|
Trong Hồi Ký,
tướng Mẽo Westmoreland viết, Nguyễn Chí Thanh chết vì B52. Tuy nhiên,
nữ sử gia
Liên Hằng cho rằng, NCT bị đầu độc, trong 1 bữa ăn với tướng Giáp.
Tuyển tập truyện
ngắn Hoàng Hải Thủy, “VĂN” xuất bản, 1970, gồm 3 truyện: Mợ Chó, Canh Bạc Tết và Lời Hứa.
Note: Bức
hình tướng VC, NCT, là từ Blog HHT.
Ông có viết về ông anh rể của Gấu, là Nguyễn
Hoạt.
Có tí sai.
Cái nhà ở
TMG [gần Cổng Xe Lửa số 6], là từ cái nhà đầu tiên vô Sài Gòn, mua, ở
Chợ Vườn
Chuối. Bà vợ ông NH, bà chị họ của Gấu, có cái sạp bán bún chả ở Chợ
Vườn Chuối.
Sau bán cái nhà, tậu cái mới ở TMG, tiếp tục bán bún chả, nhưng ở chợ
TMG.
Ông
NH làm quân sư cho tướng Thi chẳng giúp gì cho vợ cả. Suốt đời ông như
vậy.
Bởi
thế mà có lần ông làm thơ tạ vợ:
Vì anh sức yếu phận hèn
Cho nên em phải bon chen việc đời
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
có những thằng già làm mình hận kinh,
rình mãi xem Vila-Matas có bao giờ viết kém đi không ròng rã bao năm
trời
mà vẫn chưa tóm được lần nào, nhục thế,
đề tài vớ vẩn thế này mà vẫn viết hay được chả còn quyển về Bob Dylan
nữa
quyển này tôi đọc cách đây mấy năm,
đang đọc dở ở quán cà phê ngước mắt nhìn sang thì ôi thôi thấy chị Phan
Thị
Vàng Anh đang dòm mình lom lom
rồi chị đi về, ngang mình hỏi định dịch
quyển này đấy à, mình biết là mỉa mình nhưng mình chả giận
NL FB
Vila-Maltas, viết kém đi?
Có đấy, khi không “trúng tủ”, của ông.
Lisbon chẳng hạn.
le quartier littéraire de
Lisbonne
Ôi chao giá như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Góc văn của Lisbonne
«Mais
suis-je
celui qui vit ici, / qui est retourné ici / qui y est retourné,
retourné / et
qui y retourne encore?», se demandait l'employé de bureau Bernardo
Soares qui,
comme M. Pessoa, ne quittait jamais Lisbonne et donc n'y retournait
jamais...
Nhưng tôi là
ai, phải chăng là kẻ sống ở đây, ở Sài Gòn/ Kẻ trở về đây/ Trở về,
trở về/ Và còn trở về?
Tôi là kẻ
chẳng bao giờ rời Sài Gòn, như tay nhạc sĩ họ Trịnh kia, nên chẳng
bao giờ trở về.
J'y étais déjà
venu avant d'y être jamais allé.
Tôi là kẻ đã
từng tới Sài Gòn, trước khi chưa từng tới đó.
*
Góc văn của
Sài Gòn, như của Lisbonne, là Quán Chùa.
Cũng có con
đường Tự Do, thay vì Rua da Prata, nhưng, bởi vì thiếu một góc biển
của Lisbonne, cho nên cuối đường là bến tầu, với lòng mình phơi trên kè
đá, với
những ống khói tầu mệt lả, và ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông,
là ném
cả hy vọng, cùng cuộc đời trôi theo, cùng muôn trùng những chuyến vượt
biển,
theo ngón tay trỏ của pho tượng Đức Thánh Trần.
*
Ôi chao, nhớ
ơi là nhớ, góc quán, góc bàn, những cây me bên ngoài, khúc đường
này là cuối con đường Gia Long, đầu kia, là Ngã Sáu Sài Gòn....
*
...vivre à
Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis que les
maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses larmes:
Sống ở
Lisbonne như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi những căn nhà
của những
con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng nước mắt.
Ôi chao đúng
cái cảnh Gấu chạy theo em mà nước mưa, nước mắt, nước mũi chảy ràn
rụa.
Parce que, même si c'est la
première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y
avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues
et de
suicides exemplaires.
Bởi là vì,
ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm tưởng đã
sống, ở trong đó, tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo tưởng mất
đi, và những
cú tự làm thịt mình đáng làm gương cho hậu thế.
Thời gian đọc
Simenon, là khi Gấu mới ra trường Quốc Gia Bưu Điện, chuyên viên vô
tuyến điện,
AT [agent technique], nhiệm sở, Trung Tâm Cơ Xuởng VTD quốc nội, số 11
Phan Đình
Phùng, phòng Réception, chuyên sửa chữa máy móc từ các đài địa phương
gửi về, lâu
lâu làm chuyến đi xa, tới 1 đài địa phương, sửa máy tại chỗ, khi không
thể chuyển
về Sài Gòn. Gấu đã viết 1 tí về chuyện này, trong Mộ Tuyết. Mỗi chuyến
đi xa rời
thành phố như thế, là phải có 1 cuốn Simenon đem theo. Lạ, là những lần
đi Đà Lạt,
khi BHD nghỉ hè ở trên đó, thì lại là 1 cuốn của Faulkner, đến bây giờ
cũng chẳng
hiểu tại sao lại có sự phân biệt đối xử như thế!
Số
báo này có quá
nhiều bài tuyệt cú mèo. Bài về Giáo Đường,
của Faulkner, khui ra một chi tiết thật thú vị: Cuốn Pas
d'Orchidées pour Miss Blandish (1938) của J.H. Chase, đã từng
được Hoàng Hải Thuỷ phóng tác thành Trong
vòng tay du đãng, là từ Giáo Đuờng
bước thẳng qua. Cái từ tiểu thuyết đen, roman noir, của Tây không thể
nào dịch
qua tiếng Mẽo, vì sẽ bị lầm, "đen là da đen", nhưng có một từ thật là
bảnh thế nó, đó là "hard boiled", dur à cure, khó nấu cho sôi, cho
chín. Cha đẻ
của từ này, là Raymond Chandler, cũng một hoàng đế tiểu thuyết đen!
Bài viết về Chandler
của nữ hoàng trinh thám Mẽo, Patricia Highsmith cũng tuyệt. Rồi bài trả
lời
phỏng vấn của Simenon, trong đó, ông phán, số 1 thế kỷ 19 là Gogol, số
1 thế kỷ
20 là
Faulkner, và cho biết, cứ mỗi lần viết xong một cuốn tiểu thuyết là mất
mẹ nó hơn 5 kí lô, và gần một tháng ăn trả bữa mới bù lại được! (1) Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Khí hậu ẩm ướt
trong thế giới tiểu thuyết NDT
Những ngày
sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa,
chỗ gặp mặt
dễ dàng và quen thuộc của một số bạn bè quen thuộc không còn nữa. Cũng
không còn
trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn
được nữa,
lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng…
Như thế, khi
Gấu quen NDT, Quán Chùa vẫn còn những chiếc ghế bành thấp và rộng,
tường nhà
hàng, những bệ bê tông thấp, bạn đang đi trên hè đường, nhảy 1 phát, là
vô bên
trong, và nếu như thế, thì vụ sửa chữa, là để biến nhà hàng thành 1 nơi
an toàn
hơn, sau cú VC đặt mìn nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.
Sau cú
đó,
ông trưởng đài liên lạc VTD thoại quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu trên
cùng, tòa
building số 5 Phan Đình Phùng SGN đề nghị ông Tổng giám đốc Bưu Điện,
cũng là 1
trong những ông thầy của Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, chuyển
đám Mẽo
đi nơi khác. Một trung tâm dành cho lính Mẽo nói chuyện với gia đình
được thành
lập - Gấu nhớ, tên gồm hai chữ IH [?], tại đường Nguyễn Huệ - và Trung
Tâm Báo
Chí, Press Center, ở đâu khu rạp REX, dành cho đám ký giả. Trước, tất
cả đều
lên Đài VTD để thực hiện những cú gọi.
Khí hậu ẩm ướt
trong thế giới tiểu thuyết NDT
Những ngày
sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa,
chỗ gặp mặt
dễ dàng và quen thuộc của một số bạn bè quen thuộc không còn nữa. Cũng
không còn
trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn
được nữa,
lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng…
Như thế, khi
Gấu quen NDT, Quán Chùa vẫn còn những chiếc ghế bành thấp và rộng,
tường nhà
hàng, những bệ bê tông thấp, bạn đang đi trên hè đường, nhảy 1 phát, là
vô bên
trong, và nếu như thế, thì vụ sửa chữa, là để biến nhà hàng thành 1 nơi
an toàn
hơn, sau cú VC đặt mìn nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.
Sau cú
đó,
ông trưởng đài liên lạc VTD thoại quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu trên
cùng, tòa
building số 5 Phan Đình Phùng SGN đề nghị ông Tổng giám đốc Bưu Điện,
cũng là 1
trong những ông thầy của Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, chuyển
đám Mẽo
đi nơi khác. Một trung tâm dành cho lính Mẽo nói chuyện với gia đình
được thành
lập - Gấu nhớ, tên gồm hai chữ IH [?], tại đường Nguyễn Huệ - và Trung
Tâm Báo
Chí, Press Center, ở đâu khu rạp REX, dành cho đám ký giả. Trước, tất
cả đều
lên Đài VTD để thực hiện những cú gọi.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Thụy
Vũ
“Buồn
Ơi Chào Mi”
Có cái nhí
nhảnh vô tư của tuổi trẻ ở trong đó.
Tôi chẳng
bao giờ muốn viết chuyện đời mình. Trước tiên, nó liên quan tới nhiều
người mà
may mắn làm sao, đều còn sống, ngoài ra, trí nhớ của tôi thật là phiền,
cứ mất
tiêu năm năm ở khúc này, năm năm ở khúc khác. Tôi chẳng bao giờ đọc lại
sách của
mình, trừ cuốn Trong Một Tháng Trong
Một Năm. Đọc trên máy bay. Không tệ, theo
tôi. Nhưng từ đó, là thôi. Còn biết bao cuốn, của người khác. Ngu gì
mất thì giờ
đọc lại sách của mình!
Sagan [The Paris
Review]
Trong nhiều
năm sau khi quyển sách này được xuất bản, dường như tôi đã hì hục viết
một BẾP
LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái bản, tôi đều muốn viết lại
nó. Kể
cả bây giờ, sau mười bẩy năm.
Thanh Tâm
Tuyền.
Độc giả chọn Les Mots, trong
khi Sartre giữ lại Nhận Định, Saint
Genet, Phê bình lý trí biện
chứng... luôn cả Buồn Nôn.
Borges gán
những phát giác thần kỳ văn chương của ông cho những tác giả khác, và
thú nhận
sự thất bại không thể nào bắt chước Kafka [hì hục một cách vô ích, là
Kafka: sa
vaine tentative d'être Kafka].
Nabokov mê
nhất Lolita, nhưng hơi buồn,
vì thiên hạ chẳng còn ai dám đặt tên cho con gái của
họ là Lolita nữa.
BONJOUR
TRISTESSE BY FRANCOISE SAGAN
After the
grim work of the Second World War and the hard work of the post-war
reconstruction, Bonjour Tristesse burst
onto the French literary scene like a
carnival. It announced what seemed like a new species, youth, la
jeunesse, who
had but one message: have fun with us or be gone; stay up all night at
a jazz
club or never come out with us again; don't talk to us about marriage
and other
boring conventions; let's smoke and be idle instead; forget the future
who's
the new lover? As for the tristesse of the title, it was an excuse for
a really
good pout.
YANN MARTEL
Sau một ‘cần
lao’ khốc liệt thời Đệ Nhị Chiến và một ‘cần lao’ cật lực tái xây dựng
thời hậu
chiến, Buồn Ơi Chào Mi nổ ra
như một trái bom trên nền trời văn học Pháp và
cùng với nó, là một ngày hội. Nó thông báo sự ra đời của một chủng loại
mới, tuổi
trẻ, la zơn nét, la jeunesse, thứ sinh vật mới mẻ này có một thông
điệp, và chỉ
một mà thôi: hãy vui chơi với tụi tớ, nếu không, biến đi cho được việc;
nhẩy
nhót suốt đêm tại một vũ trường jazz, nếu không, đừng bao giờ rủ tụi
này đi
chơi; đừng nói với tụi này về hôn nhân, về ba lẩm cẩm khác, hãy hít đến
mụ cả
người ra, hãy vờ tương lai – ai là thằng bồ mới của mi?
Và cái từ buồn
ở trong cái tít quả đúng là một cái trề môi, 'thôi bỏ đi tám'!
Ui chao, đám
jơn nét VC ở trong nước, con cháu của những đại gia Bắc Bộ Phủ, hay
HNV [Hội Nhà Văn], hay
HNT [Hội Nhà Thổ], quả đã xử sự đúng như vậy, nhưng ở trong tim trong
gan trong hồn
trong não
của chúng, có một nỗi buồn, đúng hơn, một 'ô nhục': thắng trận!
Một
ông sĩ
quan VNCH như một THT, làm sao có được nỗi ô nhục ‘bảnh’ như thế?
“Bonjour
Tristesse” sort en librairies quand tombe Diên Biên Phu. C’est une
victoire.
“Buồn Ơi
Chào Mi” ra nhà sách trong lúc Điện Biên Phủ rớt vô tay VC
Tây Đặc Một Thời
Notes on a
voice: Le Carré
TYPICAL
SENTENCE
It takes three (two short, one
long) to show his measured fury.
"'This is a war,' Leamas replied. 'It’s graphic and unpleasant because
it
is fought on a tiny scale at close range; fought with a wastage of
innocent
life sometimes, I admit. But it’s nothing, nothing at all besides other
wars—the last or the next.'" ("The Spy Who Came in from the
Cold")
Câu văn thần sầu
Phải ba (hai
ngắn, một dài), để chỉ ra, cơn cuồng nộ cố dằn lại của ông. “Đây là
một cuộc
chiến,” Leamas trả lời. “Nó có tính đồ thị, minh họa, và làm khó chịu,
bởi là
vì xẩy ra trong 1 phạm vi hẹp, và ngay trong tầm tay; đôi khi làm phí
những mạng
người vô tội, tôi đồng ý. Nhưng bõ bèn gì, bên cạnh những cuộc chiến
khác – cái
vừa qua, hay cái sắp tới.” ("Tên điệp viên về từ miền lạnh”)
*
Với Gấu Cà
Chớn, câu văn thần sầu của Gấu mà nhờ le Carré mới viết được - vắt qua
hai cuộc đời, một đã qua
cùng cuộc
chiến đã qua, và một sắp tới, cùng cuộc chiến hội nhập sắp tới - là câu
văn mà,
chỉ 1 khi Gấu được Cao Uỷ Tị Nạn cho xe tới rước, sau hai tháng tù vì
tội nhập
vô Thái Lan bất hợp pháp, tại nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó đưa vô
Trại
Phanat Nikhom - chỉ tới khi đó, mới viết được khúc đuôi của nó:
"Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi,
tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường
xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời
đó mới đáng kể." (1)
Note:
"Đáng kể", “kể”, kể ra, viết ra...
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Một “Nguyễn
Thị Hoàng” Nhật. Sau đi tu
(1)
Comment êtes-vous
devenue écrivain?
Je me suis
mariée très jeune, à 20 ans. C'etait en 1942. J'ai suivi mon mari à
Pekin, où
il enseignait. A notre retour au Japon après la guerre, je suis tombée
amoureuse de l'un de ses étudiants, puis d'un écrivain marié. La vie
littéraire
me fascinait. J'ai divorcé en 1950. La place de la femme dans la
société
japonaise de l'époque ne me laissait pas d'autre choix que de laisser
ma
famille derriére moi pour pouvoir me consacrer à l'ecriture.
Vos premiers
romans ont fait scandale. Pourquoi ?
Mon premier
livre, Kashin [« Pistil», non traduit],
paru en 1958, abordait le sujet du plaisir et de l'adultère au feminin.
Cela
m'a valu d'être qualifiée de « romancière pornographique » par le
critique le
plus en vue de l'époque. Il s'est ensuivi plusieurs années d'ostracisme
dans un
monde littéraire dominé par les hommes. Mon roman La Fin
de l'été, paru en 1963, a lui aussi fait scandale, parce
qu'il racontait la relation à trois que j'avais vécue, ou plutôt à
quatre : ma
liaison avec un étudiant plus jeune que moi et, simultanement, avec un
homme
marié. Ces livres n'ont plus rien de choquant aujourd'hui, mais, dans
les années
1960, il n'était pas facile pour une Japonaise de s'exprimer librement.
De
fait, j'ai commence à écrire des biographies de femmes célèbres, parce
que ces
textes étaient plus facilement acceptés que les récits de ma propre vie
!
Bà thành nhà
văn như thế nào?
Tôi lấy chồng
khi còn trẻ, vào lúc 20 tuổi. Vào năm 1942 tôi theo chồng qua Bắc Kinh,
nơi ông
dạy học. Khi trở về Nhật, sau chiến tranh, tôi mê một trong những sinh
viên của
chồng, rồi mê 1 ông đã có vợ. Cuộc sống văn nghệ làm tôi mê mẩn. Tôi ly
dị chồng
vào năm 1950. Vị trí người phụ nữ trong xã hội Nhật không cho tôi một
chọn lựa
nào khác, là bỏ lại gia đình ở đằng sau, để lao vào văn chương.
Những cuốn đầu
tay của bà gây xì căng đan, tại sao?
Cuốn đầu tay
của tôi, ra mắt năm 1958, đề cập tới chuyện lạc thú và ngoại tình ở phụ
nữ. Tôi
được coi là nhà văn nữ viết khiêu dâm. Cuốn tiểu thuyết Hết
Mùa Hè, ra mắt năm 1963, cũng gây xì căng đan, vì kể cuộc tình
tay ba, và tay tư,
mà tôi đã trải qua, với 1 sinh viên trẻ hơn tôi, cùng lúc với 1 người
đàn ông đã
có vợ.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Chiếc
cầu thang huyền hoặc của thư viện Lello,
Porto, thư viện đẹp nhất thế giới theo Vila-Matas
Thư viện Đa Kao, Saigon
... nào,
đâu, con đường Trường Thi, Hà-nội, và bóng dáng một chú bé chạy vội
chạy vàng tới
thư viện Pháp, cho kịp giờ chiếu phim. Chỉ là những phim thời sự đen
trắng của
hãng Gaumont, vậy mà cũng có bữa phải lủi thủi ra về, không phải vì đến
trễ, mà
vì không được người gác cửa giơ ngón tay như cây đũa thần vẫy vẫy...
nào, đâu,
thư viện Gia Long, thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc
bộ, có
quán cà phê Làng Văn, đêm nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm
thơ, và
cũng chẳng bao giờ là thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:
Em đi áo lụa
mềm lưng phố
Có động lòng
thương kẻ cuối đường...
Như thế, thư
viện đầu tiên mà Gấu biết, là thư viện Hà Nội [Thư viện Pháp]. Đến,
không phải để xem
sách, mà
để coi những thước phim đen trắng, phim thời sự, đầu tiên trong đời,
thời gian
mới về Hà Nội, ở nhà ông anh rể Nguyễn Hoạt, ở Bạch Mai, đi bộ lên đến
đường
Trường Thi, có khi phải lủi thủi ra về. Phải đến khi bà cô, Cô Dung,
thương
tình, kêu về nuôi, cho ăn học, và thằng cháu bắt đầu biết đến cái gọi
là movie.
Để có tiền coi phim, thằng cháu thường là chôm, từ cái ví của cô, mỗi
lần cô đi
đánh mà chược ở nhà 1 người bạn, vội vã về, lo cơm nước cho ông chồng
già, 1 ông
Tây thuộc địa, kỹ sư, làm cho Sở Hỏa Xa Đông Dương. Bà cô chẳng hề bao
giờ đếm
tiền, nhất là thứ tiền lẻ, Gấu thường chôm chỉ đủ 1 chiếc vé, cho 1
phim mới
chiếu trong tuần.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Buổi chiều
ngày đầu, Q. nói với tôi, H. là con gái lớn bà chủ nhà. Chúng tôi đứng
ở cuối
vườn. Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi
lao ngập
ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im
lìm buổi
trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn
của tôi.
Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện
ra giữa
hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn,
nhẹ và ấm
vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió
có những
con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát. Tôi dựa lưng
vào thân
cây phi lao, và bỗng nhận ra đời sống vô vị, buồn nản của mình, một đời
sống
không có gì để nhớ, hoặc để chờ: tôi chờ những lần chiếc đu trở lui về
phía sau
và cố nén cơn ho thường lệ buổi chiều.
Những con dã tràng
Trong Steps,
có 1 xen y chang xen trên, nhưng
khủng khiếp hơn nhiều. Bịnh, cực bịnh, phải nói như vậy.
The next
afternoon I found a pretext to visit the sanatorium. Patients in
brightly
patterned pullovers and tight pants strolled about the corridors.
Others slept
huddled in blankets. Filmy shadows cut across the deserted deck chairs
on the
sunny terrace, and the canvas snapped in the sharp breezes that
scattered down
from the peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually
thrown
around her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered,
gazing,
she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell across
her when
I introduced myself. The visiting rules were very strict, and I was
permitted
to spend only two hours a day in her room. I couldn't get too close to
her: she
would not let me. She was very ill and coughed continually. Often she
brought
up blood. She shivered, became feverish; her cheeks flushed. Her hands
and feet
would sweat. During one of my visits she asked me to make love to her.
I locked
the door. After I had undressed she told me to look into the large
mirror in
the corner of the room. I saw her in the mirror and our eyes met. Then
she got
up from the bed, took off her robe, and stepped over to the mirror. She
stood
very dose to it, touching my reflection with one hand and pressing her
body
with the other. I could see her breasts and her flanks. She waited for
me while
I concentrated more and more on the thought that it was I who stood
there
within the mirror and that it was my flesh her hands and lips were
touching.
But in a low yet urgent voice, she would stop me whenever I took a step
toward
her. We would make love again: she standing as before in front of the
mirror,
and I, a pace away, my sight riveted upon her. Her life, was measured
and
constantly checked by various instruments, recorded on negatives,
charted and
filed away by a succession of doctors and nurses, reinforced by needles
piercing her chest and veins, breathed in from oxygen bottles and
breathed out
into tubes. My brief visits were interrupted more and more frequently
by the-
intrusion of doctors, nurses, or attendants who came to change the
oxygen
cylinders or give- new medicines. One day an older nun stopped me in
the
corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said
I
didn't understand, she said the staff had a name for people like
myself: hyaenidae. As I still failed to
-understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around
bodies
that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.
Tôi không biết
võ, cũng không bao giờ có ý nghĩ sẽ học võ để đánh nhau với ai cả,
nhưng không
hiểu sao, tôi muốn viết văn như người ta đấu võ: mỗi câu như một cú
đấm. Nhanh,
gọn, dứt khoát. Mỗi câu văn phải đập chát vào một cái gì. Cái gì cũng
được, miễn
đừng là khoảng không. Trong văn chương, đáng thương nhất là những cú
đánh hụt.
Đọc đoạn
trên, trên FB của Thầy Kuốc, bèn nhớ đến Sartre, và bài của Jean Cau,
viết về
sư phụ. Khác Thầy Kuốc, Sartre có học đánh bốc.
Cảm giác “cua bò trên lưng”, khi viết “Buồn Nôn”, của Sartre, là
có thật.
Gấu nghe TTT kể, một lần ngồi Quán Chùa, chỉ có hai anh em, sau
có đọc giai
thoại thú vị này.
Đúng là 1
tình cờ thú vị, “Món gì ở giữa hai ngón chân cái?” hoá ra là nội dung,
của cái
tít, và của bài điểm, một cuốn sách mới ra lò về Camus và Sartre, trên
tờ TLS,
Dec 14, 2012, “Võ sĩ và tay giữ gôn”, “The Boxer and the goalkeeper”,
Sartre vs
Camus, của Andy Martin, TV post sau đây:
Bướm lúc đó ở
đâu?
Where’s
Beauvoir?
Bài ngắn,
nhưng thật tuyệt, vì nó phân biệt được cả 1 thời hiện sinh Tẩy, qua hai
bậc thầy
của nó, một võ sĩ, Sartre; một giữ gôn, Camus.
Jean Cau, đệ tử của Sartre, trong 1 bài viết cũng đã nhắc tới Sartre,
như là 1 võ sĩ, và còn tả bộ dạng của sư phụ, mỗi lần sắp ra đòn!
Hạnh phúc không phải là
cái mà bạn cố có cho bằng được, mà là, bạn chỉ có
nó, khi cố hoàn tất 1 mục tiêu khác, và nếu thần may
mắn mỉm cười
với bạn, thì sẽ có lúc bạn có được hạnh phúc, như là bạn đang thở.
Điều này cũng giống như
điều mà tụi mũi lõ gọi là "cool" [thoải
mái, mát mẻ]. Bạn cố thoải mái là đếch làm sao thoải mái. Nhưng khi bạn
hết
mình vì 1 điều chi khác, và nếu mục tiêu khác này, và những cố gắng của
bạn, đáng khen, đáng nể, thế là sẽ có 1 lúc bạn hít thở thoải mái, mát
mẻ, như là bạn
đang thở khí trời.
Camus là 1 tay "cool" như vậy, trong khi Sartre là đối
cực, theo tác giả cuốn “Võ sĩ và tay giữ gôn”.
Nhưng lúc đó, “món gì ở
giữa hai ngón chân cái?” - tên một truyện ngắn của Cô Tư - tức bướm Beauvoir, ở đâu?
Where’s Beauvoir?
Hà,
hà!
Ông ta có 1 đòn
làm tôi mê hoặc. Khi ông suy nghĩ, hay lắng nghe, vai phải của ông nhô
lên, cùng
lúc thân hình né ra khỏi cánh tay gấp lại. Những võ sĩ, phiá trái
trong tình trạng báo động [gauche en alerte], có thế ra đòn như vậy,
bằng tay
phải, khi chuẩn bị tung ra quả đấm.
Không biết có phải đòn này có từ thời ông học đấm, khi là giáo sư tại
Havre?
Hay là, những bàn luận văn chương,
triết học, thì với ông, cũng giống như 1 trận đấu võ:
Ông chờ đợi những
ý kiến, lý lẽ của đối thủ, y chang 1 tay võ sĩ chờ địch thủ ra đòn?
Jean Cau, viết
về sư phụ Sartre, Phác họa hồi ức, Croquis
de mémoire, trong Témoins de Sartre (1)
Thầy Kuốc quả
là khác Gấu – đúng như lũ đệ tử của ông chửi, mi làm sao mà so với Thầy
của chúng
tao. Đâu có phải ai cũng được VC coi trọng & sợ hãi tới mức, lần
nào nhớ nhà
về, cũng bị “mời khéo”, quê hương - hồi hộp hay không hồi hộp, âm thầm
hay không
âm thầm, công khai hay không công khai… - đếch cần đến sự đóng góp của
Thầy! (2)
Bởi là vì Thầy
Phúc, có 1 lần, đã nhận xét về cách viết của GCC, sau khi đọc “VP, nhà
văn Bình
Định”, hay “Một Chuyến Đi”... thời gian
Gấu cộng tác với tờ Văn Học của NMG:
Đây là môn "viết công"
Lăng Ba
Vi Bộ!
Bạn đọc chắc
còn nhớ Đoàn Dự, đếch thích học võ công, nhưng cũng chẳng muốn ai thoi
mình,
bèn được Thần Tiên Nương Tử, người đẹp ở trong động, dạy môn học này,
chỉ để bỏ
chạy.
“Chú hiền lắm,
khác hẳn mấy ông kia”, một nhà văn “ra đi từ Miền Bắc”, nhận xét về văn
của Gấu.
“Nhân hậu và
cảm động”, H/A phán.
(2)
May quá, những
điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân, Hùm Xám thứ thiệt
ban cho, chứ không phải đồ gà chết!
Steiner
Gấu làm sao có được cái
hân hạnh được Đại Ác Nhân VC đá đít, khi cố bò về, không
chỉ 1, mà
tới 2 lần!
Mới chỉ nghe
1 ông bạn báo động, thời tiết Hà Nội bây giờ không như lần anh về, là
đi một đường
Lăng Ba Vi Bộ, Tẩu Vi Thượng Sách rồi!
V/v: Nhân loạt
bài Nhật Tuấn viết về "Chân Tướng" nhà văn VC, post
lại trang này
Có hai
nhà văn Bắc Kít chúng
ta cần đọc đi đọc lại, là Tô Hoài và Nguyễn Khải. Đọc NK thì phải nhớ
câu phán
của ông: Giá mà không có Đảng thì tôi đã trở thành một vị linh mục. Nhớ
luôn những
tác phẩm ông tấn công vào cái nôi tôn giáo ở Miền Bắc, là vùng Bùi
Chu, Phát
Diệm.
Tô Hoài, đừng bao giờ quên ông
còn là tác giả của Dế Mèn.
Giả như không có Đảng, liệu Cái Ác của ông
vẫn còn nằm
ẩn tàng ở trong cái vỏ ngây thơ của một tác giả chuyên viết chuyện cho
nhi đồng?
Tuy nhiên, trong Quê Người,
người đọc đã ngửi ra được Ba Người
Khác, khi đọc cuốn sau, rồi đọc lại
cuốn trước!
Nam Cao so với Tô Hoài, thua
xa về khoản Ác siêu việt, vượt luôn cả hiện thực!
*
Còn một tay
nữa, nhưng mới nháng lên như ánh lửa
ma trơi thì đã vụt tắt rồi, là… Quê choa NQL!
Những entries đầu của anh, Cái Ác Trung Kít mà chẳng... "Thần" sầu,
ư?
Đấy là chưa kể tới Cái Dâm, mà "Xìn Phóng" xém mất mạng vì phán
"ẩu" về nó!
*
Thêm một bài viết thứ
nhì của
PTVA, về VTN, trên web phong diep. Đọc bài này, càng thấy PTVA không
hiểu gì hết
về tình trạng văn chương ‘tự thú’ của mấy đấng nhà văn Miền Bắc.
VTN cũng có
hai mặt, y như mấy ông kia, thí dụ Tô Hải, Nguyễn Khải…
Nhưng với một con người
như Tô Hoài, đừng mong ông viết thứ đó, và đúng như VA nói, [cung nô
bộc của TH
xấu quá!], ông nhờ một tên đàn em ở gần ông là VTN, nói giùm ông!
Nên nhớ VTN đã từng xém bị làm
thịt vì cứ lo bới móc cái xấu của dân Mít, đâu đợi đến bài viết về Tô
Hoài chúng
ta mới nhận ra?
VTN? Cũng đừng mong ông công khai tự thú như Tô Hải, thí dụ!
Ông viết thật cay đắng về TH,
là cũng để ngầm tự thú, và để xả xú bắp, sau bao nhiêu năm bị sư phụ ém
tài!
Ui chao văn chương nó làm nhục
con người làm sao, nhất là không có nó, thì làm sao có miếng ăn!
Chúng ta cũng đừng mong những
dòng tự thú của VA!
Bài viết của VA về VTN cho thấy, còn
lâu Mít mới có một ông thánh của Lò Cải Tạo!
Bài viết của
Vương Trí Nhàn về Tô Hoài, là đã được Tô Hoài gật đầu cho phép viết.
Viết xong,
còn trình cho sư phụ coi, sư phụ bèn gật đầu, được, được.
Hơn ai hết,
Tô Hoài
biết rất rõ, hậu thế sẽ tha thứ cho ông, nhờ cái gật đầu của ông. Những
bài viết
của Nhật Tuấn về Tô Hoài làm sao so được, với chỉ 1 cái gật đầu
như thế?
Ba nhà văn cực
độc của Mít, theo Gấu, là Tô Hoài [độc nhưng rất ư là ngây thơ, nếu
không, không
viết được Dế Mèn, không làm sao tạo
ra được 1 Cu Lặc – hãy nghĩ tới Tên
Khờ của Dos], Nguyễn Khải, và…Võ Phiến. Toàn
là những đại văn hào – đúng như thế - của xứ Mít.
NK, hỏng vì không còn 1 cách
nào khác, đành chọn Đảng thay vì Bố [Bắc Kít bỏ chạy vô Nam], thay vì
Chúa [cũng
bỏ chạy vô Nam mất tiêu]
Võ Phiến, chết
vì cái đố kỵ, "tiểu khí”, có mùi địa phương - vết thương hình chữ S
-Trung Kít của
ông.
Ôi nỗi đắng
cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó
giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc nơi chỉ có hai
mùa mưa
nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên
ác nghiệt,
mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày
tháng... (1)
Ui chao, phải
là 1 nhà tiên tri, một tên ăn cướp, một tên Quỉ Đỏ, ở chuồng lợn... thì mới nhìn ra cái xứ Bắc Kít quê hương của
mình, chỉ là 1 thứ “Quê Người”, Exile.
Quê Hương
thực
sự, Vương Quốc, Royaume, là… Nam Kít.
PHẠM TIẾN DUẬT
Vào những
năm 1973-74, cuộc chiến tranh chống Mỹ đã kéo quá dài, khó khăn kinh tế
ngày
càng trầm trọng, tâm lý chán nản, “hòa bình chủ nghĩa” đã xuất hiện
trong một bộ
phận quân đội và nhân dân .
Vào đầu năm
1974, tại một đỉnh dốc Trường Sơn ngang đoạn bốt Đỏ Mỹ , gần sông A
Vương, tôi
cùng nhóm trinh sát công binh đang ngồi nghỉ, bất chợt một chiếc xe
quân dụng
bịt bạt từ Bắc vào, qua chỗ chúng tôi ngồi, xe dừng lại, anh lái nhảy
từ trên
xe xuống chửi toáng :
“ Mẹ kiếp…thằng
miền Bắc làm thằng miền Bắc ăn, thằng miền Nam làm thằng miền Nam ăn,
đánh nhau
làm đ….gì cho khổ chúng ông…”
Tôi trợn
tròn cả mắt. Í chết chết…câu nói này mà đến tai chính trị viên thì
thằng cha
này ra Tòa án binh là cái chắc. Vậy mà cả đám ngồi đó chẳng ai nói gì,
còn cười
hô hố .
Tâm lý “mệt
mỏi vì chiến tranh kéo dài” đó không thể không ảnh hưởng tới văn học.
Hồi còn ở
Hà nội, nhà thơ Định Nguyễn tức Bá, biên tập Tạp chí Thanh Niên vẫn hay
tới nhà
tôi nhậu nhẹt, đưa tôi coi bài thơ “ Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật :
Khói bom
lên
trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất
lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn
tôi đi trong im lặng
Cái im lặng
bình thường đêm sau chiến tranh.
Có mất mát
nào lớn bằng cái chết
Khăn tang
vòng tròn như một số không
Nhưng bạn
ơi, ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc
lửa ở bên trong.
Í chết, thơ
sặc mùi “phản chiến”, bi quan, “hòa bình chủ nghĩa” thế này sao mà
đăng. Không
ngờ sang tháng 1-1974, Định Nguyễn uống thuốc liều sao đó, cả gan cho
đăng trên
Tạp chí Thanh niên và lập tức ăn đòn hội chợ. Cũng may anh là học sinh
miền Nam
nên cũng đỡ không thì đi đập đá là cái chắc.
Sau “Vòng trắng
“ của Phạm Tiến Duật đến lượt “Sẹo đất” của Ngô văn Phú bị “lên đĩa” :
Cái hố bom nằm
trên vạt ruộng
Dẫu san bằng
vẫn cứ nhận ra
Đến mùa bừa
chân bước nhấp nhô
Lúa cấy kín,
vệt tròn còn đấy
Tưởng trên
da thịt mình mới sẹo
Ai ngờ đất
cũng sẹo như người
Trong chiến
tranh đạn cắm tay tôi
Trong chiến
tranh hố bom dầy đất
Hết chiến
tranh, tôi về hợp tác
Đất chuyển vần,
vụ lúa vụ khoai
Ái chà, cả
nước đang nêu cao khí thế anh hùng cách mạng, “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy
nhào”, thơ thẩn gì bi quan, than vãn như thế ? Lập tức ông trùm văn
nghệ Tố Hữu
kéo còi báo động :
"Tà khí
đang bốc lên ...",
Nhà thơ chính
thống Chế Lan Viên phải đẻ ra một từ mới, "bọn bàng thống" , để chỉ
những cây bút "chân đất" đang khởi màu phản kháng, và nhà thơ Dương
Tường khi được hỏi về "đặc điểm của thời đại chúng ta", đã buông một
tiếng thở dài:
"L'angoisse"
- sự lo âu.
Vâng, những
năm đó bầu trời Hà Nội lúc nào cũng ong ong một màu tai ương, mỗi sáng
anh em cầm
bút thường hỏi nhau, hôm nay, báo Văn Nghệ làm thịt thằng nào đây, danh
sách
"cấm bút" có thêm thằng nào.
Tâm trạng bất
an thường trực trong những cây bút "bàng thống" khiến chẳng còn lòng
dạ đâu nghe một bản giao hưởng, coi một tranh tĩnh vật. Tháng Tư năm
1975, nếu
không có sự kiện ngày 30, cái tâm trạng bất an đó còn trĩu nặng biết
chừng nào,
bởi lẽ, mừng rỡ về "đại thắng mùa Xuân", Đảng đã "tha" hết,
bỏ qua những bắt bẻ, những suy diễn, giảm thiểu đi rất nhiều cái tâm lý
bất an
thường trực kia.
May mắn
thay, trong suốt thời gian đó, Phạm Tiến Duật lại đang “chiến đấu”
trong Trường
Sơn, sáng tác những bài rung động cả nước “ Tiểu đội xe không kính”,
“Vầng
trăng quầng lửa”,” Gửi em cô thanh niên xung phong”, “ Trường Sơn đông,
Trường
Sơn tây”…Nhiều bài đã trở thành “tiếng đàn muôn thủa” mà không phải ai
cũng
“tri âm”. Có trải qua những năm tháng Trường Sơn mới “thấm “ hết thế
nào là “
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”,”Nước khe cạn bướm bay lèn đá”,” Hết
rau rồi
em có lấy măng không?”…
Cứ mỗi lần đọc
lại thơ Duật, tôi thấy nghèn nghẹn trong lòng, dội lại cả một thời đã
qua. Quả
thực , “ Lửa đèn” như nhạc cổ điển vậy, lâu lâu nghe lại vẫn thấy bồi
hồi.
Khoảng tháng
3 năm 1975, tôi gặp nhà thơ – nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha ở sông A Vương
(Quảng Đà)
trên đường anh vào B. Tay bắt mặt mừng. Kha hỏi tôi có gặp Duật không ?
Tôi bảo
tuy cùng lính “ Năm năm chán” (559) nhưng Duật ở Cục chính trị mãi
ngoài Vĩnh Mốc,
còn tôi ở tiểu đoàn trinh sát tít trong này sao mà gặp ?
Mãi tháng 9
-1975 tôi mới ngồi xe commăngca , mặc đồ lính chạy vào Sàigon ở chơi ít
ngày
nhà ông anh là nhà văn Nhật Tiến tại Tòa soạn báo Thiếu Nhi phố Thiệu
Trị.
Một buổi
sáng có một cô gái xinh đẹp tới xin gặp . Áo dài trắng, người mình rây,
tóc
ngang vai…thoạt nom biết ngay là nữ sinh Sàigon.
Cô hỏi tôi
có quay ra Hà Nội không ? Tôi bảo chắc chắn sẽ quay ra. Cô rụt rè :
“ Vậy thì
anh chuyển giúp em cuốn sách này cho…nhà thơ Phạm Tiến Duật…”.
Tôi giật
mình, hóa ra ông bạn vàng đã lẻn vào Sàigon trước tôi và sau này nghe
nói Duật
phải kiểm điểm về tội bỏ đơn vị quá lâu .
Cô gái có vẻ
buồn và ngơ ngác. Hóa ra cô nhờ tôi chuyển cho Duật cuốn “Con chim trốn
tuyết…”
, truyện của Gallico viết về Rhayader, một hoạ sĩ tật nguyền, phải tìm
nơi ẩn dật
ở một hải đăng hoang phế ven biển và chết bên dưới vòng cánh lượn đầy
tình
nghĩa của "con chim trốn tuyết".
Nội dung cuốn
truyện chẳng dính dáng gì tới Duật mà sao cô gái cứ khẩn khoản tôi
chuyển cho
anh. Bất ngờ, bằng những kinh nghiệm tình trường, tôi chợt nghĩ ra :
“ Phải tên
cô là Tuyết không ?”
Cô gái gật đầu
e thẹn :
“ Dạ vâng,
em tên Tuyết…”
Tôi bật cười
:
“ Con chim của
Gallico thì trốn tuyết, còn Duật thì trốn…cô à ?”
Cô gái đỏ bừng
mặt nhưng sự im lặng đã là câu trả lời. Ít lâu sau ra Hànội tôi nhắn
Duật tới
“nhận quà Sàigon”. Hồi đó dân gian có câu “ miền Bắc nhận hàng, miền
Nam nhận họ”.
Tất nhiên Duật không rơi vào trường hợp đó nên cứ thắc mắc không biết
ai gửi
quà cho anh ? Tôi đưa ra cuốn “con chim trốn tuyết “ :
“ Sao ? Đã
nhận ra ai gửi chưa ?”
Nhìn cái tựa
sách, dường như Duật đã hiểu ra, mặt đỏ bừng, buồn buồn. Tôi nhắc :
“ Thế nào…định
trốn …Tuyết à ?’
Duật khó
khăn :
“ Cái gì đã
qua thì thôi cho qua luôn…”
Hồi đó Duật
vẫn đang ở với chị Vân, tôi giằng cuốn sách lại :
“ Thôi đừng
cầm về…bà Vân biết thì rắc rối…”
Duật lắc đầu
:
“ Không
sao…không sao đâu…”
Anh vẫn cầm
cuốn sách về , thẫn thờ như người mất hồn và không nói gì thêm. Nhiều
năm sau gặp
lại Duật ở phòng làm việc của Tùng Điển, Phó chủ tịch Hội liên hiệp
VHNT. Thì
ra Duật đã về tạp chí của Hội, lương bổng bằng cái “móng tay” so với
quan chức Hội
nhà văn. Chẳng hiểu sao Duật cứ buồn buồn, tất nhiên không phải vì
chuyện “con
chim trốn tuyết” – nghe nói cô gái đã định cư ở Mỹ. Thời gian này chắc
để kiếm
thêm do thu nhập eo hẹp Duật đang làm MC trong tiết mục “Cây cao bóng
cả” trên
tivi.
Nhìn vẻ mặt
buồn và khắc khổ, tôi nhói lên thương anh. Bằng vào sự nghiệp thơ, lẽ
ra Phạm
Tiến Duật phải được cấp villa ven hồ Tây, phải được dựng tượng ở nghĩa
trang
Trường Sơn và đặt tên cho một phố lớn Hà Nội
Nhưng mà nghĩ lại , những
cái đó
để làm gì ?
“Anh cùng em
sang bên kia cầu
Nơi có những
miền quê yên ả
Nơi có những
ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín
đỏ hoe
Trái nhót
như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang
mùa hè…”
Đọc lại dưng
dưng muốn khóc. “Lửa đèn”, “ Gửi em cô thanh niên xung phong…” đó mới
là “tượng
đài” Phạm Tiến Duật.
Nhật Tuấn
Note [NQT]:
Gấu đọc bài này lâu rồi. Trên Blog của Nhật Tuấn.
*
There was a
young lady of Niger
Who smiled
as she rode on a tiger
They came
back from the ride
With the
lady inside
And the
smile on the face of the tiger.
-William
Cosmo Monkhouse, c.1891
Có cô thiếu
nữ Niger
Tươi cười cưỡi
hổ đi dạo
Và khi trở về
Cô thiếu nữ
thì ở bên trong
Còn nụ cười
của cô thì ở trên mặt con hổ. (1)
Tình cờ, Gấu
lại đọc bài thơ tên, làm đề từ cho cuốn “Nụ Cười của Con Báo”, của
Rushdie:
There was a
young girl of Nic'ragua
Who smiled
as she rode on a jaguar.
They
returned from the ride
With the
young girl inside
And the
smile on the face of the jaguar.
ANON
Có 1 ẩn dụ nối
kết hình ảnh," cô con gái ở trong bụng và nụ cười ở trên mặt con
báo", với cuộc chiến Mít, mà Gấu không làm sao liên tưởng ra được.
Rushdie
dùng câu trên làm đề từ viết về chuyến đi Nicaragua, nhân tiện, viết về
cuộc
chiến - cuộc cách mạng ở đó.
Trong cuốn
trên, Rushdie có trích 1 bài thơ của một em, chắc cũng tên… Tuyết:
LA
REVOLUCCÓN
Se lleva en
el corazón
para morir
por ella,
y no en los
labios
para vivir
de ella . . .
The
revolution/is carried in the heart/that may be died for, / and not on
the lips/
that it may be lived by.
Bằng
vào sự nghiệp thơ, lẽ
ra Phạm
Tiến Duật phải được cấp villa ven hồ Tây, phải được dựng tượng ở nghĩa
trang
Trường Sơn và đặt tên cho một phố lớn Hà Nội
Cách mạng
thì ở trái tim, sống với nó, không phải ở miệng, qua thơ mà
anh thi
sĩ sống nhờ nó.
Ba cái lẩm cẩm ở trên, nụ cười, con báo, [hai] cô Tuyết, bài thơ của
PTD, “đường
ra trận mùa này đẹp lắm”, chúng có gì mắc miú với nhau….
Cô Tuyết ở
bên Mẽo. May quá. Chắc cũng 1 em Nam Kít, mê Cách Mạng, mê thơ PTD....
Trường hợp
PTD làm nhớ Mai A Cốp Ki. Ông này làm thơ Cách Mạng hay quá, làm chết
không
biết bao nhiêu là người.
Sau ngộ ra, bèn tự sát.
Mít VC chưa
có ông nào làm được điều này.
Bác H chắc là có ngộ ra, bèn di chúc, hãy thiêu
xác ta, ném xuống biển, cho nó trôi qua… Mẽo.
Đâu có được,
xác Bác quí quá, làm sao thiêu?
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và
giấc mộng, sẽ có
ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ
Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn
thêm một
câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi
tới được nước Nam
Kỳ.
Tưởng thoả
mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ
khác
xuất hiện!
Lúc thì ở nơi
BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính
là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao
nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những
“nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có
“Sa mạc
Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A
Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông
nói là
đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc
Nam Kỳ,
tại Sài Gòn, khi có BHD.
*
Có hai
nhà văn Bắc Kít chúng
ta cần đọc đi đọc lại, là Tô Hoài và Nguyễn Khải. Đọc NK thì phải nhớ
câu phán
của ông: Giá mà không có Đảng thì tôi đã trở thành một vị linh mục. Nhớ
luôn những
tác phẩm ông tấn công vào cái nôi tôn giáo ở Miền Bắc, là vùng Bùi
Chu, Phát
Diệm.
Tô Hoài, đừng bao giờ quên ông
còn là tác giả của Dế Mèn.
Giả như không có Đảng, liệu Cái Ác của ông
vẫn còn nằm
ẩn tàng ở trong cái vỏ ngây thơ của một tác giả chuyên viết chuyện cho
nhi đồng?
Tuy nhiên, trong Quê Người,
người đọc đã ngửi ra được Ba Người
Khác, khi đọc cuốn sau, rồi đọc lại
cuốn trước!
Nam Cao so với Tô Hoài, thua
xa về khoản Ác siêu việt, vượt luôn cả hiện thực!
*
Còn một tay
nữa, nhưng mới nháng lên như ánh lửa
ma trơi thì đã vụt tắt rồi, là… Quê choa NQL!
Những entries đầu của anh, Cái Ác Trung Kít mà chẳng... "Thần" sầu,
ư?
Đấy là chưa kể tới Cái Dâm, mà "Xìn Phóng" xém mất mạng vì phán
"ẩu" về nó!
*
Thêm một bài viết thứ
nhì của
PTVA, về VTN, trên web phong diep. Đọc bài này, càng thấy PTVA không
hiểu gì hết
về tình trạng văn chương ‘tự thú’ của mấy đấng nhà văn Miền Bắc.
VTN cũng có
hai mặt, y như mấy ông kia, thí dụ Tô Hải, Nguyễn Khải…
Nhưng với một con người
như Tô Hoài, đừng mong ông viết thứ đó, và đúng như VA nói, [cung nô
bộc của TH
xấu quá!], ông nhờ một tên đàn em ở gần ông là VTN, nói giùm ông!
Nên nhớ VTN đã từng xém bị làm
thịt vì cứ lo bới móc cái xấu của dân Mít, đâu đợi đến bài viết về Tô
Hoài chúng
ta mới nhận ra?
VTN? Cũng đừng mong ông công khai tự thú như Tô Hải, thí dụ!
Ông viết thật cay đắng về TH,
là cũng để ngầm tự thú, và để xả xú bắp, sau bao nhiêu năm bị sư phụ ém
tài!
Ui chao văn chương nó làm nhục
con người làm sao, nhất là không có nó, thì làm sao có miếng ăn!
Chúng ta cũng đừng mong những
dòng tự thú của VA!
Bài viết của VA về VTN cho thấy, còn
lâu Mít mới có một ông thánh của Lò Cải Tạo!
Phan Thị Vàng Anh
CUNG NÔ
BỘC XẤU
Đọc “Tô
Hoài nhìn ở một
khoảng cách gần”, ngoài chuyện “phang” một người đang sức yếu, thì cái
điều
luẩn quẩn trong đầu tôi nhiều nhất chính là khái niệm “gần”.
Thế nào là “gần”? Và biết thế
nào mà giữ cho đừng quá “gần” để người ta nhìn mình quá sát? Và chẳng
lẽ không
nên để ai tới “gần” sao?
Thế nào là gần?
Gần với một người, theo nghĩa
thông thường ai cũng biết, là có thể lui tới người ta thường xuyên,
được người
ta tâm sự nhiều chuyện: từ chuyện nghề, chuyện đời, cho tới những thói
xấu của
người khác.
Gần nữa là được nghe người ta
nói xấu vợ, khen gái gú.
Gần hơn nữa là được nghe con
người ta tâm sự với mình về chính người ta.
Đối với đàn ông, gần nữa, gần
nữa là được người ta tâm sự về những suy nghĩ trước chính trị gia,
chính trị.
Đọc Tô Hoài nhìn ở một khoảng
cách gần, thấy trong quan hệ giữa nhà văn Tô Hoài và nhà phê bình Vương
Trí
Nhàn có đủ những cấp độ của cái sự “gần” đã nêu. Và cái “gần” này có vẻ
mang
màu sắc chủ động từ phía ông Nhàn chứ không phải từ phía nhà văn Tô
Hoài.
Làm sao giữ cho đừng quá
“gần”?
Câu hỏi này chắc nhà văn Tô
Hoài không thể trả lời. Ông đã thất bại hoàn toàn trong việc này, để
một người
như NPB Vương Trí Nhàn đến gần, quá gần, trong một thời gian quá lâu.
Mà ai rơi vào hoàn cảnh NV Tô
Hoài thì cũng thế thôi. Làm sao ông có thể phòng thủ được khi có một
người mang
vẻ thông minh nhường ấy, thâm trầm nhường ấy, biết căm ghét các thói
xấu (đặc
biệt của người Việt) nhường ấy bầu bạn.
Người ấy, tức NPB Vương Trí
Nhàn, biết quan tâm đến công việc của ông một cách chân tình, bền bỉ:
nào là
nhận biên tập sách ông viết, viết bài khen khi sách ông ra, viết thuyết
minh
cho phim về ông, và khi ông được giải thưởng Thăng Long thì cùng bạn bè
tổ chức
ăn mừng ông được giải…
Tóm lại, ông Nhàn có đầy đủ
tín hiệu của một người bạn vong niên, xứng đáng được ở gần mà trao đổi
những
điều sâu kín.
Và tóm lại, chẳng thể nào giữ
cho đừng quá “gần”, một khi người ta có dụng ý phải “gần” bằng được.
Nỗi hận của kẻ ở gần
Ngạn ngữ Tàu có câu về chơi
với bạn, đại ý, chơi thân với người xấu cũng như vào nhà xí, lúc đầu
thấy thối
về sau thấy thường. Chơi thân với người giỏi cũng như vào hàng hoa, lúc
đầu
thấy thơm về sau thấy mệt.
Lỗi của nhà văn Tô Hoài, đúng
như chính ông Vương Trí Nhàn đã viết, là có “khả năng chung sống với
cái xấu
đến tuyệt vời”, trong khi lại không biết mình đã chuyển sang giai đoạn
làm kẻ ở
gần “thấy mệt”.
Ông Vương Trí Nhàn một khi đã
được ở gần nhà văn Tô Hoài rồi có lẽ lại “thấy mệt”, nên trong nhật ký
của ông
gần như chỉ toàn những điều căm ghét và coi thường. Hành động gì, câu
nói gì
của NV Tô Hoài cũng bị ông bới móc, đay nghiến (nhưng thầm; chỉ thầm
thôi).
Cao hơn nữa, sự hận “thầm” của
ông Vương Trí
Nhàn còn khiến ông lân la đến những nhà văn khác nhau, nhớ và ghi lại
cẩn thận
những câu họ nhận xét không hay về Tô Hoài. Các nhà văn đó giờ hẳn phải
rùng
mình. Có ai ngờ trong lúc vui miệng nhận xét về một người, mà cái người
kia cứ
gật gù nghe rồi lẳng lặng về nhà ghi lại hết, xong bây giờ tập hợp
thành hẳn
một bản “tố cáo” đủ nhân chứng.
Nghĩ mà buồn cười. Ông Vương
Trí Nhàn lấy tên bài là “ở một khoảng cách gần”, nhưng những lời nói
không hay
về nhà văn Tô Hoài thì ông toàn nghe qua người này người nọ, tự ông
hoàn toàn
không có kiểm chứng, thậm chí bằng một phương thức đơn giản nhất là hỏi
lại nhà
văn xem có đúng thế không.
Nhưng đời nào ông dám hỏi
thẳng! Chính ông tự nhận, trong một “cơn điên”, ông mới dám “liều” cật
vấn nhà
văn hai câu (nhẹ nhàng) mà ông thấy thế là quá can đảm. Còn bình
thường, khi
không “điên”, khi không “liều” và ở cạnh NV Tô Hoài thì ông làm gì? Ông
chỉ dám
“thầm nghĩ”, hoặc ông khen; ông khen đủ thứ của NV Tô Hoài: từ trồng
cây quất
đẹp, đến chọn đề tài hay, đến cái nết đọc nhiều, đến minh mẫn không
lẫn… Tịnh
không một lời chê trước mặt. Chắc chắn không một lời chê trước mặt, vì
nếu có
thì ông đã phải ghi vào nhật ký rồi.
Cái ghét của nhà phê bình
Vương Trí Nhàn dành cho nhà văn Tô Hoài quả thật gớm ghê. Gớm nhất là
trong
cách xử sự của ông. Đọc bài Ngạc Nhiên và Thất Vọng của Phạm Khải với
“bảng so
sánh” những gì ông Nhàn từng viết tốt về nhà văn Tô Hoài, quả thực thấy
thương
hại ông quá vì đã phải sống hai mặt trong một thời gian quá dài.
Và thương nhà văn Tô Hoài.
Chắc trong tử vi của nhà văn, cung Nô bộc phải là thậm xấu.
Bản gửi Phongdiep.net
Bài viết của
Vương Trí Nhàn về Tô Hoài, là đã được Tô Hoài gật đầu cho phép viết.
Viết xong,
còn trình cho sư phụ coi, sư phụ bèn gật đầu, được, được.
Hơn ai hết,
Tô Hoài
biết rất rõ, hậu thế sẽ tha thứ cho ông, nhờ cái gật đầu của ông. Những
bài viết
của Nhật Tuấn về Tô Hoài làm sao so được, với chỉ 1 cái gật đầu
như thế?
Ba nhà văn cực
độc của Mít, theo Gấu, là Tô Hoài [độc nhưng rất ư là ngây thơ, nếu
không, không
viết được Dế Mèn, không làm sao tạo
ra được 1 Cu Lặc – hãy nghĩ tới Tên
Khờ của Dos], Nguyễn Khải, và…Võ Phiến. Toàn
là những đại văn hào – đúng như thế - của xứ Mít.
NK, hỏng vì không còn 1 cách
nào khác, đành chọn Đảng thay vì Bố [Bắc Kít bỏ chạy vô Nam], thay vì
Chúa [cũng
bỏ chạy vô Nam mất tiêu]
Võ Phiến, chết
vì cái đố kỵ, "tiểu khí”, có mùi địa phương - vết thương hình chữ S
-Trung Kít của
ông.
'Xin lỗi em
chỉ là con đĩ' chỉ
nổi tiếng ở VN
Đúng!
Và, có thể, chỉ nổi tiếng ở xứ Bắc Kít!
Một cái tít như thế, nhục mạ người phụ nữ, chưa nói đến nội dung ra sao.
Cùng lắm, người ta để cái tít, xin lỗi, em là gái bán hoa, thí dụ.
Gấu đã nói rồi, cái xứ đó có cái gì không bình thường: chúng rất coi
thường đàn
bà, phụ nữ!
Lại
“khoanh vùng”!
Chán thiệt!
*
Cái kiểu giật tít như vậy làm
Gấu nhớ tới Achebe.
Khi được hỏi về phản ứng gay gắt trong một tiểu luận về cuốn Trái
Tim Của
Bóng Đen của Conrad, và ý nghĩ của ông về hình ảnh Phi Châu ngày
nay trong
đầu Tây phương, Achebe trả lời:
Cái hình ảnh Phi Châu bây giờ có vẻ thay đổi chút đỉnh trong đầu người
Tây
phương. Khi tôi nghĩ về thế giá, về sự quan trọng, và về sự uyên bác
của tất cả
những đấng chóp bu như vậy, khi họ chẳng hề nhìn thấy gì, về tính phân
biệt chủng
tộc ở trong Trái tim của bóng đen, thì tôi đành đi đến một kết
luận là,
chúng ta hẳn là đã sống trong những thế giới khác biệt. Vả chăng, nếu
bạn không
thích câu chuyện của một người nào đó, thì hà cớ làm sao không viết ra,
cái của
riêng mình? Có thể có một số người nghĩ là điều tôi muốn là, “Đừng đọc
Conrad”.
No! Tôi đã từng dậy Conrad, I teach Conrad. Tôi đang dậy Trái
tim của
bóng đen [I teach Heart of
Darkness], trong đó, điều mà tôi đang
nói là, hãy
nhìn cái kiểu người đàn ông này đối xử với những người Phi châu. Bạn có
nhận ra
cái gọi là nhân loại ở trong đó? [Look at the way this man handles
Africans. Do
you recognize humanity there?].
Người ta sẽ nói với bạn là ông ta chống lại chủ nghĩa thực dân thuộc
địa. Nói,
tôi chống lại chủ nghĩa thực dân thuộc địa, là chưa đủ, là chẳng đi tới
đâu.
Hay là, tôi chống đối cái chuyện những con người này - những con người
nghèo
khổ này - bị đối xử như vậy. Nhất là khi ông ta cứ vô tư mà gọi là họ
“những
con chó ngồi trên những cái chân sau của chúng”. Cái kiểu viết như thế
đó. Hình
ảnh thú vật tràn lan, đại trà trong cuốn truyện. Ông ta chẳng thấy gì
là sai
trái với chuyện miêu tả như thế. Và nếu như thế, thì chúng ta đành phải
nghĩ
là, chúng ta sống trong những thế giới khác biệt. Khi mà hai thế giới
đó gặp gỡ
nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
*
Và nếu như
thế,
thì chúng ta đành phải nghĩ là, chúng ta sống trong những thế giới khác
biệt.
Khi mà hai thế giới đó gặp gỡ nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
Until these two worlds come together we will have a lot of troubles.
Khi hai thế giới đó đụng nhau, là cái ngày 30 Tháng Tư năm đó đó!
Nói rõ hơn, có thể Bắc Kít đọc cái tít, như trên, thấy bình thường, còn
chúng
ta, thấy đau quá, nhục quá!
Đó cũng là lý do, Tin Văn bỏ mục Dọn, không viết thô tục nữa, đúng như
yêu cầu
của bạn đọc.
Happy New News!
NQT
Cái hình ảnh Phi
Châu bây giờ có vẻ thay đổi chút đỉnh trong đầu người Tây phương. Khi
tôi nghĩ
về thế giá, về sự quan trọng, và về sự uyên bác của tất cả những đấng
chóp bu
như vậy, khi họ chẳng hề nhìn thấy gì, về tính phân biệt chủng tộc ở
trong Trái
tim của bóng đen, thì tôi đành đi đến một kết luận là, chúng ta hẳn
là đã
sống trong những thế giới khác biệt.
Achebe
Câu
trên, có thể áp
dụng cho đám Yankee mũi tẹt, nhất là ở những đấng, nhờ ơn “giải phóng’,
mà thoát
ra khỏi cái Đất Bắc cằn cỗi, mất hết nhân tính, khi chúng không hề nhận
ra
cái sự ăn cướp Miền Nam, bọc trong cái vỏ thống nhất đất nước.
Nếu thực sự thống nhất đất nước, đất nước không đến nỗi ngày càng chìm
sâu vào
cơn băng hoại, không lối thoát, và ngày càng có nguy cơ biến thành một
quận huyện
của anh Tẫu, cũng là một hậu quả tất yếu, khi anh Tẫu đã bỏ ra biết bao
công
lao, tiền bạc, võ khí, quân trang, quân dụng, thực phẩm… để cho Miền
Bắc thôn tính
Miền Nam.
Thay vì phân biệt
chủng tộc, trong trường hợp Conrad, thì ở đây là, huynh đệ cốt nhục
tương tàn.
Chắc chắn, lịch sử sau này, sẽ đưa ra một kết luận như vậy, về cuộc
chiến vừa
qua.
Nhìn
gần, nhìn xa:
Đọc
những tác phẩm
của Miền Bắc, ngay cả những bài viết tưởng như là do ghen ghét, nói
xấu, làm nhục... như VTN viết về
TH, thí dụ, là phải đọc từ cái tầm nhìn như vậy.
Ôi nỗi đắng
cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó
giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc nơi chỉ có hai
mùa mưa
nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên
ác nghiệt,
mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày
tháng... (1)
Ui chao, phải
là 1 nhà tiên tri, một tên ăn cướp, một tên Quỉ Đỏ, ở chuồng lợn... thì mới nhìn ra cái xứ Bắc Kít quê hương của
mình, chỉ là 1 thứ “Quê Người”, Exile.
Quê Hương
thực
sự, Vương Quốc, Royaume, là… Nam Kít.
|