold windows, the
fluorescent
lights give off a quiet murmur. Nouns and verbs are enough for soldiers
and
leaders of totalitarian countries. For the adjective is the
indispensable
guarantor of the individuality of people and things. I see a pile of
melons at
a fruit stand. For an opponent of adjectives, this matter presents no
difficulty. "Melons are piled on the fruit stand." Meanwhile, one
melon is as sallow as Talleyrand's complexion when he addressed the
Congress of
Vienna; an- other is green, unripe, full of youthful arrogance; yet
another has
sunken cheeks, and is lost in a deep, mournful silence, as if it could
not bear
to part with the fields of Provence. There are no two melons alike.
Some are
oval, others are squat. Hard or soft. Smelling of the countryside, the
sunset,
or dry, resigned, exhausted by the trip, rain, strange hands, the gray
skies of
a Parisian suburb. What color is to painting, the adjective is to
language. The
older man sitting next to me in the Metro train: an entire list of
adjectives.
He is pretending to be dozing, but through his half-closed lids he is
observing
fellow passengers. There is an arch little smile on his lips, which
sometimes
becomes an ironic twist. I do not know if calm despair resides in him,
or fatigue, or,
a patient sense of humor undaunted by the passage of time. The army
limits the
amount of adjectives. Only the adjective "same" finds grace in its
colorless eyes. The same uniforms, the
same rifles. Any person who has ever returned from army exercises,
changed into
civilian clothes, and set off on the first walk in a civilian city
remembers
the incredible explosion of adjectives, colors, shades, shapes, and
differences
with which a cosmos full of distinct individualities greets him. Long
live the
adjective! Small or big, forgotten or current. We need you, malleable,
slim
adjective that lies on objects and people so lightly and always sees to
it that
the vivifying taste of individuality not be lost. Shady cities and
streets
drown in a cruel, pale sun. Clouds the color of pigeon wings, and great
black
clouds full of fury: what would you be if not for volatile adjectives
drifting
behind you? Ethics is another area that wouldn't survive a day without
adjectives. Good, evil, cunning, generous, vengeful, passionate,
noble-these
are words gleaming like razor-sharp guillotines. And there would be no
memories
if not for the adjective. Memory is made of adjectives. A long street,
a
scorching August day, a creaky gate leading to a garden, and there,
amid
currants coated with summer dust, your resourceful fingers (all right,
so
"your" is a possessive pronoun).
AZ: Two Cities
Theo Gấu, trong cõi văn,
chưa chắc
đã có cái gọi là phản biện, theo nghĩa, chống lại. Barthes đề nghị
những từ,
như connotations, denotations, gia nghĩa, phụ thêm nghĩa, bớt đi, bỏ đi
một số
nghĩa, chi tiết... Đám ngu, đám ưa
giết người,
cứ đem đời vô văn, mi không theo tao là chống tao! Là thịt!
Ba giòng
thác cách mạng!
Phản biện!
Kít!
(1)
đoạn
này tôi viết về Mai Thảo và "Đêm giã từ Hà Nội":
Tôi từng viết về văn chương (ngôn ngữ) Mai Thảo như thế này: "Ở Mai
Thảo, cái đặc trưng lồ lộ là những rút gọn từ ngữ: sẽ không là "một
niềm cay đắng" mà "một cay đắng", sẽ không là "một nỗi kinh ngạc" mà
"một kinh ngạc", sẽ không là "một sự rã rời" mà "một rã rời"."
Kể từ đó, không nhận ra gì thêm.
Cho đến lúc tận tay cầm vào "Đêm giã từ Hà Nội", tác phẩm đầu tay của
Mai Thảo (ảnh ở đây là trang đầu).
Ấn tượng mà Mai Thảo cảm nhận về Hà Nội là ba điều: "vực thẳm", "tảng
bóng tối" và "Hà Nội đổi màu". Những gì Mai Thảo, hay nói rộng hơn là
lứa nhà văn hồi ấy, giã từ, bỏ lại sau lưng là như vậy.
Sách giấy có phần thiêng của nó là bởi thế, giống như những vị quý tộc
khinh bỉ thói chập cheng của ebook; sờ vào quyển sách giấy, một tiếp
xúc trực tiếp cũng khiến ta nhận ra những gì không thể hình dung nếu
chỉ đọc ebook.
Tôi hiểu, những rút gọn từ ngữ của Mai Thảo là vì: Mai Thảo đã bỏ lại
rất nhiều thứ sau lưng, đã giã từ, đã coi quá khứ là vực thẳm. Câu văn
của Mai Thảo cứ rút ngắn lại, vì một phần đã thả xuống vực thẳm, cho
trôi về Hà Nội. Ở những thiên tuyệt bút của Mai Thảo, văn chương giống
như là vực thẳm (Đêm giã từ Hà Nội, Căn nhà vùng nước mặn, Tùy bút, Ta
thấy hình ta những miếu đền).
Mai Thảo viết "Đêm giã từ Hà Nội" chừng 100 ngày sau khi Hiệp định
Genève được ký kết. Năm 1956, Mai Thảo coi như vượt qua được một vực
thẳm để viết "Sài Gòn thủ đô văn hóa Việt Nam", mở ra một trang sử mới
cho văn chương Việt Nam, cũng là mở ra lịch sử tạp chí Sáng Tạo.
- Thế Uyên & Nguyễn
Tường Giang [par DC, Maryland, 1997]
Nguyễn Đông Ngạc bỏ nhiều
thì giờ in sách, lập nhà xuất bản
Sóng, thành công khi xuất bản Chuyện Tình
(dịch Love Story của Erich Segal), Hồi
Ký Gia Đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế (em gái của Nhất Linh,
Hoàng Đạo,
chị của Thạch Lam và cũng là mẹ của Duy Lam , Thế Uyên) và cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương
Chúng Ta (đầy đủ tiểu sử và quan niệm viết văn của 45 tác giả miền
Nam).
Nguyễn Tường Thiết về trông coi nhà xuất bản Phượng Giang của nhà văn
Nhất
Linh. Thái Lãng vẽ tranh và trông coi nhà in. Trần Kỳ đi dậy học tư
thục. Tôi
cùng một số bạn bè xuất bản Tập San Văn
Chương, một tạp chí thuần túy văn chương và nghệ thuật, đồng thời
thành lập
nhà xuất bản Thạch Ngữ.
NTG
Note:
Người dịch Chuyện
Tình là Phan Lệ Thanh. Cuốn sách bán chạy, Ngạc nhờ món tiền này
làm nhà xuất
bản Sóng, in Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, tức Những Truyện
Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta. Gấu quen NTG qua Tập San
Văn
Chương, nhưng không thân lắm, so với Nguyễn Tử Lộc và Joseph Huỳnh
Văn,
cũng quen qua tờ báo này.
Không có Joseph là không có Gấu trong tờ báo.
Theo như Gấu được biết, NTG cũng rất thân và quí JHV.
Không có Joseph thì không
có tờ TSVC, như Gấu đã từng viết về tờ này.
Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai
là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được
quyết định. Tôi nhận lời, phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất
là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi
quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng
gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện
đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương,
chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T.
nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang
trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số
điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong
không..." tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng.
Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa
vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.
Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ
báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu:
chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm
người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên
nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những
ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính
đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập
san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể
chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người
biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm
Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn -
Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối
cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm,
sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này,
bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có
các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
June 9 & 16, 2014
Summer
Fiction: Love Stories
Yesterday
is two days
before tomorrow
The day
after two days ago
Có lẽ cuốn
tiểu thuyết Tẩy đầu tiên Gấu đọc, là “Kẻ Xa Lạ”, nếu nói về mặt văn
chương,
nghĩa là, không kể những cuốn của Graham Greene, của Simenon, mà khi
đọc, chỉ để
học tiếng Tẩy, và sau, là những đấng sư phụ, nhất là Greene.
Simenon, khỏi
nói, vì ông này cũng thờ Faulkner như Gấu Cà Chớn.
Bản dịch mới, với cái tít,
là từ "The
Ousider", cũng
đã được sử dụng rồi.
Dịch giả giải thích, trong
lời giới thiệu, trong
tiếng Tẩy,
“étranger”, có thể dịch là “outsider”, “stranger”, hay “foreigner”.
Meursault có
cả ba: một "stranger" với chính anh ta, một "outsider" với xã hội, và,
"foreigner",
vì là 1 anh Tẩy thuộc địa.
Với câu mở
ra cuốn sách, “Aujourd’hui,
maman est morte.”, đơn giản một cách chết
người, vì khiến người đọc lầm lẫn.
Bản dịch
cũ của Gilbert, “Mother died today”, khiến người đọc ngửi cái mùi “vô
tim” của Meursault,
khiến dễ chấp nhận cái cú giết tên Ả Rập, bằng bốn năm phát, rồi đổ tội
mặt trời
làm chói mắt.
Matthew
Ward, giải
thích, "maman", nói cho
cùng, là 1
từ rất đỗi
riêng tư, thân mật giữa hai mẹ con của tiếng Tẩy, của 1 đứa con gọi mẹ
của mình,
một từ không thể dịch được, cho nên ông giữ nguyên, “Maman
died today.”
Bản dịch mới, dịch là “My
mother died today.” Nhưng trong suốt bản
dịch, dùng từ “mama” cho gần với từ
“maman”.
Nhưng cú khám phá
này, mới đáng kể, liên quan tới dòng cuối:
Sandra Smith
has, in her admirable translation, plucked carefully upon this thread
in the
novel, so that Anglophone readers might better grasp Camus’s allusions.
Here is
but one key example: the novel’s last line, in French, begins “Pour que tout
soit consommé,...” which Ward translates, literally, as “For everything to be
consummated.” But as Smith points out, the French carries “an
echo of the
last words of Jesus on the Cross: ‘Tout est consommé.’” Her chosen
rendition, then, is “So that it might be finished,” a formulation that
echoes
Christ’s last words in the King James translation of the Bible.
Tuyệt!
Camus
famously said that “Meursault is the only Christ that we deserve”—a
complicated
statement for an avowed atheist. But Camus, of course, was more complex
in his
atheism than we might commonly expect: he was an atheist in reaction
to, and in
the shadow of, a Catholicism cosmetically imbued in the culture (of the
French
certainly, but of the “pieds noirs” in particular). The inescapable
result is
that his atheism is in constant dialogue with religion; in L’Étranger
no
less than in, say, La Peste.
Camus, hiển hách phán, M.
là đấng Ky Tô độc nhất chúng ta xứng đáng. Ông
vô thần, tất nhiên, và chẳng giấu. Tuy nhiên vô thần của ông dây dưa
tới 1 Ky Tô Giáo, như 1 mỹ phẩm tẩm đẫm
vào văn hóa [văn hóa Tẩy, tất nhiên, và đặc biệt là với đám "chân đen",
tức Tẩy
thuộc địa Algérie. Mít cũng bị “hội chứng” ghét Ky Tô này, với
VC, và nhất
là với đám trí thức Miền Nam bợ đít VC, nhất là đám thầy tu nằm vùng].
Tuy nhiên,
người viết bài này [trên tờ NYRB] không nhận ra, có 1 liên hệ “Ky Tô”
giữa ba
người, gọi là bạn cũng được, mà gọi là thầy trò, đúng hơn, là Simone
Weil, Czeslaw
Milosz và Camus. Ky tô của họ, ở cả ba, đều khác nhau. Weil bị
“captured" - chữ
của Weil - bởi Christ, nhưng không chịu rửa tội. Milosz, 1 tên CS bỏ
chạy, nhờ Ky Tô mà được cứu rỗi, giống trường hợp Brodsky.
Còn
Camus, thì chọn Meursault thay vì Christ…
Trên TV, đã
từng giới thiệu bản dịch mới này rồi, qua bài trên Intel: Một con cá “hiện
sinh” ấm áp hơn tí tí, Camus.
Found in
Translation: Simon Willis applauds a new version of Albert Camus's most
confrontational novel...
From
INTELLIGENT LIFE magazine,
September/October
2012
Author
ALBERT CAMUS
English
title THE OUTSIDER
Original
title L'ETRANGER (1942)
Original
language FRENCH
Translator
SANDRA SMITH
Existentialism
had its great theorist in Sartre and its great novelist in Camus, and
this is
still the book students turn to when they need a fix of
me-against-them. That's
partly because Camus looked worth emulating—a rakish romantic to
Sartre's
goggle-eyed nymphomaniac—and partly because as a novel "The Outsider"
is an attractive mix of pith and mystery. It has had several
translators since
Stuart Gilbert, who gave us the first English version in 1946. His
opening line
was "Mother died today", and as other translators followed suit it
began to look indelible. But this new translation, by Sandra Smith,
differs
from the first word. The question it asks is how to talk when we talk
about
mothers.
She opens
with "My mother died today", a small change which signals that
Meursault, Camus's narrator and one of fiction's coldest fish, might
not be
quite as cold as usual. Throughout the rest of the novel, he refers to
"mama" instead of "mother". This isn't just a question of
what the French word maman means. After he shoots an Arab on the beach,
Meursault's fate in court rests largely on the question of whether or
not he
loved his mum. He won't give anything away, which is where both his
problem and
his heroism lie. In 1955 Camus described Meursault as a man who refuses
to play
the game—a refusal which, as the terms get more affectionate, feels
more
potent.
This version
doesn't have quite the terse elegance of earlier translations, but with
a few
deft choices, Sandra Smith has made the battle lines between Meursault
and the
world starker. She's given a subtle twist to an old story.
Simon Willis
is apps editor of Intelligent Life
The Outsider
Penguin, out now
"Bữa
nay mẹ tôi mất"
(Aujourd’hui
maman est morte).
Maman tiếng Tẩy, trong câu mở
ra Kẻ Xa Lạ, "Bữa nay mẹ
tôi mất" dịch sang tiếng Hồng Mao, sao?
Tiếng Mít, thì xừ Tẩy mũi tẹt TTD phán, phải dịch “Mẹ”, không được dịch
“Mẹ
tôi”. Bi giờ bản dịch mới nhất tiếng Anh, phán, phải dịch “My mother”,
thay vì “Mother”!
|