|
“Những con dã
tràng”, truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên
Sáng Tạo,
nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ bài vở còn dư đó, qua báo Văn
Nghệ
của Lý
Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng
rác.
Gấu đọc thấy
tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán
vậy, nhưng
cũng chẳng nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc đó, lo học, lo tốt
nghiệp, ra
trường, có việc làm kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội, học
tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn đầu tay “Những
Ngày Ở Sài
Gòn” thì Gấu mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm
ra sư phụ
và kiếm ra văn phong của mình. Đây là cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc
được sách
Tẩy, mà thoát kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc 1 thứ chữ
nào khác.
Trường hợp hai phiên bản của TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao
mà TTT lại
phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay
NDT. Ông
phán, nó sẽ đi xa hơn.
“Những con dã
tràng”, với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là bảnh nhất trong số
những
truyện ngắn của Gấu, và khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao
của thứ văn
chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm không là
đêm” nhưng
mà là “đêm tóc rối”!
Giả như tiếp
tục viết thứ văn đó, Gấu trở thành 1 phiên bản, thứ ba, của TTT!
Gấu nhớ bà cụ thân sinh
TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán,
thằng này bịnh.
Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản
tiếng
Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương
[Gấu đọc
cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas,
sau này
nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn], trong có xen y chang trong “Những Con
Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều]
[GCC sẽ
scan , và dịch liền hầu độc giả TV]
GCC biết đến
Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông
nổi
đình nổi đám, và được tờ Văn
nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là
Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó,
nghĩa là, liền sau khi cày
thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật
là bảnh, Les Pas, bản tiếng
Tây của Steps.
Đúng là thần
sầu.
Thần sầu hơn
nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với
bạn Phạm
Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ
ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc,
và do đó,
thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét
tiền vào
trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng
hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn
Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ
quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay
mặt lại,
và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự
ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được
hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas
có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không
thanh
cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.
Gấu Cà Chớn cũng gặp 1
trường
hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động
phơi hến
ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh
nhìn hai cái
núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em,
phải bỏ cái
cô có bầu với anh.
Gấu không thể
bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!
Hà, hà!
Cô này, lần
Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1
mình lo
cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn
thì cô lắc
đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như
quê hương
mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng
làm gì được,
hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.
Dã man thật.
Mà có thể thế
thật!
Cả hai cuốn
đều tuyệt cú mèo. Gấu nhớ, hồi đó đó, đọc tờ Paris Match, kể về
Kosinski, học
tiếng Anh bằng cách gọi cho mấy cô ở Tổng Đài, và, cùng lúc, viết tiểu
thuyết bằng
tiếng Anh.
Sau vỡ ra là ông phịa.
Cuốn tiểu thuyết khủng khiếp số 1 của ông, cũng
là phịa, trong khi ông cứ khăng khăng chuyện thực.
Và sau tự tử
để chứng minh, nó là thực.
Vưỡn chẳng
ai tin.
Ngu thế. Giả mới bảnh chứ thực thì…. chán chết.
Gấu coi
sách, coi phim, mà thấy câu 'dựa trên chuyện thực' là vứt vô thùng rác.
(a)
GCC nhớ là
TTT mừng lắm, lần Gấu gọi điện thoại xuống tòa soạn tuần báo Nghệ
Thuật. Ông là
người đem nó xuống tòa báo, khi Gấu, lúc đó còn nằm dưỡng thương mìn VC
trên Đài
Liên Lạc VTD thoại quốc tế, số 5 PDP, Sài Gòn, nhờ bạn Quốc, Trần Công
Quốc, 1
trong Thất Hiền, đưa bà xã đi làm [bà là 1 trong những nữ điện thoại
viên của Đài],
ghé nhà đưa cho ông. Ông ra lệnh, phải xuống tòa soạn lấy tiền nhuận
bút [mày
viết văn là phải đòi tiền nhuận bút, không thì đừng viết, khi Gấu ra ý
đếch cần
nó!]
Những con dã
tràng
Villa trông ra biển. Tường
phía trước thấp. Gió từ biển tới, vượt khoảng vườn nhỏ, mang những
chiếc lá
vàng trải lên thềm nhà. Con đường nhựa đen đúi, lầm lì chạy mải tới
cuối thành
phố. Bên kia con đường, là bãi biển, cát trắng và nóng. Xa hơn, về phía
trái,
nơi bắt đầu con đường, con sông nhỏ đổ nước ra biển làm đỏ lờ đờ một
vùng. Xa
hơn nữa, cuối tầm nhìn, một ngọn núi nằm trơ trọi, hình dáng nặng nề,
thô kệch.
Buổi tối, những người dân thường đốt rừng làm rẫy, xa trông, như một
con rắn đỏ
lập lòe.
Một chiếc xe ngựa đậu dưới
bóng cây lớn ở trước cổng ra vào.
Hai dẫy nhà nhỏ chạy dài ra
vườn sau. Phòng H. ở cuối một dẫy.
Những cây phi lao đứng im ở
ngoài vườn.
Buổi chiều ngày đầu, Q. nói
với tôi, H. là con gái lớn bà chủ nhà. Chúng tôi đứng ở cuối vườn. Bấy
giờ gió
thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng
chuyển mình,
nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H.
cùng đứa
em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần
chiếc đu
trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân
cây phi
lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng
tới chỗ
chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió có những con
vật bé li
ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát. Tôi dựa lưng vào thân cây phi
lao, và
bỗng nhận ra đời sống vô vị, buồn nản của mình, một đời sống không có
gì để
nhớ, hoặc để chờ: tôi chờ những lần chiếc đu trở lui về phía sau và cố
nén cơn
ho thường lệ buổi chiều. Tôi nghĩ tới những lần tự nhiên thức giấc
trong đêm
khuya, mọi người đều yên ngủ, tôi lặng lẽ nghe tôi nặng nề thở và mệt
nhọc
sống. Khi người bác sĩ báo tin tôi mắc bịnh, tôi cảm ơn ông ta, và quay
qua xin
một điếu thuốc lá. Buổi chiều hôm đó, tôi đi coi một phim trinh thám.
Khi nhân
vật trong phim trúng đạn ngã xuống, tôi bỏ ra về. Buổi tối, tôi ngồi
viết thư
cho T. "Em có hiểu thế nào là thần tượng không? Yêu một người con gái,
một
người con gái quen biết từ nhỏ, tình cờ gặp người con gái đó trong tay
một kẻ
khác không phải là mình. Thần tượng bị phá vỡ hoàn toàn và đột nhiên
tôi thấy
lố bịch, lố bịch vô cùng."
Lá thư đầy giả tạo. Ghen
tuông, tôi lựa chọn sự tầm thường, và tự hạ. Nhiều khi tôi tự hỏi tại
sao không
nói tôi bệnh và từ chối tình yêu của nàng. Đúng lúc tựa thân mình vào
cây phi
lao, tôi mường tượng ra, tại sao tôi xử sự như vậy. Một lần tôi vào xóm
chơi
bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp.
Ngọn đèn
dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái
nằm
trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó,
tôi chợt
nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy,
thảng
thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó
chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như
thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận
lúc đó.
Buổi chiều chúng tôi đi dạo
trên bãi. Biển xanh sẫm, ì ầm, âm thanh dài như không bao giờ dứt. Q.
nói,
"Bà chủ có vẻ mến cậu." Tôi nói, "Như vậy tôi có thể ở đây
lâu." Tôi không nói gì. Cả hai đều yên lặng. Tôi nghĩ đến sáng nay, tôi
thức giấc vào khoảng bốn giờ, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ và tự hỏi,
nếu tôi
đang quì cầu nguyện. Tôi nghĩ đến K. Nó yêu một người con gái, ít lâu
sau cô
gái bỏ đi lấy chồng. Trước đó, cả hai thường rủ nhau đi nhà thờ cầu
nguyện. Tôi
nghĩ nếu Thượng Đế phải dậy sớn vì những chuyện như vậy, Pauvre Dieu,
và tôi
mỉm cười. Sự thực, tôi ít nghĩ đến chuyện đó. K bảo tôi, "Như vậy người
ta
mù tịt về thân phận mình." Tôi trả lời, "Chính vì mù tịt mà người ta
hạnh phúc, ít ra là trong quãng đời ngắn ngủi đó." T nói thêm, "Nhưng
còn sự chết..."
Sự chết, tôi vẫn thường nghĩ
đến. Hồi nhỏ, khi còn ở Hà Nội, một lần đứa cháu gái tôi bị bệnh nặng.
Nó bắt
tôi phải ngồi bên cạnh nó, phải kể chuyện cho nó nghe, nghe nó đòi mua
quà này,
quà nọ. Còn nhỏ, ham chơi, tôi chờ nó mệt, ngủ thiếp, và bỏ đi chơi đứa
bạn ở
gần nhà. Hai đứa rủ nhau lên Bách Thảo, lang thang trong vườn. Đang đi,
tôi đột
nhiên nghĩ đến đứa cháu, và đột nhiên nhận ra rằng, nó đang chết, và
đang gọi
tên tôi. Tôi chạy về, bất kể xe cộ, mất hết cảm giác và ý thức. Về đến
gần nhà,
nghe tiếng chị tôi khóc lóc, kể lể, tôi lủi thủi bỏ đi. Tôi cứ nghĩ,
chắc là
đứa cháu khổ sở lắm, khi không có tôi ở bên cạnh, vào lúc nó bị giằng
co giữa
sống và chết... Chắc cha tôi cũng đã trải qua những giờ phút tương tự
như vậy.
Khi còn sống, ông làm nghề dậy học, và bị thủ tiêu vì vấn đề chính trị
đảng
phái hồi 1945. Người ta nói, cha tôi bị cột đá vào người, và bỏ xuống
sông.
Những ngày sau khi nghe chuyện, mỗi lần đi tắm sông, tôi thường lặn sâu
xuống
nước, rồi cố gắng nín thở, cố gắng chịu đựng, và nghĩ đến cha tôi.
Q đi lễ, và hỏi tôi có thể đi
cùng, tôi lắc đầu, gọi mua một gói lạc rang. Người đàn ông làm tôi nhớ
tới
người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về
thành phố
nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi
thường
tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ
chuyến xe
chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn
vé xe,
tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai
toa xe lại
với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi
có tiền
mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm
vào thanh
sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm
hộp đồ
nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn
chúng tôi
với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm
thấy thích
thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã
quên từ
lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy
nhìn tôi
cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành
xe ầm
ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát
vé đang
giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục
cười,
tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ
sao, người
soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi
nhìn xuống
con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt
nghĩ tới
đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống,
nhặt
chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo.
Sau đó,
tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu
đội chiếc
mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ
nó nhận
ra tôi.
Bãi biển vắng. Trước mặt tôi,
mấy đứa con trai đang chuyền banh. Bất chợt trái banh rớt gần chân tôi.
Tôi đá
trở lại, và cười gượng gạo cùng lũ trẻ. Tôi nín cười và bỏ đi. Nhiều
tiếng cười
đuổi theo sau lưng. Một người ăn mày ngồi trên bãi cát, chìa tay chờ
đợi. Tôi
cho tay vào túi quần. Những đồng tiền lẻ kêu nhè nhẹ trong túi. Tôi để
yên tay
trong túi quần, và bỏ đi. Một người Tây già nằm trên chiếc ghế vải. Tôi
định
tới gần châm điếu thuốc, nhưng ngần ngại. Điếu thuốc trên tay người Tây già chậm chạp vẽ những đường cong đều đặn,
tay còn
lại bỏ thõng xuống cát, buổi chiều sắp tàn, tất cả những cái đó gọi là
sự ngần
ngại của tôi. Những con dã tràng lăng quăng bò trên cát. Tôi đi theo
một con.
Khi con vật chui xuống một lỗ nhỏ, tôi dừng lại chờ. Tôi không hiểu tôi
chờ gì.
Tôi chờ con vật chui ra khỏi lỗ cát, hay chờ một gì đó sẽ xẩy ra. Tôi
bỏ đi,
chẳng còn gì nữa, buổi chiều hết rồi.
Về tới cổng, tôi gặp bà chủ
nhà cùng cô con gái lớn. Bà mẹ tỏ vẻ hy vọng, tôi sẽ thích nơi này. Bà
kể
chuyện, có một đứa con trai trai chết vì bịnh lao phổi cách đây ít lâu
(nó
khoảng tuổi cậu, rất ham học, thật tội nghiệp). Người con gái lớn đứng
im lặng,
nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại người đã chết,
tóc xõa
che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi vào chỗ của người
khác,
cúi xuống nhặt một viên sỏi, ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà
(bà mẹ)
ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nói thêm, tôi không thể xin lỗi bà ta, và thất
thểu
trở về phòng.
1958
Sơ Dạ Hương
Cái việc ném
vô thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn đầu tay của Gấu, về già
nghĩ lại,
Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT
thứ ba!
Cái chuyện gặp
được Faulkner, may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác, cũng
của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy
Trò cũng đếch nhận ra nhau!
GCC đã từng
phán, toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái khúc mở ra Absalom,
Absalom!, dù Cô
Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp
GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên
miệt vườn, trước khi từ giã quê nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến
gặp bả.
Và nghe bả kể,
về “Miền Nam Sâu Thẳm”.
Về Colonel Sutpen
W. Faulkner:
Thee Reviews
Absalom,
Absalom!
Tôi biết hai
loại nhà văn. Một, ám ảnh của họ là cuộc diễn biến của chữ, verbal
procedure, một,
việc làm, work, và đam mê của con người. Loại thứ nhất, cực điểm của
họ, là
‘nghệ sĩ thuần tuý’. Loại kia, may mắn thay, được ban cho những cái nón
như là
“sâu thẳm” [profound], “nhân bản”, human, rất nhân bản. Trong số này,
còn có những
người ở giữa, nghĩa là tu tập cả niềm vui lẫn đức hạnh của cả hai loại
trên.
Trong số những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, Joseph Conrad là người cuối
cùng,
có lẽ, đã quan tâm đến những thủ tục của một tiểu thuyết như trong số
phận và
nhân cách của những nhân vật của ông. Người cuối cùng, cho đến khi
Faulkner xuất
hiện trên sàn diễn.
Faulkner
thích trình ra cuốn tiểu tiểu thuyết của ông, qua những nhân vật.
Phương pháp
này thì cũng không hoàn toàn do ông mà ra: Cuốn Cái Nhẫn và Cuốn Sách
(1868), của
Robert Browning tả chi tiết một tội ác 10 lần, qua 10 cái miệng và 10
linh hồn,
nhưng Faulkner tẩm sự căng thẳng, cuờng độ, vào trong những nhân vật
của mình đến
mức độc giả, thứ "cà chớn" sẽ đếch làm sao chịu được! Một cung cách mẩu
đoạn, phá nát văn phong đến tận cùng, [cánh đồng bất tận mà!] đến vô
cùng, dục
vọng thì cũng vô cùng, và đen thui, đó là những gì người đọc tìm thấy ở
trong một
cuốn sách của ông. Nhà hát là Mississippi, những nhân vật của ông, đàn
ông, bị
tiêu ma, huỷ diệt bởi lòng ham muốn, rượu, cô đơn, và tàn tạ mãi đi, vì
hận
thù.
Absalom,
Absalom! có thể sánh với Âm
thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh
danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges
*
Khi anh định
viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một
người
đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh
nghiệm của
một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi
đó, bởi vì
anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo
mới nhân dịp
sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu
tầm thường
đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn
chương,
và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã
trải qua
đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc
vui, một
cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm
năm tụm
ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một
chút sức mạnh
để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê
liệt mọi dự
tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa
như là là
ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân
thật tầm
thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
Mộ
Tuyết
Cả 1 đoạn này,
cái gì gì… "cần tiền mua cho Gấu Cái cái
áo
dài, mua sữa cho con… và đem tập bản thảo đi gạ bán…" chôm
Faulkner, trong Absalom, Absalom!
Trong “Tiểu
sử của Garcia Marquez”, [Gabriel
Garcia Marquez: A Life, by Gerald Martin], có 1 giai thoại cũng
thật là thú vị,
cũng liên quan đến... bản thảo:
Khi Garcia
Marquez hoàn tất “Một Trăm Năm Cô Đơn”, vào tháng Tám 1966, ông gần bốn
bó, bố
của hai đứa con, và rách [broke] đến nỗi đếch có tiền gửi bản thảo. Khi
mang
đi gửi, thầy ký nhà giây thép đưa lên bàn cân, và phán, 82 pesos.
Garcia
Marquez ngắm bà vợ moi hết tiền bạc trong bóp ra đếm, chỉ được 1 nửa số
tiền.
Thế là ông bảo tay thư ký thiến cuốn sách, cho vừa số tiền, và sau đó,
hai vợ
chồng về nhà cầm cố đồ đạc, tới lại BD, gửi tiếp nửa bản thảo còn lại.
Cái từ
“hiện thực huyền ảo”, lo real maravilloso, là của tay
tiểu thuyết gia Cuba, Alejo
Carpentier phịa ra, khi cố tìm cách dịch từ "Chủ Nghĩa Siêu Thực" qua
tiếng Tây Bán Nhà.
When
Gabriel
Garcia Marquez finished writing One Hundred Years of Solitude
in August
1966, he was almost forty, the father of two young boys, and so broke
that he
didn't have enough money to send the manuscript from Mexico City to
his prospective publisher in Buenos Aires.
The anecdote is famous, one of many that have contributed to Garcia
Marquez's
carefully molded public image as a literary populist and everyman
genius. In
his admiring biography of the writer, Gerald Martin reports:
The package
contained 490 typed pages. The counter official said: "Eighty-two
pesos." Garcia Marquez watched as [his wife] Mercedes
searched in her purse for the money. They only had fifty and could only
send
about half of the book: Garcia Marquez made the man behind the counter
itake sheets off like slices of bacon until
the fifty
pesos were enough. They went home, pawned the heater, hairdryer and
liquidizer,
went back to the post office and sent the second tranche. [NYRB July 16]
*
Khi GGM viết xong cuốn Trăm Năm Cô
Đơn vào tháng Tám, 1966, ông kể như đủ bốn bó, bố hai thằng con
trai
còn nhỏ, và rách đến nỗi không có đủ tiền để gửi bản thảo, từ Mexico
City tới nhà xb ở Buenos Aires.
Giai thoại nổi tiếng này là một, trong
rất nhiều, cùng góp phần tạo nên hình ảnh trước công chúng, về một ông
nhà văn bình dân, một thiên tài của bất cứ một người. Trong cuốn tiểu
sử thật tuyệt về nhà văn, G. Martin viết:
Gói
bản thảo
gồm 490 trang đánh máy. Tay ngồi quầy Bưu Điện phán, 82 pesos, GM nhìn
bà vợ
moi móc tiền từ cái ví: Chỉ đủ gửi một nửa bản thảo. Thế là nhà văn
nhớn bèn ra
lệnh cho tay ngồi quầy thiến từng trang bản thảo, giống như nhà phê
bình đọc
sách họ Đào lia những đường gươm của ông, cho đến khi tới con số 50
pesos. Hai
vợ chồng về nhà 'chà đồ nhôm, chôm đồ nhà', đem ra chợ trời, [đem tới
tiệm cầm
đồ], và trở lại Bưu Điện, gửi tiếp những trang bản thảo, bị ngọn kiếm
của họ
Đào lia, lả tả trên mặt đất!
Nguyễn Ngọc Tư & William Faulkner
Viết xong Cánh
đồng bất tận, tôi thấy buồn, nặng nề
và đau đớn ghê gớm, hệt như trút ra hết những gì mình mang bên trong.
Chắc phải
nghỉ ngơi lâu lắm, tôi mới quên được hết ấn tượng về những điều tàn
nhẫn mà
mình đã phải mô tả. Tôi đã động tới cái ác vì có nó, thì cái thiện, sự
thương
yêu, sự yếu ớt mong manh của những tình cảm tốt đẹp mới nổi lên được,
để cho
người ta nhìn thấy rõ hơn. Chỉ vậy thôi.
NNT
Đâu có thua
gì Faulkner, khi trả lời phỏng vấn, tại sao viết "Khi tôi nằm hấp hối",
As I Lay
Dying: (2)
I took this
family and subjected them to the greatest catastrophe which man can
suffer -
flood and fire, that's all.
Tôi lấy gia đình này làm đề tài và đẩy họ vào một thảm họa
lớn lao nhất mà con người có thể chịu đựng - lũ lụt và lửa, chỉ có vậy.
Faulkner, Lion in the Garden
Cái
“gia đình này”, đối
với Nguyễn Ngọc Tư, có thể là cả
Miền Nam của Bà sau 30 Tháng Tư 1975: Độc ác như thời tiết, như đất
đai, như sông nước, như... Bắc Kít!
[Bundren
family
life, like the weather, like the land and the water, is elemental and
merciless, especially so for the women]....
Camus
có 1 câu cũng thú
lắm, nếu đọc nó trong cùng 1 dòng với Pasternak [Người
ta đâu
sống chỉ bằng bánh mì. Người ta sinh ra để sống, đâu phải để sửa soạn
sống]: Nếu
con người cần bánh mì, cần nhà ở, thì nó cũng cần một cái đẹp trong
trắng
làm bánh
mì cho trái tim, "he also needs pure beauty which is the bread of his
heart".
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Đẹp
trai đấy chứ?
Hà,
hà!
Chắc
hình dán học bạ!
Bài này, trên
tờ Nghệ Thuật, hồi mới quen
NDT.
Đọc, thì bèn
nhớ ra là bài viết còn đang trong dạng nháp, NDT đến nhà, thấy, bèn lôi
ra đọc,
gật gù, được rồi, khỏi cần sửa sang, thêm thắt nữa. Lúc đó, Gấu hình
như chưa
viết gì cho Văn. Sau đưa cái truyện Thời
Gian. Bà xã anh là người đầu tiên đọc,
còn trong dạng bản thảo, chưa đăng báo, phán, anh đúng là văn sĩ mê gái.
Đọc lại, thì
còn nhớ ra, những cuốn sách, những tác giả đang đọc: Lukacs, Lucien
Goldmann [Mạc
xịt] Miller [gái]… và, tất nhiên, Faulkner.
Bạn đọc, đọc
bài viết của GCC, về NDT, chắc là nhận ra, ông đếch dính gì tới cái gọi
là “tân
tiểu thuyết” của Tẩy.
Riêng Gấu, đọc lại thì hiểu ra tại làm sao chưa từng viết
về những đấng như Võ Phiến, Mai Thảo… Họ ở xa, quá xa Gấu. Mai Thảo thì
là bạn
của ông anh, làm sao dám viết!
V/v TTT. Phải
đến năm 1972, khi có báo nhà, là tờ Tập
San Văn Chương, và đúng khi TTT cho ra ấn bản chung quyết của cuốn Bếp Lửa, nhân ông đề nghị HPA đi một đường
Bạt cho nó, và nhân quen Joseph Huỳnh Văn, không có gì làm tí kỷ niệm,
bèn viết
về Bếp Lửa.
Anh nhận ra liền, mi viết
bài này, là vì “tau” làm Tổng Thư Ký tờ TSVC, không phải vì TTT!
Đây là loạt
bài Sơ Dạ Hương/GCC viết, “Thế nào là văn chương dấn thân?”
Kinh thế!
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Thấy bạn Cà
đi 1 trường thiên về Nguyễn Thị Hoàng, GCC bèn đọc, thì ra… nhảm
cả.
Cuốn
bảnh nhất của Bà, “Cuộc Tình Trong Ngục Thất” bạn Cà cũng “quơn”,
không nhắc
tới.
Phê bình đâu có nghĩa là
lôi ba chuyện đời tư của bà ra, dù mọi người đa số đều
biết.
Văn NTH thực sự không
giống văn MT. Sang hơn, đài các hơn nhiều.
Văn MT,
và chuyện tình tay ba của MT, chỉ hợp với ca ve. Ông sống trong giới
đó, và viết
về giới đó.
Còn NTH, trong văn bà có thân phận người phụ nữ Miền Nam. Người đàn
bà lặn lội xuống tới tận địa ngục để cứu chồng, làm sao MT có thứ nhân
vật như
thế.
GCC nhớ cảnh chót trong CTTNT, khi cứu chồng ra khỏi địa ngục, về được
nhà, bà biểu chồng, anh đốt nhang cầu Trời Đất, Phật, tạ ơn Ông Bà đi.
Rồi cái đoạn
trong khi tất tả ngược xuôi tìm cách cứu chồng, bà đi qua trường cũ,
tạm quên nỗi
lo, để lòng hoài niệm thời con gái, thần sầu.
Viết mới chả
viết, danh tiếng, tác phẩm hàng đống rồi, cần chó gì viết nhảm nữa chứ!
Hà, hà!
*
Trong
cái "nghiệp" phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người.
Riêng trường hợp ông bạn, tôi quên, nhưng rất nhiều lần tôi nhớ. Có khi
vừa nhớ,
vừa cầu mong, hy vọng rằng bài phê bình của mình có thể có ích nào đó.
Ngay cả
trường hợp ông bạn, tôi cứ tự hào một cách thật tếu là, biết đâu, nhờ
lời nói
"khích" của tôi, ông đã để lại cho đời hai đại tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà
xuất bản
cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học
Nghệ Thuật
của nhật báo Tiền Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau
ông giao lại
cho Huỳnh Phan Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn
"láu
cá' Bắc-kỳ, cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản,
làm một
tuyển tập truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao
nhất, so với
các nhà xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút
còn một
bữa ăn linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất
bản. Rồi
tới Vào Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm
tắt nội
dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng
khiếp!
(Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng
khiếp".
Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà
trả lời
sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm
tuyệt vời
nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà,
một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng.
Một ấn
bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh
Tâm Tuyền
và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu
Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây
Nguyễn Thị
Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất... (1)
Văn
hải ngoại, thời còn Mai Thảo
Tuần báo Nghệ Thuật hồi mồ ma VNCH
Dear all,
Gửi mọi người
entry mới về tuần báo NGHỆ THUẬT (1965-1966) ở Saigon
Số
có đăng truyện ngắn đầu tay của Sơ Dạ
Hương/GCC/GNV/Hai Lúa… “Những ngày ở Sài
Gòn”
Số này là gợi
ý của TTT. Ông còn đưa cho Gấu một cuốn, của nhà xb Julliard, vưỡn
còn nhớ,
với cái tít, cái gì gì, "Vingt ans ăng min nớp xăng cành cạch" [hình
như 1960], phán, mày theo nó mà làm một cuộc phỏng
vấn Mít,
thế là ra cái tít, “Hai mươi tuổi vào năm 1965”.
Ui chao, xưa
quá rồi, xưa quá cả Diễm... Xưa!
Đây là bộ “Nghệ
Thuật” thời kỳ Viên Linh làm TTK. Trước, Thanh Nam. Ăn nhậu quá, hết
tiền, bèn
đổi bìa lớn ra bìa nhỏ.
Bài đầu tiên của GCC, là “Những Ngày Ở Sài Gòn”, Số 9,
bộ cũ. Mỗi cái bìa là 1 bức họa.
Tks. Sơ Dạ
Hương
[Hương, là
từ Lan Hương, tên thiệt của BHD]
*
Apr 1, 2013
Kính thăm anh Nguyễn Quốc Trụ
MỘT SỐ SÁCH VÀ TẠP CHÍ EM CÒN GIỮ ĐƯỢC. XIN KHOE VỚI ANH
Tks. Take Care
NQT
|